Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

SÀN GIAO DỊCH VÀNG TRUNG QUỐC BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.06 KB, 35 trang )

MỤC LỤC

1


1. TỔNG QUAN VỀ VÀNG, TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG VÀNG
1.1. Tổng quan về vàng
1.1.1. Khái niệm
Vàng là kim loại mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng,
vàng không phản ứng với hầu hết các hóa chất, có dạng quặng hoặc hạt trong
đá và trong các mỏ bồi tích. Vàng là một kim loại quý, dùng để đúc tiền,
được sử dụng trong các ngành nha khoa, điện tử và trang sức.
Vàng là một loại hàng hóa được giao dịch trong thị trường. Vàng còn
là loại tài sản có tính thanh khoản cao, được chấp nhận như một loại tiền đặc
biệt tại tất cả các nước trên thế giới.
1.1.2. Lịch sử của vàng
Vàng đã được biết đến, khai thác và sử dụng từ rất lâu đời. Cùng với
sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá và ra đời của tiền tệ; nhờ những đặc
tính vốn có của mình (tính ổn định giá trị, dễ phân chia, lâu bền, dễ vận
chuyển và thuần nhất) vàng đã tách khỏi thế giới hàng hoá thông thường, trở
thành tiền tệ một cách lý tưởng trong suốt thời gian dài của lịch sử nhân loại.
Dù giá của một số nhóm kim loại (như platinum) cao hơn nhiều nhưng
từ lâu vàng vẫn luôn được coi là kim loại đáng thèm muốn nhất trong các kim
loại quý, và giá trị của nó đã được sử dụng làm bản vị cho nhiều tiền tệ trong
lịch sử. Vàng đã được sử dụng như một biểu tượng cho sự thanh khiết, vương
giả, sự giàu sang và danh vọng.
Vàng thời cổ đại về mặt địa chất khá dễ để có được, người La Mã bắt
đầu phát triển các kỹ thuật mới để khai thác vàng ở quy mô lớn từ hàng trăm
năm trước công nguyên. Đế chế Mali tại chậu Phi nổi tiếng khắp thế giới về
trữ lượng vàng vô cùng lớn.Tuy nhiên 75% tổng lượng vàng này đã được


2


khai thác từ năm 1910, trữ lượng vàng trên thế giới ngày càng giảm do mức
độ khai thác và nhu cầu của sự phát triển.
Trong thế kỷ 19, những cuộc đổ xô đi tìm vàng xảy ra bất kỳ khi nào
những trầm tích vàng lớn được phát hiện. Đa số vàng đã được khai thác trong
suốt lịch sử vẫn đang được lưu hành dưới hình thức này hay hình thức khác.
1.1.3. Chức năng của vàng
Khi được chấp nhận như là một loại tiền tệ đặc biệt, vàng có năm chức
năng cơ bản sau:
-

Thước đo giá trị
Phương tiện lưu thông
Phương tiện cất trữ
Phương tiện thanh toán
Tiền tệ thế giới

Năm chức năng của tiền vàng trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật
thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền vàng phản ánh sự phát
triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Tuy nhiên khi nền kinh tế hàng hoá phát triển ngày càng cao, do một
số lý do mang tính khách quan như: mâu thuẫn giữa nhu cầu tiền tệ và khả
năng cung ứng tiền tệ bằng vàng, hạn chế của lưu thông tiền vàng, nhu cầu sử
dụng vàng vào các mục đích phi tiền tệ mà ngày nay vàng không còn được
chọn làm tiền của các quốc gia trên thế giới. Thế nhưng, vàng vẫn thực hiện
những chức năng quan trọng sau:
1.1.3.1. Phương tiện tiết kiệm và đầu tư
Nhiều người sở hữu vàng và giữ chúng dưới hình thức các thỏi nén

hay thanh như một công cụ chống lại lạm phát hay những đợt khủng hoảng
kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế không tin việc giữ vàng là một công cụ
chống lạm phát hay mất giá tiền tệ.
3


Trong các kim loại quý, vàng là một kênh đầu tư phổ biến
nhất.Các nhà đầu tư mua vàng để dự trữ và là địa chỉ an toàn trước những
biến động về kinh tế, chính trị, xã hội hoặc khủng hoảng tiền định danh (bao
gồm cả sự suy giảm của thị trường đầu tư, nợ quốc gia đang gia tăng, suy
thoái tiền tệ, lạm phát, chiến tranh và bất ổn xã hội).
1.1.3.2. Tài sản dự trữ quốc gia
Dự trữ vàng với lượng đáng kể tại nhiều nước là một công cụ bảo vệ
đồng tiền của họ và tránh ràng buộc vào đồng đôla Mỹ, thực tế này hình
thành lượng dự trữ khổng lồ tiền thanh khoản cao. Đồng đôla yếu có xu
hướng được bù lại bởi giá vàng mạnh lên. Vàng vẫn là tài sản tài chính cơ
bản của gần như tất cả các ngân hàng trung ương bên cạnh ngoại tệ và trái
phiếu chính phủ. Nó cũng được tích trữ tại các ngân hàng trung ương như là
một biện pháp đề phòng.Ước tính, 25% toàn bộ lượng vàng có trên mặt đất
được cất giữ tại quỹ của các ngân hàng trung ương.
1.1.3.3. Nguyên liệu sản xuất trong công nghiệp
Do những đặc tính vốn về tính dẫn nhiệt, dẫn điện, phản xạ tốt với bức
xạ điện từ, dễ dát mỏng,… mà vàng trở thành nguyên liệu không thể thiếu
trong các ngành công nghệ cao như: công nghệ điện tử, công nghiệp ô tô,
làm dây dẫn điện trong một số thiết bị tiêu thụ nhiều điện năng, làm lớp phủ
bảo vệ cho nhiều vệ tinh nhân tạo, trong các tấm bảo vệ nhiệt hồng ngoại và
mũ của các nhà du hành vũ trụ và trên các máy bay chiến tranh điện
tử như EA-6B Prowler,…
Ngoài ra, vàng có thể được sử dụng trong thực phẩm, thêu thùa, công
nghệ ảnh màu, sản xuất thủy tinh rubi vàng,…

