Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Đổi mới hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh lớp 5 trong môn học mỹ thuật tai trường tiểu học tiên dương đông anh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NGUYỄN THỊ KHÁNH

ĐỔI MỚI HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC
NHẰM PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH LỚP5
TRONG MÔN HỌC MĨ THUẬT TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC
TIÊN DƯƠNG - ĐÔNG ANH - HÀ NỘI
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Mĩ thuật Tiểu học
Người hướng dẫn khoa học: VŨ LONG GIANG

HÀ NỘI 2013

1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Lê Long Giang đã tận tình hướng
dẫn tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể giáo viên cùng các em học sinh
trường tiểu học Tiên Dương – Đông Anh – Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo
điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm
Sinh viên

NGUYỄN THỊ KHÁNH

2




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các căn
cứ nêu trong khóa luận là trung thực.
Đề tài chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào
khác.

Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2013
Sinh viên

NGUYỄN THỊ KHÁNH

3


BẢNG CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Học sinh

HS

Giáo viên

GV

Sách giáo khoa

SGK

Nhà xuất bản


NXB

Hình thức tổ chức dạy học

HTTCDH

Công nghệ thông tin

CNTT

Phương tiện dạy học

PTDH

4


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước. Do đó tất cả các ngành nghề hiện nay đều có sự đổi mới để phù hợp với
yêu cầu của sự phát triển xã hội. Trong đó, giáo dục với sản phẩm đặc biệt là
con người thì càng phải đổi mới để tạo ra những con người lao động có trình
độ cao, học vấn cao, có năng lực, có bản lĩnh, có tư duy và sáng tạo tốt, đáp
ứng được mọi yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Đổi mới trong giáo dục phải
được hiểu là đổi mới toàn diện, đổi mới từ mục tiêu, nội dung đến phương
pháp và HTTCDH. Trong xu thế đó, sự đổi mới về HTTCDH đang được coi
là vấn đề nóng bỏng, mang tính chất thời đại, thu hút được sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý giáo dục cũng như các GV trực tiếp đứng

lớp. Đổi mới HTTCDH làm sao phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học.
Đổi mới phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS phù
hợp với từng lứa tuổi, từng môn học. Cùng với các môn khoa học, xã hội
khác, môn Mĩ thuật là một môn học cung cấp nhiều các kiến thức, kĩ năng
trong các lĩnh vực tự nhiên cũng như xã hội, giúp cho HS tiếp cận các môn
học khác một cách tốt hơn và đặc biệt đóng vai trò quan trọng với nhiệm vụ
giáo dục thẩm mĩ cho các các em. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi hoạt
động tổ chức, hướng dẫn của GV phải hướng tới hoạt động tự chiếm lĩnh kiến
thức, tự hình thành kĩ năng học tập của HS, HS phải được chủ động học tập,
được bộc lộ mình, được phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của bản thân một
cách tối đa thông qua hoạt động học tập. Mục tiêu này đòi hỏi thầy giáo, cô
giáo trong khi tổ chức cho HS học tập phải sử dụng phối hợp, linh hoạt các
HTTCDH có tác dụng phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo như: dạy học
ngoài thiên nhiên, tham quan, dạy học thông qua trò chơi học tập….
Tuy nhiên, ở nước ta, cho đến nay môn học Mĩ thuật ở các trường tiểu
học nói chung và trường tiểu học Tiên Dương nói riêng chưa được đầu tư và
quan tâm đúng mức. Chúng tôi muốn đi vào vấn đề này để tìm hiểu cách tổ
chức các HTTCDH trong môn Mĩ thuật lớp 5 ở trường tiểu học Tiên Dương -

5


Đông Anh –Hà Nội. Hi vọng rằng qua đó, một mặt góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học môn Mĩ thuật của trường, mặt khác phát hiện những cơ sở
khoa học góp phần làm sáng tỏ vấn đề đang được các nhà sư phạm quan tâm:
“Ở tiểu học nên dạy Mĩ thuật như thế nào?”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, còn ít công trình nghiên cứu riêng về đổi mới HTTCDH
nhằm mục tiêu phát huy khả năng sáng tạo của HS trong môn Mĩ thuật lớp 5.

Vì vậy tôi có thể khẳng định đề tài “Đổi mới HTTCDH nhằm phát huy tính
sáng tạo cho học sinh lớp 5 trong môn học Mĩ thuật tại trường Tiểu học Tiên
Dương- Đông Anh- Hà Nội” là một đề tài cần thiết và có tính khả thi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới các HTTCDH trong môn Mĩ thuật
nhằm phát huy tính sáng tạo cho HS.
- Phạm vi nghiên cứu: HS lớp 5 trường tiểu học Tiên Dương - Đông
Anh - Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về đặc điểm nhận thức, tính sáng tạo và khả
năng sáng tạo của HS lớp 5
- Nghiên cứu các HTTCDH nhằm phát huy tính sáng tạo của HS lớp 5
trong môn Mĩ thuật tại trường tiểu học Tiên Dương- Đông Anh- Hà Nội
- Thiết kế giáo án giảng dạy môn Mĩ thuật lớp 5 minh họa việc vận
dụng đổi mới các HTTCDH nhằm phát huy tính sáng tạo của HS.
5. Giả thuyết khoa học
HS lớp 5 trường Tiểu học Tiên Dương - Đông Anh - Hà Nội – lớp cuối
của bậc tiểu học, đã thể hiện nhiều sự sáng tạo trong các sản phẩm mĩ thuật
của bản thân. Song, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, sáng tạo đó còn mang đậm
tính bộc phát, sự phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của bản thân còn chưa
cao. Nếu có những tác động sư phạm đúng mức sẽ giúp phát huy tích cực khả
năng sáng tạo của HS và đó cũng là điều quan trọng để các em có tâm thế hào
hứng, say mê, có những cảm nhận sâu sắc và tinh tế hơn trong việc phát huy
và sử dụng khả năng sáng tạo của mình trong môn Mĩ thuật ở bậc học tiếp

6


theo. Góp phần tạo dựng định hướng, con đường nghề nghiệp trong tương lai
cho các em có tài năng và niềm yêu thích đặc biệt trong lĩnh vực hội họa.

