Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Mối quan hệ giữa tòa án và viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.09 KB, 76 trang )

Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2007 – 2010
ĐỀ TÀI:
MỐI QUAN HỆ GIỮA TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Sinh viên thực hiện:

Giảng viên hướng dẫn:

ThS. Mạc Giáng Châu

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

Nguyễn Quốc Vụ
MSSV: 5075239
Lớp: Tư pháp III K33

1

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TA

: Tòa án

VKS

: Viện kiểm sát

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

2

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ



Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát chung về Toà án và Viện kiểm sát..........................................................1
1.1.1. Khái chung về Tòa án............................................................................................4
1.1.1.1. Khái niệm Tòa án.................................................................................................4
1.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự............4
1.1.2. Khái quát chung về Viện kiểm sát..........................................................................5
1.1.2.1. Khái niệm Viện kiểm sát......................................................................................6
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự..........................................................................................................................6
1.2 Vai trò của Toà án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.............7
1.2.1 Vai trò của Toà án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.......................................8
1.2.2 Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử sở thẩm vụ án hình sự...........................9
1.3. Lý luận chung về mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự..............................................................................................10
1.3.1 Nhận thức chung về mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự...............................................................................................12
1.3.2 Mối quan hệ phối hợp chế ước giữa Tòa án và Viện kiếm sát trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự...............................................................................................13
1.3.2.1 Mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự.......................................................................................................14
1.3.2.2. Mối quan hệ chế ước giữa Tòa án và giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.............................................................................15

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU


3

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG XÉT
XỬ SƠTHẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trước khi mở phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự..............................................................................................16
2.1.1 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung
trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự......................................17
2.1.2 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc đình chỉ vụ án trước khi
mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự........................................................18
2.1.3 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc rút quyết định truy tố
trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.......................................19
2.2 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự...................................................................................................................20
2.2.1 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát về giới hạn của việc xét xử vụ án
hình sự...................................................................................................................21
2.2.1.1 Giới hạn xét xử của Tòa án (Điều 196 BLTTHS).............................................22
2.2.1.2 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc giới hạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự...................................................................................................
2.2.2. Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.........................................................................
2.2.3 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc rút quyết định truy tố tại
phiên tòa....................................................................................................................
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ

ÁN HÌNH SỰ
3.1 Một số tồn tại và hướng hoàn thiện về mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm
sát trong xét xử vụ án hình sự sơ thẩm...............................................................
3.1.1 Một số tồn tại và hướng hoàn thiện về mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm
sát trong việc trả hồ sơ điều tra bổ sung................................................................
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

4

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

3.1.1.1 Về mặt pháp lý........................................................................................................
3.1.1.2 Về mặt thực tiễn áp dụng....................................................................................
3.1.2 Một số tồn tại và phương hướng hoàn thiện về mối quan hệ giữa Tòa án và
Viện kiểm sát trong rút quyết định truy tố............................................................
3.1.2.1 Về mặt pháp lý.........................................................................................................
3.1.2.2 Về mặt thực tiễn áp dụng.......................................................................................
3.1.3 Một số tồn tại và phương hướng hoàn thiện về mối quan hệ giữa Tòa án và
Viện kiểm sát trong giới hạn của việc xét xử.........................................................
3.1.3.1 Về mặt pháp lý........................................................................................................
3.1.3.2 Về mặt thực tiễn áp dụng.....................................................................................
3.2 Nguyên nhân...................................................................................................................
3.2.1 Nguyên nhân khách quan...........................................................................
3.1.2. Nguyên nhân chủ quan........................................................................................61
3.3 Một số đề xuất trong tương lai về mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự....................................................................62
3.3.1 Hoàn thiện mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc giới hạn xét

xử............................................................................................................................63
3.3.2 Hoàn thiện mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc trả hồ sơ điều
tra bổ sung.............................................................................................................65
3.3.3 Hoàn thiện mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc rút quyết
định truy tố......................................................................................................................65
KẾT LUẬN.......................................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................67

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

5

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử của Tòa án bao giờ cũng được coi là giai
đoạn trọng tâm, giai đoạn quan trọng nhất. Chính trong giai đoạn này, Tòa án nhân danh
Nhà nước ra phán quyết để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội đối với bị cáo.
Hoạt động xét xử là hoạt động đặc thù và chỉ do Tòa án thực hiện. Do đó, yêu cầu tối cao
và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện,
đầy đủ và chính xác. Để đảm bảo thực hiện tốt điều này, trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng, ngoài việc đảm bảo cho Tòa
án phải thực hiện nhiệm vụ xét xử, pháp luật còn quy định cho Viện kiểm sát có nhiệm
vụ kiểm sát xét xử và thực hành quyền công tố, để đảm bảo cho việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan người vô tội.

Mặt khác, việc xét xử các vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
nói riêng là vô cùng khó khăn và phức tạp, đồng thời cũng hưởng rất lớn đến quyền con
người, ảnh hưởng đến việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và các lợi ích
khác của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân. Xuất phát từ tính chất quan trọng như vậy
nên ngoài việc quy định chức năng nhiệm vụ riêng cho Tòa án và Viện kiểm sát trong
hoạt động xét xử, thì pháp luật tố tụng hình sự còn đặt ra mối quan hệ tố tụng giữa hai cơ
quan này để phối hợp, chế ước lẫn nhau, nhằm làm cho việc xét xử vụ án một cách đúng
đắn khách quan, khắc phục sai sót, chống việc lạm quyền giữa hai cơ này trong khi thực
hiện nhiệm vụ. Với mục đích mà pháp luật đặt ra cho Tòa án và Viện kiểm sát là như vậy,
tuy nhiên thực tiễn xét xử trong những năm qua cho thấy mối quan hệ giữa hai cơ quan
này còn khá nhiều tồn tại, chưa đáp ứng được mục đích mà pháp luật đặt ra, ảnh hưởng
đến chất lượng xét xử.
Nhận thức được điều này, trong chiến lược cải cách tư pháp của Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã xác định: Cần phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án và Viện kiểm sát nói riêng để đảm bảo
thực hiện chức năng nhiệm vụ. Trong đó có xác định rõ, Tòa án giữa một vị trí trung tâm
và xét xử là hoạt động trọng tâm, phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương trong việc giữ
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