1.1.3.4. Trang sức

4


Vì tính mềm của vàng nguyên chất (24K) nên nó thường được pha trộn
với các kim loại căn bản khácnhằm làm biến đổi độ cứng và tính mềm, điểm
nóng chảy, màu sắc và các đặc tính khác để sử dụng trong công nghiệp chế
tác nữ trang.
Các hợp kim với độ cara thấp (thường là 22K, 18K, 14K hay 10K) có
chứa nhiều đồng, hay các kim loại cơ bản khác, hay bạc hoặc paladi hơn
trong hỗn hợp. Đồng là kim loại cơ sở thường được dùng nhất, khiến vàng có
màu đỏ hơn. Vàng 18K chứa 25% đồng đã xuất hiện ở đồ trang sức thời cổ
đại và đồ trang sức Nga và có kiểu đúc đồng riêng biệt, dù không phải là đa
số, tạo ra vàng hồng. Hợp kim vàng-đồng 14K có màu sắc gần giống một số
hợp kim đồng, và cả hai đều có thể được dùng để chế tạo các biểu trưng cho
cảnh sát và các ngành khác,…
1.1.4. Vai trò của vàng trong nền kinh tế hiện đại
1.1.4.1. Vàng là một kim loại quý
Vàng là kim loại quý trong ngành trang sức, điêu khắc và trang trí kể
từ khi được xuất hiện trong lịch sử. Vàng có tính bền vững hóa học cao với
vẻ đẹp bề ngoài sáng bóng; vàng nguyên chất có độ dẻo cao, dễ dát thành lá
mỏng và kéo sợi nên vàng rất phù hợp với việc chế tác đồ kim hoàn, các linh
kiện và vi mạch điện tử…
Ngoài ra, vàng là vật chất có độ dẫn điện, dẫn nhiệt cao, phản ánh tia
hồng ngoại rất mạnh nên vàng có giá trị sử dụng quan trọng trong các ngành
công nghiệp điện tử, các ngành công nghệ cao.
1.1.4.2. Vàng là một hàng hóa đặc biệt
Với tính chất ưu việt và được công nhận rộng rãi, vàng đã từng trở
thành một vật chất đặc biệt mang hình thái hàng hóa – tiền tệ. Dù không còn

được xem là tiền tệ, vàng vẫn được xem là một hàng hoá đặc biệt rất gần với
5


tiền và có vai trò quan trọng trong một số mặt: Vàng giúp đa dạng hoá danh
mục đầu tư; là công cụ đầu tư hiệu quả thay thế đồng USD; vàng còn là kênh
trú ẩn an toàn cho thị trường chứng khoán, chống lạm phát, biến động tỷ giá
và bất ổn chính trị… Ngoài ra vàng có thể tạo lực ổn định cho hệ thống tài
chính nếu có thể quản lý tốt thị trường vàng do vàng rất gần với tiền, đặc biệt
là đối với những quốc gia “ưa thích vàng”.
1.1.4.3. Vàng là đối tượng dự trữ Quốc gia quan trọng
Các quốc gia, ngân hàng và quỹ đầu tư trên toàn thế giới tăng cường
giữ vàng trong danh mục đầu tư của mình để tránh nguy cơ giảm giá trị tài
sản do lạm phát và phá giá tiền tệ trong điều kiện suy thoái kinh tế toàn cầu
như hiện nay.
1.2. Thị trường vàng và tác động của thị trường vàng
1.2.1. Khái niệm thị trường vàng
Thị trường vàng là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán vàng
và các phương tiện thanh toán có giá trị vàng khác. Đây cũng là nơi hình
thành giá vàng theo quan hệ cung cầu, là một bộ phận của thị trường tài chính
có trình độ phát triển cao.
1.2.2. Tác động của thị trường vàng
1.2.2.1. Tác động đến thị trường tài chính
Thị trường vàng được xem là một trong những kênh đầu tư trên thị
trường tài chính. Từ lúc thị trường vàng có nhiều biến động đến nay, hiệu
ứng của vàng đã thu hút không ít nhà đầu tư chuyển từ đầu tư chứng khoán,
bất động sản và USD sang đầu tư vàng. Vàng có thể coi là loại tiền tệ duy
nhất không liên quan trực tiếp đến bất kỳ nền kinh tế quốc gia nào, với việc
suy thoái kinh tế thì vàng là kênh đầu tư an toàn nhất. Điều này vô hình
chung làm ảnh hưởng đến các kênh đầu tư khác.

6


Vàng còn gây ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn vốn của khu
vực tài chính: khi giá vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay
vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Đồng thời vốn rút ra lại loanh quanh ở thị
trường vàng và ngoại tệ dẫn đến khả năng huy động vốn của các ngân hàng
thương mại bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống
ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Hơn thế nữa, thị trường vàng biến động mạnh còn ảnh hưởng đến phân
phối lại thu nhập giữa những người đi vay và cho vay vàng.Đến kỳ trả nợ, do
giá vàng lúc vay thấp hơn sơ với giá vàng lúc trả rất lớn, chưa kể tới lãi suất
của ngân hàng, chỉ tính biến động giá vàng ngân hàng đã được lợi rất lớn còn
những người vay vàng lâm vào tình trạng rất khó khăn. Ngược lại, đối với
hoạt động huy động vốn thì ngân hàng lại bị thiệt hại rất nhiều và khách hàng
của họ lại được lợi lớn. Sự biến động mạnh của vàng trong một số thời điểm
đã tạo ra rất nhiều rủi ro cho hoạt động huy động và cho vay vàng của ngân
hàng, tác động tiêu cực đến thị trường vốn, làm méo mó chức năng trung gian
tín dụng của ngân hàng trong nền kinh tế.
1.2.2.2. Tác động đến nền kinh tế
• Ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu
Vàng cũng là một loại hàng hóa, nhưng nó đặc biệt hơn mọi loại hàng
hóa ở giá trị cũng như sự phổ biến của nó trên toàn thế giới. Nhập vàng đồng
nghĩa phải tiêu đi một số lượng lớn ngoại tệ nên cán cân thương mại trong
nước cũng bị ảnh hưởng (gây thâm hụt). Bên cạnh đó khi giá vàng tăng cao
sẽ có trường hợp người ta gom đô la để nhập vàng dù là đường chính ngạch
hay đường lậu cũng sẽ đẩy tỷ giá tăng cao, điều đó gây không ít khó khăn cho
việc nhập khẩu các mặt hàng khác.
• Ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ


