Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Vai trò của người giám định trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP
d&c

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA (2007 – 2011)

Đề
tài

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

GIÁO VIÊN HƯ ỚNG DẪN

SINH VIÊN THỰC HIỆN

Th.S Mạc Giáng Châu

Nguyễn Kim Chúc
MSSV: 5075248
Lớp Luật tư pháp 3 (K33)

Cần Thơ 4/2011


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

MỤC LỤC
Mục lục



Trang

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................ 1
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ................................................................................................................ 5

1.1 Khái niệm chung...................................................................................... 5
1.1.1 Khái niệm giám định tư pháp trong TTHS ........................................... 5
1.1.2 Khái niệm Người giám định trong TTHS ............................................ 7
1.1.3 Tiêu chuẩn để trở thành Người giám định ............................................ 8
1.1.3.1 Giám định viên tư pháp .............................................................. 9
1.1.3.2 Người giám định tư pháp theo vụ việc ......................................... 10
1.1.4 Trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự........................................... 11
1.2 Tầm quan trọng của Người giám định trong tố tụng hình sự ............... 14
1.2.1 Vai trò của Người giám định trong tố tụng hình sự............................... 15
1.2.2 Hệ quả của hoạt động giám định ......................................................... 17
CHƯƠNG II. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI GIÁM
ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................... 20
2.1 Quyền và nghĩa vụ của Người giám định trong tố tụng hình sự ........... 20
2.1.1 Quyền của Người giám định trong tố tụng hình sự............................... 20
2.1.1.1 Yêu cầu người trưng cầu giám định cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan đến việc giám định.................................................................................. 21
2.1.1.2 Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn
đề liên quan đến đối tượng giám định.............................................................. 23
2.1.1.3 Từ chối giám định ...................................................................... 25
2.1.1.4 Độc lập đưa ra kết luận giám định .............................................. 26
2.1.1.5 Được bảo đảm an toàn khi thực hiện việc giám định................... 27

2.1.2 Nghĩa vụ của Người giám định trong tố tụng hình sự ...........................
29
2.1.2.1 Tuân thủ các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp ................ 29
2.1.2.2 Thực hiện giám định theo đúng nội dung và thời hạn yêu cầu...... 32
2.1.2.3 Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng ............. 32
2.1.2.4 Lập hồ sơ giám định, giữ bí mật về kết quả thông tin và tài liệu liên
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

quan đến việc giám định.................................................................................. 33
2.1.2.5 Từ chối giám định ...................................................................... 34
2.1.2.6 Bồi thường thiệt hại trong trường hợp cố ý đưa ra kết luận sai sự thật
và gây thiệt hại ................................................................................................ 35
2.2 Hoạt động giám định của Người giám định trong tố tụng hình sự ...... 36
2.2.1 Nhận trưng cầu giám định và giao, nhận đối tượng giám định ............. 37
2.2.2 Địa điểm, quá trình thực hiện việc giám định .......................................
38
2.2.3 Giám định bổ sung, giám định lại ........................................................ 39
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................... 45
3.1 Vấn đề pháp lý ......................................................................................... 45
3.1.1 Vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Người giám định ........ 46
3.1.1.1 Tồn tại ......................................................................................... 46
3.1.1.2 Ý kiến đề xuất ............................................................................ 47
3.1.2 Thời hạn giám định đối với hoạt động giám định của Người giám
định .................................................................................................................

48
3.1.2.1 Tồn tại ......................................................................................... 49
3.1.2.2 Ý kiến đề xuất ............................................................................ 49
3.1.3 Vấn đề mâu thuẫn kết luận giám định và trách nhiệm cá nhân của Người
giám định ........................................................................................................ 50
3.1.3.1 Tồn tại ......................................................................................... 50
3.1.3.2 Ý kiến đề xuất ............................................................................. 52
3.1.4 Một số quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Người giám định
chưa hoàn thiện và thống nhất ......................................................................... 54
3.1.4.1 Tồn tại ......................................................................................... 54
3.1.4.2 Ý kiến đề xuất ............................................................................. 55
3.2 Vấn đề tồn tại thực tiễn ........................................................................... 57
3.2.1 Sự có mặt của Người giám định tại phiên tòa....................................... 58
3.2.1.1 Thực trạng ................................................................................... 58
3.2.1.2 Ý kiến đề xuất ............................................................................ 61
3.2.2 Sự tham gia của Người giám định trong vụ án hình sự ......................... 62
3.2.2.1 Thực trạng .................................................................................. 62
3.2.2.2 Ý kiến đề xuất ............................................................................. 65


GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

3.2.3 Đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật cho Người giám định trong quá trình thực
hiện hoạt động giám định ................................................................................ 67
3.2.3.1 Thực trạng ................................................................................... 67

3.2.3.2 Ý kiến đề xuất ............................................................................. 68
3.2.4 Cơ chế đào tạo, Chế độ bồi dưỡng đối với Người giám định ................ 69
3.2.4.1 Thực trạng ................................................................................... 69
3.2.4.2 Ý kiến đề xuất ............................................................................ 70
KẾT LUẬN.................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự CQĐT
Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

GĐPY


Giám định pháp y

GĐPYTT

Giám định pháp y tâm thần

HĐXX

Hội đồng xét xử

LTCTAND

Luật tổ chức tòa án nhân dân

KLĐT

Kết luận điều tra NTHTT
Người tiến hành tố tụng

PLGĐTP

Pháp lệnh giám định tư pháp

PLXLVPHC

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh


TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

Tố tụng dân sự

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chũ nghĩa

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu


SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình đẩy mạnh cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc đổi mới và hoàn thiện
các tổ chức bổ trợ tư pháp nói chung và giám định tư pháp nói riêng là một trong
những nội dung quan trọng được đề cập trong nhiều Nghị quyết của Đảng (Nghị
quyết Trung ương 8 Khóa VII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương
7 Khóa VIII…). Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Hoàn thiện
chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để
1

đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng…” . Xuất phát từ cơ sở chính
trị, pháp lý trên, ngày 11 tháng 02 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định
số: 258/QĐ-TTg về phê duyệt “Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả của hoạt động
giám định tư pháp”. Việc thông qua và thực hiện đề án sẽ tạo ra nền tảng cho sự
chuyễn biến mạnh mẽ, đột phá một cách toàn diện trong hoạt động giám định tư
pháp.
Hiện nay, giám định tư pháp là biện pháp hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tố
tụng trong các lĩnh vực: hành chính, dân sự, hình sự. Trong đó, lĩnh vực TTHS là
lĩnh vực nhận được sự hỗ trợ nhiều nhất từ phía hoạt động giám định tư pháp, với
mục đích phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án hình sự chính xác và khách quan.
Sở dĩ, hoạt động giám định tư pháp có thể thực hiện được nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt
động tố tụng nói chung và hoạt động TTHS nói riêng, là vì có sự kết hợp giữa khoa

học kĩ thuật và nghiệp vụ chuyên môn giám định vào hoạt động giải quyết các vấn
đề được trưng cầu. Nhưng không mặc nhiên sự kết hợp trên được áp dụng vào hoạt
động giải quyết án, mà cần có sự tham gia trực tiếp của một nhân tố quan trọng, đó
là chủ thể Người giám định. Đây là một nhân tố hiện đang được quan tâm xây dựng
hoàn thiện trong quá trình đổi mới hoạt động giám định.
Người giám định là người trực tiếp thực hiện vai trò hỗ trợ cho quá trình giải
quyết các vấn đề trong các lĩnh vực tố tụng. Đặc biệt trong lĩnh vực TTHS, sự tham
gia hỗ trợ trực tiếp từ phía Người giám định là một trong những yếu tố quan trọng,
giúp CQTHTT trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được diễn ra nhanh
chóng, kịp thời, chính xác và khách quan. Thông qua đó, vị trí và tầm quan trọng
1