6

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong chiến lược cải cách tư pháp. Cùng với
chiến lược cải cách tư pháp, trước đó Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã xác định
cần phải nâng cao chất của hoạt động tư pháp, phải đảm bảo sự độc lập của Tòa án trong
hoạt động xét xử; nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác; việc ra
phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở
xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác.
Từ những vấn đề trên cho thấy, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện các mục tiêu
đã đặt ra trong chiến lược cải cách tư pháp nói chung và xây dựng hoàn thiện các hoạt
động động xét xử nói riêng mà đặc biệt là hoạt động xét xử sơ thẩm là một việc làm cấp
thiết để đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự. Trong đó, việc
nghiên cứu mối quan hệ tố tụng giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự cũng đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc chung này. Đây cũng là lý do
mà Sinh viên chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự”.
2. Phạm vi nghiên cứu
Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
chứa đựng nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu phải có sự đào
sâu nghiên cứu lâu dài. Tuy nhiên, trong khuôn khổ thời gian cho phép còn hạn chế, cũng
như do hạn chế về trình độ, năng lực bản thân nên Sinh viên không thể nghiên cứu hết
nội dung của mối quan hệ đầy khó khăn phức tạp này mà chỉ tập trung vào nghiên cứu
mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa và tại phiên
tòa về các vấn đề: trả hồ sơ điều tra bổ sung; rút quyết định truy tố; đình chỉ vụ án và giới
hạn của việc xét xử.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu và đóng góp ý kiến về phương hướng hoàn thiện về mối quan hệ giữa
Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhằm nâng cao hiệu quả
công tác xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp là mục đích
tiêu trọng tâm của đề tài.


GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

7

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để
nghiên cứu đề tài là: phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh.
5. Cấu trúc của đề tài
Đề tài được Sinh viên nghiên cứu và sắp xếp thành ba chương, trong mỗ chương
được chia thành các mục nhỏ, tên cụ thể của các chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Chương 2. Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Chương 3. Một số tồn tại và phương hướng hoàn thiện về mối quan hệ giữa Tòa
án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

8

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ



Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát chung về Toà án và Viện kiểm sát
1.1.1. Khái chung về Tòa án
1.1.1.1. Khái niệm Tòa án
“Tư pháp”, nếu hiểu theo từ điển tiếng Việt được hiểu là việc tổ chức, áp dụng và
thực sự thi hành những luật lệ, chủ yếu bằng việc xét xử của TA, nhằm giữ gìn trật tự và
an ninh của xã hội1. Tư pháp theo nghĩa Hán là việc trông coi, bảo vệ pháp luật trong một
quốc gia, một Nhà nước2. Từ điều các điều này, nên có thể hiểu hoạt động tư pháp là hoạt
động bảo vệ pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được ban hành và được tuân thủ một cách
có hiệu quả trong cuộc sống. Trong đó, quyền tư pháp có thể hiểu quyền tư pháp là quyền
giữ gìn, bảo vệ pháp luật, bảo vệ an ninh xã hội của cơ quan có thẩm quyền.
Ở nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phân nhiệm
và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong việc thực hiện ba quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, quyền lập pháp sẽ trao cho Quốc hội, quyền hành
pháp sẽ do Chính phủ thực hiện và quyền tư pháp sẽ do TA và VKS đảm nhận. Theo quy
định của Điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì “Tòa án
nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự khu vực và các
Tòa án khác theo luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. TA xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra theo
quy định của Điều 126 Hiến 1992 “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân.” Kết hợp những phân tích trên chúng ta có thể rút ra khái

niệm chung về Tòa án như sau: TA là một cơ quan tư pháp, thực hiện việc xét

1

Từ điển tiếng Việt – Tường giải và liên tưởng- Nxb Văn hóa thông tin, 1999
PGS.PTS. Đỗ Ngọc Quang – Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự NXB
Chính trị quốc gia- 1997, tr 6
2

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

9

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế,
hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
TA có nhiều hoạt động khác nhau như là quản lý cán bộ, quản lý cơ sở vật chất,
thực hiện việc phối hợp với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội… trong việc
tuyên truyền và bảo vệ pháp luật, góp phần giáo dục công dân trung thành với với Tổ
quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác... Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu của TA là xét xử các vụ án hình sự,
dân sự, lao động cũng như các vụ án khác. Vì vậy, ngay tại Điều 127 Hiến pháp 1992 và
Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đã xác định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án
nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự khu vực và các Tòa án khác theo luật định là
các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bằng hoạt động của

mình TA có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
và quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân (Điều 126 Hiến pháp).
Trong hoạt động xét xử vụ án hình hình sự nói chung và trong xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự nói riêng, chức năng, nhiệm vụ xét xử của TA được xác định trong
BLTTHS, cụ thể:
Trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, TA có nhiệm vụ tuân thủ
theo các quy định của pháp luật. Điều này được ghi nhận khá rõ thông qua các nguyên tắc
chung trong BLTTHS, chẳng hạn như nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa:
“Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng được tiến hành theo quy định Bộ luật này”(Điều 3 BLTTHS), hay
nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật”
( Điều 16 BLTTHS) hoặc cụ thể hơn là nguyên tắc xác định trách nhiệm của cơ quan tiến
hành tố tụng “trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải có trách
nhiệm về hành vi quyết định của mình”.