6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài chúng tôi thực hiện các phương pháp
sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Đọc sách, tạp chí và các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả có liên
quan đến đề tài nhằm xác định cơ sở lý luận của đề tài và các biện pháp cần
thiết để giải quyết vấn đề đề tài đưa ra.
- Phương pháp quan sát, dự giờ:
Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu những biểu hiện có liên
quan đến khả năng sáng tạo thể hiện qua sản phẩm mĩ thuật (tranh vẽ, xé dán,
nặn…) trong các giờ học mĩ thuật trên lớp và trong các hoạt động sinh hoạt
khác ngoài giờ lên lớp của HS. Phương pháp này có tác dụng bổ trợ giúp
chúng tôi có thêm cơ sở trong việc nhận định mức sáng tạo của từng HS.
- Phương pháp trò chuyện:
Phương pháp này được sử dụng để tạo môi trường cho chúng tôi gần
gũi với các em, trò chuyện để biết thêm và hiểu về những sở thích, sở trường
cũng như tài năng của các em. Góp phần hỗ trợ trong việc phát hiện những
em có năng lực cũng như sự say mê sáng tạo của các em nói chung và trong
môn mĩ thuật nói riêng.
- Phương pháp thực nghiệm:
Phương pháp này được sử dụng trong việc soạn một số giáo án và dạy
thực nghiệm theo hình thức mới để kiểm tra kết quả đạt được khi dạy theo
hướng đổi mới HTTCDH.
- Phương pháp phân tích sản phẩm:
Thông qua việc nhận xét về bố cục, hình mảng, màu sắc, ý tưởng nội
dung,… thể hiện trong các sản phẩm mĩ thuật (tranh vẽ theo đề tài) của các
em mà nhận ra được những hạn chế trong cách trình bày của các em, góp
phần quan trọng cho việc xây dựng phương hướng giảng dạy theo hướng tích
cực để đạt được mục tiêu dạy học một cách tối ưu.


7


7. Cấu trúc khóa luận
Phần 1: Phần mở đầu
Phần 2: Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Hình thức đổi mới dạy học Mĩ thuật giúp phát huy tính sáng tạo
của HS lớp 5 trong môn Mĩ thuật tại trường tiểu học Tiên Dương – Đông Anh
– Hà Nội.
Chương 3: Xây dựng giáo án giảng dạy thử nghiệm thể hiện việc đổi mới
HTTCDH nhằm phát huy tính sáng tạo của HS lớp 5 trong môn Mĩ thuật tại
trường tiểu học Tiên Dương – Đông Anh – Hà Nội.
Phần 3: Kết luận – Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

8


PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Đặc điểm nhận thức của HS lớp 5
1.1.1. Đặc điểm chú ý
Chú ý là một trạng thái tâm lý của HS giúp HS tập trung vào một hoặc
một số đối tượng để các đối tượng này được phản ánh tốt nhất. Chú ý không
phải là một quá trình nhận thức, không tồn tại độc lập mà nó đi kèm các quá
trình nhận thức.
Đối với HS lớp 5, chú ý mang những đặc điểm nổi bật:
- Chú ý không chủ định vẫn tiếp tục phát triển ở giai đoạn lớp 5: Những
gì mới lạ, hấp dẫn hoặc có kích thích mạnh vẫn dễ dàng xuất hiện chú ý

không chủ định ở HS.
- Đối với HS lớp 5 (lớp cuối cấp của bậc tiểu học), do yêu cầu của hoạt
động học tập, chú ý có chủ định bắt đầu bền vững ở giai đoạn này.
- Các thuộc tính chú ý được hình thành và phát triển mạnh: Khối lượng
chú ý của HS tăng lên, chú ý bắt đầu bền vững, hình thành kĩ năng phân phối
chú ý và biết chú ý vào nội dung cơ bản của bài học.
- Chú ý hướng ra bên ngoài chiếm ưu thế, chú ý hướng vào bên trong
còn non yếu.
1.1.2. Đặc điểm tri giác
Tri giác là một quá trình nhận thức phản ánh trọn vẹn thuộc tính bề
ngoài của đối tượng. Mức độ phát triển cao của quan sát là tri giác. Nhờ có tri
giác mà HS mới phân biệt được các đối tượng, sự vật của các môn học. Tri
giác cung cấp những số liệu, dữ kiện để HS tư duy, từ đó mà phát hiện bản
chất đối tượng.
Tới giai đoạn lớp 5, tri giác của các em mang những điểm khác biệt so
với các lớp dưới:
- Mang tính không chủ định: Các em chỉ biết nhìn mà chưa biết cách
quan sát, phụ thuộc vào chính đối tượng được tri giác, đượm màu sắc xúc
cảm.

9


- Mang tính tập thể: HS quen nhìn tổng thể sự vật, ít đi sâu vào các
thành phần tri thức của sự vật. Các thao tác tư duy – đặc biệt là thao tác phân
tích đang hình thành nhưng còn non yếu. Đến giai đoạn cuối tiểu học tri giác
phân tích được phát triển mạnh nghĩa là HS bắt đầu biết quan sát các thành
phần, đặc điểm, đặc trưng của sự vật.
- Gắn liền với hành động vật chất: Đối tượng được HS hành động trực
tiếp (sờ mó, ngửi hít, ngắm nhìn, thử nếm…) thì tri giác đầy đủ hơn.

- Thể hiện rõ tính cảm xúc: Những sự vật, hiện tượng tạo ra tính xúc
cảm thì HS tri giác tốt hơn.
- Các loại tri giác phát triển mạnh (Tri giác của các em phát triển dưới
ảnh hưởng của hoạt động học tập): Càng ngày càng có khả năng quan sát tinh
tế hơn để tìm ra những dấu hiệu đặc trưng cho sự vật hiện tượng, biết tìm ra
các sắc thái của các chi tiết, có mục đích và phương hướng rõ ràng. HS đã tri
giác được những vật có kích thước lớn, phức tạp, trừu tượng.
1.1.3. Đặc điểm trí nhớ
Trí nhớ là quá trình ghi lại, giữ lại những kiến thức, cách thức tiến hành
học tập để có thể tái hiện vào vận dụng trong những tình huống khi cần.
Các đặc điểm về trí nhớ của các em HS lớp 5 được thể hiện:
- Trí nhớ không chủ định vẫn tiếp tục phát triển: Những đối tượng mới
lạ, hấp dẫn thì HS dễ dàng ghi nhớ không chủ định. Các em dễ nhớ và nhớ lâu
những gì làm cho các em xúc cảm mạnh như ngạc nhiên, thích thú, tò mò hay
sợ hãi.
- Trí nhớ có chủ định được phát triển mạnh: HS sử dụng phương pháp
ghi nhớ máy móc và ghi nhớ logic để ghi nhớ đối tượng và tri thức đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của quá trình học tập.
- Trí nhớ ngắn hạn tiếp tục phát triển; trí nhớ dài hạn bắt đầu bền vững.
- Trí nhớ trực quan – hình ảnh phát triển tốt hơn trí nhớ từ ngữ - trừu
tượng: HS ghi nhớ nội dung bài học kèm theo tranh ảnh sẽ tốt hơn là các tài
liệu ngôn từ.
1.1.4. Đặc điểm tư duy