Trích Quyết định Phê duyệt đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư
pháp”, số:258/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 11 tháng 12 năm 2010.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 1

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

của Người giám định trong hoạt động TTHS, đã và đang từng bước được khẳng
định qua quá trình hỗ trợ giải quyết các vụ án hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đã đạt trong lĩnh vực TTHS vừa nêu, thì xung quanh vấn đề về vị trí, vai trò
của Người giám định trong hoạt động TTHS vẫn còn tồn tại nhiều điểm cần hoàn
thiện và đổi mới. Hoạt động đổi mới và hoàn thiện vai trò của Người giám định
trong TTHS không chỉ mang lại ý nghĩa đối với hoạt động này mà còn mang lại ý

nghĩa về phương diện xã hội – chính trị.
Từ những ý nghĩa vừa phân tích, người viết đã tiến hành tiếp cận và nghiên
cứu về đề tài: “Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự”, nhằm từng
bước tìm ra phương hướng hoàn thiện vài trò của Người giám định trong thực tiễn,
góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động của Người giám định trong lĩnh
vực TTHS.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong giới hạn của đề tài sẽ xoay quanh nghiên cứu về Vai trò của Người
giám định trong pháp luật TTHS Việt Nam, tìm hiểu những nội dung cơ bản: đặc
điểm, khái niệm, tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ, tầm quan trọng của Người giám
định. Bên cạnh đó, người viết còn tiến hành nghiên cứu sự tham gia của Người
giám định trong vụ án thực tế, tìm ra bất cập đề xuất ý kiến hoàn thiện những tồn
tại chưa được giải quyết. Do hạn chế về thời gian nghiên cứu đề tài, nên trong
phạm vi nghiên cứu người viết chỉ tiến hành tìm hiểu các vấn đề đã được nêu trên,
mà không tiến hành đi sâu và làm rõ về trình tự, thủ tục bổ nhiệm, cơ quan, tổ chức
quản lý Người giám định, phí giám định, điều kiện hoạt động của chủ thể này trong
các tổ chức giám định.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Trong nội dung nghiên cứu đề tài “Vai trò của Người giám định trong Tố
tụng hình sự”, người viết sẽ tiến hành tìm hiểu những yếu tố cơ bản về Người
giám định trong pháp luật, làm rõ các cơ sở lý luận: khái niệm, đặc điểm… thực
tiễn quá trình tham gia giám định hỗ trợ vào hoạt động giải quyết các vụ án hình sự
của Người giám định. Thông qua những vấn đề được nghiên cứu, nhằm làm rõ về
vị trí, vai trò của Người giám định trong hoạt động TTHS dựa trên phương diện
pháp lý và thực tiễn. Về phương diện pháp lý, quyền và nghĩa vụ, hoạt động của
Người giám định trong quy định hiện hành vẫn còn tồn tại điểm thiếu sót, chưa
được hoàn thiện. Điều này dẫn đến việc hạn chế vai trò hỗ trợ của Người giám định
trong quá trình giúp các CQTHTT tìm ra sự thật vụ án, ảnh hưởng đến tính chính
xác và khách quan của hoạt động tố tụng. Do đó, cần có sự hoàn thiện trong quy
định của pháp luật hiện hành, nhằm tạo ra nền tảng pháp lý cho quá trình thực hiện

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 2

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

vai trò hỗ trợ của Người giám định trong TTHS. Về phương diện thực tiễn, chưa có
sự nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò của Người giám định trong thực tiễn giải
quyết các vụ án hình sự. Từ đó dẫn đến việc, Người giám định chưa thực hiện hết
chức năng, nhiệm vụ một cách triệt để và hiệu quả, nhằm phục vụ cho các giai đoạn
TTHS (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ) diễn ra nhanh chóng, kịp thời, chính xác
và khách quan. Thế nên, cần có biện pháp để đánh giá và khẳng định đúng vai trò
của Người giám định trong thực tiễn, qua những ý nghĩa quan trọng mà Người
giám định đã và đang đóng góp đối với hoạt động TTHS. Bên cạnh đó, khi nghiên
cứu sẽ nhìn nhận những mặt yếu kém còn tồn tại của chủ thể Người giám định
trong quá trình thực hiện hoạt động giám định và đưa ra giải pháp phù hợp loại bỏ
những mặt hạn chế, nhằm hướng đến hoàn thiện và đổi mới vai trò của chủ thể này
trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành được luận văn này, người viết đã
tiến hành kết hợp một số phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích luật viết
dùng để tìm hiểu các quy định trong pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành; Phương
pháp so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật với thực tiễn; Phương pháp tổng
hợp sách bình luận khoa học, giáo trình tài liệu, trang web có liên quan.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài mục lục ,tài liệu tham khảo, và danh mục từ viết tắt luận văn còn có
các nội dung sau:

* Lời mở đầu
*Nội dung ba Chương
*Chương 1: Khái quát chung về người giám định trong tố tụng hình sự
*Chương 2: Những quy định của pháp luật về người giám định trong tố
tụng hình sự
*Chương 3: Thực trạng và ý kiến đề xuất nâng cao vai trò của Người
giám định trong hoạt động tố tụng tố tụng hình
Đề tài nghiên cứu “Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự” là
một lĩnh vực trong hoạt động giám định. Trước khi tiến đến việc nghiên cứu đề tài
đòi hỏi tác giả phải có sự tìm hiểu khái quát hoạt động giám định tư pháp trong lý
luận pháp lý cũng như trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, từ quá trình tìm
hiểu khái quát tác giả mới có thể tiến hành nghiên cứu về vai trò chủ thể giám định
đầy đủ và toàn diện. Do đó tác giả phải có sự nghiên cứu sâu về pháp lý cũng như
thực tiễn các vấn đề chủ chốt, cốt lõi để làm bật lên được ý nghĩa quan trọng của
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 3

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

Người giám định trong quá trình đóng góp vào hoạt động TTHS. Thông qua đó, để
có thể đánh giá đúng vai trò và đề ra giải pháp tháo gỡ tồn tài xoay quanh chủ thể
Người giám định. Thế nhưng, do đây là lần đầu tiên tác giả tiếp cận và nghiên cứu
đề tài khoa học, mà thời gian còn nhiều hạn chế cũng như kiến thức hiểu biết có
giới hạn, nên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết trong đề tài nghiên
cứu. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô, giới
nghiên cứu quan tâm đến đề tài và các bạn sinh viên.