Trong phạm vi thực hiện chức năng của mình, khi xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự TA phải có nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án một cách khác quan, toàn diện
đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ vô tội, những tình tiết
tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo. (Điều 10
BLTTHS). Để cụ thể hóa hơn nhiệm vụ chứng minh tội phạm của TA thì khi xét xử sơ
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

10

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ



Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

thẩm vụ án hình sự TA có nhiệm vụ phải chứng minh: có hành vi phạm tội hay không,
thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện
hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình
sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cán, bị cáo và những đặc điểm về nhân than của bị can, bị cáo;
tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra (Điều 63 BLTTHS).
Để thực hiện được những nhiệm vụ cụ thể nêu trên, TA phải có nhiệm vụ
thực hiện rất nhiều công việc và phải trải qua các giai đoạn khác nhau. Cụ thể, để đảm
bảo cho việc đưa vụ án ra xét xử được tiến hành một cách thuận lợi thì TA phải có nhiệm
vụ thực hiện các công việc cần thiết trước khi mở phiên tòa. Trước khi mở phiên tòa, TA
phải có nhiệm vụ nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án và quyết định truy tố của VKS. Qua
nghiên cứu hồ sơ, nếu đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử thì TA ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử; nếu không đủ điều kiện thì tùy trường hợp mà TA ra các quyết định trả hồ sơ
điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án (Điều 176 BLTTHS). Ngoài ra trong
thời gian này, TA còn có nhiệm vụ áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn. Tại phiên tòa, TA có nhiệm vụ điều khiển tiến hành các thủ tục tố tụng tại phiên
tòa, xét hỏi những người tham gia tố tụng và xem xét đánh giá kết quả xét xử tại phiên
tòa rồi ra bản án tuyên bị cáo có tội hay không có tội. Sau phiên tòa, TA có nhiệm vụ
thực hiện các công việc theo quy định của pháp luật như giao bản án, nhận đơn kháng
cáo, thông báo kháng cáo, kháng nghị, gửi hồ sơ lên cấp phúc thẩm3.


Tóm lại, thông qua việc thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, TA có
nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án một cách khác quan, để xác định một người là có tội
hay không có tội. Thông qua việc xác định đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, đồng thời bảo vệ chế độ, bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa.

1.1.2. Khái quát chung về Viện kiểm sát
1.1.2.1. Khái niệm Viện kiểm sát
Theo ghi nhận tại Điều 137 Hiến pháp 1992 “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo vệ cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các
Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
phạm vi trách nhiệm do luật định”. Trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình VKS
3

Các quy định tại Phần Ba “Xét xử sơ thẩm” Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

11

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

cùng với TA có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 126 Hiến pháp
1992).
Với các quy định này cho thấy, VKS cùng với TA là cơ quan bảo vệ pháp luật,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng việc thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong đó, “công tố”, theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa là điều
tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp” 4. Cũng theo đó, Tiến sỹ khoa học Lê Cảm, quyền
công tố được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở quy định của pháp
luật tố tụng hình sự các chức năng truy tố và buộc tội trước TA người đã thực hiện hành

vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Còn quyền kiểm sát được hiểu là là hoạt
động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Quốc hội giao cho VKS nhằm bảo đảm pháp chế
trong hoạt động tư pháp hình sự5 .
Từ những phân tích trên có thể khẳng định VKS là cơ quan thực hiện quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đồng thời qua đó có thể rút ra khái niệm chung về VKS
như sau: VKS là cơ quan tư pháp thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được tiến hành nghiêm chỉnh và thống nhất, là
một trong những công cụ của Nhà nước, trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ
bảo vệ pháp chế, bảo vệ pháp luật, công bằng xã hội.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Trong hoạt động bảo vệ pháp luật nói chung trong phạm vi chức năng của mình
TA và VKS có một nhiệm vụ thống nhất là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 126 Hiến
pháp). Chính vì điều này, nên trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, BLTTHS
cũng đặt ra nhiệm vụ chung cho cả TA và VKS đó là phải xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan người vô tội (Điều
10 BLTTHS). Tuy nhiên, như ta đã biết chức năng của TA và VKS là khác nhau, TA có
chức năng xét xử, VKS có chức năng kiểm sát xét xử và thực hành quyền công tố. Do đó,
khi thực hiện chức năng của mình, giữa hai cơ quan này có những cách tiến hành khác
4

Từ điển tiếng Việt in lần thứ 6, đợt 2 của Viện Ngôn ngữ học do GS. Hoàng Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng – Trung
tâm từ điển, Hà Nội-Đà Nẵng, 1998, tr. 204)
5
TSKH Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về quyền công tố, Tạp chí luật học số 04, năm 2004, tr.10.

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU


12

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

nhau nên nhiệm vụ cụ thể mà hai cơ quan này thực hiện cũng có sự khác nhau. Cụ thể,
trong xét xử vụ án hình sự, VKS có nhiệm kiểm sát xét xử và thực hành quyền công tố
điều này được quy định khá chi tiết trong Chương III Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân. “Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm
thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm
bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.” (Điều 16 Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân). Điều này được cụ thể hóa qua các công việc:

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự VKS có
nhiệm vụ và quyền hạn là: Đọc bản cáo trạng, quyết định của VKS liên quan đến vụ án
hình sự việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên
tòa, tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Khi thực công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ và
quyền hạn: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của TA; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án và quyết
định của TA theo quy định của pháp luật; yêu cầu TA chuyển hồ sơ những vụ án hình sự
để xem xét quyết định kháng nghị. Ngoài ra để đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc truy
tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật VKS sẽ thực hiện việc rút quyết định truy tố
trong giai đoạn xét xử (Điều 181, Điều 195 BLTTHS) và các công việc khác theo quy
định của pháp luật.



