Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Lỗi phát âm của trẻ 4 5 tuổi nguyên nhân và biện pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.98 KB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LOAN

LỖI PHÁT ÂM CỦA TRẺ 4 – 5 TUỔI,
NGUYÊN NHÂN VÀ BIỆN PHÁP
KHẮC PHỤC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tiếng Việt

3


Người hướng dẫn khoa học
Th.S LÊ THỊ LAN ANH

Hà Nội – 2012
LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đai học Sư phạm
Hà Nội 2, các thầy cô giáo Khoa Giáo dục Tiểu học đã giúp đỡ em trong quá
trình học tập tại trường và tạo điều kiện cho em thực hiện tốt khóa luận tốt
nghiệp đại học
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - ThS. Lê Thị
Lan Anh - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành khóa luận với đề tài: “Lỗi phát âm của trẻ 4 - 5
tuổi, nguyên nhân và biện pháp khắc phục”.
Qua đây, em xin gửi tới Ban Giám hiệu và các cô giáo Trường Mầm
non Hoa Sen - Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc, Trường Mầm non Hội Hợp Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc và Trường Mầm non Hợp Thịnh - Huyện


Tam Dương - Vĩnh Phúc cùng các bạn sinh viên Khoa Giáo dục Tiểu học lời
cảm ơn chân thành nhất.

Hà Nội, ngày

tháng

Sinh viên

4

năm2012


Nguyễn Thị Phương Loan

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các căn cứ số
liệu trong khóa luận là trung thực. Đề tài này chưa được công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào khác.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012

Sinh viên


Nguyễn Thị Phương Loan

5


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT

(1)

: Trường Mầm non Hoa Sen

(2)

: Trường Mầm non Hội Hợp

(3)

: Trường Mầm non Hợp Thịnh

Đ

: Đúng

HC : Hành chính
S

: Sai

STT : Số thứ tự


6


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

3

1. Lí do chọn đề tài

5

2. Lịch sử vấn đề

7

3. Mục đích nghiên cứu

7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

7

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

7

6. Phương pháp nghiên cứu


7

7. Cấu trúc khóa luận

8

NỘI DUNG

9

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

9

1.1. Cơ sở tâm sinh lí của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi

9

1.1.1. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi

9

1.1.2. Đặc điểm sinh lí của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi

11

1.2. Cơ sở ngôn ngữ học

15


1.2.1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt

15

1.2.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 4 - 5 tuổi

19

1.3. Một số lỗi phát âm của trẻ

23

Chương 2. THỰC TRẠNG LỖI PHÁT ÂM CỦA TRẺ MẪU GIÁO 27
4 - 5 TUỔI
2.1. Vài nét khái quát về trường Mầm non Hoa Sen - Thành phố 28
Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc, trường Mầm non Hội Hợp - Thành phố Vĩnh
Yên - Vĩnh Phúc và trường Mầm non Hợp Thịnh - Huyện Tam
Dương - Vĩnh Phúc
2.2. Điều tra thực trạng

30

2.3. Phân tích kết quả điều tra

31

7


Chương 3. NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬA LỖI 53

PHÁT ÂM CHO TRẺ MẪU GIÁO 4 - 5 TUỔI
3.1. Nguyên nhân mắc lỗi phát âm ở trẻ Mẫu giáo 4 - 5 tuổi

53

3.1.1. Nguyên nhân chung

53

3.1.2.Nguyên nhân chủ quan

54

3.1.3. Nguyên nhân khách quan

55

3.2. Một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi

56

3.2.1. Yêu cầu khi sử dụng biện pháp

56

3.2.2. Thông qua hoạt động làm quen với Tác phẩm Văn học

57

3.2.3. Thông qua hoạt động trò chuyện trên lớp


62

3.2.4. Thông qua hoạt động trò chơi

65

3.2.5. Thông qua đồ dùng trực quan

72

3.2.6. Thông qua việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường

73

KẾT LUẬN

76

TÀI LIỆU THAM KHẢO

78

8


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai, niềm tự hào
của dân tộc. Để những mầm non với tâm hồn trong sáng hồn nhiên này trở

thành những công dân có ích cho xã hội thì chúng ta - những người đi trước
cần quan tâm, chú trọng tới việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Vì
mầm non là bậc học đầu tiên, là mắt xích quan trọng trong hệ thống Giáo dục
quốc dân. Giữ vai trò nền tảng quan trọng đặt những viên gạch đầu đời trên
bước đường tương lai của trẻ để trẻ trong việc giáo dục hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách. Có như vậy trẻ mới phát triển đúng hướng và nhân
cách mới toàn diện phù hợp với mục tiêu chung của Giáo dục Mầm non.
Trong mục tiêu chung của Giáo dục mầm non đã đặt ra rất nhiều kế
hoạch nhằm phát triển trẻ về mọi mặt: đạo đức, thẩm mĩ, trí tuệ, lao động, thể
chất… để trẻ có hành trang vững bước khi đến các cấp bậc học phổ thông
khác. Từ đó trẻ có thể tự lập trên vốn hiểu biết vững chắc của mình. Mục tiêu
khẳng định rằng, giáo dục cho trẻ trước tuổi đi học là vô cùng quan trọng và
cần thiết. Nếu trẻ không được rèn luyện, không được chăm sóc, không được
giáo dục và bỏ mặc trẻ thì trẻ không phát triển bình thường được. Ở môi
trường sống bên ngoài lúc nào cũng cần có người có năng lực, nhanh nhẹn,
hiểu biết, trẻ không đáp ứng được sẽ không hòa nhập với môi trường này.
Chính vì vậy, Giáo dục Mầm non không chỉ chú trọng phát triển nhân cách
cho trẻ mà qua đó còn chuẩn bị cho xã hội những công dân mới tiên tiến.
Nhà văn L.N.Tônxtôi đã nhận định khi nhấn mạnh ý nghĩa của trước
tuổi đi học rằng: “Tất cả những gì mà đứa trẻ sẽ có sau này khi trở thành
người lớn đều được thu nhận trong thời thơ ấu. Trong quãng đời còn lại
những cái mà nó thu nhận được chỉ đáng 1% những cái đó mà thôi”. Ông đã