7


Ảnh hưởng trực tiếp nhất có thể kể đến là khả năng huy động nguồn
vốn của khu vực tài chính ngày càng xấu đi, do tỷ lệ tiết kiệm bằng vàng tăng
lên thay vì tiết kiệm qua hệ thống ngân hàng.
Nguy cơ gây ra lạm phát: khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và
nước ngoài lớn, dẫn đến việc phải nhậu khẩu vàng, điều đó sẽ gây ra áp lực
tăng tỷ giá, đối với những nước nhập siêu, việc tăng tỷ giá sẽ khiến giá cả
hàng hóa tăng lên, gây ra lạm phát. Ngoài ra, khi lạm phát trong nước có dấu
hiệu tăng, người dân sẽ chuyển sang dự trữ vàng thay vì tiền, điều này sẽ làm
cho một lượng tiền lớn quay lại lưu thông khiến tình trạng lạm phát trở nên
trầm trọng hơn.
• Ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của người dân
Biến động lớn của thị trường vàng ảnh hưởng lớn đến tâm lý cũng như
cuộc sống của người dân. Thực tế đã cho thấy rằng, rủi ro càng cao thì lợi
nhuận càng lớn. Đã có rất nhiều thời điểm giá vàng tăng cao, người dân đổ xô
đi mua vàng làm giá vàng trong nước chênh lệch lớn so với giá vàng thế giới.
Thị trường vàng trở nên điên loạn với giá vàng bị thổi lên quá đáng, người
dân đổ xô đi rút tiền ở các ngân hàng để mua vàng tích trữ, gây bất ổn cho thị
trường vàng dẫn đến sự bất ổn của thị trường tài chính và nền kinh tế.
Tóm lại:
Qua những phân tích trên ta có thể nhận thấy vai trò quan trọng, sự tác
động mạnh mẽ của thị trường vàng đến thị trường tài chính và cả nền kinh tế.
Quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm phát triển ổn định và bền
vững thị trường vàng, không để biến động của giá vàng làm ảnh hưởng đến tỷ
giá, đảm bảo hoạt động sản xuất, không làm ảnh hưởng đến thị trường tài
chính,lạm phát…. là góp phần thực hiện chính sách tài khoá, chính sách tiền
tệ của nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô.
8



Từ chỗ đóng kín thị trường vàng, với việc thành lập sàn vàng và quản
lý thị trường vàng hiệu quả, Trung Quốc đã từng bước tự do hoá mọi giao
dịch và gặt hái nhiều thành công trong việc quản lý thị trường vàng.
Nhóm sẽ tập trung phân tích các đặc điểm chính vàcác hoạt động cơ
bản của sàn giao dịch vàng tại Trung Quốc qua các năm, từ đó rút ra những
nội dung tiến bộ, phát triển có thể áp dụng để hoàn thiện việc quản lý hoạt
động của thị trường vàng tại Việt Nam.
2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA SÀN
GIAO DỊCH VÀNG TRUNG QUỐC
2.1. Tình hình của thị trường vàng Trung Quốc và bối cảnh ra đời
Sàn giao dịch vàng Thượng Hải
Trước năm 1991, tại Trung Quốc, nhu cầu tiêu thụ vàng phát triển
chậm, chỉ vào khoảng 80 tấn mỗi năm, rất thấp nếu tính theo đầu người.
Trong giai đoạn 1991-2000, nhu cầu tiêu thụ vàng bắt đầu tăng mạnh và đạt
mức trung bình 270 tấn do những cải cách kinh tế và bắt đầu quá trình tự do
hóa. Tuy nhiên, thị trường vàng vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước
từ khâu khai thác, nhập khẩu, sản xuất cho đến khâu phân phối bán lẻ.
Trong giai đoạn này, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (People’s Bank
of China– PBOC – Ngân hàng Trung ương của Trung Quốc) hoàn toàn độc
quyền thị trường vàng trong nước từ khâu khai thác, tinh chế, gia công lẫn
hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu vàng. Các công ty khai thác vàng sau khi
tinh chế thành vàng miếng phải bán lại cho các chi nhánh của PBOC, sau đó
PBOC sẽ bán lại cho các công ty vàng bạc đá quý chuyên gia công vàng
trang sức. Các công ty này sau đó được phép bán vàng trang sức cho dân
chúng. Các hãng kinh doanh vàng trang sức chỉ được phép mua vàng nguyên
liệu từ PBOC và bán nhưng không được phép mua lại vàng trang sức từ dân
chúng. Người dân muốn bán vàng trang sức để lấy tiền mặt sẽ bán tại các chi
9



nhánh của PBOC. Ngoài ra, giá cả mua bán vàng đều phải áp dụng giá do
PBOC quy định. PBOC quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng dưới dạng
cấp phép xuất nhập khẩu cho các công ty được phép với số lượng tuỳ vào
từng thời điểm. Nhờ đó mà Ngân hàng Trung ương kiểm soát được số lượng
vàng trong nước.
Năm 2001: Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (World Trade Organization - WTO). Đây cũng là năm
đánh dấu mốc quan trọng trong việc tự do hoá thị trường vàng của Trung
Quốc. Tháng 4/2001, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên chính
thức công bố kế hoạch xoá bỏ cơ chế quản lý độc quyền trong mua và phân
phối vàng, bãi bỏ việc kiểm soát và ấn định giá vàng cũng như giảm thuế
suất. Hiệp Hội Vàng Trung Quốc (China Gold Association - CGA) và Sàn
giao dịch vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange - SGE) được thành
lập. Đây được coi là bước đột phá trong chính sách quản lý thị trường vàng
của Trung Quốc sau hơn 50 năm thực hiện kiểm soát chặt chẽ.
Tháng 10/2002 Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (SGE) chính thức đi
vào hoạt động. Là một sàn vàng còn khá non trẻ, hướng đi của SGE gợi mở
cho Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm thiết thực và quý báu để áp dụng
vào việc phát triển hoạt động kinh doanh vàng tại Việt Nam.
2.2. Một số đặc điểm hoạt động của Sàn giao dịch vàng Thượng Hải
2.2.1. Tổng quan và mô hình tổ chức
2.2.1.1. Tổng quan
Hoạt động độc lập như một Sở Giao dịch Chứng khoán, Sàn giao dịch
vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange – SGE) là pháp nhân độc lập do
Nhà nước đầu tư vốn 100% (vốn điều lệ đăng ký là 30.000.000 RMB, tương
đương khoảng 4,2 triệu USD), thời gian hoạt động là 50 năm.
2.2.1.2. Mô hình tổ chức
10



Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa là cơ quan quản lý, giám sát toàn bộ
hoạt động của SGE. Hội đồng quản trị của Sàn do PBOC tiến cử, hầu hết các
vị trí quan trọng và chủ chốt trong Ban Quản trị của Sàn đều do PBOC bổ
nhiệm. SGE có chế độ báo cáo thường xuyên và đột xuất nhờ đó mà PBOC
vẫn giữ được quyền chủ động trong mọi quyết định của SGE.
Mặc dù mô hình tổ chức của SGE khá phức tạp với nhiều bộ phận nhỏ
trong mỗi phòng ban, có thể tóm gọn mô hình tổ chức như sau :