10


Tư duy là quá trình nhận thức giúp HS tiếp thu được, phản ánh được
bản chất của đối tượng học tập mà trước đó học được.
Giai đoạn lớp 5, một số thao tác tư duy đã tiến lên một bậc so với các

lớp dưới:
- Tư duy cụ thể vẫn tiếp tục phát triển: HS tiếp thu khái niệm mới phải
dựa vào vật thật hoặc các hình ảnh trực quan.
- Tư duy trừu tượng đang dần chiếm ưu thế: HS sử dụng các khái niệm
được thay thế bằng kí hiệu quy ước để tiếp thu khái niệm mới.
- Các thao tác tư duy đã liên kết với nhau thành cấu trúc tương đối hoàn
chỉnh.
- Bước đầu biết khái quát hóa đối tượng, biết phán đoán và suy luận:
HS biết chấp nhận những giả thiết không thực, không chỉ xác lập được từ
nguyên nhân đến kết quả mà còn xác lập được từ kết quả ra nguyên nhân.
1.1.5. Đặc điểm tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng
có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới
trên cơ sở những biểu tượng đã có.
Tưởng tượng của các em lứa tuổi lớp 5 mang những đặc trưng rõ nét:
- Hình ảnh của tưởng tượng hoàn chỉnh hơn về logic và kết cấu: Nếu
đối với HS lớp dưới, hình ảnh tưởng tượng của các em còn nghèo nàn, tản
mạn, thì đến giai đoạn này, hình ảnh trở nên trọn vẹn hơn bởi số lượng chi tiết
nhiều hơn và sự sắp xếp chúng cũng chặt chẽ hơn. Các yếu tố, chi tiết thừa
trong hình ảnh giảm đi và hình ảnh ngày càng được gọt giũa hơn, tinh giản
hơn, mạch lạc và sát thực hơn.
- Tính trực quan trong hình ảnh tưởng tượng không cần cao như ở lứa
tuổi đầu tiểu học: Hình ảnh tưởng tượng của các em không cần xây dựng dựa
trên những đối tượng cụ thể (tranh, truyện…) mà đã được phát triển trên cơ sở
của ngôn từ. Điều này cho phép trẻ xây dựng hình ảnh mới một cách sáng tạo,
bằng cách cải tạo, chế biến những ấn tượng cũ và kết hợp chúng lại thành
những tổ hợp mới mẻ.

11



- Tưởng tượng của các em được phát triển, phong phú hơn và có sự
quyện chặt giữa tưởng tượng phóng khoáng với hiện thực.
1.2. Khái quát chung về tính sáng tạo
1.2.1. Các quan điểm về khái niệm “Sáng tạo”
Khái niệm “Sáng tạo” đã được định nghĩa ở những cấp độ, mức độ và
góc độ khác nhau bởi các nhà chuyên môn của nhân loại.
- Theo quan điểm xuất phát từ tiếng Latin, “Sáng tạo” – “Creatio” về
cơ bản chỉ gắn với những hành động của Chúa. Nhưng sau đó, trong thời đại
La Mã, khi con người lần đầu tiên nhận ra khả năng riêng của họ là có thể
sáng tạo ra một cái gì đó mới từ một cái đã tồn tại, từ đó “Sáng tạo” được sử
dụng để miêu tả thành tích của con người.
- Theo các nhà chuyên môn của Pháp thì cho rằng: “Sáng tạo” (tiếng
Pháp: Créer, creation) thường được dùng trong Thần Học, Đạo Học và Hữu
Thể học, có nghĩa: Làm cho một thứ gì từ cái “không gì cả” trở thành “hiện
hữu”.
- Theo định nghĩa của tác giả Hoàng Phê (chủ biên) trong cuốn “Từ
điển tiếng Việt” có định nghĩa:
+ “Sáng tạo” (động từ) có nghĩa là “tạo ra những giá trị mới về vật chất
hoặc tinh thần”. Ví dụ: Sáng tạo ra chữ viết, sáng tạo nghệ thuật.
+ “Sáng tạo” (tính từ) có nghĩa là “có cách giải quyết mới, không bị gò
bó, phụ thuộc vào cái đã có”. Ví dụ: Óc sáng tạo, vận dụng một cách sáng tạo.
- Theo giáo trình “Mĩ thuật và phương pháp dạy học mĩ thuật” của tác
giả Nguyễn Quốc Toản (chủ biên) thì “Sáng tạo được định nghĩa “là khả năng
sản sinh những ý thưởng mới, độc đáo, hữu ích, phù hợp với từng hoàn cảnh”
- “Tính sáng tạo” hay “Sáng tạo tính” hay “Óc sáng tạo” là khả năng
được xem là có tính chất sáng tạo trong mọi công trình của con người đã tạo
tác nên những gì “mới hơn” so với những cái “cũ” hoặc “mới mẻ” vì chưa có
trước đấy. Đấy là khuynh hướng, là khả năng của con người hướng về sáng
tạo do thôi thúc phát triển của trí tuệ trong mọi công trình khám phá thiên

nhiên cùng khám phá con người để mỗi hiểu biết, mỗi việc làm, mỗi hành
động…..được nâng cao, được mở rộng, được phong phú và tốt đẹp hơn. Và,