9


nêu ra một phép so sánh “Nếu từ đứa trẻ 5 tuổi đến người lớn, khoảng cách
chỉ là một bước thì đứa trẻ sơ sinh đến đứa trẻ 5 tuổi là khoảng cách dài kinh
khủng”.
Với ý nghĩ vô cùng to lớn ấy, bậc học mầm non ngày nay được Đảng

và Nhà nước vô cùng quan tâm. Mầm non càng vững chắc thì tương lai của
nước nhà càng phát triển, phồn vinh.
Ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi
con người, trong sự hình thành và phát triển của xã hội loài người. Lời nói là
công cụ để phát triển tâm lí con người, tạo điều kiện cho sự phát triển trí tuệ,
cảm xúc và các quá trình tâm lí khác. Trẻ ngôn ngữ còn là phương tiện để
điều chỉnh hành vi, là phương tiện giao tiếp chủ yếu và còn giúp trẻ lĩnh hội
các giá trị đạo đức mang tính chuẩn mực, tiếp thu giá trị tinh hoa của dân tộc và
thế giới.
Trẻ từ 0 - 6 tuổi đang trong giai đoạn học nói, 3 - 6 tuổi là giai đoạn
“siêu tốc” phát triển ngôn ngữ đầu tiên của đời người. Trẻ ở giai đoạn này tò
mò về mọi thứ trẻ chưa biết về cuộc sống xung quanh nên trẻ muốn hiểu,
muốn biết về tất cả. Chính vì vậy nên trẻ hay đặt ra những câu hỏi để tìm hiểu
nguyên nhân, nguồn gốc của sự vật, hiện tượng với những câu hỏi như: vì
sao?, như thế nào?, tại sao?...Tất cả để thỏa mãn trí tò mò của trẻ. Đồng thời
đi cùng với sự học hỏi là sự mắc lỗi, trẻ thường mắc một số lỗi về ngôn ngữ
tiêu biểu là lỗi phát âm và đây chính là thời điểm tốt nhất để rèn luyện phát
âm. Việc sửa phát âm cho trẻ là càng sớm càng tốt giúp trẻ hiểu đúng từ đó
phát triển vốn từ một cách toàn diện hơn.
Với sự nhiệt tình, lòng yêu nghề, mến trẻ chúng tôi mong muốn trẻ phát
âm chuẩn mực nên chúng tôi tìm hiểu các lỗi phát âm thường gặp ở trẻ 4 - 5
tuổi từ đó tìm ra nguyên nhân và các biện pháp chữa lỗi phát âm cho trẻ.
Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu “Lỗi phát âm của trẻ 4 - 5 tuổi, nguyên nhân
và biện pháp khắc phục”.

10


2. Lịch sử vấn đề
Mục tiêu phát triển ngôn ngữ là một nội dung quan trọng của Giáo dục

Mầm non để giáo dục hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Vì
vậy nhiều tác giả nghiên cứu về ngôn ngữ trẻ em Việt Nam và phương pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 - 5 tuổi. Trong các công trình nghiên cứu Giáo
dục Mầm non thuộc viện khoa học Giáo dục, Viện nghiên cứu, các đề tài
khóa luận, Luận văn tốt nghiệp ra trường của các sinh viên, học viên cao học
của các trường Đại học,…
Tác giả Phan Thiều trong cuốn “Dạy nói cho trẻ trước tuổi lớp một”
1979 và Tác giả Tạ Thị Ngọc Thanh trong cuốn “Dạy phát âm và làm giàu
vốn từ cho trẻ mẫu giáo” năm 1980 là một trong những công trình tiêu biểu
nghiên cứu về nội dung và phương pháp dạy tiếng Việt ở nhà trường. Tuy
nhiên, nội dung bài nghiên cứu vẫn chưa đi sâu mà chỉ dừng lại ở sự giải
thích, vận dụng các tri thức ngôn ngữ học, các thành tựu ngôn ngữ về tiếng
Việt vào nhà trường.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám - 1945, việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ
được quan tâm hơn. Một số Hội nghị Khoa học Trung ương và địa phương đã
hướng nội dung vào việc thảo luận nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phát
triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm non.
Ngày nay càng ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu đi sâu vào nghiên
cứu về sự phát triển lời nói của trẻ em 4 - 5 tuổi. Vì đây là giai đoạn tiếp nối
của trẻ 3 - 4 tuổi và 4 - 5 tuổi. Trẻ 4 - 5 tuổi là bước bức phá quan trọng về tất
cả các mặt đặc biệt là tiếng nói của trẻ.
Trong cuốn giáo trình “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu
giáo” năm 1997, Nxb Giáo dục, tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã đưa ra những
nhiệm vụ, nội dung của việc dạy nghe và phát âm đúng cho trẻ. Tác giả đề
cập đến một số lỗi phát âm mà trẻ thường mắc phải. Các lỗi phát âm được
trình bày lần lượt theo cấu trúc âm tiết: lỗi thanh điệu, âm chính, âm đầu, âm