HỘI ĐỒNG QUẢN TRI

BAN GIÁM ĐỐC

ỦY BAN ĐẶC BIỆT

PHÒNG
QUẢN
LÍ GIAO
DICHCHUYỂN
PHÒNG
TỔ CHỨC
HÀNHTÀI
CHÍNH
PHÒNG
TOÁN
PHÒNG
QUẢN
LÍ VẤN
VÀ THANH

GIAO
HÀNG
PHÒNG
CHÍNH KẾ TOÁN

Nguồn: www.sge.sh

2.2.2. Phạm vi hoạt động, vai trò, chức năng của SGE

11


Phạm vi hoạt động của SGE là tổ chức hoạt động giao dịch, thanh toán,
và vận chuyển vàng; đồng thời cung cấp thông tin, tư vấn, đào tạo và các dịch
vụ liên quan khác.
SGE là một pháp nhân tự điều hành và phi lợi nhuận.
SGE thực hiện chức năng tổ chức hoạt động giao dịch vàng, cụ thể như
sau: Cung cấp địa điểm, các tiện ích và dịch vụ có liên quan cho hoạt động
giao dịch vàng; Xây dựng và áp dụng các quy chế kinh doanh của SGE,
chuẩn hóa hoạt động giao dịch; Xây dựng các hợp động giao dịch, tổ chức và
giám sát hoạt động giao dịch, thanh toán, vận chuyển vàng; Xây dựng và áp
dụng hệ thống quản lý rủi ro để kiểm soát rủi ro của thị trường; Đảm bảo việc
thực hiện đúng hạn các hợp đồng; Thiết lập mức giá hợp lý và công bố thông
tin thị trường; Giám sát giao dịch của các thành viên, điều tra và truy tố các
hoạt động vi phạm các quy chế của SGE; Giám sát việc vận chuyển vàng của
các kho vàng được chỉ định; Kết nối thị trường vàng nội địa với thị trường
vàng thế giới; Thực hiện chức năng tổ chức và điều tiết các giao dịch vàng
theo nguyên tắc công khai, công bằng, đúng đắn và trung thực.
2.2.3. Thành viên và phương thức hoạt động
2.2.3.1. Thành viên

Thành viên tham gia tại SGE có thể phân làm ba loại, ứng với mỗi loại
có vai trò, quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau:
- Thành viên tài chính: Thực hiện hoạt động tự doanh hoặc đóng vai trò
như một đại lý nhận lệnh và các hoạt động kinh doanh được phép khác. Phí
thành viên là 800.000 CNY và phí thường niên là 50.000 CNY/năm.
- Thành viên thông thường: Thực hiện hoạt động tự doanh hoặc đóng
vai trò như một đại lý nhận lệnh. Phí thành viên là 500.000 CNY và phí
thường niên là 40.000 CNY/năm
- Thành viên tự doanh: Thực hiện hoạt động tự doanh. Phí thành viên
là 300.000 CNY và phí thường niên là 30.000 CNY/năm.
12


Thành viên tài chính và thành viên thông thường không được tự khớp
lệnh của khác hàng mà phải đưa lệnh thẳng lên sàn mẹ SGE để đảm bảo tính
khách quan.
SGE thu phí của thành viên, thành viên thu phí của khác hàng. Phí do
SGE thu bao gồm: giao dịch trả chậm là 0,04%, giao dịch giao ngay là
0,05%. SGE quy định các thành viên thu phí từ khách hàng tối đa không vượt
quá: 0,09% đối với khách hàng tổi chức, 0,15% đối với khách hàng cá nhân.
2.2.3.2. Giao dịch
Loại hình giao dịch
SGE áp dụng hai loại hình giao dịch là giao dịch giao ngay và giao
dịch trả chậm.
- Giao dịch giao ngay: Là giao dịch trong đó hai bên thực hiện mua,
bán một số lượng vàng nhất định theo giá giao ngay tại thời điểm giao dịch
vàng và thực hiện thanh toán ngay trong ngày (ngày giá trị là T+0).
- Giao dịch trả chậm: Là giao dịch theo giá giao ngay như cách thông
thường, tuy nhiên việc thanh toán vàng/tiền của từng giao dịch sẽ được trì
hoãn từ ngày này sang ngày khác. Trạng thái vàng được duy trì và đánh lại

hàng ngày cho đến khi được tất toán bằng giao dịch ngược lại đối ứng. Do
đó, giao dịch này còn được gọi là hợp đồng (T+D). Cơ chế đăng ký giao nhận
vàng vật chất và tính phí trả chậm như sau: từ 15h00-15h30 mỗi ngày, người
mua và người bán có thể đăng ký giao nhận vàng vật chất đối với các trạng
thái của họ. Sau 15h30, kết quả tổng hợp sẽ cho thấy kết quả chênh lệch giữa
hai bên. Nếu người mua đăng ký nhiều hơn người bán, khi đó tất cả các
người bán, bất kể có đăng ký hay không đăng ký giao hàng, sẽ phải trả một
khoản phí trả chậm cho người mua (hiện tại là 0,02% giá trị hợp đồng) và
ngược lại. Do đó, lợi ích của sản phẩm này mang đến cho khách hàng khả
năng linh hoạt trong giao dịch, thường được sử dụng như công cụ bảo hiểm
cho hoạt động kinh doanh vàng vật chất.
13


Cách thức giao dịch, loại vàng giao dịch và giá
Trong suốt giai đoạn đầu vận hành SGE, công cụ giao dịch của nó là
giao dịch giao ngay. SGE tuân theo nguyên tắc “ưu tiên giá, ưu tiên thời
gian” trong việc thực hiện giao dịch và sử dụng phương thức giao dịch chào
giá tự do, khớp lệnh điện tử, thanh toán và giao nhận vàng tập trung. Ngoài
ra, các thành viên có thể lựa chọn hoặc giao dịch tại chỗ hoặc giao dịch từ xa.
SGE chỉ tạo “mặt bằng giao dịch” cho các thành viên chứ không tham
gia mua bán trên sàn, để thị trường tự do mua bán, nếu cung cầu không cân
đối thì những lệnh chưa được khớp sẽ bị hủy để đảm bảo tính trung lập, độc
lập và khách quan.
Khi mức ký quỹ giảm do biến động giá, SGE yêu cầu khác hàng nộp
tiền để đảm bảo tỷ lệ ký quỹ. Nếu khách hàng không đảm bảo tỷ lệ ký quỹ
sau một thời gian nhất định thì thành viên quản lý khách hàng đó sẽ cắt trạng
thái của khách hàng thông qua sàn hoặc thông qua thị trường nước ngoài.
SGE áp dụng các giao dịch chuẩn hóa và vàng được sử dụng cho giao
dịch phải đáp ứng tiêu chuẩn của SGE. Trong giai đoạn hiện tại, SGE áp