12


trên vũ trụ này, chỉ riêng con người mới có “Tính sáng tạo” hay “Óc sáng
tạo”.
- Giản dị nhất, “Tính sáng tạo” được định nghĩa là một ý tưởng mới,
phù hợp với thời đại và không gian sinh ra nó, và ý tưởng đó mang lại giá trị.
1.2.2 Vai trò của tính sáng tạo
1.2.2.1 Vai trò tính sáng tạo đối với con người trong cuộc sống nói chung
- Trong cuộc sống đang thay đổi từng ngày này, thành công không
còn chỉ là vấn đề chăm chỉ mà đòi hỏi kỹ năng tư duy sáng tạo để mang lại
những cải tiến tối đa về liên tục về chất lượng và hiệu quả bằng những giải
pháp đột phá. Sức sáng tạo là yếu tố quyết định nhất đối với sự thành công
trong một thế giới đầy thử thách và cạnh tranh ngày càng gay gắt. Sức sáng
tạo sẽ tạo ra bước nhảy vọt trong sự nghiệp của con người. Đó là yếu tố định
hình mỗi cá nhân.
- Tính sáng tạo trở thành yếu tố quan trọng nhất, có giá trị nhất đối với
năng lực của con người. Sáng tạo càng độc đáo, giá trị càng cao và cơ hội
thành công càng lớn. Nếu trước kia người ta chú trọng đến sở hữu vật chất là
chính thì ngày nay sở hữu trí tuệ là nguồn tài sản ngày càng được chú trọng.
- Người có tâm hồn sáng tạo luôn lạc quan, vui vẻ. Thái độ lạc quan
giúp sáng tạo thêm linh hoạt, tích cực sáng tạo trở thành những hoạt động
hàng ngày, được vui thú với công việc của mình thì con người sẽ làm việc tốt
hơn.
- Tính sáng tạo còn giúp con người trở nên tự tin, can đảm, không
khuất phục những thành kiến, không sợ hãi khi phải từ bỏ lối mòn quen thuộc
để khám phá những con đường mới. Tin điều không thể là hoàn toàn có thể,

kiên trì với lý tưởng bản thân để phá vỡ hình thức cũ, dựng lên cột mốc mới.
- Tính sáng tạo giúp tâm hồn con người ta luôn tươi mới, thúc đẩy sự tò
mò, khuyến khích sự tự tin vào khả năng tiềm ẩn của bản thân, giúp con
người không e dè, sẵn sàng làm những điều chưa bao giờ làm, chưa bao giờ
thích nên có thể thấy được điều kỳ diệu của những sự việc mà ta cho là bình
thường, hiển nhiên.

13


1.2.2.2 Vai trò của tính sáng tạo đối với HS lớp 5
* Đối với HS lớp 5 trong hoạt động học tập
Sáng tạo có vai trò rất lớn trong hoạt động học tập của HS tiểu học nói
chung và HS lớp 5 nói riêng trên con đường chinh phục tri thức, học tập và
đúc rút kinh nghiệm bản thân:
- HS có tính sáng tạo luôn có động lực muôn tìm tòi, hiểu biết mọi thứ
xung quanh, học tập và lao động một cách tích cực.
- Sáng tạo của các em đôi khi sẽ giúp các em tìm ra được những
phương pháp mới, con đường mới để tiếp cận tri thức một cách tối ưu và hiệu
quả hơn.
- Sáng tạo đi cùng tưởng tượng phong phú của các em là nguồn sáng
tác vô cùng lớn để tạo ra những điều độc đáo, mới lạ, hấp dẫn và mang lợi
ích.
* Đối với HS lớp 5 trong môn Mĩ thuật
Cũng như đối với hoạt động học tập nói chung, các môn khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội khác, tính sáng tạo có vai trò rất lớn đối với các em
HS lớp 5 trong môn học Mĩ thuật:
- Sáng tạo giúp các em suy nghĩ và có những ý tưởng mới lạ, độc đáo
khi đứng trước một đề tài nào đó.
- Các em có thể sử dụng sự sáng tạo của bản thân để tạo dựng, sắp xếp

hình ảnh, hình mảng, bố cục, màu sắc, đối tượng, vv… theo ý tưởng của riêng
mình.
1.3. Tâm lý sáng tạo của trẻ em và khả năng sáng tạo của HS lớp 5
1.3.1. Tâm lý sáng tạo của trẻ em
* Tâm lý sáng tạo của trẻ em nói chung
- Ngay từ khi mới sinh ra, trẻ nhỏ đã chứng tỏ mình có rất nhiều tiềm
năng trong mọi lĩnh vực. Chúng ta đều biết mỗi đứa trẻ thông minh ở mức độ
khác nhau, mức độ sáng tạo khác nhau và những điều này được hình thành và
phát triển theo từng giai đoạn. Do vậy, cần phải căn cứ vào tính chất mỗi giai
đoạn phát triển mà người lớn chúng ta nói chung và các nhà sư phạm nói

14


riêng đưa ra các lựa chọn về hình thức khơi dậy phù hợp giúp phát triển tiềm
năng sáng tạo của trẻ.
- Đối với trẻ em lứa tuổi tiểu học, đây là giai đoạn trẻ được phát huy
tính sáng tạo cũng như trí tưởng tượng một cách tự nhiên nhất. Trẻ thường có
những phát hiện rất lý thú mà nhiều khi làm cho người lớn chúng ta phải ngỡ
ngàng. Trẻ có thể biểu hiện sự “sáng tạo” của bản thân ở khắp mọi nơi, trên
lớp học, khi ở nhà, lúc đi chơi, khi nói chuyện với bạn bè, vv… Đôi khi, còn
đưa ra những câu hỏi “hóc búa”.
- Trẻ rất hay tò mò, muốn khám phá mọi thứ xung quanh mình. Cho
nên trẻ không ngừng đi tìm lời giải đáp cho những tò mò ấy, và trong quá
trình đi tìm câu trả lời cho vấn đề ban đầu, trẻ lại phát hiện, tìm tòi ra những
điều mới lạ, lý thú khác.
- Trẻ rất hay bắt chước người khác trong mọi lời nói và hành động. Bắt
chước là một con đường ngắn nhất để hướng tới kết quả. Tuy nhiên, sự bắt
chước ở trẻ nhỏ không đơn thuần là sao chép, là làm giống hệt, mà ở trẻ có sự
“cách điệu” riêng mang đậm “màu sắc trẻ thơ” tạo nên những điều mới mẻ