11



đệm, âm cuối. Trong mỗi lỗi, tác giả đều đề cập đến những nguyên nhân mắc
những lỗi đó ở trẻ. Qua đó, tác giả cũng đã đưa ra được một số trò chơi nhằm
luyện cách phát âm cho trẻ. Đây chính là cuốn giáo trình đầu tiên đề cập một
cách toàn diện có hệ thống đến các vấn đề khoa học và thực tiễn của tiếng mẹ
đẻ đang được thực hiện vào trong nhà trẻ, mẫu giáo ở nước ta.
Tác giả Đinh Hồng Thái dựa trên những thành tựu nghiên cứu của các
nhà sư phạm Liên Xô cũ và Việt Nam trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ trẻ
em đã biên soạn cuốn “Phương pháp phát triển lời nói trẻ em” (Nxb Đại học
Sư phạm). Cuốn sách có các phần sau:
+ Những vấn đề chung dạy nói cho trẻ trong ba năm đầu.
+ Dạy nói cho trẻ tuổi mẫu giáo.
+ Chuẩn bị dạy cho trẻ tiếng Việt ở trường phổ thông.
Phát âm đúng giúp cho trẻ dễ dàng giao tiếp với mọi người có thể thể
hiện đúng ý của trẻ mong muốn tới mọi người, giúp cho mọi người hiểu mình
hơn. Đặc biệt trẻ có thể sửa được phát âm cho cả người thân của mình. Phát
âm đúng, tư duy của trẻ phát triển tốt hơn giúp trẻ phát triển toàn diện hơn.
Bên cạnh đó trong cuốn “Giáo dục Mầm non, lí luận và thực tiễn” (Nxb
Đại học Sư phạm) của tác giả Nguyễn Ánh Tuyết chỉ đề cập đến một lỗi phát
âm của trẻ Mẫu giáo là nói lắp. Tác giả đã đưa ra nguyên nhân chính gây ra
hiện tượng nói lắp ở trẻ và một số biện pháp chữa nói lắp.
Có thể thấy rằng, không ít các công trình nghiên cứu về các phương
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt là trẻ 4 - 5 tuổi. Trước khi chọn nội
dung đề tài nghiên cứu khóa luận tôi đã tìm hiểu các vấn đề xung quanh có
liên quan tới sửa lỗi phát âm cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi. Chúng tôi nhận
thấy hầu hết các tác giả đều quan tâm tới lỗi phát âm của trẻ, tìm ra nguyên
nhân và đưa ra được biện pháp khắc phục. Song, các tác giả mới đưa ra những
vấn đề còn chung chung, sơ lược, mang tính lí luận mà chưa đi sâu vào thực

12



tiễn. Đặc biệt là chưa đưa ra được những biện pháp tối ưu nhất, mang tính
thực tiễn nhất để sửa lỗi phát âm cho trẻ. Chính vì lí do này chúng tôi càng có
quyết tâm theo đuổi, nghiên cứu đề tài “Lỗi phát âm của trẻ 4 - 5 tuổi, nguyên
nhân và biện pháp khắc phục” với mong muốn sẽ hoàn thiện hơn nữa những
vấn đề mà các tác giả trước đây đã nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Điều tra thực trạng phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi nhằm tìm
hiểu các lỗi phát âm thường gặp ở trẻ, tìm ra nguyên nhân và đưa ra biện pháp
khắc phục những lỗi phát âm đó.
4.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lỗi phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi, nguyên nhân và biện pháp
khắc phục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu thực tế một số lỗi phát âm
thường gặp ở trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi nhưng do thời gian và điều kiện
không cho phép nên chúng tôi chỉ thực hiện điều tra thực tế lỗi phát âm ở ba
trường Mầm non:
- Trường Mầm non Hoa Sen - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
- Trường Mầm non Hội Hợp - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
- Trường Mầm non Hợp Thịnh - Huyện Tam Dương - Vĩnh Phúc
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng lỗi phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi.
- Tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:

13



- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra (điều tra phỏng vấn, phiếu anket).
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung của khóa luận bao
gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương 2: Thực trạng lỗi phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi.
Chương 3: Nguyên nhân và một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ
mẫu giáo nhỡ 4- 5 tuổi.

14


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Cơ sở tâm - sinh lí cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi
1.1.1. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi
Tâm lí của trẻ Mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi phát triển mạnh, dần trẻ học
cách hành động có chủ định theo mục đích đặt ra có ý thức. Mầm mống tình
cảm cao cấp đã xuất hiện: tình cảm đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ… Nhân cách
toàn diện của trẻ dần hình thành, phẩm chất và tính cách đã được xác định.
Tính tự lực của trẻ đã xuất hiện, trẻ đã biết thiết lập các mối quan hệ
rộng rãi và phong phú với các bạn chơi “một xã hội trẻ em” được hình thành.
Hiện tượng thủ lĩnh cũng đã xuất hiện và trong “xã hội trẻ em” dần được hình