dụng các giao dịch theo hai loại vàng sau: Vàng 99,99 và vàng 99,95. Khối
lượng tiêu của các thỏi vàng, đồng tiền vàng là 50gr, 100gr, 1kg và 3kg. Đơn
vị yết giá là CNY/gram. Đơn vị giao dịch nhỏ nhất của vàng miếng là 1kg và
số lượng giao hàng ít nhất là 6kg.
2.2.3.3. Thanh toán
Hiện tại, SGE chỉ định bốn ngân hàng quốc doanh là ICBC, BOC,
China Construction Bank và Agricultural Bank of China làm các ngân hàng
thanh toán và thực hiện thanh toán theo nguyên tắc tập trung, trực tiếp và
thanh toán bù trừ,ngày thanh toán là “T+0”.

14


Trực tiếp có nghĩa SGE và các thành viên thực hiện thanh toán trực
tiếp. Thanh toán bù trừ có nghĩa giao dịch của các thành viên được thanh toán
bù trừ với SGE. Tập trung có nghĩa SGE và các thành viên thực hiện việc
thanh toán thống nhất trong ngày thanh toán. Các giao dịch tự doanh và giao
dịch môi giới của thành viên được thực hiện thanh toán tách biệt.
Có hai loại tài khoản là tài khoản của thành viên và tài khoản của
khách hàng. Tài khoản thành viên mở tại ngân hàng thanh toán nào thì tài
khoản của khách hàng của thành viên đó cũng mở tại ngân hàng đó.
SGE thực hiện thanh toán “T+0”: SGE chuyển tiền từ tài khoản ký quỹ
của thành viên mua (cho hoạt động tự doanh hoặc môi giới của thành viên)
vào tài khoản ký quỹ của thành viên bán (cho hoạt động tự doanh hoặc môi
giới của thành viên). Vào ngày làm việc tiếp theo, SGE chuyển tiền tới tài
khoản vốn của thành viên bán (cho hoạt động tự doanh hoặc môi giới của
thành viên) tại ngân hàng thanh toán.
Số dư hằng ngày trên tài khoản ký quỹ phục vụ mục đích tự doanh của
thành viên không được phép ít hơn 10.000 CNY; trên tài khoản ký quỹ phục
vụ mục đích môi giới cho khách hàng của thành viên không được phép ít hơn

10.000 CNY.
Khi thành viên bán ròng, tiền nhận được là số tiền của giao dịch trừ đi
phí thực hiện giao dịch và các phí liên quan khác. Khi thành viên mua ròng,
tiền phải trả là số tiền của giao dịch cộng với các phí liên quan.
Tài khoản của thành viên mở tại ngân hàng thanh toán cho các mục
đích môi giới và tự doanh chỉ được sử dụng cho các giao dịch vàng và các
hoạt động kinh doanh có liên quan. SGE lưu trữ thông tin về tài khoản ký quỹ
tự doanh và tài khoản ký quỹ môi giới theo chuỗi ngày và giờ. SGE trả lãi
cho các thành viên theo lãi suất không kỳ hạn hiện hành.
15


2.2.3.4. Một số đặc điểm khác
Lưu trữ và vận chuyển vàng
Trước khi giao dịch giao ngay, nếu là người mua thì người mua phải
nộp tiền bằng với giá trị của số lượng vàng giao dịch vào tài khoản được chỉ
định, còn nếu là người bán thì người bán phải nộp toàn bộ số vàng theo yêu
cầu vào kho giao hàng được chỉ định, SGE thực hiện chuyển dịch quyền sở
hữu về vàng sau khi kết thúc giao dịch.
SGE tuân theo nguyên tắc “chọn kho lưu trữ và giao hàng”, thiết lập
các kho vàng được chỉ định tại các thành phố khắp toàn quốc để tạo thuận
tiện cho việc lưu trữ và giao nhận vàng của các thành viên. SGE tiến hành
điều chuyển vàng một cách tập trung, đảm bảo việc giao vàng trong vòng 3
ngày sau khi hoàn tất giao dịch. Tốc độ giao hàng là T+0.
Kiểm tra chất lượng và đảm bảo chất lượng
SGE lập một danh sách các nhà cung cấp vàng được chỉ định, chuyên
cung cấp vàng miếng cho sàn nhằm đảm bảo chất lượng, đồng thời chuẩn hóa
về chất lượng vàng, kích cở để thống nhất về giá.
SGE chỉ định và uỷ thác cho các tổ chức kiểm tra chất lượng, các tổ
chức này thực hiện việc giám sát và kiểm tra có lựa chọn chất lượng vàng, dự

thảo các quy tắc quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng của vàng trong
giao dịch. Đồng thời các tổ chức kiểm tra chất lượng cũng làm trọng tài phân
xử đối với các tranh chấp về chất lượng vàng.

Thuế
Đối với toàn bộ số vàng tiêu chuẩn được giao dịch thông qua sàn, SGE
giữ nguyên tắc thu và hoàn thuế ngay lập tức. Và tùy vào từng thời kỳ mà
chính sách về thuế giao dịch vàng có sự thay đổi. Thời gian đầu, SGE hỗ trợ
16