s
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 4

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Giám định là một hoạt động điều tra vụ án hình sự, giám định đóng vai trò
làm rõ chứng cứ và tìm ra sự thật giúp cơ quan tiến hành tố tụng có những quyết
định chính xác. Khi tham gia vào hoạt động tố tụng chủ thể tham gia giám định có
vị trí pháp lý là người tham gia tố tụng, chủ thể giám định có thể là tổ chức hoặc cá
nhân được pháp luật cho phép thực hiện việc giám định, nhưng không mặc nhiên
chủ thể giám định lại xuất hiện trong quá trình tố tụng. Việc chủ thể này tham gia
vào giai đoạn tố tụng chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu. Trong
TTHS, chủ thể giám định được pháp luật ghi nhận là Người giám định. Thực tiễn
giải quyết các vụ án khi có sự tham gia của Người giám định đã không ngừng
khẳng định vị trí và vai trò của chủ thể này đối với hoạt động tố tụng. Trước khi
tiến hành nghiên cứu về các khía cạnh về quy định pháp luật đối với Người giám
định, những nội dung mang tính chất khái quát về lý luận (Khái niệm, tiêu chuẩn,
vai trò..), sẽ được tìm hiểu ở Chương một. Việc tìm hiểu nhằm tạo cơ sở cho quá
trình tiếp cận những giá trị mà Người giám định mang lại cho hoạt động tố tụng.
1.1 Khái niệm chung
1.1.1 Khái niệm giám định tư pháp trong TTHS

BLTTHS hiện hành không có điều luật giải thích rõ về khái niệm giám định,
để hoàn chỉnh hơn về những quy định trong hệ thống pháp luật TTHS một văn bản
dưới luật do UBTVQH ban hành năm 2004 “PLGĐTP” đã cụ thể hóa các khái
niệm thông qua những quy định của Pháp lệnh. Điều 1 Pháp lệnh quy định: “Giám
định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kĩ
thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án
hình sự, hành chính, vụ việc dân sự (sau đây gọị chung là vụ án) do người giám
định tư pháp thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ án”.
Điều 1 PLGĐTP có đề cập đến hai chủ thể CQTHTT và NTHTT, đây là hai
chủ thể có quyền trưng cầu giám định trong hoạt động TTHS. BLTTHS quy định
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm: CQĐT, VKS, TA. Mỗi
CQTHTT có nhiệm vụ quyền hạn riêng khi tham gia vào hoạt động tố tụng (CQĐT
phát hiện, điều tra, truy bắt tội phạm…; VKS truy tố tội phạm; TA xét xử).
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 5

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

CQTHTT trong các vụ án hình sự với tư cách là cơ quan tư pháp mang quyền lực
nhà nước, nhân danh nhà nước phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. NTHTT là những cá nhân
được quy định tại khoản 2 Điều 33 BLTTHS, với tư cách người được nhà nước trao
quyền trong hoạt động tố tụng. Nhìn chung giữa CQTHTT và NTHTT khi trưng
cầu giám định, về tư cách pháp lý sẽ khác nhau (CQTHTT: cơ quan tư pháp mang
quyền lực nhà nước; NTHTT: cá nhân được nhà nước trao quyền), nhưng về mục

đích chung đều nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự.
Người giám định tư pháp là người thực hiện việc giám định khi được trưng
cầu giám định. Người giám định tư pháp chỉ có thể tham gia vào giải quyết vụ án
hình sự khi có quyết định trưng cầu của CQTHTT và NTHTT. Qua đó có thể thấy
được giữa chủ thể trưng cầu giám định và Người giám định tồn tại mối quan hệ
nghĩa vụ công trong vụ án hình sự mà không mang quyền lợi cá nhân. Nghĩa vụ của
người giám định trong vụ án hình sự chỉ phát sinh khi nhận trưng cầu của chủ thể
có quyền trưng cầu giám định.
Giám định tư pháp do Người giám định thực hiện nhằm đưa ra các kết luận
về chuyên môn có liên quan đến vụ án. Điều kiện cần cho những kết luận có giá trị
và chính xác trước tiên Người giám định phải có kiến thức về chuyên ngành giám
định, ví dụ: giám định viên sinh học phải có bằng tốt nghiệp đại học về sinh học
2

hoặc y khoa . Đồng thời, trong những vụ án hình sự có tính chất phức tạp như: cần
phải lấy dấu vân tay hung thủ, xét nghiệp ADN… việc hỗ trợ của các phương tiện
kĩ thuật hiện đại là rất cần thiết. Do đó, muốn hiệu quả công tác giám định có thể
thu được hiệu quả cao, thì phải có sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn với phương
pháp khoa học kĩ thuật hiện đại.
Mục đích chung của việc tiến hành hoạt động giám định tư pháp nhằm phục
vụ cho việc giải quyết vụ án chính xác và khách quan. Vậy nên trong suốt cả quá
trình thực hiện công tác giám định đều đặt trên nền tảng của mục tiêu chung, ngay
từ khi thực hiện hoạt động giám định cho đến khi đưa ra kết luận giám định luôn
phải nhằm phục vụ cho vụ án cần giải quyết. Ví dụ trong vụ án hình sự cố ý đánh
người gây thương tích, theo vụ án thì vấn đề xác định tỷ lệ thương tật cho người bị
hại là vấn đề quan trọng, nhưng cơ quan trưng cầu lại trưng cầu xét nghiệm ADN
và việc thực hiện giám định xác định ADN trong trường hợp này là không cần thiết.
Như vậy mục đích của hoạt động giám định trong ví dụ trên đã không đáp ứng
2


Mục II Điều 1 khoản b Thông tư 09/2006/TT-BCA ngày 22 tháng 8 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Công
an hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 67/2005/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành
một số điều Pháp lệnh giám định tư pháp trong lực lượng Công an nhân dân.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 6

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

được việc giải quyết những vấn đề quan trọng của vụ án. Do đó, ngay từ khi trưng
cầu cho đến khi tiến hành và đi đến kết luận giám định đều phải hướng tới những
vấn đề có liên quan đến vụ án cần giải quyết, ngược lại sẽ gây thêm tính phức tạp
cho vụ án, vừa tốn kém về thời gian và kinh phí mà không thu được kết quả.
Từ những phân tích khái niệm chung về giám định tư pháp có thể rút ra khái
niệm riêng cho giám định tư pháp trong hoạt động TTHS:
Trong tố tụng hình sự, giám định là việc sử dụng kiến thức, phương tiện,
phương pháp khoa học, kĩ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn
đề có liên quan đến vụ án hình sự do người giám định tư pháp thực hiện theo trưng
cầu của CQTHTT, NTHTT nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự.
Giám định trong TTHS với tính chất là hoạt động điều tra, đòi hỏi hao tốn
nhiều thời gian và công sức, nên hiệu quả đem lại từ hoạt động giám định sẽ làm
tăng thêm tính chính xác và khách quan cho những chứng cứ thu được. Dựa trên
nguyên tắc chung trong TTHS “CQĐT, VKS, TA phải áp dụng mọi biện pháp hợp
pháp và phù hợp để xác định sự thật của vụ án, toàn diện, đầy đủ làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội…” (Điều 10 BLTTHS). Giám
định tư pháp cũng là một trong các biện pháp hợp pháp và phù hợp giúp cho quá

trình tìm ra sự thật của vụ án được toàn diện, nhanh chóng, kịp thời, giúp cho
CQTHTT trong việc giải quyết vụ án. Một yếu tố cần thiết để có thể phát huy hiệu
quả từ công tác giám định là đòi hỏi Người giám định phải là người có tinh thần
trách nhiệm, có trình độ chuyên môn, nhạy bén trong công việc.
1.1.2 Khái niệm Người giám định trong TTHS
Theo quy định của BLTTHS thì “Người giám định là người có kiến thức cần
thiết về lĩnh vực cần giám định được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu theo quy
định của pháp luật” (Điều 60). Việc Người giám định phải là người có kiến thức
cần thiết trong lĩnh vực cần giám định có thể hiểu đó là một điều kiện cần để trở
thành Người giám định. Để giúp CQTHTT tìm ra sự thật của vụ án, Người giám
định phải có những kiến thức chuyên môn nhất định trong lĩnh vực cần trưng cầu.
Ví dụ: trong lĩnh vực giám định pháp y, muốn làm tốt vai trò của Người giám định
thì phải có những kiến thức và hiểu biết về lĩnh vực pháp y, đã từng qua thực tế
3

hoạt động chuyên môn của chuyên ngành đó từ năm năm trở lên . Như vậy việc
tiến hành giám định mới thật sự khách quan và chính xác.
Trong TTHS Người giám định có thể là giám định viên tư pháp hoặc người
3