thành cũng những dư luận chung. Dư luận chung thường xuất hiện từ những
nhận xét của người lớn đối với trẻ em, cũng có thể do trẻ em tự nhận xét với nhau.
Trí nhớ của trẻ chủ yếu nhờ hoạt động có tính trực quan, hiện tượng trẻ
nhớ rất tốt các sự việc cụ thể trong thực tế. Trẻ 4 - 5 tuổi là bước ngoặt quan
trọng giữa hai độ tuổi, sự ghi nhớ và nhớ lại có chủ định bắt đầu phát triển,
dần dần trẻ biết cách ghi nhớ đọc đi đọc lại, phân chia các vấn đề cần ghi nhớ.
Tư duy của trẻ phát triển trên cơ sở kinh nghiệm cảm tính, trẻ tư duy
bằng những hình ảnh trong đầu, nhưng do biểu tượng còn nghèo nàn và tư
duy mới được chuyển từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong. Cùng
với sự hoàn thiện về các hoạt động trẻ cũng dần hoàn thiện các hoạt động
khác như: toán, vẽ, nặn, kể chuyện, xây dựng, đi chơi…hứng thú nhận thức
trẻ tăng lên rõ rệt. Trong quá trình giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ các
hình thức tư duy cũng được hoàn thiện dần khi hiểu biết của trẻ càng mở
rộng. Sự phát triển tư duy gắn chặt với phát triển ngôn ngữ và sự tăng vốn từ.

15


Ở trẻ các quá trình khái quát hóa và trừu tượng hóa cần thiết để hình thành
các khái niệm xuất hiện và phát triển.
Tình cảm và trí tuệ bắt đầu xuất hiện rõ rệt ở lứa tuổi này. Ở lứa tuổi ấu
nhi cũng như lứa tuổi mẫu giáo thì tình cảm thống trị tất cả các mặt trong hoạt
động tâm lí của đứa trẻ, nhưng đặc biệt ở độ tuổi 4 - 5 tuổi thì đời sống tình
cảm của trẻ có một bước chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú vừa sâu sắc
hơn so với lứa tuổi trước. Tính tò mò, tính ham hiểu biết, ngạc nhiên trước cái
không mong đợi, cái chưa biết và cái lạ xuất hiện, vui khi thỏa mãn nhu cầu,
không hài lòng khi gặp khó khăn. Tình cảm nảy sinh trong những mối quan
hệ giữa người với người. Tình cảm nghĩa vụ này được nảy sinh và phát triển ở
trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi, nó không tách rời khỏi sự phát triển nhân cách của trẻ,
có vai trò lớn trong hành vi và gắn chặt với tình cảm đạo đức. Nhưng tất cả

tình cảm nói trên đều chưa được vững chắc và cần phải được củng cố. Các
tình cảm đó còn bộc lộ một cách ngây thơ và còn biểu hiện dưới các hình thức
tương đối sơ đẳng. Đây cũng là một biểu hiện quan trọng chứng tỏ trẻ 4 - 5
tuổi đã xuât hiện tâm lí sẵn sàng được đi học và học.
Ý chí của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi được hình thành gắn liền với sự phát
triển chí tuệ và tình cảm đạo đức của trẻ. Trẻ nắm dần được các tiêu chuẩn
đạo đức, quy tắc ứng xử và hành động theo các tiêu chuẩn và quy tắc đó. Trẻ
4 - 5 tuổi đã biết kiềm chế, biết làm chủ bản thân hơn. Song, trẻ cần có kích
thích thì mới làm theo nhiệm vụ được giao, kích thích đó cần sinh động, hấp
dẫn dễ hiểu và đi đến mục đích cuối cùng mà trẻ hiểu được.
Nhân cách với các nét tâm lí của trẻ cũng bắt đầu hình thành ở lứa tuổi
này, trước tiên là xu hướng cá nhân. Các động cơ hành động mới có nội dung
xã hội được hình thành. Trẻ học cách xem xét hành vi của mình và của các
bạn theo yêu cầu của người lớn đề ra và hành động theo yêu cầu đó. Trẻ học
cách xem xét hành vi của mình và của bạn theo yêu cầu do người lớn đề ra và

16


hành động theo yêu cầu đó. Tất nhiên xu hướng xã hội của trẻ ở tuổi mẫu giáo
nhỡ 4 - 5 tuổi còn chưa rõ nét và cần được cung cấp và phát triển.
Như vậy các đặc điểm tâm lí chung của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi là
thời điểm gạch nối giữa hai độ tuổi nên chưa được rõ nét mà đang được hình
thành và phát triển mạnh mẽ.
1.1.2. Đặc điểm sinh lí của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi
Trẻ em là một thực thể đang phát triển. Trẻ càng nhỏ thì tốc độ phát
triển càng nhanh, các cơ quan dần được hoàn thiện về cấu tạo và chức năng,
chúng ta có thể quan sát thấy trẻ lớn lên từng ngày. Tuy nhiên các cơ quan, hệ
cơ quan có các giai đoạn phát triển khác nhau chứ không giống nhau và trùng
nhau. Quá trình hình thành và phát triển của các cơ quan, hệ cơ quan có tác

động rất lớn tới các quá trình phát triển tâm lí của trẻ. Vì vậy tính thích nghi
và khả năng hoạt động khác nên trẻ dễ bị thay đổi dưới những tác động thay
đổi đó. Không ngoại trừ những tác động đó trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi cũng
có những thay đổi đáng kể về tâm lí và thay đổi của cơ quan, hệ cơ quan.
1.1.2.1. Đặc điểm hệ thần kinh
Khi ra đời, đứa trẻ sơ sinh bị rơi vào những điều kiện mới, vào một môi
trường sống mới, hoàn toàn khác với môi trường trong bụng mẹ. Cơ thể trẻ
tác động qua lại với môi trường xung quanh thông qua các cơ quan cảm giác
và hệ thần kinh. Hệ thần kinh điều khiển sự hoạt động của các cơ quan trong
cơ thể, phối hợp và điều hòa sự hoạt động của các cơ quan làm cho cơ thể
thích nghi được sự thay đổi thường xuyên của môi trường và có thể cải tạo
nó. Nhờ có hệ thần kinh mà con người có tư duy và có tâm lí. Hệ thần kinh
chính là cơ quan điều khiển cơ thể như là một khối thống nhất.
Khi ra đời bộ não của trẻ chưa phát triển đầy đủ để thực hiện chức năng
của mình, mặc dù cấu tạo và hình thái không khác của người lớn, trọng lượng
lúc sơ sinh là 370 - 392 gam, khi được 6 tháng trọng lượng tăng gấp đôi;
3 tuổi tăng gấp 3; 9 tuổi thì nặng đến 1300 gam.