Với việc phân tích trên cho thấy, thông qua việc thực hiện chức năng của mình
VKS có một nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ mà pháp luật tố tụng đặt ra, ngoài việc phải thực hành
công tố để buộc tội bị cáo, VKS còn phải có nhiệm vụ kiểm sát cả hoạt động xét xử để
đảm bảo cho việc xét đúng pháp luật, nghiêm minh kịp thời.
1.2 Vai trò của Toà án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong bộ máy Nhà nước ta, TA và VKS có tổ chức và phương thức hoạt động
khác nhau, nhưng đều là những khâu trọng yếu, cơ bản thuộc hệ thống cơ quan tư pháp.
Hơn nữa, trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ
pháp luật thì nhiệm vụ của VKS và TA là thống nhất với nhau “Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng
của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng,
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

13

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 126 Hiến pháp 1992). Chính vì
đảm đương nhiệm vụ đó mà TA và VKS là những cơ quan đóng vai trò quan trọng không
thể thiếu trong bộ máy Nhà nước ta.
Trong tố tụng hình sự nói chung vị trí của TA và VKS cũng đóng một vai trò chủ
đạo trong hoạt động xét xử. TA, VKS cùng với cơ quan điều tra hình thành nên các cơ
quan tiến hành hoạt động tố tụng hình sự của nước ta (Điều 33 BLTTHS). Trong hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cùng với bên bị buộc tội, TA và VKS hình thành nên
ba chủ thể không thể thiếu trong hoạt động xét xử. Chính vì chiếm một vị trí khá quan

trọng như vậy nên hai cơ quan này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
1.2.1 Vai trò của Toà án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Ở nước ta, bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có
sự phân công, phân nhiệm và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét
xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước và được giao cho TA. Do
vậy, TA có nột vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Theo tinh thần Nghị quyết số
49- NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp
lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó
xác định TA có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Với những vị trí đó
cho thấy TA có vai trò rất lớn trong hoạt động của bộ máy Nhà nước ta, là trung tâm của
việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình tố tụng nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm nói riêng TA giữ
một vị trí quan trọng trong việc giải quyết vụ án, là một trong ba cơ quan tiến hành hoạt
động tố tụng (khoản 1, Điều 33 BLTTHS). Trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
vai trò của TA được thể hiện:

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình, TA có vai trò trong
việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ
chức, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đối với việc giải quyết vụ án hình sự, TA có vai trò trong việc xác định sự
thật khách quan của vụ án thông qua hoạt động xét xử công khai tại phiên tòa cùng với
những tài liệu chứng cứ mà các bên (buộc tội và gỡ tội) cung cấp. Dựa vào kết quả xét xử
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

14


SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

tại phiên tòa, cho ra phán quyết cuối cùng là bị cáo có tội hay không có tội qua đó có biện
pháp trừng trị người phạm tội, bảo vệ quyền lợi của người bị xâm hai, bảo vệ công bằng
xã hội.

Qua việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cùng với việc ra bản án TA để răng
đe, trừng trị người phạm tội, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, qua đó có
vai trò rất lớn trong việc tuyên truyền đấu tranh, phòng chống tội phạm, nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật của mọi công dân.

Trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, thông qua hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự giúp cơ quan điều tra, VKS kiểm chứng lại kết quả
điều tra và truy tố một cách chính xác hơn, qua đó có biện pháp khắc phục những thiếu
xót sai lầm.
1.2.2 Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử sở thẩm vụ án hình sự
Trong hoạt động xét xử nói chung và trong xét xử vụ án hình sự sơ thẩm vụ án
hình sự nói riêng, VKS giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Điều 16 Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân quy định: “Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát
nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử
các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.”
Cùng với quy định này, trong BLTTHS Điều 23, cũng đã ghi nhận lại vai trò của VKS
khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, để đảm bảo cho hoạt động xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Với quy định này cho thấy, VKS có vai trò rất lớn trong việc thực hiện chức

năng nhiệm vụ của mình. Cụ thể, thông qua hoạt động kiểm sát và thưc hành quyền công
tố trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vai trò của VKS được thể hiện như:

Việc thực hành quyền công tố và kiểm sát trong hoạt động xét xử để đảm
bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội

Trong mối quan hệ giữa TA và VKS, khi thực hành quyền công tố, VKS ra
quyết định truy tố bị can ra trước tòa là căn cứ để TA án thực hiện việc xét xử. Điều 196
BLTTHS ghi nhận “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử”. Do đó, chứng tỏ vai trò
của VKS rất lớn việc xét xử của TA, nếu không có sự truy tố của VKS thì sẽ không đặt ra
vấn đề xét xử.
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

15

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự


Việc tham gia của VKS để bảo vệ cáo trạng và thực hiện việc luận tội, tranh
luận cũng như phát biểu quan điểm giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm để TA có căn
cứ trong việc ra phán quyết cuối cùng. Với tính chất quan trọng như vậy nên khi đại diện
của VKS vắng mặt tại phiên tòa thì bắt buộc phải hoãn phiên tòa.

Việc tham gia kiểm sát xét xử trước và tại phiên tòa của VKS có vai trò rất
lớn trong việc phát hiện ra những thiếu xót, sai lầm trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự, qua đó yêu cầu, kiến nghị thực hiện lại cho đúng.

Thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, VKS góp phần bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự nhân phẩm
của công dân; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, qua đó góp phần đấu
tranh, phòng chống tội phạm.
1.3 Lý luận chung về mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.1 Nhận thức chung về mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo từ điển tiếng Việt, “mối quan hệ” là sự gắn liền một mặt nào đó giữa hai
hoặc nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác động
đến sự vật kia”6. Như vậy, mối quan hệ giữa hai hay nhiều sự vật, hiện tượng trong xã hội
thể hiện sự tác động lẫn nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau trong sự tồn tại và phát triển.
Theo quy luật chung của sự tồn tại và phát triển đó, các sự vật, hiện tượng mặc dù
muôn hình muôn vẻ tồn tại trong thế giới khách quan nhưng không thể tồn tại độc lập, mà
chúng là một thể thống nhất, có sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau. Mối
quan hệ này không ngừng diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy, đây là mối quan hệ
khách quan, được bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất.
Thật vậy, Nhà nước là một là một tổ chức trong xã hội nên cũng không nằm ngoài
quy luật chung đó. Để tồn tại và phát triển, Nhà nước cũng phải vận động theo quy luật
của thế giới khách quan và nằm trong mối quan hệ chung đó. Bất kì nhà nước nào, do
nhu cầu bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội mà xây dựng nên những thiết chế
cần thiết trong bộ máy nhà nước đảm bảo sự cưỡng chế hữu hiệu đối với những hành vi
xâm phạm vào quyền lợi của giai cấp thống trị. Tùy theo cơ cấu của từng Nhà nước mà
bộ phận của cưỡng chế của Nhà nước được đặt ở đâu và nhiệm vụ như thế nào mà sẽ có
6