100% thuế nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mua bán trên sàn
giao dịch vàng.
2.3. Hoạt động của Sàn giao dịch vàng Thượng Hải qua các năm
Tháng 11/2001 Trung Quốc đã thành lập Sở giao dịch vàng Quốc gia
hoạt động độc lập như Sở giao dịch chứng khoán; đến tháng 10/2002, Sở giao
dịch vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange - SGE) chính thức đi vào
hoạt động. Đây là sàn vàng vật chất giao ngay, lúc đầu chỉ cho phép giao dịch
vàng miếng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sau đó mở rộng sang các kim loại quý
khác như bạch kim và bạc. Để thực hiện giao dịch vàng vật chất, SGE có hệ
thống thành viên là các công ty cung cấp dịch vụ lưu kho, bảo quản và giao
nhận vàng. Khi mới thành lập, SGE chỉ cho phép nhà đầu tư là tổ chức tham
gia giao dịch, nhà đầu tư cá nhân chưa được phép tham gia. SGE có hệ thống
thành viên là các tổ chức kinh tế trong nước, gồm: các công ty kinh doanh
vàng (công ty khai thác, chế tác, xuất nhập khẩu vàng); các định chế tài chính
và các thành viên chủ chốt. Các thành viên này là các nhà tạo lập thị trường,
tham gia giao dịch, làm đại lý nhận lệnh, thực hiện chức năng ngân hàng
thanh toán hoặc cung cấp dịch vụ kho bãi, giao nhận. Tại thời điểm đi vào
hoạt động, SGE có 108 thành viên.
Nhờ hoạt động của SGE mà giao dịch vàng miếng được thực hiện tập

trung qua Sàn bằng cơ chế khớp lệnh tập trung, giá cả do cung cầu thị trường
quyết định, PBOC không thực hiện quy định giá đối với giao dịch vàng
miếng. Đây cũng chính là giai đoạn Trung Quốc trở thành thành viên của tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đánh dấu sự chấm dứt cơ chế
độc quyền đối với thị trường vàng của Trung Quốc, đưa vàng tiến nhanh vào
cơ chế thị trường, đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của PBOC.
Năm 2003- 2004 cũng đánh dấu tiến trình mở cửa thị trường của Trung
Quốc qua việc: (i) Bãi bỏ việc cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu sử
17


dụng vào mục đích sản xuất nữ trang để tái xuất khẩu; (ii) Bãi bỏ quy định
cấp giấy phép kinh doanh vàng để tự do hóa thị trường vàng nữ trang; (iii)
Ngân hàng Trung Quốc bắt đầu cho phép cá nhân giao dịch vàng hai chiều
với thanh toán bằng tiền mặt; (iv) Ủy ban Pháp chế cho phép việc mua bán
vàng vật chất tại các ngân hàng thương mại.
Tháng 12/2006, Ngân hàng Nhân dân Trung hoa cho phép nhà đầu tư
cá nhân được phép giao dịch vàng miếng trên SGE. Nhờ quy định này, vàng
trở thành kênh đầu tư tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư cá nhân cùng với
kênh đầu tư khác như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản. Với sự tham gia của
các nhà đầu tư cá nhân, tính thanh khoản của vàng trên SGE cũng được nâng
lên đáng kể. Đồng thời, PBOC cũng chính thức cho phép các ngân hàng
thương mại được phép cung cấp dịch vụ kinh doanh vàng tài khoản cho
khách hàng cá nhân. Kinh doanh vàng qua tài khoản là việc nhà đầu tư có thể
thực hiện giao dịch mua bán vàng trên tài khoản của mình nhưng trên thực tế
không diễn ra việc giao nhận vàng vật chất, cũng như không thể rút vàng vật
chất từ tài khoản của mình.
Các nhà đầu tư cá nhân phải mở 2 tài khoản (1 tài khoản tiền thanh
toán và 1 tài khoản vàng) để thực hiện giao dịch tại các Ngân hàng là thành
viên của SGE. Ngân hàng cung cấp dịch vụ thực hiện chức năng trung gian,

mở tài khoản cho nhà đầu tư, nhập lệnh, khớp lệnh và thu phí giao dịch. Theo
quy định của PBOC, nhà đầu tư cá nhân chỉ được phép giao dịch trong giới
hạn số dư tài khoản tiền hoặc vàng của họ. Tức là ngân hàng không được
phép cho nhà đầu tư vay để đầu tư vượt quá số tiền hoặc vàng họ đang nắm
giữ hay không sử dụng đòn bẩy tài chính (tỷ lệ ký quỹ là 100%).
Giữa năm 2007, PBOC chấp thuận cho một số ngân hàng nước ngoài
gồm HSBC, Standard Chartered Bank, Bank of Nova Scotia trở thành thành
viên của Sàn giao dịch vàng Thượng Hải. Đồng thời, cũng trong năm 2007
18


các ngân hàng thương mại được phép sử dụng vàng thỏi vật chất để giao dịch
tại SGE.
Tháng 08/2010, Chính phủ Trung Quốc nới lỏng những quy định trong
hoạt động mua, bán và đầu tư vàng đối với các tổ chức tài chính và nhà đầu
tư cá nhân. Nhiều ngân hàng được phép nhập khẩu và xuất khẩu vàng, mở
cửa thị trường vàng cho các tổ chức và các cá nhân. Trung Quốc cho phép
quỹ đầu tư vàng đầu tiên được đầu tư ra các quỹ tín thác đầu tư vàng ở thị
trường nước ngoài.
Năm 2011 là năm chứng kiến sự biến động chưa từng có của giá vàng
thế giới. Để tăng nguồn cung ổn định thị trường vàng,Trung Quốc khuyển
khích hàng loạt các công ty khai thác vàng có tên tuổi như Shandong Gold,
Zijing Mining và Zhaojin Mining thâu tóm các mỏ vàng nước ngoài.
Năm 2012, SGE có 25 thành viên là các tổ chức tài chính trong nước, 6
thành viên là tổ chức nước ngoài,120 thành viên là các công ty kinh doanh, 3
thành viên là các nhà khai thác vàng, vàng được lưu giữ tại 63 kho của SGE
phân bổ tại 28 tỉnh thành trong cả nước.
Từ năm 2013 đến nay: khi Ấn Độ ban hành chính sách hạn chế nhập
khẩu vàng thì Trung Quốc đã trở thành nước tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới.
Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa đã cho phép Sàn giao dịch vàng Thượng Hải

(SGE) xây dựng một nền tảng để kinh doanh vàng quốc tế tại thành phố này.
Sàn giao dịch vàng Thượng Hải đã liên lạc với những ngân hàng nước ngoài
có tầm ảnh hưởng lớn, đồng thời mời họ tham gia vào một hội đồng quản trị
quốc tế mới. Điều đó cho thấy tham vọng của Trung Quốc trong việc ấn định
giá vàng trên thị trường toàn cầu.
2.4. Đánh giá về chính sách quản lý thị trường vàng Trung Quốc
2.4.1. Đánh giá