17


Hệ thần kinh của trẻ 4 - 5 tuổi chưa chuẩn bị đầy đủ để thực hiện các
chức năng của mình. Sự phát triển các đường dẫn truyền diễn ra rất mạnh và
tăng lên theo từng lứa tuổi. Vì vậy trẻ mẫu giáo phát triển hệ thần kinh hơn trẻ
nhà trẻ. Chứ năng của tất cả các cơ quan trong đại vỏ não, hoạt động thần
kinh cao cấp được phát triển cao hơn. Chức năng điều khiển của vỏ bán cầu
não đại tăng hơn so với trung khu dưới vỏ, do đó ta thấy hành vi của trẻ 4 - 5
tuổi có tính tổ chức hơn trước. Trong mối quan hệ chức năng thì hệ thần kinh
mang tính không ổn định nên các quá trình tâm lí diễn ra chưa đầy đủ. Trẻ 4 5 tuổi, quá trình ức chế tích cực dần dần phát triển, trẻ đã có khả năng phân
tích, đánh giá, hình thành kĩ năng, kĩ xảo vận động và phân biệt được các hiện

tượng xung quanh. Hệ thần kinh có một tác động chi phối và điều tiết đối với
vận động cơ thể cải thiện tính không cân bằng của quá trình thần kinh. Cần
chú ý tới sự luân phiên giữa động và tĩnh trong quá trình vận động của trẻ.
1.1.2.2. Đặc điểm hệ vận động
Hệ vận động của trẻ bao gồm hệ xương, hệ cơ và khớp. Quá trình phát
triển hệ cơ xương diễn ra nhanh, xương vẫn còn tính chất đàn hồi. Hệ xương
gồm: xương sọ, xương thân và xương chi. Xương sống và các xương khác
còn mềm và yếu vì trong đó còn chứa nhiều tính chất sụn. Thành phần hóa
học xương của trẻ có chứa nhiều nước và chất hữu cơ hơn chất vô cơ so với
người lớn nên rất dễ cong và gãy. Cấu tạo xương chưa kết thúc ở nhiều
xương, mặc dù sự cung cấp máu của trẻ tốt hơn người lớn.
Các khớp của trẻ rất linh hoạt, dây chằng dễ bị dãn, các gân còn yếu.
Các khớp còn nông, cơ bắp xung quanh khớp còn mềm, yếu, dây chằng lỏng
lẻo, tính vững chắc của khớp còn tương đối kém.
Hệ cơ bao gồm trên 600 cơ, chiếm 42% trọng lượng cơ thể. Chia thành
4 nhóm cơ chính: cơ đầu, cơ cổ, cơ mình và cơ chi. Hệ cơ của trẻ phát triển
yếu, tổ chức cơ bắp còn ít, các sợi cơ nhỏ, mảnh, thành phần nước trong cơ
thể tương đối nhiều nên sức mạnh cơ bắp còn yếu, cơ nhanh mệt mỏi.

18


1.1.2.3. Đặc điểm hệ tuần hoàn
Hệ tim mạch của trẻ bắt đầu hoạt động sớm hơn các hệ khác và các
mạch máu của trẻ rộng hơn so với người lớn (về tỉ lệ) nên áp lực của máu vào
thành mạch yếu, để bù đắp vào đó tần số co bóp của tim lại nhanh. Tim trẻ
4 - 5 tuổi nặng gấp 4 - 5 lần trẻ sơ sinh. Hệ thống điều khiển hoạt động của
tim vẫn tiếp tục phát triển mạnh, mạch đập có chậm hơn trẻ 1 - 2 tuổi nhưng
vẫn còn nhanh hơn so với người lớn rất nhiều. Mạch đập của trẻ 4 - 5 tuổi là
90 -100 lần/ phút. Huyết áp tăng, số lượng hồng cầu trong máu tăng, tỉ lệ

huyết sắc tố trong máu tăng rõ nét. Sự điều hòa thần kinh tim còn chưa hoàn
thiện nên nhịp co bóp dễ mất ổn định và cơ tim rất nhanh mệt mỏi. Tuy vậy
khi thay đổi hoạt động theo xu hướng giảm dần thì tim trẻ lại phục hồi rất nhanh.
1.1.2.4. Đặc điểm hệ hô hấp
Đường hô hấp của trẻ tương đối hẹp, niêm mạc và đường hô hấp mềm
mại, mao mạch phong phú nên dễ phát sinh nhiễm cảm. Khí quản của trẻ 4 - 5
tuổi nhỏ không khí đưa vào ít, trẻ thở nông nên khả năng trao đổi không khí
phổi kém. Bộ máy hô hấp của trẻ còn nhỏ, không chịu được những vận động
quá sức kéo dài liên tục. Tần số hô hấp của trẻ ở lứa tuổi này thường là 26 –
28 lần/ phút. Đến 4 - 5 tuổi thể tích khí lưu thông của trẻ là 215ml, thể tích
phút ở trẻ 4 - 5 tuổi là 5.800ml. Sinh lượng phổi của trẻ 4 - 5 tuổi là 700ml
đến 800ml.
Trung khu hô hấp của trẻ rất dễ hưng phấn. Trẻ chỉ hơi bị xúc động,
hoặc lao động chân tay chút ít hoặc hơi bị nóng đã thở nhanh hơn bình thường.
1.1.2.5. Đặc điểm bộ máy phát âm
Phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm cũng
như khả năng điều khiển hoạt động của bộ máy này. Do đó đặc điểm của bộ
máy phát âm ở trẻ em cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát âm
của trẻ.