Từ điển tiếng Việt, Nxb khoa học xã hội, 1998, tr.827


GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

16

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

cách tổ chức các cơ quan trong bộ máy Nhà nước cho phù hợp. Chính từ có những cách
tổ chức bộ máy Nhà nước khác nhau nên mối quan hệ được thể hiện giữa các cơ quan
cũng khác nhau. Nếu như tại các nước tư sản, bộ máy Nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc phân chia quyền lực nên trong bộ máy Nhà nước ba quyền: lập pháp, hành
pháp và tư pháp sẽ tách biệt nhau và đối trọng lẫn nhau, thì trong Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền
lực. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công phân nhiệm và có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Theo Hiến pháp 1992, Quốc hội là cơ quan có quyền lập hiến, lập pháp,
Chính phủ là cơ quan chấp hành Hiến pháp và pháp luật, thì VKS và TA là cơ quan tư
pháp được giao nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ pháp luật mà Nhà nước ban hành.
Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001và Điều 1 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân thì: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các viện kiểm sát quân sự
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm
luật định”. Song song đó, Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, Tòa
án quân sự và các Tòa án khác theo luật định là những cơ quan xét xử của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 127 Hiến pháp 1992). Như vậy, TA là cơ
quan xét xử duy nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ có TA mới

có quyền kết tội đối với một người. Theo Điều 72 Hiến pháp 1992 thì “Không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật”. Bên cạnh việc quy định chức năng riêng cho từng cơ quan ở trên thì ở Điều 126
Hiến pháp năm 1992 cũng ghi nhận: “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế dộ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tình mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân”.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, TA và VKS giữ hai vị trí rất quan trọng, là hai
trong ba cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng. Trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, VKS
giữ vai trò xét xử, còn VKS giữ vai trò buộc tội, đây là hai vị trí không thể thiếu trong
một phiên tòa xét xử vụ án hình sự7. Bên cạnh việc chiếm giữ vị trí rất quan trọng trong
7

Xem Hồ Sỹ Sơn – Hoàn thiện mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sựTạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/ 2005

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

17

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

hoạt động tố tố tụng hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng thì TA
và VKS còn phải thực hiện nhiệm vụ chứng minh tội phạm, để đảm bảo cho việc xác
định sự thật vụ án một cách khách quan. (Điều 10 BLTTHS)
Từ những quy định trên có thể thấy, mặc dù TA và VKS là hai cơ quan ở hai vị trí
khác nhau, thực hiện chức năng khác nhau nhưng điều đó không có nghĩa là giữa TA và

VKS không có quan hệ với nhau mà ngược lại, giữa TA và VKS có mối quan hệ trực tiếp
khăng khít với nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ công bằng, lẽ phải, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Mối quan hệ này
cũng được ghi nhận khá rõ trong nhiệm vụ của BLTTHS, ở Điều 1 BLTTHS năm 2003
ghi nhận, việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng là nhiệm vụ của BLTTHS. Điều này chứng tỏ, trong tố tụng hình
sự nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng tồn tại mối quan hệ giữa các cơ
tiến hành tố tụng, do đó giữa TA và VKS chắc chắn có mối quan hệ với nhau. Mặt khác,
về mặt lý luận thì mỗi ngành luật đều có phương pháp điều chỉnh đặc trưng khác nhau,
nếu như phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là mệnh lệnh, phục tùng; hay
phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là thỏa thuận thì ở đây đặc trưng của luật tố tụng
hình sự là phương pháp quyền uy và phương pháp phối hợp - chế ước. Phương pháp
quyền uy thể hiện mối quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng vơi người tham gia tố tụng,
còn phương pháp phối hợp - chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng. Theo phương pháp này thì giữa TA, cơ quan điều tra, VKS phải có nhiệm vụ
phối hợp với nhau để tiến hành các hoạt động của mình theo quy định của BLTTHS. Cơ
quan này làm sai thì cơ quan khác quyền phát hiện và đề nghi sửa chữa những sai lầm đó.
Còn tính chế ước để đảm bảo cho việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà luật tố tụng
hình sự đặt ra, đồng thời để ngăn chặn, kiềm chế những sai lầm và vi phạm có thể xảy ra.
Giữa phối hợp và chế ước phải được áp dụng hài hòa cho nhau, nếu phối hợp quá mức có
thể dẫn đến cả nể, che dấu những sai phạm của nhau, không dám phản ánh sự thật. Nếu
chế ước quá mức có thể dẫn đến hậu quả là đối nghịch lẫn nhau, không thực hiện được
nhiệm vụ mà tố tụng đặt ra.
Từ những phân tích trên cho thấy, trong tố tụng hình sự giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng mà đặc biệt là giữa TA và VKS có tồn tại mối quan hệ phối hợp - chế ước với
nhau. Vì vậy, hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng là một giai đoạn của tố tụng
hình sự nên cũng không nằm ngoài mối quan hệ đó.

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU


18

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

1.3.2 Mối quan hệ phối hợp chế ước giữa Tòa án và Viện kiếm sát trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.2.1 Mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Theo Đại từ điển tiếng Việt “phối hợp” là cùng chung góp, cùng hành động ăn
khớp để hỗ trợ cho nhau8. Cùng với khái niệm “mối quan hệ” như đã nêu ở trước đó cho
thấy, mối quan hệ phối hợp là mối quan hệ thể hiện sự kết hợp, hỗ trợ cho nhau để thực
hiện một công việc hay nhiệm vụ nào đó. Theo đó, mối quan hệ phối hợp giữa TA và
VKS trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc kết hợp, hỗ trợ cho nhau giữa TA và
VKS trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Trong hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói
riêng mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có những chức năng nhiệm vụ khác nhau. Nếu như
Cơ quan điều tra chủ yếu thực hiện việc điều tra, VKS thực hành quyền công tố và kiểm
sát còn TA thực hiện việc xét xử. Trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì mặc dù TA và
VKS thực hiện nhiệm vụ khác nhau nhưng giữa hai cơ quan này có mối quan hệ phối hợp
với nhau trong khi thực hiện nhiệm vụ. Mối quan hệ phối hợp này nếu được phối hợp và
thực hiện tốt thì sẽ giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và chính xác hơn,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời giúp các cơ quan này sửa
chữa những sai lầm khi thực hiện nhiệm vụ tố tụng.
Dựa vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì quan hệ phối hợp trong tố
tụng giữa TA và VKS chủ yếu được thể hiện ở hai hoạt động khởi tố và xét xét xử vụ án
hình sự. Đối với hoạt động khởi tố vụ án hình sự, mối quan hệ đó xảy ra trong trường hợp
HĐXX phát hiện ra tội phạm mới hoặc người phạm tội mới thì TA có thể tự mình hoặc