thú vị không ngờ.
- Trẻ luôn muốn mình là trung tâm chú ý của mọi người, chính vì vậy,
trẻ luôn nghĩ ra những điều gây sự chú ý. Chính suy nghĩ này là một trong các
nhân tố giúp cái “nụ” sáng tạo tiềm ẩn bên trong trẻ có cơ hội “trổ bông”.
- Hầu như tất cả mọi trẻ em đều có chung một “bản năng” – đó là hiếu
động và nghịch ngợm. Sự bướng bỉnh của trẻ, ở một góc độ nào đó, cần phải
hạn chế bằng những biện pháp sư phạm can thiệp kịp thời. Nhưng đôi khi,
chính điều mà người lớn chúng ta lo ngại lại là một nhân tố giúp “ngọn lửa
sáng tạo” trong trẻ có cơ hội được “bùng cháy”.
* Tâm lý sáng tạo của trẻ em trong môn học Mĩ thuật
- Có thể nói, môn Mĩ thuật là môn học yêu cầu và đòi hỏi trẻ có sự
sáng tạo cao nhất trong các môn học cả về ý tưởng và cách trình bày ý tưởng.
Sự sáng tạo trong môn Mĩ thuật thể hiện bằng sản phẩm mĩ thuật của các em
– đó là đường nét, màu sắc, bố cục, hình ảnh, vv…có trong các bức tranh,
hình nặn…do chính các em làm ra; hoặc đôi khi, sự sáng tạo còn chính là một

15


ý tưởng, một thông điệp nào đó các em muốn bày tỏ mà ngôn ngữ nói và viết
thông thường không thể diễn đạt được hết.
- Cũng mang tâm lý sáng tạo chung của trẻ em trong các lĩnh vực khác,
trong môn Mĩ thuật, các em (đặc biệt các em lứa tuổi tiểu học) dùng hình ảnh,
đường nét, hình mảng, màu sắc để thể hiện sự sáng tạo của bản thân mang
đậm đặc điểm của lứa tuổi mình.
1.3.2. Khả năng sáng tạo của HS lớp 5
* Khả năng sáng tạo của HS lớp 5 trong hoạt động học tập
Lớp 5 là giai đoạn cuối bậc tiểu học, so với HS ở các lớp đầu tiểu học
như lớp 1, 2, 3 thì khả năng sáng tạo của các em trong học tập đã phong phú
hơn, phát triển hơn. Hoạt động nhận thức của HS ngày càng được nâng cao

thể hiện ở nhiều quá trình khác nhau như tri giác, cảm giác, tư duy, tưởng
tượng, chú ý.
Đối với HS lớp 5 các quá trình cảm giác, tri giác, chú ý, tượng tượng,
tư duy đã phát triển. Trong học tập, các em đã mạnh dạn sáng tạo, tìm tòi ra
các cách giải khác nhau cho một bài toán hay sáng tạo ra câu truyện theo ý kể
của mình trong các giờ kể chuyện, sử dụng các từ ngữ hay trình tự miêu tả
sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo đúng nội dung trong các bài văn miêu tả, vv…
Chú ý có chủ định dần phát triển, các em không chỉ chú đến những cái mới lạ
mà còn biết chú ý để phân tích, tìm hiểu được chi tiết đối tượng. Trí tưởng
tượng của các em phong phú hơn, không còn bị rập khuôn hay máy móc theo
cách hướng dẫn của GV. Các em đã biết tìm tòi để sáng tạo ra những cách
làm mới đơn giản hơn, nhanh hơn, những nội dung mới sinh động hơn, gần
gũi hơn. HS lớp 5 động lực học tập của các em đã rõ ràng hơn, các em học tập
không chỉ đơn giản để được thầy cô, bố mẹ khen mà các em đã biết học tập để
khẳng định mình. Các em đã biết suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo để tìm ra hướng
làm mới nhanh, nội dung hấp dẫn và quan trọng là khác với các bạn trong lớp.
Nhờ khả năng tri giác, tư duy, tượng tượng… phát triển hơn nên các em tin
tưởng vào khả năng sáng tạo của mình, tin rằng mình sẽ làm được từ đó các
em mạnh dạn sáng tạo trong học tập, mạnh dạn thể hiện ý tưởng của mình.

16


Tuy nhiên do đặc điểm nhận thức chưa toàn diện và tư duy chưa thực
sự phát triển nên khả năng sáng tạo của các em HS lứa tuổi lớp 5 còn nhiều
hạn chế vì vậy các thầy cô giáo cũng như phụ huynh HS cần chú ý tạo điều
kiện, động viên và tạo niềm tin cho các em để các em có điều kiện để phát
huy tính sáng tạo của mình.
* Khả năng sáng tạo của HS lớp 5 trong môn học Mĩ thuật
HS lớp 5 là lớp cuối của bậc tiểu học. Trí tưởng tượng và trí nhớ trực

quan của các em đã dần dần phát triển, bước đầu hình thành tư duy có phân
tích. Các em quan sát có chủ định tập trung, nhận thức phong phú đã tạo cơ sở
diễn tả được những gì trẻ thấy và những gì trẻ thích thú. Trẻ đã có ý thức
hướng về đề tài nhất định và vẽ rất hồn nhiên, sinh động mang tính chất tưởng
tượng cao về những ước mơ trong sáng, bay bổng. So với HS đầu cấp tiểu học
khả năng sáng tạo của HS lớp 5 trong môn Mĩ thuật đã phát triển hơn:Về bố
cục, các em đã có sự sáng tạo, sắp xếp bố cục chặt chẽ, có mảng chính, mảng
phụ, hình vẽ to, nhỏ, trước, sau che khuất nhau nhiều hơn chứ không dàn
hàng ngang như lớp 1, 2, 3. Ngoài các chi tiết chính mà giáo viên gợi ý, các
em còn có nhiều chi tiết phụ phù hợp với nội dung đề tài, sát với thực tế cuộc
sống, nội dung tranh phong phú đa dạng. Về hình mảng, hình vẽ trong tranh
đã phức tạp dần, không còn đơn điệu. Về màu sắc các em có nhiều sáng tạo
trong việc phối hợp các màu, màu sắc tranh tươi sáng, đặc biệt các em đã
mạnh dạn sử dụng các màu đậm như đen, nâu. Biết pha trộn màu, chồng màu
làm cho bài vẽ sáng tạo hơn, sinh động hơn. Nội dung tranh phong phú, các
em vẽ bằng cảm xúc nhiều hơn trí tuệ, mang tính hồn nhiên trong sáng, không
gò bó về nội dung nhưng vẫn đảm bảo đúng yêu cầu. Các em thường vẽ
những gì chúng thấy, chúng tư duy và tưởng tượng nên bài vẽ của các em rất
sáng tạo, ngộ nghĩnh và hồn nhiên.
1.3.3. Những biểu hiện về tính sáng tạo của HS lớp 5 trong môn Mĩ thuật
Cho tới giai đoạn lớp 5, các em HS hầu như phát triển về mọi mặt, tạo
điều kiện thuận lợi cho các em học môn Mĩ thuật, thể hiện ở: Cầm bút vẽ
đúng, dễ dàng hơn, hoạt động của các khớp linh hoạt, thần kinh tương đối
vững vàng, giúp cho việc điều khiển nét vẽ, hình vẽ theo ý muốn. Các em đã

