Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong các chế định của phần chung bộ luật hình sự hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.27 KB, 55 trang )

Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:

NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG CÁC CHẾ ĐỊNH CỦA PHẦN CHUNG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Giảng viên hướng dẫn:
Ts. Phạm Văn Beo

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

Sinh viên thực hiện:
Hứa Văn Biên
Mssv: 5075245
Lớp Tư pháp 03 – K33

1

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành

MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Mục đích của đề tài....................................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................2
5. Cơ cấu của đề tài........................................................................................................2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhân đạo và pháp luật.............................................................................................4
1.1.1. Khái niệm nhân đạo.............................................................................................4
1.1.2. Mối liên hệ giữa nhân đạo và pháp luật...............................................................6
1.2. Nhân đạo - nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự Việt Nam.....................................9
1.2.1. Khái niệm nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam................................9
1.2.2. Nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam.......................10
1.2.3. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam.........................17
CHƯƠNG 2
SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG CÁC CHẾ ĐỊNH
CỦA PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong chế định hồi tố theo Luật hình sự Việt
Nam.............................................................................................................................20
2.2. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong chế định miễn trách nhiệm hình sự. . .22
2.3. Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chế định thời hiệu....................................26
2.4. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong chế định miễn hình phạt....................30
2.5. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong trong chế định giảm thời hạn chấp
hành hình phạt..............................................................................................................33
2.6. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong chế định án treo.................................35
2.7. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong chế định xóa án tích..........................36
CHƯƠNG 3
HOÀN THIỆN CÁC CHẾ ĐỊNH CỦA PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM HIỆN HÀNH THEO YÊU CẦU CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO
3.1. Những hạn chế trong các chế định của phần chung Bộ luật Hình sự Việt Nam năm
hiện hành so với yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo......................................................39
3.1.1. Miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
còn hạn chế trong quy định áp dụng đối với những người đồng phạm.......................39

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

2

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
3.1.2. Luật chưa quy định đối với những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự khác
(ngoài miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội) là giao
người phạm tội cho gia đình, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục...............................40
3.1.3. Nhà làm luật nước ta chưa có sự phân hóa cụ thể giữa hai chế định – miễn trách
nhiệm hình sự và miễn hình phạt (Điều 54, Điều 314)................................................40
3.1.4. Luật không quy định rõ cơ sở để xem xét và quyết định có áp dụng thời hiệu hay
không đối với bản án tù chung thân và tử hình............................................................41
3.1.5. Luật quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự sẽ tạo cho Tòa án có quyền
tùy nghi trong việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ.......................................................41
3.1.6. Quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự tạo ra những khó khăn,
vướng mắt nhất định cho hoạt động xét xử..................................................................43
3.1.7. Luật chưa quy định trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo, nếu
không có nơi làm việc ổn định và không có nơi thường trú rõ ràng thì Tòa án sẽ giao
cho ai?..........................................................................................................................44
3.2. Quan điểm hoàn thiện và những đề xuất hoàn thiện Bộ luật Hình sự nhằm đảm
bảo nguyên tắc nhân đạo trong các chế định của phần chung Bộ Luật Hình sự Việt

Nam hiện hành.............................................................................................................44
3.2.1. Cần quy định miễn trách nhiệm hình sự do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội đối với tất cả những người đồng phạm khi có những căn cứ cụ thể........................44
3.2.2. Bộ luật Hình sự 1999 cần bổ sung vào khoản 2 Điều 69 là đối với tất cả các
trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, người phạm tội đều bị gia đình hoặc cơ quan, tổ
chức giám sát, giáo dục................................................................................................45
3.2.3. Nhà làm luật nước ta cần nghiên cứu để tách biệt hai chế định – miễn trách
nhiệm hình sự và miễn hình phạt (Điều 54, Điều 314), để tạo thuận lợi cho thực tiễn áp
dụng.............................................................................................................................45
3.2.4. Luật cần quy định rõ căn cứ và thời hạn để tạo cơ sở cho việc xem xét và quyết
định có áp dụng thời hiệu hay không đối với bản án tù chung thân hoặc tử hình (khoản
4 Điều 55)....................................................................................................................46
3.2.5. Luật cần quy định rõ căn cứ và thời hạn để tạo cơ sở cho việc xem xét và quyết
định có áp dụng thời hiệu hay không đối với bản án tù chung thân hoặc tử hình (khoản
4 Điều 55)....................................................................................................................47
3.2.6. Bộ luật Hình sự 1999 cần sửa đổi quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 theo
hướng chỉ cần có sự “trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại”....................47
3.2.7. Luật cần quy định bổ sung vào khoản 2 Điều 60 theo hướng Tòa án giao người
được hưởng án treo cho chính quyền địa phương hoặc nơi làm việc có quyền và lợi ích
gắn bó, gần gũi nhất đối với họ để giám sát, giáo dục..................................................47