19


Các bộ phận chính yếu của bộ máy phát âm bao gồm:
1.1.2.5.1. Bộ phận cung cấp làn hơi
Bao gồm hai lá phổi, dưới sự tác động của cơ hoành, cơ sườn, cơ ngực,
cơ bụng và các mô. Từ sơ sinh đến 8 tuổi, phổi phát triển chủ yếu bằng tăng
số lượng phế nang. Phổi trẻ có đặc điểm: nhiều mạch máu và bạch mạch,
nhiều cơ trơn, ít tổ chức đàn hồi, đặc biệt là quanh các phế nang và thành
bạch mạch. Các cơ hô hấp chưa phát triển hoàn chỉnh nên lồng ngực di động

kém. Do những đặc điểm trên nên trẻ càng nhỏ khả năng phát âm càng kém,
chủ yếu chỉ là những tiếng ê a chưa rõ ràng, ngắn gọn.
1.1.2.5.2. Bộ phận phát thanh
Bộ phận phát thanh (chỉ phát ra âm thanh chứ chưa phát ra lời, ra tiếng)
gồm hai thanh đới nằm trong thanh quản. Thanh quản của trẻ có hình phễu
mở rộng ở phía trên. Ở trẻ bú mẹ, thanh quản nằm nằm ở vị trí cao hơn hai
đốt sống so với người lớn. Thanh quản phát triển từ từ nhưng đến tuổi dậy thì
thì phát triển mạnh. Dưới 6 - 7 tuổi, thanh môn hẹp, thanh đới ngắn. Chính vì
vậy giọng nói của trẻ em cao hơn của người lớn. Từ 12 tuổi, thanh đới con
trai dài hơn thanh đới con gái do đó giọng nói con trai trầm hơn.
1.1.2.5.3. Bộ phận truyền tăng âm
Gồm chủ yếu là cuống họng (yết hầu) thông với đường miệng hoặc
mũi. Họng hầu trẻ em tương đối ngắn và hẹp, có hình phễu, sụn mềm và
nhẵn, họng phát triển mạnh trong năm đầu và vào tuổi dậy thì. Niêm mạc
họng được phủ bằng lớp biểu mô rung hình trụ.
Các chấn động âm thanh do thanh đới tạo ra được bộ phận truyền âm
gom lại và dẫn ra ngoài theo hai hướng miệng hoặc mũi. Cuống họng và
miệng không những truyền âm, mà còn góp phần khác quan trọng vào việc
tăng âm (đóng vai trò như là một hộp cộng hưởng).

20


1.1.2.5.4. Bộ phận phát âm (nhả chữ)
Là miệng với các hoạt động của môi, răng, lưỡi, hàm dưới, vòm mềm
(hàm ếch mềm, cúa mềm, ngạc mềm). Chúng ta nhận ra giọng nói với ý nghĩa
của nó là nhờ vào hoạt động các cơ quan trên. Ở trẻ, do sự hoạt động của môi,
lưỡi, hàm dưới, vòm mềm chưa linh động và răng chưa phát triển đầy đủ nên
phát âm chưa chuẩn, chưa rõ ràng. Đối với những trẻ mắc dị tật bẩm sinh ở
những cơ quan trên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát âm và càng khó

khăn hơn để có thể phát âm đúng, chuẩn.
1.1.2.5.5. Bộ phận dội âm
Gồm tất cả các khoảng trống trong cơ thể, chủ yếu là các khoảng trống
trên đầu, trên mặt, gọi là xoang cộng minh (cộng hưởng) Ngoài khoang họng
và khoang miệng vừa tăng âm vừa dội âm, thì các xoang mũi, xoang vòm
mặt, xoang chán… chủ yếu có tính chất dội, tức là làm cho âm thanh được
cộng hưởng, âm vang và phát ra ngoài.
1.2. Cở sở ngôn ngữ học của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi
1.2.1. Đặc điểm âm tiết tiếng Việt
Là tính phân tiết cao, mỗi âm tiết đứng độc lập. Mỗi âm tiết bao giờ
cũng gắn liền với thanh điệu, cũng làm thay đổi ý nghĩa của âm tiết. Vì vậy,
lời nói của con người bao giờ cũng là lời nói thành tiếng. Khi nói chúng ta
phải phát âm ra thành từ, thành câu, thành văn bản để truyền đạt lại nội dung
thông báo. Khi nghe chúng ta phải phát âm ra từ, thành từ, thành câu, thành
văn bản để truyền đạt lại nội dung của lời nói. Trong âm thanh của lời nói do
một các nhân phát ra, ngoài những đặc điểm cụ thể còn có một cái chung nhất
mang chức năng xã hội đó là những âm thanh cụ thể của lời nói của mỗi cá nhân.
Mô hình cấu trúc âm tiết tiếng Việt có 5 thành phần được sắp xếp theo
sơ đồ sau:

21


Thanh điệu
(5)
Âm đầu

Vần

(1)

Âm đệm

Âm chính

Âm cuối

(2)