Thông tư số 04/2007/TT-BYT ngày 12 tháng 02 năm 2007 của Bộ y tế hướng dẫn tiêu chuẩn, điều
kiện, trình tự thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên pháp y, pháp y tâm thần

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 7

SVTH: Nguyễn Kim Chúc



Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

giám định tư pháp theo vụ việc (Điều 7 PLGĐTP). Người giám định có thể hoạt
động trong các lĩnh vực: pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự, tài chính – kế
toán, xây dựng, văn hóa, môi trường … (Điều 9 PLGĐTP).
Giám định viên tư pháp có thể hiểu một cách khái quát “Là người có đầy đủ
tiêu chuẩn theo quy định của PLGĐTP để trở thành giám định viên, được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm và cấp thẻ giám định viên tư pháp” (Điều 8
PLGĐTP). Khi được trở thành giám định viên tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp
4

y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì sẽ được hưởng lương từ ngân sách nhà nước . So
với giám định viên tư pháp Người giám định tư pháp theo vụ việc “Không được bổ
nhiệm và cấp thẻ giống như giám định viên tư pháp” (Điều 11 PLGĐTP). Người
giám định tư pháp theo vụ việc chỉ tham gia hoạt động tố tụng trong một số vụ án
nhất định và được hưởng thù lao theo vụ án tham gia giám định. Việc người giám
định tư pháp theo vụ việc tham gia vào các hoạt động tố tụng không mang tính ổn
định. Trong một số vụ án nếu trình độ hoặc số lượng giám định viên tư pháp không
đáp ứng được yêu cầu của cơ quan trưng cầu lúc đó CQTHTT sẽ trưng cầu người
5

giám định tư pháp theo vụ việc .
Khi tham gia tố tụng Người giám định với vị trí là người tham gia tố tụng
nhưng khác với những chủ thể tham gia tố tụng khác (người có quyền và nghĩa vụ
liên quan, người bị hại...). Người giám định chỉ có nghĩa vụ công mà không mang
quyền lợi cá nhân. Do đó pháp luật đã quy định những điều kiện và tiêu chuẩn riêng
đối với Người giám định để có thể hoàn thành nghĩa vụ khi tham gia vào hoạt động
tố tụng.
1.1.3 Tiêu chuẩn để trở thành Người giám định
TTHS bao gồm những hoạt động mang tính nguyên tắc chặt chẽ, mỗi giai

đoạn tố tụng đều phải tuân thủ theo BLTTHS, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
đến thi hành án. Với bản chất là ngành luật hình thức, nên mọi sai trái trong quá
trình tố tụng sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Bởi vì, ngành luật hình thức là ngành
luật thực thi nội dung quy định của ngành luật nội dung. Là những biểu hiện bên
ngoài của điều luật. Giả sử luật hình sự quy định hình phạt về tội giết người, nhưng
với những quy định như vậy nó chỉ là cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm hình
sự, còn việc thực thi trách nhiệm hình sự và các biện pháp cụ thể (giam giữ, truy tố,
xét xử...), thuộc về sự điều chỉnh của luật hình thức. Tính nghiêm minh của pháp
4

Điều 6 Nghị định 67/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết về thi
hành một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp.
5
Điều 5 Nghị định 67/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết về thi
hành
một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 8

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

luật sẽ được duy trì nếu như hoạt động thực thi pháp luật đúng đắn, ngược lại sẽ
phá vỡ tính pháp chế, làm mất lòng tin nhân dân, là công cụ giúp cho đối tượng
thực hiện hành vi phạm pháp. Từ đó, có thể thấy được vị trí quan trọng của tính
chặt chẽ từ nguyên tắc cho đến các giai đoạn thực hiện và áp dụng của hoạt động

TTHS.
Xuất phát từ các yếu tố trên, nên trong hoạt động tố tụng pháp luật có những
quy định riêng cho từng chủ thể tiến hành hoạt động tố tụng nhằm thể đảm bảo cho
hoạt động tố tụng thực hiện đúng nguyên tắc và thể hiện được tính nghiêm minh
của pháp luật. Ví dụ: Thẩm phán phải là công dân Việt Nam trung thành với tổ
quốc, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử,…( Luật
TCTAND năm 2002). Tương tự, đối với Người giám định là chủ thể tham gia tố
tụng theo nghĩa vụ pháp lý, do tính chất công việc của từng vụ án hình sự mang
tính chuyên môn và phức tạp nên Người giám định chỉ có thể được trưng cầu một
khi đảm bảo được những điều kiện tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật.
PLGĐTP chia Người giám định thành hai loại chủ thể giám định:“Giám định
viên tư pháp” và “Người giám định tư pháp theo vụ việc”. Về tiêu chuẩn để trở
thành hai loại chủ thể giám định trên có nhiều điểm giống và khác nhau.
1.1.3.1 Giám định viên tư pháp
Theo Điều 8 khoản 2 PLGĐTP để trở thành giám định viên tư pháp phải đáp
ứng điều kiện: “Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam” đây là điều kiện
đầu tiên, nếu đáp ứng được điều kiện trên mới có thể xem xét đến những điều kiện
tiếp theo. Luật cư trú năm 2006 quy định “Thường trú là nơi công dân sinh sống
thường xuyên ổn định, không có thời hạn tại một chổ nhất định và đăng ký thường
trú” (Điều 12). Như vậy đối với trường hợp không mang quốc tịch Việt Nam và
tạm trú sẽ không được bổ nhiệm.
Khi có được điều kiện trên, một người muốn trở thành giám định viên tư
pháp cần phải đáp ứng đầy đủ điều kiện quy định tại điểm a, b, c Điều 8 khoản 2
Pháp lệnh. Điều kiện thứ nhất “có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt
động chuyên môn theo ngành đã học từ năm năm trở lên”. Theo quy định trên, thì
vấn đề kinh nghiệm được xem xét cẩn thận dù rằng có trình độ đại học nhưng
không có vốn kiến thức thực tiễn của ngành nghề thì vẫn chưa đáp ứng được điều
kiện. Đối với người có bằng tốt nghiệp đại học trở lên có hai trường hợp: “do cơ sở
giáo dục Việt Nam cấp hoặc do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp”; nếu rơi vào
trường hợp thứ hai thì các bằng đó phải được công nhận tại Việt Nam theo quy định

của pháp luật giáo dục và theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 9