yêu cầu VKS khởi tố vụ án (khoản 1 Điều 104 BLTTHS 2003). Theo quy định của pháp
luật, mặc dù TA đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, TA vẫn phải gửi quyết định khởi
tố đó cho VKS cùng cấp xem xét quyết định việc điều tra. Trong trường hợp này, VKS có
thể chấp nhận hay không chấp nhận quyết định khởi tố của TA, nếu chấp nhận thì VKS
chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra để tiến hành việc điều tra, nếu không
chấp nhận thì VKS có quyền kháng nghị lên TA cấp trên (khoản 3 Điều 109 BLTTHS
2003). Điều này cho thấy, TA ngoài chức năng xét xử thì trong trường hợp phát hiện tội
phạm mới hoặc người phạm tội mới thì TA còn có nhiệm vụ phối hợp với VKS thực hiện
việc khởi tố vụ án.
8

Đại từ điển Tiếng Việt – Nxb văn hóa, năm 1999

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

19

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Còn mối quan hệ tố tụng giữa TA và VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm xuất
hiện khi hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng được chuyển từ VKS sang TA. Kể từ đây mối
quan hệ giữa TA và VKS được thể hiện xuyên xuốt từ giai đoạn chuẩn bị xét xử cho đến
khi kết thúc phiên tòa và sau khi phiên tòa. Cụ thể, pháp luật quy định một khoảng thời
gian để chuẩn bị xét xử, trong thời gian này Chánh án TA phải cử Thẩm phán nghiên cứu
hồ sơ để xác định đã đủ điều kiện đưa vụ án ra xét xử hay không. Nếu không đủ điều kiện
thì TA ra các quyết định khác như trả hồ sơ để điều tra bổ sung về cho VKS hoặc ra
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; nếu đủ điều kiện đưa vụ án ra xét xử thì trong

thời hạn luật định Thẩm phán được phân công ra quyết định đưa vụ án ra xét xử điều này
được ghi nhận ở điều 176 BLTTHS 2003. Và cũng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu
thấy có những căn cứ theo Điều 181 BLTTHS thì VKS cũng có quyền rút quyết định truy
tố và đề nghị TA đình chỉ vụ án.
Với việc luật quy định cho phép TA và VKS ra các quyết định nêu trên thể hiện
mối quan hệ phối hợp giữa TA và VKS trong việc xác định sự thật trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự một cách chính xác, nhanh gọn đỡ tốn chi phí không cần thiết. Cụ thể như
trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung của TA sẽ vừa giúp cho TA có cơ sở khi xét xử tại
phiên tòa, đồng thời cũng qua việc trả hồ sơ điều tra góp phần làm cho VKS thấy được
những thiếu sót mà rút kinh nghiệm. Đồng thời đảm bảo không phải hoãn phiên tòa một
cách không cần thiết. Chẳng hạn như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu TA phát hiện ra
có tội phạm khác có liên quan đến việc xét xử của vụ án mà trong quyết định truy tố của
VKS không có thì ngay trong giai đoạn chuẩn bị xét xử TA trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Vì thế khi xét xử tại phiên tòa HĐXX không phải hoãn phiên tòa để trả hồ sơ điều tra bổ
sung, góp phần làm cho việc giải quyết vụ án nhanh gọn. Hay trong trường hợp rút quyết
định truy của VKS trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sẽ giúp cho TA không phải phải mở
phiên tòa, tốn thời gian công sức. Còn tại phiên tòa, ngoài việc TA trả hồ sơ cho VKS để
điều tra bổ sung khi còn thiếu chứng cứ quan trọng hoặc có tội phạm khác hoặc đồng
phạm khác thì giữa TA và VKS phải phối hợp với nhau trong việc xét xử Kiểm sát viên
phải có mặt để kiểm sát phiên tòa và thực hành quyền công tố, nếu vắng mặt thì bắt buộc
phải hoãn phiên tòa. Kiểm sát viên nhân danh Nhà nước buộc tội đối với bị cáo bằng
những hoạt động như đọc bản cáo trạng, tham gia xét hỏi và tranh luận, luận tội tại phiên
tòa. Nếu qua xét xử mà VKS xét thấy bị cáo không có tội thì rút quyết định truy tố và đề
nghị TA tuyên bị cáo không có tội (khoản 2 Điều 222 BLTTHS). Việc đề nghị này của
VKS mang tính chất tham khảo đối với TA, còn việc xem xét có tội hay không và thực
hiện như thế nào thì do TA quyết định. Tại phiên tòa, Thẩm phán được phân công chủ tọa
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