17


quan sát có chủ định, tập trung, có ý thức học tập hơn, nhận thức phong phú,
tạo cơ sở cho các em diễn tả được những gì mình thấy và thích thú. Nét vẽ đã

mạch lạc hơn, rõ ràng hơn. Hình vẽ nhiều về số lượng, có các chi tiết làm rõ
đối tượng, nhiều dáng vẻ và thực hơn – gần với mẫu, khác với cách diễn tả
chung chung ở các độ tuổi dưới. Màu sắc tươi sáng, đặc biệt là các em đã
mạnh dạn dùng các màu đậm: đen, nâu và biết pha màu, chồng màu làm cho
bài vẽ đẹp hơn, khác với vẻ rực rỡ có phần lòe loẹt của các lớp dưới. Bố cục
bài vẽ chặt chẽ, hình vẽ to, nhỏ, trước, sau che khuất nhau đã xuất hiện, có
nhiều chi tiết phù hợp với đối tượng và đề tài, sát với thực tế cuộc sống hơn.
Ngoài những đặc điểm chung theo sự phát triển của lứa tuổi, sự sáng
tạo của các em trong từng bài vẽ thể hiện rõ nét qua:
- Ý tưởng: HS có những bức vẽ thể hiện những ý tưởng mới lạ chưa
từng xuất hiện hoặc thể hiện bằng hình vẽ về các chủ đề đã cho theo một cách
độc đáo hơn tất cả các bạn khác.
- Bố cục: Thông thường, về bố cục, trẻ thường sắp xếp theo những gì
chúng nhìn thấy, cảm thấy và những hình tượng đó có mối quan hệ hữu cơ
trong tư duy thông thường của trẻ, ví dụ: cá, thuyền gắn với nước; chim bay,
mây, mặt trăng, mặt trời, ngôi sao thì gắn với bầu trời; vv… Nhưng đối với
những trẻ có sáng tạo (tức là các em có những bài vẽ mang bố cục lạ) thì các
em đã hướng đến việc thể hiện quan sát của mình không đơn thuần là miêu tả
lại, vẽ lại thực tế nữa, các em thoải mái thể hiện hình tượng theo một cách
khác lạ, ví dụ: vẽ ô tô có cánh, mèo thổi sáo, chim chảy múa, cá tung tăng dắt
tay nhau lên bờ dạo chơi, vv… Chính vì vậy, các tác phẩm của các em thường
toát lên vẻ trong sáng, hồn nhiên không bị ám ảnh bởi cái gọi là “nghệ thuật”
của người lớn.
- Hình mảng: Thêm vào các chi tiết hoặc lược bớt đi các chi tiết về đặc
điểm của đối tượng so với mẫu, tạo nên cái “hồn” riêng của bức vẽ.
- Đường nét: Có những phá cách mới lạ, độc đáo, gây ấn tượng.
- Màu sắc: Ngoài cách sử dụng màu sắc thông thường (đó là tô màu kín
bức tranh) các em hướng tới thể hiện màu sắc theo trạng thái tình cảm, theo

18



cảm cảm xúc, cảm nhận riêng của bản thân, đôi khi còn sử dụng hàng loạt các
màu “kị nhau” trong cùng một hình vẽ, một bức vẽ.
1.4. Nội dung chương trình môn Mĩ thuật lớp 5
1.4.1. Đặc điểm môn Mĩ thuật lớp 5
- Là một môn học độc lập: Giống như các môn khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội khác, môn Mĩ thuật lớp 5 cũng là một môn học độc lập,
không dạy kèm, không lồng ghép vào môn nào khác.
- Được kết cấu theo hướng đồng tâm: Kiến thức cơ bản được lặp đi lặp
lại nhưng nâng cao dần qua các bài tập ở các lớp, các cấp học, vì thế vừa có
tính kế thừa, vừa có tính nâng cao.
1.4.2. Nội dung chương trình môn Mĩ thuật lớp 5
So với chương trình cũ thì chương trình mới có sự thay đổi ở các loại
bài như: “Vẽ trang trí” giảm từ 10 tiết còn 9 tiết, “Vẽ tranh” tăng từ 8 tiết lên
9 tiết, “Tập nặn và tạo dáng tự do” tăng từ 2 tiết lên 4 tiết, riêng phân môn
“Vẽ theo mẫu” (8 tiết) và “Thường thức mĩ thuật” (4 tiết) giữ nguyên. Nội
dung của các loại bài này được sắp xếp đan xen nhau phân bố đều trong 35
tuần của năm học, bao gồm:
Vẽ theo mẫu: Hướng dẫn HS vẽ mẫu có cấu trúc phức tạp, vẽ mẫu có
hai đồ vật. Gồm các bài:
- Khối hộp và khối cầu
- Mẫu vẽ có dạng hình trụ và hình cầu
- Mẫu vẽ có hai vật mẫu (2 bài)
- Mẫu vẽ có hai hoặc ba vật mẫu (3 bài)
- Vẽ tĩnh vật (vẽ màu)
Vẽ trang trí: Hướng dẫn HS vẽ những bài tập sáng tạo về bố cục và họa
tiết một cách đơn giản. Gồm các bài:
- Màu sắc trong trang trí
- Vẽ họa tiết trang trí đối xứng qua trục

- Trang trí đối xứng qua trục
- Trang trí đường diềm ở đồ vật
- Trang trí hình chữ nhật