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự
6

nhập .
Điều kiện thứ hai “Có phẩm chất đạo đức tốt”, trong điều kiện này việc xác
định có thể phải phụ thuộc vào ý kiến đánh giá của thủ trưởng, hoặc lãnh đạo nơi
học tập và công tác. Ở từng ngành nghề và công việc thì phẩm chất đạo đức là vấn
đề rất cần thiết, đặc biệt trong hoạt động TTHS thì đạo đức nghề nghiệp rất quan
trọng. Phẩm chất đạo đức thể hiện bởi tinh thần trách nhiệm, không vụ lợi trong
công việc, bảo vệ lẽ phải nhằm giữ vững tính nghiêm minh của pháp luật. Do đó,
nếu Người giám định thật sự đáp ứng được tiêu chuẩn này thì vấn đề vi phạm trong
hoạt động giám định sẽ được hạn chế.
Điều kiện thứ ba “Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Dựa theo quy định
tại Điều 17, 18, 19 BLDS năm 2005 có thể rút ra khái niệm về cá nhân được xem là
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi “Người đó từ đủ 18 tuổi trở lên và có khả
năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, đặc biệt
không rơi vào trường hợp mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự”.
Giám định viên tư pháp đảm bảo được các điều kiện trên và không rơi vào
trường hợp tại Điều 8 khoản 3 PLGĐTP thì sẽ được bổ nhiệm và cấp thẻ giám định
viên tư pháp.
1.1.3.2 Người giám định tư pháp theo vụ việc
“Người không phải giám định viên tư pháp nhưng có đủ các tiêu chuẩn quy

định tại khoản 2 Điều 8 và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 8 của PLGĐTP có thể được trưng cầu giám định tư pháp theo vụ
việc” (Điều 11 PLGĐTP). Xét về điều kiện trở thành Người giám định tư pháp theo
vụ việc so với giám định viên tư pháp có những điểm giống nhau về điều kiện cơ
7

bản . Trong ba trường hợp tại khoản 3 Điều 8 PLGĐTP nếu Người giám định tư
pháp theo vụ việc rơi vào một trong các trường hợp sẽ không được trưng cầu

.

Thứ nhất “Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị kết án mà chưa xóa
án tích”. Dựa theo những quy định của BLTTHS và BLHS có thể hiểu “Người
đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự là người đang trong giai đoạn chấp hành
quyết định khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án quyết định của tòa
án”. Người được xem chưa được xóa án tích là những trường hợp không rơi vào
6

Điều 1 Nghị định 67/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết về thi
hành một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp.
7

“Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam; Có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt
động chuyên môn theo ngành học từ năm năm trở lên; Có phẩm chất đạo đức tốt; Có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ”.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 10


SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

điều 64, 65, 66 BLHS năm 1999 sữa đổi bổ sung năm 2009.
Thứ hai “Đang bị quản chế hành chính”. Theo Điều 27 PLXLVPHC năm
2002 sửa đỗi, bổ sung năm 2008 thì “Người đang bị quản chế hành chính là người
có hành vi phương hại đến an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự, buộc phải cư trú, làm ăn sinh sống tại một điạ phương nhất định,
chịu sự quản lý giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương”.
Thứ ba “Bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự”. Trường hợp này
được quy định tại Điều 22, 23 BLDS năm 2005, có thể hiểu “Một người được xem
bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có quyết định tuyên bố của TA về
việc mất hoặc hạn chế đó. Người mất năng lực hành vi dân sự là người không thể
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Người hạn chế năng lực hành vi là
người nghiện ma túy, nghiện chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản”.
Do yếu tố chủ thể đi ngược lại các điều kiện cơ bản để trở thành Người giám
định, nên khi rơi vào các trường hợp trên sẽ không được trở thành Người giám định
sẽ phù hợp với tính khách quan, chính xác của hoạt động tố tụng. Ví dụ trường hợp
thứ nhất và thứ hai sẽ đi trái lại với tiêu chuẩn “có phẩm chất đạo đức tốt”, trường
hợp thứ ba trái với tiêu chuẩn “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.
Tuy có những điều kiện giống nhau về tiêu chuẩn nhưng Người giám định tư
pháp theo vụ việc vẫn có điều kiện ngoại lệ khác so với giám định viên tư pháp.
Theo Điều 11 khoản 2 PLGĐTP thì người không có trình độ đại học nhưng thỏa
mãn được hai yếu tố: “Có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực cần giám định và có uy
tín trong lĩnh vực giám định” thì vẫn được giám định tư pháp theo vụ việc.
Người giám định tư pháp theo vụ việc không được bổ nhiệm mà hằng năm
8


theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền Bộ tư pháp sẽ lập và công bố danh sách .
1.1.4 Trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự
Trưng cầu giám định là cơ sở làm phát sinh hoạt động giám định tư pháp
trong TTHS. Giám định tư pháp chỉ được tiến hành khi được trưng cầu giám định
theo quy định của pháp luật tố tụng. Trưng cầu giám định và giám định tư pháp là
hai hoạt động khác nhau, nhưng có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời, hợp
thành một biện pháp thu thập chứng cứ. Mối quan hệ đó được ràng buộc bằng pháp
luật tố tụng và sản phẩm cuối cùng (kết quả giám định) là kết quả chung của các
hoạt động này.

9

8

Cơ quan có thẩm quyền đề nghị Bộ tư pháp lập danh sách “Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh”.
9

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Khoa học điều tra hình sự , Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội ,
2005.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 11

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự


Trưng cầu giám định do CQTHTT và NTHTT thực hiện còn hoạt động giám
định tư pháp là do Người giám định thực hiện. Trưng cầu giám định là hoạt động
của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, giám định tư pháp do chủ thể là các
nhà chuyên môn tiến hành giám định thực hiện. Do đó xét về đặc điểm và tính chất
đây là hai hoạt động hoàn toàn khác nhau nhưng đều nhằm mục đích chung thu
thập và củng cố chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Trưng cầu giám định và hoạt động giám định có quan hệ hỗ trợ lẫn nhau.
Pháp luật TTHS quy định Người giám định chỉ tham gia giám định khi được trưng
cầu do đó việc trưng cầu giám định sẽ làm pháp sinh hoạt động giám định. Và
ngược lại Người giám định phải thực hiện nội dung được trưng cầu.
Trưng cầu giám định chỉ được tiến hành trong những trường hợp được pháp
luật TTHS quy định. Tiến hành trưng cầu giám định trong trường hợp: bắt buộc
trưng cầu; trưng cầu giám định khi xét thấy cần thiết (Điều 155 BLTTHS).
Trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định là các trường hợp, khi xuất
hiện một số tình tiết nhất định trong vụ án, mà luật tố tụng hình sự đã quy định thì
cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định dù muốn hay không cũng buộc phải
trưng cầu giám định (bao gồm các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 155
10