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

3

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
3.2.8. Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành cần bổ sung vào chế định xóa án một khái

niệm án tích..................................................................................................................48
KẾT LUẬN.................................................................................................................49

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

4

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân đạo là giá trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của xã hội
loài người. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta trước sau như một khẳng định sự cần
thiết phải thiết lập và thực hiện nhân đạo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước và coi đó là một trong những nguyên tắc quan trọng của chính sách kinh tế - xã
hội cũng như của công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bởi là giá trị cực kỳ quan trọng, nhân đạo được đăng tải và thể hiện mạnh mẽ
nhất và rõ nét nhất trong pháp luật. Nhân đạo vừa là thuộc tính, vừa là nội dung cơ bản
của toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung và của từng ngành luật nói riêng. Do vậy,
cùng với những giá trị khác như công bằng, bình đẳng, dân chủ… nhân đạo có vai trò
to lớn đối với xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và toàn bộ đời sống pháp luật của
xã hội. Tuy nhiên, trong sách báo pháp lý nước ta, vấn đề nhân đạo chưa được nghiên
cứu tương xứng với vai trò và vị trí của nó. Tư tưởng nhân đạo chưa được đánh giá
một cách thấu đáo và đầy đủ như một nguyên tắc chung của pháp luật cũng như của
các ngành luật cụ thể. Vì vậy, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về
tư tưởng nhân đạo dưới khía cạnh pháp lý là hướng nghiên cứu cần thiết và quan
trọng.

Xuất phát từ những vấn đề trên nên người viết quyết định chọn đề tài “Nguyên
tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong các chế định của phần chung Bộ luật Hình sự Việt
Nam hiện hành” là đề tài luận văn tốt nghiệp của mình nhằm đóng góp một phần công
sức nhỏ của mình vào việc xây dựng pháp luật Hình sự nói chung và vấn đề nguyên
tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong các chế định của phần chung Bộ luật Hình sự Việt
Nam hiện hành nói riêng, vì thời gian có hạn nên người viết chỉ đi sâu vào một số chế
định trong phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999, mà cụ thể là: chế định miễn trách
nhiệm hình sự; chế định thời hiệu; chế định miễn hình phạt; chế định giảm thời hạn
chấp hành hình phạt; chế định án treo; chế định xóa án tích và hiệu lực hồi tố trong
pháp luật Hình sự Việt Nam để làm rõ sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các
chế định đó.
Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong các chế định của phần chung Bộ
luật Hình sự Việt Nam hiện hành là vấn đề rộng, nhiều mặt, phức tạp, nên trong phạm
vi và khả năng của người viết, khó có thể trình bài được một cách đầy đủ. Trên tinh
thần đó, người viết mong đợi và chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp của quý
thầy cô để đề tài luận văn này được hoàn thiện hơn.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

5

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
2. Mục đích của đề tài
Những quy định về Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong các chế định
của phần chung Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành đã được xây dựng và việc áp
dụng các chế định đó vào thực tiễn đã thể hiện được yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo
trong pháp luật Hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những yêu cầu đã đạt được thì

cũng còn nhiều hạn chế nhất định, đó là vấn đề cần phải được giải quyết. Do đó, người
nghiên cứu cần phải đi sâu phân tích và đánh giá sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo
trong các chế định của phần chung Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở
đó, người nghiên cứu đưa ra các kiến nghị cụ thể về việc hoàn thiện các chế định trong
Bộ luật Hình sự nói riêng, trong pháp luật Hình sự Việt Nam nói chung trong thời kỳ
đổi mới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến việc áp dụng
nguyên tắc nhân đạo trong các chế định của phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam
hiện hành và việc áp dụng các quy định đó vào thực tiễn xét xử. Từ đó vạch ra những
đề xuất cho pháp luật Hình sự Việt Nam nhằm hoàn thiện hơn về nguyên tắc nhân đạo
trong các chế định của phần chung Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm. Đồng thời, người viết còn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp
lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích, so sánh, kết hợp lý luận với thực tiễn và một số
phương pháp khác mà người viết đã vận dụng để hình thành bài luận văn này.
5. Cơ cấu của đề tài: gồm ba phần:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự
Việt Nam
Chương 2: Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các chế định của phần
chung Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành
Chương 3: Hoàn thiện các chế định của phần chung Bộ luật Hình sự Việt Nam
hiện hành theo yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo
Mặc dù đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học ở trường, cùng với thời
gian tiếp cận thực tế, nhưng vẫn không tránh khỏi sự thiếu sót. Vì vậy, mong nhận
được sự quan tâm và ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn. Người viết xin chân
thành cám ơn quý thầy cô đã tận tình giảng dạy trong suốt thời gian qua, đặc biệt là

thầy Phạm Văn Beo đã giúp đỡ hướng dẫn trong suốt quá trình làm luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

6

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
này. Điều này đã giúp cho sự nhận thức lập luận vấn đề của người viết đi đúng hướng
và hiểu rõ hơn về nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam nói chung,
nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong các chế định của phần chung Bộ luật Hình
sự Việt Nam hiện hành nói riêng.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