19


- Tìm hiểu về kiểu chữ in hoa nét thanh nét đậm
- Tập kẻ kiểu chữ in hoa nét thanh nét đậm
- Trang trí đầu báo tường
-Trang trí cổng trại hoặc lều trại thiếu nhi
Vẽ tranh: Hướng dẫn HS thể hiện cảm nhận của mình qua các bài vẽ về
những đề tài: sinh hoạt, lễ hội, phong cảnh hoặc vẽ chân dung, tĩnh vật và vẽ
tự do. Gồm các bài:
- Đề tài Trường em
- Đề tài An toàn giao thông
- Đề tài Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 – 11
- Đề tài Quân đội
- Đề tài Ngày Tết, lễ hội và mùa xuân
- Đề tài tự chọn
- Đề tài Môi trường
- Đề tài Ước mơ của em
- Đề tài tự chọn
Tập nặn tạo dáng: Hướng dẫn HS rèn luyện khả năng tạo hình khối
đơn giản của trái cây, đồ vật, con vật, người,… theo ý thích. Gồm các bài:
- Nặn con vật quen thuộc
- Nặn dáng người
- Đề tài tự chọn
- Đề tài Ngày hội
Thường thức mĩ thuật: Hướng dẫn HS tìm hiểu và cảm nhận một số tác

phẩm nghệ thuật và một số tranh thiếu nhi trong nước nổi tiếng. Gồm các bài:
- Xem tranh Thiếu nữ bên hoa huệ
- Giới thiệu sơ lược về điêu khắc cổ Việt Nam
- Xem tranh Du kích tập bắn
- Xem tranh Bác Hồ đi công tác
- Một tiết Tổng kết năm học với nội dung “Trưng bày các bài vẽ, bài
nặn đẹp”

20


Nội dung chương trình này là phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm nhận
thức, tư duy của các em.
Cũng như các môn học khác, môn Mĩ thuật cũng là một môn học được
chú trọng trong tất cả các khối lớp của trường tiểu học Tiên Dương (Đông
Anh – Hà Nội). Là một trường chuẩn quốc gia đang thực hiện chuẩn giai đoạn
2 nên cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, có các phòng chức năng như: Phòng
giáo dục Mĩ thuật, phòng Tin học, phòng Truyền thống, phòng giáo dục Âm
nhạc, nhà đa năng. Bởi vậy, việc giảng dạy nói chung và giảng dạy môn Mĩ
thuật nói riêng có thuận lợi hơn. Tuy nhiên, thực tế, các hình thức dạy học Mĩ
thuật vẫn giống các môn học khác, chưa có sự đổi mới phù hợp loại bài và
chưa tận dụng các ưu thế của phòng học chuyên biệt. Chính vì vậy đổi mới
các HTTCDH trong giảng dạy nói chung và trong giảng dạy môn Mĩ thuật
của trường nói riêng là một việc hết sức cần thiết.

21


CHƯƠNG 2: ĐỔI MỚI HÌNH THỨC DẠY HỌC MĨ THUẬT
GIÚP PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH LỚP 5

TRONG MÔN MĨ THUẬT TRƯỜNG TIỀU HỌC TIÊN DƯƠNG
2.1. Các HTTCDH
2.1.1. Khái niệm về HTTCDH
HTTCDH là tổ chức quá trình hoạt động dạy học của GV và hoạt động
học tập của HS theo một trật tự và chế độ nhất định nhằm thực hiện các nhiệm
vụ dạy học.
2.1.2. Một số đặc điểm của HTTCDH ở tiểu học
Bài - lớp luôn là HTTCDH cơ bản và được sử dụng khá phổ biến trong
trường học ở trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Đây là
HTTCDH được tiến hành theo những đơn vị kiến thức nhất định được gọi là
“bài” trong SGK, được tổ chức trong lớp học với toàn thể HS. HTTCDH này
có ưu điểm là tạo điều kiện cho GV có thể áp dụng các phương pháp dạy học
để truyền đạt đến đại đa số HS trong lớp học một lượng kiến thức tương đối
hệ thống trong khoảng thời gian ngắn.
Tuy nhiên HTTCDH này có nhược điểm là GV khó áp dụng các
phương pháp dạy học mà trong đó các em HS được hoạt động và tích cực chủ
động khám phá kiến thức. Vì vậy, các em thường tiếp thu kiến thức một cách
thụ động, kiến thức thu được không bền vững và khó hình thành kĩ năng,
hành vi cho HS. Ngoài ra việc học tập trong bốn bức tường ngăn cách với môi
trường bên ngoài làm cho nội dung học tập ít gắn liền với thực tế, hạn chế cơ
hội quan sát các sự vật, hiện tượng trong môi trường tự nhiên và xã hội bao
quanh. Hơn nữa việc dạy học với toàn lớp HS làm cho GV khó hướng dẫn,
bồi dưỡng cho các em khá giỏi hay giúp đỡ các em có nhận thức chậm hơn,
vv...
Để khắc phục nhược điểm trên của HTTCDH bài – lớp, các HTTCDH
mới được hình thành trên cơ sở cải tiến những khía cạnh làm hạn chế hiệu quả
dạy học của HTTCDH này.

22



2.1.3. Các HTTCDH môn Mĩ thuật ở tiểu học
2.1.3.1. Dạy học trong lớp
2.1.3.1.1. Tổ chức dạy học chung, học sinh làm việc theo cá nhân
Dạy học cả lớp là HTTCDH mà đối tượng tiếp nhận kiến thức là toàn
bộ HS trong lớp học. Theo HTTCDH này, hoạt động trong giờ học chủ yếu là
GV, HS làm việc ít và tiếp thu kiến thức một cách thụ động.
HTTCDH này giúp GV có điều kiện cung cấp lượng thông tin nhiều
hơn, đối tượng tiếp nhận thông tin là HS cũng lớn hơn. Đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi để GV truyền thụ thông tin một cách hệ thống, logic.
HS làm việc theo cá nhân trên nguyên tắc bình đẳng để mỗi HS có thể
phát triển theo năng lực và sở trường của mình. Tuy nhiên, hiệu quả không
mong muốn của phương pháp này đó chính là sự tiếp thu hoàn toàn thụ động
của HS, không phát huy được hoạt động tích cực, tự lực, sáng tạo của học
sinh và có thể gây tâm lý nhàm chán, mệt mỏi cho người học.
2.1.3.1.2. Tổ chức dạy theo nhóm, học sinh học theo nhóm
Dạy học theo nhóm là HTTCDH hợp tác, qua đó HS được tổ chức để
chia sẻ những hiểu biết của mình và đối chiếu sự hiểu biết của mình với bạn
học. HTTCDH này khai thác được trí tuệ của tập thể HS, đồng thời HS được
rèn luyện thông qua hoạt động tập thể.
Dạy học theo nhóm cho phép HS có nhiều cơ hội khám phá và truyền
đạt thông tin theo ý tưởng sáng tạo của bản thân; tạo điều kiện cho việc thu
nhận thông tin của HS có cơ sở và độ tin cậy cao; phát triển kĩ năng giao tiếp,
hợp tác và phối hợp làm việc với bạn khác; đồng thời, giúp GV có điều kiện
tập trung quan sát, theo dõi hoạt động của từng HS, kịp thời tháo gỡ khó khăn
cho các em trong khi tiến hành hoạt động nhóm.
Khi tiến hành hình thức dạy học này GV cần có sự bao quát lớp hết sức
chặt chẽ, cần chọn được nội dung hoạt động nhóm phù hợp, chia nhóm HS
phù hợp và hoạt động theo nguyên tắc và yêu cầu cần thiết.
2.1.3.2. Dạy học ngoài lớp học