BLTTHS) . Việc trưng cầu giám định trong các trường hợp bắt buộc là điều kiện
cần thiết đối với việc giải quyết vụ án. Giám định đối với những trường hợp này có
giá trị mang tính mấu chốt của vụ án, là tiền đề giúp cho CQTHTT có những quyết
định đúng đắn. Ví dụ đối với trường hợp nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự
của đối tượng phạm tội thì việc giám định xác định về năng lực là rất quan trọng, vì
đó là một trong những cơ sở khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu trong trường hợp
này không trưng cầu và dẫn đến xét xử người tâm thần vậy sẽ vi phạm nghiêm
trọng đến tính nhân đạo của pháp luật XHCN. Do đó, pháp luật quy định phải bắt
buộc trưng cầu nhằm tránh xảy ra việc sai lầm trong quá trình tố tụng dẫn đến việc
xét xử không đúng người, đúng tội tạo ra oan sai.
Trưng cầu khi xét thấy cần thiết là các trường hợp, khi xuất hiện những tình

tiết nhất định trong vụ án tuy luật không quy định bắt buộc phải trưng cầu giám
định, nhưng CQTHTT nhận thấy cần được giải quyết bằng giám định tư pháp
(khoản 1 Điều 155 BLTTHS). Nhằm làm rõ tính sự thật của các tình tiết trong
vụ
10

“a) Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe và khả năng lao động; b)
Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của
họ; c) Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về
khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết vụ án; d) Tuổi của bị can, bị cáo, nếu
việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác
thực của những tài liệu đó; đ) Chất độc, chất ma túy, chất phóng xạ, tiền giả”.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 12

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

án, trong trường hợp cụ thể của vụ án có thể việc tiến hành giám định không rơi
vào trường hợp bắt buộc, nhưng lại có giá trị cần thiết trong vụ án cần giải quyết.
Ví dụ: xác định ADN để xác định tung tích của nạn nhân, xét nghiệm dấu vân tay,
dấu giầy để khoanh vùng đối tượng nghi vấn…Việc giám định trong trường hợp
này sẽ có giá trị cũng cố, đối chiếu, so sánh với những chứng cứ thu được, hoặc có
giá trị xác định tội phạm (xét nghiệm mẫu tinh trùng trong các vụ án hiếp dâm).
Pháp luật dự liệu thêm trường hợp cần thiết sẽ đồng thời tạo sự chủ động, và linh
hoạt trong quá trình giải quyết án của các CQTHTT, trong phạm vi quyền hạn của

mình cơ quan tố tụng áp dụng các biện pháp cần thiết để giải quyết vụ án một cách
toàn diện.
Kết luận giám định sẽ là mục đích của hoạt động trưng cầu giám định, kết
luận giám định phản ánh được kết quả thu được từ hoạt động giám định và giá trị
đối với những nội dung được trưng cầu trong vụ án.
Trong một số vụ án hình sự, trưng cầu giám định và giám định tư pháp được
tiến hành chủ yếu ở giai đoạn điều tra, một số trường hợp được tiến hành ở giai
đoạn xét xử. Thí dụ: trong trường hợp kết luận giám định mâu thuẫn không thể tiến
hành việc xét xử, TA có thể trả hồ sơ điều tra bổ sung và yêu cầu CQĐT trưng cầu
giám định lại, hoặc tự ra quyết định trưng cầu giám định lại.
Trưng cầu giám định trong giai đoạn điều tra được sử dụng để xác định thủ
phạm, phương pháp, phương tiện, thủ đoạn phạm tội...từ đó làm cơ sở áp dụng các
biện pháp như bắt khám xét, hỏi cung..., trưng cầu giám định có thể được sử dụng
để xác định đối tượng tác động của tội phạm và những thiệt hại xảy ra, góp phần
xác định khách thể trực tiếp của tội phạm cụ thể, xác định có hay không có tội
phạm xảy ra, tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Giả sử, đối với vụ án
giết người và thiêu hủy xác nạn nhân, dựa vào những dấu vết để lại hiện trường
bằng những biện pháp thông thường khó có thể xác định được tung tích nạn nhân,
và đối tượng nghi vấn. Việc trưng cầu giám định trong trường hợp này có ý nghĩa
xác định tung tích nạn nhân và hành vi phạm tội mang rợ có chủ ý, hay bộc phát
(qua khám nghiệm những phần còn sót lại của tử thi có thể xác định được nguyên
nhân tử vong: nạn nhân bị đánh đập trước khi chết, bị cưỡng hiếp…từ đó phân tích
các yếu tố của hành vi, phương pháp, xác định có sử dụng hung khí hay các phương
tiện khác gây án…). Hoặc trong trường hợp phát hiện xác nạn nhân có các dấu hiệu
của một vụ tự tử, nhưng để bảo đảm không bỏ lọt tội phạm CQĐT tiến hành trưng
cầu để xác định nguyên nhân chết do tự tử hay bị giết, từ đó làm căn cứ xác định có
hay không có dấu hiệu tội phạm để tiến hành các hoạt động điều tra.
Trong một số trường hợp trưng cầu giám định còn được sử dụng để xác định
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu


Trang 13

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

năng lực trách nhiệm hình sự của bị can hay bị cáo hoặc năng lực nhận thức, năng
lực khai báo đúng đắn của người làm chứng, người bị hại đối với những tình tiết
của vụ án trong trường hợp có sự nghi ngờ về tình trạng tâm thần của những người
này. Thí dụ: trong các trường hợp có nghi ngờ về năng lực chủ thể của bị cáo (bị
cáo la hét, có hành động bất thường khi thẩm vấn, hoặc gia đình bị cáo có tiền sử bị
tâm thần…). Hoặc một số trường hợp đối tượng phạm tội giả vờ nhằm đánh lừa cơ
quan điều tra để thoát tội. Do đó, để có thể xác định chính xác năng lực trách nhiệm
hình sự của đối tượng thì phải cần đến việc trưng cầu các giám định viên pháp y
tâm thần đưa ra kết luận chính xác.
Khái niệm trưng cầu giám định không được giải thích rõ trong pháp luật tố
tụng nhưng từ phân tích về tác dụng của việc tiến hành trưng cầu giám định có thể
hiểu: “Trưng cầu giám định trong TTHS là hoạt động điều tra của cơ quan có thẩm
quyền, được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định, sử dụng
các nhà chuyên môn tiến hành giám định tư pháp để kết luận về các vấn đề chuyên
môn nhằm thu thập, củng cố; kiểm tra, đánh giá, xác lập chứng cứ, phục vụ điều
11

tra, xử lý vụ án hình sự” .
Tóm lại trưng cầu giám định là điều kiện để Người giám định có thể tham gia
vào giải quyết vụ án hình sự. Hiệu quả của hoạt động này nhằm củng cố tính chính
xác của nguồn chứng cứ thu được, dựa trên nguồn chứng cứ đã qua giám định có
thể tạo điều kiện cho CQĐT sàng lọc và tìm ra đối tượng phạm tội nhanh chóng, xử
lý kịp thời tội phạm, đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc của BLTTHS.