19


- Sau nửa thế kỷ thực hiện kiểm soát chặt chẽ, việc thành lập Sàn giao
dịch vàng Thượng Hải đánh dấu bước đột phá trong chính sách quản lý thị
trường vàng của Trung Quốc: tự do hoá thị trường vàng, chấm dứt cơ chế độc
quyền.
Nếu trước đây, PBOC hoàn toàn độc quyền thị trường vàng trong nước
từ khâu khai thác, tinh chế, gia công lẫn hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu
vàng thì đến tháng 11/2001, Trung Quốc đã xoá bỏ chế độ cấp phép đối với
hoạt động sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng trong nước.
Với sự ra đời của SGE, giao dịch vàng miếng đã được thực hiện tập
trung qua Sàn bằng cơ chế khớp lệnh tập trung, giá cả do cung cầu thị trường
quyết định thay cho việc quy định giá mua bán vàng của PBOC đối với giao
dịch mua bán vàng như trước đây.
- Quản lý thị trường vàng hiệu quả mà vẫn đảm bảo nhu cầu kinh
doanh vàng bạc của dân chúng.
Từ cuối năm 2006, không chỉ có các tổ chức mà PBOC còn cho phép
nhà đầu tư cá nhân được phép giao dịch vàng miếng trên SGE. Đồng thời,
PBOC cũng chính thức cho phép các ngân hàng thương mại được phép cung
cấp dịch vụ kinh doanh vàng tài khoản cho khách hàng cá nhân. Nhờ quy
định này, vàng trở thành kênh đầu tư tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư cá

nhân cùng với kênh đầu tư khác như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản. Điều
này làm gia tăng tính thanh khoản của vàng trên SGE.
Để kiểm soát được tính hiệu quả và an toàn của thị trường, PBOC có
những quy định chặt chẽ để không xuất hiện hiện tượng đòn bẩy tài chính
làm thị trường phát triển quá nóng gây rủi ro cao. Theo quy định của PBOC,
nhà đầu tư cá nhân chỉ được phép giao dịch trong giới hạn số dư tài khoản
tiền hoặc vàng của họ. Tức là ngân hàng không được phép cho nhà đầu tư
vay để đầu tư vượt quá số tiền hoặc vàng họ đang nắm giữ (tỷ lệ ký quỹ là
20


100%). Quy định này sẽ hạn chế quy mô giao dịch vàng tài khoản nhưng sẽ
giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư trong trường hợp đầu tư thua lỗ.
- Cơ chế quản lý hiệu quả giúp bình ổn giá vàng trong nước, đồng thời
giá vàng trong nước liên thông với giá vàng thế giới. Mặt khác, việc bình ổn
giá còn tạo niềm tin trong dân chúng và hạn chế tình trạng buôn lậu vàng.
Trước khi thành lập SGE thì PBOC hoàn toàn độc quyền thị trường
vàng trong nước, giá vàng mua vào mà Nhà nước quy định thường thấp hơn
nhiều so với vàng bán ra nên đã hình thành thị trường mua bán vàng ngầm
trong dân cư. Mặt khác, cơ chế độc quyền trong phân phối và kiểm soát giá
đã làm cho giao dịch trên thị trường bị méo mó, giá cả không tuân theo quy
luật cung cầu trong khi nhu cầu vàng người dân lại ngày càng cao. Tình trạng
này làm tăng lượng vàng nhập lậu kém chất lượng từ các nước có chung
đường biên giới với Trung Quốc. Sàn giao dịch vàng SGE đã khắc phục được
tình hình tiêu cực trên.
Sàn giao dịch vàng đặt dưới sự quản lý của PBOC, PBOC có thể linh
hoạt mua bán can thiệp vào thị trường nhằm ổn định giá, hạn chế tình trạng
buôn lậu vàng.Việc tự do hóa đã giúp cầu vàng đầu tư tăng bình quân
62%/năm trong giai đoạn 2002-2010, cao hơn rất nhiều so với nhu cầu vàng
trang sức.

- Việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo thị trường tập trung
mang lại hiệu quả cao về kinh tế, xã hội.
Hoạt động giao dịch tại SGE được thực hiện theo phương thức giao
ngay và không cho phép sử dụng đòn bẩy đã hạn chế được các rủi ro trong
quá trình đầu tư, kinh doanh của các thành viên. Việc tổ chức giao dịch vàng
giúp biến động giá vàng trên thị trường nội địa Trung Quốc có sự liên thông
chặt chẽ với giá trên thị trường thế giới, đồng thời cũng tạo ra được sự liên
kết giữa thị trường vàng với thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối.
21


2.4.2. Bài học kinh nghiệm rút ra
- Chỉ duy trì một Sàn giao dịch vàng duy nhất. Sàn giao dịch không thực hiện
các hoạt động tự doanh để đảm bảo tính khách quan, minh bạch.
SGE là sàn giao dịch vàng duy nhất, một đơn vị kinh doanh độc lập về
tài chính, chịu sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc.
Hoạt động kinh doanh vàng không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của các
nhà đầu tư mà nó còn có ý nghĩa về cả kinh tế và chính trị của mỗi quốc gia.
Do đó, việc duy trì một Sàn giao dịch vàng duy nhất dưới sự giám sát của
Ngân hàng Trung ương không những giúp tạo ra một môi trường kinh doanh
minh bạch, độc lập, khách quan mà còn đảm bảo khả năng giám sát, quản lý
và can thiệp khi cần thiết của Nhà Nước. Đây là bài học rất quan trọng đối
với Việt Nam.
- Các loại hình giao dịch được cung cấp phù hợp với trình độ và phát triển của
thị trường. Ký quỹ là cần thiết.
Hình thức giao dịch giao ngay và giao dịch trả chậm phù hợp với một
thị trường mới nổi như Trung Quốc. Giao dịch giao ngay phục vụ mục đích
mua bán để giao nhận vàng vật chất. Giao dịch trả chậm phục vụ mục đích
đầu tư, đảm bảo khả năng phục vụ một cách toàn diện các nhu cầu khác nhau
để thu hút các nhà đầu tư tham gia giao dịch trên sàn.

Đối với các giao dịch giao ngay, người mua và người bán cần đảm bảo
tài khoản thanh toán phải đủ tiền/vàng theo số lượng cần thiết, điều này đảm
bảo khả năng thanh toán của khách hàng.
- Thanh toán được thực hiện thông qua một trung tâm thanh toán bù trừ.
Trung tâm thanh toán bù trừ là một bộ phận của sàn giao dịch SGE,
thực hiện các chức năng thanh toán bù trừ, xác định và quản lý ký quỹ, đánh
giá trạng thái theo thị trường và quản lý quá trình nộp/rút tiền/vàng của các
thành viên/khách hàng.