(3)

(4)

Thành phần ở vị trí (5) là thanh điệu bao trùm lên toàn bộ âm tiết,
6 thanh điệu: thanh ngang, thanh huyền, thanh sắc, thanh nặng, thanh hỏi,
thanh ngã.
+ Thanh ngang: Trên chữ không ghi dấu viết
+ Thanh huyền (\)
+ Thanh sắc (/)
+ Thanh nặng (.)
+ Thanh hỏi (’)
+ Thanh ngã (~)
- Thành phần ở vị trí (1) là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm.
- Thành phần ở vị trí (2) là âm đệm / u / có hai con chữ thể hiện là o và
u, chẳng hạn: Toan, Tuân.
- Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm
chính là hạt nhân của âm tiết.
- Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối do 6 phụ âm là /m/, /n/, /p/, /t/, /k/,
// và 2 bán âm là / i /, / u / đảm nhiệm.
- Các thành phần ở vị trí (2), (3), (4) ghép lại với nhau thành một bộ
phận gọi là phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí

còn lại có thể có hoặc không.
+ Âm tiết của tiếng Việt có cấu trúc chia làm hai bậc:

22


Âm tiết

Bậc 1:

Thanh điệu

Âm đầu

Bậc 2:

Thanh điệu

Phần vần

Âm tiết

Âm đầu

Phần vần

Âm đệm

Âm chính


Âm cuối

- Thanh điệu là sự thay đổi độ cao những âm tiết: ca, cá, cã đối lập với
cà, cả, cạ. Các âm tiết trước đều được phát âm với cao độ cao, các âm tiết sau
phát âm với âm độ thấp.
- Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì
những âm tiết cùng thuộc độ cao lại đối lập nhau về sự biến thiên của độ cao,
trong thời gian âm tiết “la” được phát âm với cao độ hoàn toàn bằng phẳng,
còn “lã” với đường nét biến thiên, cao độ không bằng phẳng, âm điệu là
những đường nét biến thiên về cao độ.

23


- Nguyên âm trong tiếng Việt được coi là âm chính, nguyên âm là khi
nói âm phát ra luồng hơi đi tự do không có gì cản trở. Trong tiếng Việt có 16
nguyên âm, bao gồm 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi.
+ Nguyên âm đơn:
. 9 nguyên âm dài: a, ơ, u, e, ê, o, ô, i, ư.
 

. 4 nguyên âm ngắn: a , ,  ,  .
+ Nguyên âm đôi gồm hai con chữ ghép lại liền nhau. Khi phát âm thì
đọc nhanh, đọc lướt từ âm này sang âm kia, lúc đầu mạnh, sau yếu hơn, đo đó
âm sắc chủ yếu của các nguyên âm đôi là do âm đầu quyết định. Có ba
nguyên âm đôi, đó là:
. uo (uô, ua): được thể hiện bằng hai con chữ: uô và ua (VD: muốn và múa)
. wy (ươ, ưa): được thể hiện bằng hai con chữ: ươ và ưa (VD: mướn và mưa)
. ie (iê, ia, yê, ya): được thể hiện bằng bốn con chữ: iê, yê, ia, ya (VD:
miến, chuyến, mía, khuya)

- Phụ âm: các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiết tiếng
Việt bao giờ cũng là phụ âm. Phụ âm là vị trí khi phát âm luồng hơi đi ra bị
cản ở chỗ nào đó trong bộ máy phát âm, phụ âm có loại bị cản ở môi, có loại
bị cản ở răng, có loại bị cản ở thanh hầu. Về phương thức phát âm người ta
chia phụ âm thành:
+ Phụ âm tắc: hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi: b, d, t,
s, c, k, m, r, ng.
+ Phụ âm sát: hơi đi qua kẽ hở miệng: p, v, s , z, l, x, y, h.
+ Phụ âm vang: hơi thoát ra đầu lưỡi và bên lưỡi: m, n, nh.
+ Phụ âm ồn: hơi thoát ra đằng miệng có tiếng ồn: b, d, t, c, k, p, x, v, z,
y, h.
+ Phụ âm hữu thanh, vô thanh trong các âm ồn: căn cứ vào chỗ dây
thanh có rung hay không rung người ta chia ra:

24


. Phụ âm hữu thanh: dây thanh rung (d, v, y).
. Phụ âm vô thanh: dây thanh không rung (t, k, c, b, s, x, h).
+ Về vị trí cấu âm ta phân phụ âm thành:
. Phụ âm môi: p, b, v, m.
. Phụ âm lưỡi: d, t, s, z, l, n.
. Phụ âm hầu: h.
Trong các âm lưỡi, sự đối lập nhau giữa đầu lưỡi hẹp: r, t, s, l, n; đầu
lưỡi quặt: đ.
Phần vần là do thành phần của âm đệm, âm chính, âm cuối ghép với nhau
Ví dụ : âm tiết Toan : o là âm đệm, n là âm cuối, oan là phần vần.
1.2.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ
1.2.2.1. Đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi
Nhà tâm lí học người Nga đã nghiên cứu đặc điểm phát triển vốn từ của

trẻ mẫu giáo và ông đã chỉ rõ rằng: trong vốn từ của trẻ mẫu giáo đầu tiên trẻ
em phản ánh những đặc trưng của sự vật, hiện tượng, càng lớn trẻ càng có
nhiều vốn từ để thể hiện đặc điểm của sự vật, hiện tượng một cách chính xác
bằng từ ngữ, tư duy trực quan hành động giải thích việc trẻ mẫu giáo bé và
mẫu giáo nhỡ chủ yếu có vốn từ biểu danh. Tư duy trừu tượng và tư duy logic
xuất hiện ở lứa tuổi thứ 5, cho phép trẻ lĩnh hội những khái niệm như: gia súc,
gia cầm, đồ dùng gia đình,….
Vốn từ ngữ phong phú, chính xác giúp cho trẻ dễ dàng định hướng
trong không gian.
Trẻ có ba loại vốn từ:
Vốn từ chủ động là vốn từ mà chủ thể nói năng sử dụng một cách tích
cực trong giao tiếp, vốn từ chủ động của trẻ mẫu giáo ít hơn vốn từ thụ động.