2.1.3.2.1. Dạy học ngoài thiên nhiên

23


Dạy học ngoài thiên nhiên là HTTCDH sinh động, gây hứng thú cho
HS. Thông qua việc quan sát thiên nhiên, HS thêm yêu quý, có ý thức bảo vệ
thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống. Các bài học ngoài thiên nhiên giúp HS
được quan sát trực tiếp các đối tượng học tập mà không có loại đồ dùng dạy
học, hoặc lời miêu tả nào của GV có thể sánh được về mặt trực quan, từ đó
hình thành cho các em biểu tượng cụ thể, sinh động về thế giới tự nhiên-xã
hội xung quanh.
Khi tiến hành tổ chức hình thức dạy học này GV cần có sự tìm hiểu kĩ
lưỡng về địa điểm quan sát (gần trường, phù hợp với nội dung bài học, đảm
bảo an toàn cho HS, vv…), chuẩn bị kế hoạch tiến hành chu đáo và có các
biện pháp sư phạm dự phòng cần thiết (trời quá nắng, mưa, vv…)
2.1.3.2.2. Tham quan
Tham quan là một HTTCDH ngoài lớp giúp HS tìm hiểu những sự vật
và hiện tượng có liên quan đến bài học trong chương trình.
Các buổi tham quan (tham quan công viên, vườn thú, di tích lịch sử,
nhà bảo tàng, cơ sở sản xuất công, nông nghiệp, vv...) giúp HS thấy được các
sự vật, hiện tượng trong môi trường tự nhiên – xã hội phức tạp, đa dạng và
phong phú hơn nhiều so với những điều đã được học ở trên lớp, từ đó mở
rộng tầm nhìn, vốn hiểu biết của HS, gây hứng thú học tập.
Để tiến hành hình thức tổ chức này đạt hiệu quả GV cần tìm hiểu trước
địa điểm, chọn thời gian và thời tiết thích hợp cho việc đi lại của HS được
thuận lợi; quy định về kỉ luật, an toàn trên đường đi; phổ biến trước nhiệm vụ
học tập cho HS; dự kiến tình huống và giải pháp sư phạm cần thiết.
2.1.3.3. HTTCDH tích hợp
2.1.3.3.1. HTTCDH tích hợp các môn học

Tất cả các môn học trong chương trình học đều có một mục đích chung
là hướng tới sự toàn diện trong quá trình phát triển và nhận thức của HS. Hệ
thống các môn học theo từng bậc học không phải được sắp xếp một cách ngẫu
nhiên, tùy hứng mà đã có sự nghiên cứu để phù hợp và đáp ứng được nhu cầu
học tập cũng như nhận thức của các em. Vì vậy, tất cả các môn học trong
chương trình học đều có mối liên quan mật thiết đến nhau. Kiến thức của môn

24


học này sẽ là nguồn tài liệu cho môn học kia, học môn học này sẽ khơi nguồn
hứng thú tích cực để học môn học kia và ngược lại. Chính vì vậy, khi dạy học
các môn học nói chung và dạy học môn Mĩ thuật nói riêng, GV không chỉ
chăm chăm truyền đạt kiến thức cũng như tư tưởng của bộ môn, mà bên cạnh
đó có sự liên hệ giúp các em liên tưởng và vận dụng các kiến thức trong các
lĩnh vực khác để giải quyết nhiệm vụ của vấn đề đưa ra.
2.1.3.3.2. HTTCDH tích hợp các hình thức
Cũng như các phương pháp dạy học, việc phân biệt một cách rõ ràng
từng HTTCDH chỉ tồn tại trên lý thuyết, còn trong thực tiễn dạy học các
HTTCDH được GV sử dụng đan xen vào nhau. HTTCDH này sẽ hỗ trợ cho
HTTCDH kia tạo nên hiệu quả của tiết dạy vì mỗi HTTCDH có những ưu
điểm và hạn chế riêng. Việc phối hợp nhiều HTTCDH trên một tiết học đã và
đang được GV thực hiện tốt trong thực tiễn các trường tiểu học.
2.1.3.3.3. HTTCDH thông qua trò chơi
Đối với HS tiểu học, học tập là hoạt động chủ đạo, tuy nhiên vui chơi
vẫn chiếm vị trí lớn trong đời sống của các em. Theo tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học ở tiểu học, trò chơi được xem là HTTCDH được
khuyến khích sử dụng nhằm gây hứng thú học tập, giảm căng thẳng cho HS,
góp phần nâng cao hiệu quả của tiết học. Trò chơi học tập có tác dụng phát
huy tính tích cực, phát triển nhanh trí, tinh thần tập thể, tính tự lực và sáng tạo

của HS.
Sử dụng trò chơi học tập cần phải phù hợp với yêu cầu, nội dung của
bài học, phải phục vụ thiết thực cho bài học; phải phù hợp với dặc điểm tâm
sinh lý của HS; phải gây được hứng thú cho HS; không tốn kém về thời gian
và có luật chơi đơn giản.
2.1.3.3.4. HTTCDH kết hợp đồ dùng trực quan hoặc ứng dụng CNTT
Hiện nay, dạy học kết hợp đồ dùng trực quan là hình thức khá phổ biến
trong tất cả các trường tiểu học ở tất cả các môn học và đặc biệt trong môn
học Mĩ thuật. Sử dụng tốt hình thức này sẽ tạo ra khả năng nắm bắt kiến thức
nhanh nhạy, chính xác cho các em thông qua mô hình, vật thật hay vật biểu
trưng về đối tượng nội dung bài học. Ngoài ra, kết hợp ứng dụng CNTT khi

25


×