1.2 Tầm quan trọng của Người giám định trong tố tụng hình sự
Trước những chuyển biến mới phức tạp của tội phạm, cách thức và thủ đoạn
gây án ngày càng diễn ra tinh vi, tội phạm luôn dùng nhiều biện pháp che đậy hành
vi phạm tội (phi tan chứng cứ, xóa dấu vết, phân tán xác của nạn nhân…). CQĐT
khi gặp phải những hành vi phạm tội tinh vi sẽ vấp phải những khó khăn trong quá
trình điều tra. Nếu chỉ dựa vào trình độ nghiệp vụ điều tra thông thường (phân tích
dấu vết tội phạm để lại, hỏi cung, lấy lời khai…) thì không thể phát hiện tội phạm
chính xác và nhanh chóng. Do đó đối với vụ án hình sự phức tạp, có tính chất nguy
hiểm thì việc trưng cầu Người giám định tham gia vào giải quyết vụ án là rất quan
trọng và cần thiết. Người giám định sẽ sử dụng những kiến thức chuyên môn
chuyên ngành giám định kết hợp với khoa học kĩ thuật vào giải quyết vụ án hình sự
(xét nghiệm ADN, phân biệt dấu vân tay, xác định chất ma túy, chất phóng xạ…).
Người giám định tham gia vào giải quyết vụ án hình sự không chỉ có ý nghĩa
11

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội , 2005

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 14

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

giúp CQTHTT tìm ra sự thật vụ án chính xác và khánh quan, mà đồng thời còn có ý
nghĩa đối với người tham gia tố tụng. Đối với người bị hại kết quả giám định có thể
là những bằng chứng kết tội kẻ đã có hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích của bản
thân, như vậy tạo cơ sở cho việc bảo đảm quyền và lợi ích của mỗi công dân được

bảo vệ triệt để. Đối với bị cáo là người bị xét xử, trong một số trường hợp kết quả
giám định có thể là chứng cứ gỡ tội và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Hoạt động giám định của Người giám định trong vụ án hình sự đem lại hiệu
quả cho công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, giúp CQTHTT xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội.
1.2.1 Vai trò của Người giám định trong tố tụng hình sự
Chủ thể giám định tham gia vào vụ án hình sự giúp CQTHTT xác định sự
thật của vụ án. Khi được trưng cầu Người giám định tham gia giải quyết các nội
dung được trưng cầu liên quan đến vụ án. Nội dung liên quan có thể là những dấu
vết để lại hiện trường như dấu máu, vân tay, hung khí…Người giám định phải tiến
hành xét nghiệm, giúp cho CQĐT tìm ra hung thủ. Ví dụ: “Vụ án xác chết không
đầu tại khu chung cư G4 Hà Nội với hành động giết người và xóa các dấu vết tại
hiện trường (chặt đầu nạn nhân, chặt các ngón tay nạn nhân nhằm xóa dấu vân
tay). Hung thủ gây án là Nguyễn Đức Nghĩa người bị hại là Nguyễn Phương Linh.
Qua hai lần xét xử sơ thẩm và phúc thẩm hung thủ bị tuyên án tử hình với tội danh
12

giết người và cướp tài sản” .
Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng mà hành vi gây án của hung
thủ rất tinh vi. Trong vụ án, CQĐT đã trưng cầu giám định để có thể xác định về
nhân thân của người bị hại tìm ra tung tích và truy ra dấu vết của hung thủ. Nếu
trong vụ án trên không có sự tham gia của nghiệp vụ chuyên môn giám định, thì
việc xác định nhân thân của người bị hại điểm mấu chốt quan trọng của vụ án sẽ
gặp rất nhiều khó khăn. Xác định nhân thân của người bị hại từ đó CQĐT tiến hành
khoanh vùng đối tượng nghi vấn và tiến đến các bước điều tra tiếp theo trong vụ án.
Đối với một vụ án thì sự thật vụ án là những điểm mốc quan trọng giúp cho
các CQTHTT đưa ra những quyết định chính xác trong các giai đoạn tiến hành tố
tụng. Người giám định sẽ tìm ra những chứng cứ có thật liên quan đến vụ án, củng
cố chứng minh nguồn chứng cứ có hoặc không liên quan đến người phạm tội, từ đó

12

Trang

tin

pháp

luật,

Nguyễn

Đức

Nghĩa

y

án

tử

hình,

Nhóm

phóng

viên


Giết người “như thời trung cổ”, [Cập nhật lúc 12:15 | 11/11/2010 (GMT+7)]

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 15

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

CQĐT tiến hành điều tra mục đích và động cơ, cách thức gây án. Sự thật vụ án có
thể là những sự vật, hiện tượng phản ánh ra bên ngoài của một vụ án, nhưng cũng
có thể là những điểm tồn tại bên trong. Do đó, muốn biết chính xác về những diễn
biến của một chuỗi sự việc xảy ra trong một vụ án cần phải phân tích những điều
kiện bên ngoài (vết máu, dấu vân tay, tinh dịch…) từ đó tìm ra động cơ, mục đích
phân tích tâm lý dẫn đến hành vi phạm tội. Chủ thể giám định là Người giúp
CQTTHTT tìm ra sự thật bằng kết luận khoa học để chứng minh bản chất của vụ
án, giúp cho NTHTT đưa ra quyết định chính xác.
Người giám định giúp cho CQĐT nhận diện tội phạm bằng kết luận khoa học
giám định. Ví dụ: “Vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng xảy ra trên mặt
cầu vượt Tân Thới Hiệp, thuộc phường Thới An, quận 12, TP HCM gây chết người.
Xe gây tai nạn đã bỏ chạy mất. Qua khám nghiệm, CQĐT đã thu giữ một số dấu vết
của xe gây tai nạn còn lưu lại trên người nạn nhân. Kết quả điều tra truy tìm cho
thấy dấu vết trên của xe đầu kéo 72N- 6950, kéo romooc biển số 72R-0139, có
nhiều dấu vết nghi vấn. Kết quả giám định ADN đã khẳng định đây chính là của
nạn nhân Nguyễn Văn Nguyên. Từ kết quả giám định này, qua đấu tranh, tài xế xe
13

đầu kéo 72N-6950 đã phải thừa nhận hành vi phạm tội của mình” .

Kết luận khoa học về ADN trên chiếc xe gây tai nạn đã giúp cho CQĐT nhận
diện chính xác tội phạm. Kết luận khoa học giám định là những sản phẩm từ quá
trình làm việc trong vụ án hình sự của người giám định. Hiệu quả từ kết luận khoa
học này, nhằm rút ngắn thời gian điều tra, giúp cho vụ án được giải quyết nhanh
chóng và kịp thời. Nếu chỉ bằng công tác đấu tranh lấy lời khai mà không dựa trên
những bằng chứng xác thực thì việc tội phạm thú nhận hành vi phạm tội là rất khó
khăn. Việc nhận dạng chính xác tội phạm có giá trị tiền đề cho các giai đoạn điều
tra tiếp sau. Dựa trên các dấu vết để lại hiện trường bằng những phương pháp khoa
học Người giám định đã cung cấp những kết luận khoa học có giá trị vạch trần
hành vi phạm tội.
Sự có mặt của Người giám định tại phiên tòa có ý nghĩa quan trọng đối với
hoạt động xét xử vụ án. Điều 139 BLTTHS quy định về việc triệu tập Người giám
định tại phiên tòa trong một số trường hợp cần giải thích về các kết luận giám định
tại phiên tòa (kết luận giám định có nhiều điểm chưa rõ, trong kết luận có nhiều
điểm mâu thuẫn…). Việc không có mặt của Người giám định còn là căn cứ để hoãn
phiên tòa trong một số vụ án mà sự có mặt của Người giám định có tính chất quyết
13

,



luận,

giám

định

AND


/>
phục

vụ

cho

công

tác

nhận

diện

tội

phạm

? na me=News&file=article&sid=238437 , [đăng ngày 15 tháng 1

năm 2001 ]