25


Vốn từ thụ động là vốn từ mà chủ thể nói năng có thể hiểu nhưng
không biết cách sử dụng trong giao tiếp. Vì vậy ở trẻ mẫu giáo thì giáo viên
phải chuyển vốn từ thụ động sang vốn từ chủ động cho trẻ.
Vốn từ cơ bản là vốn từ có tần số xuất hiện cao trong giao tiếp của trẻ.
Chính vì vậy dạy trẻ phát triển ngôn ngữ là phát triển vốn từ cơ bản cho trẻ vì
chỉ khi đó trẻ mới có thể giao tiếp.
Sự phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo phát triển rất nhanh theo độ từng
độ tuổi, được thể hiện ở các mặt sau:
- Về mặt số lượng:
Trẻ đã có sự phát triển về số lượng từ từ các độ tuổi nhỏ. Đến 4 - 5 tuổi
số lượng từ của trẻ cũng đạt số lượng tương đối lớn. Trẻ 4 tuổi có thể nắm
được gần 700 từ, phần lớn là danh từ, động từ, tính từ và các loại từ khác.
Danh từ chỉ đồ chơi, đồ dùng quen thuộc, các con vật gần gũi … giao tiếp
bằng ngôn ngữ một cách tốt nhất.

Đến 4 - 5 tuổi số lượng từ của trẻ cũng đạt số lượng đáng kể. Trẻ 4 tuổi
có thể nắm được gần 700 từ, phần lớn là danh từ, động từ, tính từ và các loại
từ khác. Nhưng ưu thế vẫn thuộc về danh từ và động từ còn các từ loại khác
đã xuất hiện trong vốn từ của trẻ.
Tốc độ tăng vốn từ ở các độ tuổi là khác nhau, chậm dần theo độ tuổi.
Cuối 2 tuổi so với đầu 3 tuổi khác nhau, cuối 4 tuổi so với đầu 4 tuổi là khác
nhau tăng 40% - 58%, cuối 5 tuổi vốn từ chỉ tăng 10% - 40%.
- Về mặt cơ cấu từ loại:
Các loại từ xuất hiện dần dần, ban đầu chủ yếu là danh từ, sau đó đến
động và tính từ, các loại từ khác xuất hiện muộn hơn.
Về cơ bản trong vốn từ của trẻ đã có đầy đủ các loại từ. Tuy nhiên tỉ lệ
danh từ và tính từ cao hơn nhiều so với các loại khác: danh từ chiếm 38%;
động từ chiếm 32%; tính từ chiếm 6,8%; đại từ chiếm 3,1%; phó từ chiếm

26


7,8%; tình thái từ chiếm 4,8%; quan hệ từ và các số từ còn ít xuất hiện (số từ
chiếm 2,5%; quan hệ từ chiếm 1,7%).
Từ lứa tuổi tiếp theo đang dần dần từng bước hình thành và hoàn thiện
cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ. Tỉ lệ danh từ, động từ giảm đi (còn khoảng
50%) nhường chỗ cho tính từ và các loại từ khác tăng lên. Tính từ đạt đến
15%; quan hệ từ lên đến 5,7%; còn lại là các từ loại khác.
- Khả năng hiểu nghĩa từ của trẻ mẫu giáo:
Đối với trẻ mầm non ở độ tuổi từ 4-5 tuổi, trẻ hiểu được nghĩa biểu
danh. Theo Federenko (Nga) có 5 mức độ hiểu nghĩa khái quát của từ như sau:
+ Mức độ zero (mức độ không): mọi sự vật có tên gọi gắn với nó, trẻ
hiểu được ý nghĩa tên này: mẹ, bố, bàn, ghế….(nghĩa biểu danh).
+ Mức độ 1: Ý nghĩa biểu niệm ở mức độ thấp, tên gọi chung của các
sự vật cùng loại: bóng, cốc, búp bê, nhà….

+ Mức độ 2: Khái quát hơn: quả (quả cam, quả táo, quả dưa, quả
bưởi..); xe (xe ôtô, xe đạp, xe máy…); con (con gà, con vịt, con chó, con
lợn…).
+ Mức độ 3: Ở mức độ cao hơn mà trẻ nắm được: phương tiện giao
thông (ôtô, tài hỏa, tàu thủy, máy bay, xe máy,…; đồ vật (đồ chơi, đồ nấu ăn,
đồ dùng học tập….).
+ Mức độ 4: Khái quát tối đa những khái niệm trừu tượng: số lượng,
chất lượng, hành động….(học ở cấp phổ thông).
Trẻ ở tuổi nhà trẻ hiểu được nghĩa biểu danh (mức độ zero và mức độ
1). Mức độ 2 và 3 chỉ dành cho trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn.
1.2.2.2. Đặc điểm ngữ pháp của ngôn ngữ trẻ em
Đặc điểm ngữ pháp trong lời nói của trẻ em cũng thay đổi và phát triển
theo từng độ tuổi.

27


×