22


- Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng vàng.
Việc chỉ định các nhãn hiệu vàng được chấp nhận, chỉ định các tổ chức
có uy tín thực hiện việc kiểm định chất lượng các nhà máy tinh chế, SGE
đảm bảo chất lượng vàng được giao trên sàn.
3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ THỊ
TRƯỜNG VÀNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Khái quát hoạt động quản lý thị trường vàng tại Việt Nam
Trước năm 1991, hệ thống ngân hàng là một cấp, chưa tách bạch
hoạtđộng quản lý ngân hàng và kinh doanh ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước
chưa ban hành các quy định về quản lý vàng nhằm bình ổn giá vàng và đa
dạng hóa hình thức đầu tư. Tuy nhiên, với quan điểm coi vàng, kim khí, đá
quý là ngoại hối phục vụ mục tiêu thanh toán quốc tế, trong thời kỳ này,
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh
vàng. Toàn bộ các quy định đối với hoạt động kinh doanh vàng thể hiện ở hai
Quyết định số38/CP và 39/CP ngày 09/02/1979.Trong giai đoạn này, nhà
nước dùng các biện pháp hành chính mạnh để kiểm soát và điều khiển giá
vàng đồng thời việc giao dịch vàng bị cấm kể cả vàng trang sức lẫn vàng
miếng của tư nhân.

Đến năm 1986, Việt Nam mới thực hiện chủ trương cho thành lập
mạng lưới các cửa hàng kinh doanh vàng bạc quốc doanh và đến năm 1989
mới chính thức cho phép tư nhân thành lập cửa hàng kinh doanh vàng, bạc,
đá quý, từ đó thị trường vàng mới bắt đầu có sự cạnh tranh.
Sau đó, ngày 24/9/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định
63/1993/NĐ-CP về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàngvừa
để có chính sách thích hợp vừa tạo cơ sở pháp lý cho các tổchức, cá nhân
phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh vàng, đồng thời tăng cường vai trò
của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết cung cầu vàng, ổn định giá cả
23


hỗtrợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ. Nghị định này đã tạo ra các cơ sở
pháp lý và định hướng quản lý thị trường vàng phù hợp với điều kiện giá cả
thị trường còn nhiều biến động, lạm phát cao. Theo đó nhà nước thừa nhận
quyền sở hữu hợp pháp về vàng của mọi tổ chức và cá nhân. Cho phép các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cất
giữ, vận chuyển hoặc gửi vàng ở ngân hàng. Các doanh nghiệp kinh doanh
vàng được mua bán vàng các loại; được chế tác, gia công, cầm đồ vàng.
Từ năm 1994, Vụ quản lý ngoại hối cấp phép nhập ủy thác để Công ty
vàng bạc đá quý Việt Nam (VJC) nhập trực tiếp cho các doanh nghiệp và Vụ
quản lý ngoại hối bán vàng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, từ năm 1996 do
tình hình ngoại tệ khan hiếm vì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ Đông Nam Á, Ngân hàng Nhà nước tạm dừng việc cấp phép nhập
khẩu vàng.
Để triển khai thực hiện Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chính
phủ đãban hành Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 19/12/1999 về quản lý
hoạt động kinh doanh vàng (có hiệu lực thi hành từ 03/01/2000). Đồng thời
để hướng dẫn thi hành Nghị định 174/1999/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước đã
banhành thông tư số 07/2000/TT-NHNN. Từ đó, cơ chế quản lý vàng ở Việt

Nam đã chính thức tách bạch rõ về việc quản lý vàng tiền tệ và quản lý vàng
phi tiền tệ với sự nới lỏng đáng kể trong việc quản lý đối với vàng phi tiền tệ
tập trung vào các nội dung chính: phân định rõ vàng miếng, vàng trang sức;
quản lý xuất nhập khẩu; quản lý sản xuất, gia công; quản lý kinh doanh giao
dịch.
Nhìn chung, thị trường vàng từ năm 2000 – 2007 tương đối ổn định với
các quy định ngày càng thông thoáng hơn: gia tăng hạn ngạch nhập khẩu cho
nhiều doanh nghiệp hơn, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu từ 5% xuống còn

24


0% để hạn chế nhập lậu, do đó, đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp tham gia thị trường vàng.
Từ năm 2006, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các ngân hàng thương
mại được kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài với quy định trạng
thái vàng là 20% so với vốn tự có. Trong giai đoạn 2007 – 2009 có trên 20
sàn vàng tổ chức cho nhà đầu tư giao dịch vàng tài khoản cho phép sử dụng
đòn bẩy. Nhưng vì thiếu cơ chế quản lý, hoạt động của các sàn vàng đã xuất
hiện nhiều rủi ro. Ngày 30/12/2009, phản ứng trước diễn biến bất thường của
thị trường vàng, tại cuộc họp thường trực Chính phủ về quản lý nhà nước đối
với hoạt động kinh doanh vàng, Thủ tướng đã kết luận không cho phép tổ
chức mọi hoạt động liên quan đến Sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng tài
khoản trong nước kể từ ngày 30/3/2010 nhưng sau đó cho phép gia hạn đến
30/6/2010 rồi kéo dài đến 31/7/2010 theo quy định tại Thông tư 10/2010/TTNHNN ngày 26/3/2010 và Thông tư 17/2010/TT-NHNN ngày 29/6/2010 với
mong muốn bình ổn và quản lý được thị trường vàng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh lạm phát tiếp tục tăng cao, lãi suất USD vẫn
tiếp tục duy trì ở mức thấp và tỷ giá không có sự biến động đáng kể, lãi suất
thực VND vẫn tiếp tục âm ở mức cao, thị trường bất động sản vẫn tiếp tục
đóng băng thì nơi trú ẩn an toàn được người dân lựa chọn phổ biến vẫn là

vàng. Vì vậy, cầu vàng tiếp tục tăng mạnh trở lại vào năm 2010 kéo theo sự
tăng nóng của giá vàng trong nước khiến Ngân hàng Nhà nước đã liên tục
cấp quota cho các đơn vị nhập khẩu. Việc chỉ cho phép nhập khẩu vàng từng
lần mỗi khi có biến động giá đã vô tình tạo cơ hội cho các đơn vị kinh doanh
vàng lớn trong nước đẩy giá trong nước tăng cao nhằm kiếm lợi lớn, đón chờ
Ngân hàng Nhà nước cho phép nhập vàng để nhập khẩu kiếm lợi thêm lần
nữa. Tính chung cho cả năm 2011, Ngân hàng Nhà nước đã phải cấp quota
nhập khẩu lên đến 25 tấn với giá cao hơn nhiều so với giá xuất khẩu hơn 10
tấn ở hai năm trước đó (WGC, 2011).
25


×