20


SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

phiên tòa có trách nhiệm điều khiển toàn bộ hoạt động phiên tòa, kể cả hoạt động của
Kiểm sát viên, nếu thấy việc thực hiện của những người tiến hành tố tụng người tham gia
tố tụng và những người khác tham gia phiên tòa thực không đúng thì có quyền yêu cầu họ
thực hiện cho đúng. Qua xét hỏi và xem xét việc buộc tội và gỡ tội của các bên mà đặc
biệt là việc luận tội của Kiểm sát viên HĐXX xem xét và ra phán quyết cuối cùng.
Tất cả những hoạt động được xem xét trên đây cho thấy, mặc dù TA và VKS thực
hiện những nhiệm vụ chức năng năng riêng nhưng đều hướng đến mục đích cuối cùng là
đảm bảo cho việc xác định sự thật của vụ án một cách khách quan - đây là nhiệm vụ
chung mà cả TA và VKS phải phối hợp thực hiện.
1.3.2.2 Mối quan hệ chế ước giữa Tòa án và giữa Tòa án và Viện kiểm sát
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
“ Chế ước” là hạn chế, quy định trong những phạm vi, điều kiện nhất định 9. Mặt
khác, theo nghĩa thông thường thì “chế ước” có thể được hiểu như là sự tác động qua lại
giữa các bên theo hướng khống chế lẫn nhau, kiềm chế sự vận động của nhau. Theo đó,
mối quan hệ chế ước là mối quan hệ thể hiện sự tác động qua lại giữa các bên theo theo
hướng khống chế lẫn nhau, kiềm chế sự vận động của nhau trong một phạm vi nhất định.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, bên cạnh mối quán hệ phối hợp thì giữa TA với
VKS có mối quan hệ chế ước. Thế nhưng khác với quan hệ khác, quan hệ chế ước trong
tố tụng hình sự thể hiện sự đảm bảo về mặt pháp lý, làm cho hoạt động tố tụng hình sự
đạt được mục đích của mình, thực hiện được nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho các cơ
quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, quan hệ chế ước này giúp cho các cơ quan tiến hành tố
tụng tránh được những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình tố tụng hình sự bởi vì hoạt
động tố tụng rất khó khăn, phức tạp. Tính khó khăn, phức tạp của hoạt động này được thể
hiện ở chỗ, phải xác định được sự thật khách quan của vụ án. Chính vì thế, khi tiến hành
hoạt động xét xử một trong những nguyên tắc phải được tuân thủ là phải tôn trọng sự

thật, tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, do hoạt động tố
tụng được thực hiện bởi những con người cụ thể, mà con người được giao giải quyết vụ
án, thường chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có những vấn đề về
trình độ, kinh nghiệm, khả năng của bản thân người đó. Ngoài ra, những người tiến hành
tố tụng có thể chịu sự tác động của nhiều yếu tố môi trường, xã hội. Tất cả những điều đó
ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Những khuyết điểm của
những người tiến hành tố tụng trong giai đoạn này dễ mắc phải trong quá trình giải quết
9

Từ điển tiếng Việt, Nxb khoa học xã hội, 1998, tr.827

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

21

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

vụ án hình sự như sự phiến diện một chiều, thiên vị, lồng ý thức chủ quan để có thể dẫn
đến sai lệch sự thật của vụ án. Chính vì vậy, trong pháp luật tố tụng hình sự quy định
những điều mang tính chế ước, đảm bảo cho hoạt động tố tụng đạt được mục đích.
Xem xét mối quan hệ chế ước lẫn nhau giữa TA và VKS hầu như chúng ta thấy rất
ít các quy định mang tính chế ước, mà chủ yếu là thể hiện tính phối hợp. So với mối quan
hệ chế ước giữa cơ quan điều tra và VKS và mối quan hệ chế ước giữa TA và VKS thì
tính chế ước trong quan hệ giữa cơ quan điều tra và VKS mạnh mẽ hơn. Nhưng điều đó
không có nghĩa là tính chế ước giữa TA và VKS không được bộc lộ mà trái lại tính chế
ước giữa TA và VKS cũng thể hiện tương đối rõ nét. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2, 3
Điều 109 BLTTHS 2003: “Trong trường hợp quyết định quyết định khởi tố của vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy
bỏ quyết định khởi tố đó; nếu quyết định không khởi tố khởi tố vụ ánhình sự của cơ quan
đó không có căn cứ, thì Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ
án. Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có căn
cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên Tòa án cấp trên”. Với cách quy định này, thì trong
trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra không có căn cứ thì
VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định đó, còn đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự
của TA không có căn cứ thì VKS chỉ có thể kháng nghị lên TA cấp trên mà thôi. Đây là
quy định mà chúng ta thấy rõ tính chế ước giữa cơ quan điều tra và VKS thể hiện mạnh
mẽ hơn tính chế ước giữa TA và VKS.
Trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tính chế ước giữa TA và VKS
được thể hiện thông qua các hoạt động của hai cơ quan này. Chẳng hạn, trong phạm vi
chức năng nhiệm vụ của mình, một khi VKS quyết định truy tố ai, về hành vi theo tội
danh nào thì TA bắt buộc phải quyết định đưa ra xét xử mà không được làm khác, tuy
nhiên trong phạm vi cho phép TA có thể xét xử khác với truy tố của VKS10, hay trong
trường hợp TA trả hồ sơ điều tra bổ sung, nếu VKS không điều tra được theo yêu cầu của
TA và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì TA vẫn phải đưa vụ án ra xét xử ( Điều 179
BLTTHS), trong trường hợp TA ra các quyết định, bản án không có căn cứ thì VKS có
thể kháng nghị lên cấp trên để giải quyết…Điều này cho thấy, tình chế ước của VKS đối
với TA. Ngược lại, thông qua việc thực hiện chức năng của TA cũng có tính chế ước trở
10

Điều này được phân tích cụ thể trong mục 2.2 giới hạn của việc xét xử ở Chương 2 của Luận văn này.