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 16

SVTH: Nguyễn Kim Chúc



Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

định đến việc xét xử được chính xác và khách quan (Điều 119 BLTTHS). Ví dụ:
“Ngày 29/3/2006 mở ra phiên tòa xét xử phúc thẩm tại TA tỉnh Phú Thọ do HĐXX
tòa phúc thẩm – TANDTC Hà Nội tiến hành. Xét xử lại vụ án giết người của bị cáo
Trần Trung Dũng (sinh năm 1982), trú tại thị trấn Phong Châu, huyện Phú Ninh
(Phú Thọ). Người bị hại là Hà Thu Phương người yêu của Dũng. Dũng bị truy tố và
xét xử về tội giết người. Phiên tòa xét xử sơ thẩm năm 2004 tuyên án tử hình đối
với bị cáo Dũng. Sau đó gia đình bị cáo kháng cáo vì lý do bị cáo tâm thần. Dũng
được đưa đi giám định tâm thần. Theo kết luận số 1975/PYTT do giám định viên
của Tổ chức giám định pháp y tâm thần trung ương thực hiện, kết luận Dũng hoàn
toàn bình thường. Phiên tòa Phúc thẩm xét xử lại bản án được mở ra, nhưng sau
14

đó HĐXX tuyên bố hoãn phiên tòa vì không có mặt giám định viên” .
Trong vụ án trên kết luận giám định hoàn toàn phù hợp với bản án sơ thẩm đã
tuyên. Nhưng vì đây là vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, để đảm bảo
được tính khách quan trong phiên tòa phúc thẩm TA quyết định triệu tập giám định
viên. Đánh giá đúng giá trị của Người giám định khi tham gia phiên tòa là yếu tố
quan trọng, vì vai trò của Người giám định không chỉ dừng lại ở việc đưa ra kết
luận giám định mà còn thể hiện ở việc Người giám định phải giải thích được các
kết luận mà mình đưa ra. Người giám định tham gia phiên tòa sẽ phù hợp với hoạt
động xem xét công khai các chứng cứ tại phiên tòa.
Trong vụ án hình sự khi mà các chứng cứ đều dựa vào các kết luận giám định
thì kết luận của Người giám định là một trong các cơ sở quan trọng để HĐXX đưa
ra bản án chính xác và khách quan. Thực tiễn các vụ án hiếp dâm, gây thương
tích,… quyết định của TA trong các trường hợp này phần lớn đều dựa vào các kết
luận giám định để quyết định mức án. Một bản án phù hợp với hành vi phạm tội có
tác dụng duy trì sự nghiêm minh của pháp luật, có giá trị răn đe đối những hành vi
xem thường pháp luật.

Qua những gì phân tích trên, có thể thấy được người giám định trong tố tụng
hình sự đóng một vai trò quan trọng trong vụ án, nhằm giúp cơ quan tiến hành tố
tụng làm rõ những tình tiết trong vụ án, tìm ra sự thật vụ án bằng biện pháp nghiệp
vụ và kĩ thuật giám định, giúp tìm ra tội phạm nhanh chóng kịp thời, nhằm duy trì
và bảo đảm tính đúng đắn và nghiêm minh của pháp luật.
1.2.2 Hệ quả của hoạt động giám định
Chứng cứ là một yếu tố quan trọng trong hoạt động TTHS, một người không
14

Trang thông tin điện tử Tỉnh Phú Thọ, Hoãn phiên xét xử phúc thẩm bị cáo Trần Trung Dũng, Quốc Hội
- ĐinhVũ, vn/website/an-ninh-quocphong/2008/5/10A451972E5/,
đăng Thứ năm, 30/03/2006].

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 17

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

thể bị kết tội nếu không có chứng cứ chứng minh về hành vi phạm tội. Theo Điều
184 khoản 1 BLTTHS thì “Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được
xem xét tại phiên tòa”. Chứng cứ có thể buộc tội hoặc gỡ tội đối với bản thân người
phạm tội (Điều 10 BLTTHS). Kết luận giám định là một trong những chứng cứ
được xem xét trong vụ án hình sự và là giá trị từ kết quả của hoạt động giám định
đem lại (Điều 64 BLTTHS).
Kết luận giám định mang giá trị chứng cứ buộc tội đối với tội phạm. Một bản
kết luận muốn trở thành chứng cứ buộc tội phải đảm bảo ba thuộc tính quan trọng

của chứng cứ (khách quan, liên quan và tính hợp pháp). Tính khách quan trong kết
luận giám định thể hiện ở các chủ thể giám định trong một vụ án là những người
không mang quyền lợi cá nhân, mà chỉ thực hiện nghĩa vụ được trưng cầu. Các
chứng cứ Người giám định cung cấp muốn có thể trở thành chứng cứ kết tội người
phạm tội phải có tính thuyết phục, có ảnh hưởng và liên quan trực tiếp đến hành vi
phạm tội.
Kết luận giám định chỉ có giá trị là bằng chứng định tội khi đã có sự so sách
đối chiếu với các loại chứng cứ khác như: vật chứng, lời khai của nhân chứng...;
đồng thời các loại chứng cứ trên phải mang tính thống nhất. Trong một số vụ án do
NTHTT không đánh giá đúng giá trị chứng cứ của kết luận giám định nên đã dẫn
đến đưa ra quyết định thiếu tín khách quan và chính xác.
Kết luận giám định là chứng cứ gỡ tội. Nhiệm vụ chung của hoạt động tố
tụng là không làm oan người vô tội. Muốn giải quyết vụ án hình sự một cách toàn
diện thì phải xem xét đến các loại chứng cứ trong vụ án. Trong cùng một vụ án có
thể tồn tại cả chứng cứ buộc tội và gỡ tội. Kết luận giám định trong một số trường
hợp là nguồn chứng cứ gỡ tội. Ví dụ: “Do mâu thuẫn trong sinh hoạt và cuộc sống,
khoảng 18 giờ ngày 25/12/2008, Hoàn Nghĩa Hường (SN 13/10/1974), trú tại xóm
7A, xã Hưng Long đã dùng đòn gánh đánh bố đẻ là ông Hoàng Nghĩa Nhu gây
thương tật 21%. Do Hường có những biểu hiện bất thường nên Công an huyện
Hưng Nguyên trưng cầu giám định. Kết luận của giám định viên Hường mắc chứng
động kinh. Trong khi gây án, khả năng điều khiển hành vi bị hạn chế. Với kết luận
15

này, Hường không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình” .
Kết luận của giám định viên đã giúp cho Hường không phải chịu trách nhiệm
hình sự phù hợp với quy định của pháp luật (Điều 13 BLHS). Sự nghiêm minh của
pháp luật phải xét đến tính nhân đạo, do đó pháp luật luôn hướng đến cải tạo giáo
15

Lặng thầm đi tìm công lí , Nguyệt Anh ID=4202 [đăng


Thứ Ba, 6/04/2010 15:10]

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 18

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


Vai trò của Người giám định trong Tố tụng hình sự

dục người phạm tội nhằm tạo cơ hội cho người phạm tội hòa nhập với xã hội thay
vì trừng trị loại bỏ họ ra khỏi xã hội.
Các kết quả giám định có độ chính xác cao sẽ mang lại hiệu quả cho hoạt
động giám định của Người giám định trong TTHS, góp phần vào việc nâng cao
chất lượng của hoạt động tố tụng mà trọng tâm là bảo đảm việc phán quyết của TA
được chính xác, khách quan và đúng pháp luật, góp phần giữ vững công lý, công
bằng xã hội.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

Trang 19

SVTH: Nguyễn Kim Chúc


×