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

22


SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

lại đối với VKS, cụ thể đó là nếu xét thấy việc truy tố của VKS không có cơ sở thì tại
phiên tòa, TA có thể tuyên bị cáo vô tội; còn xét thấy VKS truy tố chưa
đúng người, đúng tội thì TA có thể trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung, nếu
VKS vẫn không bổ sung được mà vẫn giữ nguyên truy tố mà TA thấy chưa đúng người,
đúng tội thì TA có thể xét xử và kiến nghị lên cấp trên để xem xét. Hay theo quy định tại
Điều 222 của BLTTHS 2003 thì trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định
truy tố thì HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự của pháp luật. Nếu
có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội; nếu thấy
việc rút truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với VKS
cấp trên trực tiếp. Chính điều này cho thấy, tình chế ước trong tố tụng hình sự nói chung
và trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng có những nét đặc trưng, việc chế ước
được đặt ra không phải để trừng trị hay chống lại nhau mà chủ yếu là khống chế, kiềm
chế sự vận động của nhau không để sai phạm diễn ra, nhằm làm cho hoạt động xét xử
được diễn ra đúng theo quy định của pháp luật. Đồng thời qua việc chế ước này sẽ làm
bộc lộ thêm tính phối hợp trong giải quyết vụ án hình sự vì suy cho cùng việc chế ước
giữa hai cơ quan này cũng đều đều hướng đến mục đích giúp cho việc việc xét xử đúng
người đúng tội, đúng pháp luật.
Cùng với việc phân tích mối quan hệ tố tụng phối hợp chế ước giữa TA và VKS
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có ý nghĩa trong việc xác định sự thật khách quan của
vụ án, đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần nang cao
chất lượng xét xử.

CHƯƠNG 2
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU


23

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

MỐI QUAN HỆ GIỮA TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn truy tố đồng thời là trung tâm
của hoạt động xét xử, quyết định quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khi khởi tố điều tra
đến khi đưa bị cáo ra tòa11. Một người dù bị phạm tội quả tang hay bị tình nghi mà bị cơ
quan điều tra khởi tố điều tra và bị VKS truy tố thì họ vẫn chưa bị coi là có tội nếu như
họ chưa bị TA kết án. Điều 72 Hiến pháp năm 1992 và điều 9 BLTTHS đều quy định:
“Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của
Toà án đã có hiệu lực của pháp luật”. Quy định này càng thể hiện tầm quan trọng của
của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Trong quá trình xét xử sơ thẩm, mọi chứng cứ, tài liệu mà
cơ quan điều tra thu thập trong quá trình điều tra được xem xét một cách công khai,
những người tham gia tố tụng được tranh luận, đối đáp với nhau trước TA, người này biết
người khác khai như thế nào. Tại phiên tòa sơ thẩm còn kiểm tra tính hợp pháp của hoạt
động điều tra của Điều tra viên và hoạt động kiểm sát điều tra của Kiểm sát viên và
những người tham gia tố tụng khác.
Để đạt được mục đích, yêu cầu của hoạt động xét xử, TA và những cơ quan tiến
hành tố tụng mà đặc biệt là VKS, trong giai đoạn xét xử ngoài việc phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định của BLTTHS từ khâu chuẩn bị đến xét xử tại phiên toà và cuối cùng là
tuyên án thì giữa hai cơ quan này cần phải có sự phối hợp với nhau thật chặt chẽ. Bên
cạnh đó để đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ giữa hai cơ quan này diễn ra đúng luật
thì cũng cần phải thực hiện việc chế ước, khống chế, kiềm chế lẫn nhau trong quá trình
xét xử.


2.1 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trước khi mở phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
Trong tố tụng hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng, nhiệm
vụ chung mà pháp luật tố tụng hình sự đặt ra cho cả TA và VKS là phải xác định sự thật
11

Trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, quá trình tố tụng hình sự bao gồm các giai đoạn kế tiếp nhau: khởi tố vụ
án hình sự; điều tra vụ án; xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm); thi hành án hình sự; xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Sự phân chia các giai đoạn này gắn liền với trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy độc
lập nhưng vẫn năm trong mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo thành hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là
tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Kết thúc mỗi
giai đoạn lại phải có kết luận dưới hình thức văn bản tố tụng hình sự để giải quyết vụ án hình sự hay chuyển sang
giai đoạn kế tiếp. Tất cả hoạt động trong các giai đoạn trên phải được tiến hành theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự

GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

24

SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


Đề tài - Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

vụ án một cách khách quan, không để lọt tội phạm và cũng không làm oan người vô tội
(Điều 10 BLTTHS). Do đó, để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ này, trong giai đoạn xét
xử sở thẩm vụ án hình sự, trước khi mở phiên tòa pháp luật có quy định một khoảng thời
gian để chuẩn bị một cách tốt nhất cho việc xét xử công khai tại phiên tòa. Trong thời
gian này, TA có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các công việc cần thiết khác và
khi hết thời hạn này Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các

quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án (Điều 176 BLTTHS). Còn VKS sau khi chuyển hồ sơ vụ án sang cho TA nghiên cứu,
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vẫn phải thực hiện việc nghiên cứu hồ sơ để đảm bảo cho
việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật bằng việc rút quyết định truy tố trước
khi mở phiên tòa và đề nghị TA đình chỉ vụ án (Điều 181 BLTTHS) và đồng thời kiểm
sát các hoạt động tiến hành của TA trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Thông qua việc thực
hiện các công việc này làm phát sinh mối quan hệ tố tụng giữa TA và VKS trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, đặc biệt là mối quan hệ giữa TA và VKS trong việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung; rút quyết định truy tố và đình chỉ vụ án.
2.1.1 Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát về việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong thời hạn luật định
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định: đưa vụ án
ra xét xử; trả hồ sơ điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án (Điều 176
BLTTHS). Theo đó, trả hồ sơ điều tra bổ trong giai đoạn xét xử là việc sau khi xem xét
vụ án, TA xét thấy cần phải được điều tra bổ sung làm rõ thêm những vấn đề cần thiết để
đảm bảo cho việc xét xử một cách đúng người đúng tội, đúng pháp luật nên TA trả hồ sơ
cho VKS để thực hiện việc bổ sung. Cụ thể, theo quy định khoản 1 Điều 179 BLTTHS,
Thẩm phán được phân công ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong những trường
hợp: Khi cần xem xét thêm chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại
phiên tòa được; khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm
khác; khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Những vấn đề cần điều tra
bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.
Theo như cách hướng dẫn của Thông tư 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCATANDTC hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung thì
chứng cứ quan trọng đối với vụ án là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng
để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu
GVHD: TH.S. MẠC GIÁNG CHÂU

25


SVTH: NGUYỄN QUỐC VỤ


×