7

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhân đạo và pháp luật
1.1.1. Khái niệm nhân đạo
Trong tiến trình phát triển của nhân loại, nhân đạo luôn là niềm khát vọng cháy
bỏng của con người. Cùng với những giá trị xã hội khác như công bằng, bình đẳng,
dân chủ, pháp luật… nhân đạo là giá trị xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự

phát triển của xã hội nói chung và của mỗi con người nói riêng. Tồn tại với tính cách
là một trong những giá trị xã hội quan trọng, nhân đạo càng ngày càng khẳng định đầy
đủ hơn trong các mối quan hệ giữa xã hội với cá nhân, giữa nhà nước và công dân,
giữa các tổ chức xã hội và các thành viên của chúng, giữa con người và con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực phát luật. Trong lĩnh vực
pháp luật, nhân đạo được thể hiện đầy đủ nhất và mạnh mẽ nhất, trở thành nền tảng tư
tưởng, nội dung, thuộc tính và nguyên tắc của nó.
Vấn đề nhân đạo là vấn đề con người, vì vậy, muốn làm sáng tỏ khái niệm nhân
đạo, không thể không đi tìm cơ sở lý luận và thực tiễn của nhân đạo vốn được hiểu là
“cái đức yêu thương con người, trên cơ sở tôn trọng phẩm giá, quyền và lợi ích con
người”1, “là đạo đức thể hiện tình thương yêu với ý thức tôn trọng giá trị phẩm chất
của con người”2, “là một từ ghép gốc Hán với nghĩa nhân là người và đạo là đường.
Nhân đạo là đường là người, là đạo làm người, là thương yêu tôn trọng, bảo vệ giá trị,
phẩm giá và quyền sống của con người”3
Trong lịch sử nhân loại đã có nhiều học thuyết đề cập đến vấn đề về bản chất
con người, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội. Ở
trong con người, “cái tự nhiên” và “cái xã hội” cùng tồn tại trong một thể thống nhất.
Bởi vừa là một thực thể sống, lại vừa mang bản chất xã hội, con người là một thực thể
sinh học – xã hội. Trong quá trình hoạt động sống của mình, con người vừa phải chịu
sự tác động của các quy luật tự nhiên lại vừa phải chịu sự tác động của các quy luật xã
hội. Nhờ mặt xã hội mà mặt sinh học trong con người được phát triển ở trình độ cao
hơn so với các động vật khác. “Bản chất con người”, vì vậy theo C.Mác “không phải
là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, con người
là tổng hòa những quan hệ xã hội”.Trong cái “tổng hòa những quan hệ xã hội” đó, với
tính cách là một thực thể sống lại mang bản chất xã hội, đồng thời là chủ thể tạo ra sự
1

Phạm Văn Tỉnh, Vấn đề nhân đạo trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10 năm
2000, tr. 29.
2

Phạm Văn Tỉnh, Vấn đề nhân đạo trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10 năm
2000, tr. 29.
3
Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 1238.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

8

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
tiến bộ xã hội, con người phải được yêu thương, được đối xử một cách công bằng,
bình đẳng phù hợp với tính người, được tôn trọng phẩm giá, các quyền và lợi ích,
trong đó có quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc. Đó
chính là những giá trị, “những đặc lợi” mà con người và chỉ con người mới được
hưởng và phải được hưởng. Vì vậy, dù mang tính tự nhiên hay xã hội, tính phổ biến
hay đặc thù (tương ứng với các điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia), những
giá trị hay những “đặc lợi” đó của con người phải được Nhà nước ghi nhận và đảm bảo
thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực pháp luật.
Thế nhưng, ngay từ khi mới ra đời, bằng việc thực hiện và ghi nhận nguyên tắc bất
bình đẳng trong mọi mặt của đời sống xã hội, coi nô lệ là “công cụ biết nói”, Nhà nước
chủ nô - kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người đã đàn áp, bóc lột và
mặc sức chà đạp lên danh dự, nhân phẩm của người nô lệ. Người nô lệ không hề có bất
kỳ một quyền và lợi ích nào, thậm chí cả quyền thiêng liêng nhất, đó là quyền được
sống. Thay thế Nhà nước chủ nô và vốn được coi là tiến bộ hơn về mặt lịch sử so với
Nhà nước chủ nô, song vì ghi nhận và thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng về mặt xã
hội, nên Nhà nước phong kiến dùng cả “vương quyền” để bóc lột, đàn áp nông dân và
các tầng lớp lao động khác, chà đạp một cánh thô bạo lên danh dự và nhân phẩm của

con người. Vốn được coi là tiến bộ hóa về mặt lịch sử so với Nhà nước phong kiến và
dù chống lại cả “vương quyền” lẫn “thần quyền”, dù ghi nhận và lớn tiếng bảo vệ các
quyền và lợi ích cơ bản của con người, song vốn được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
phương thức sản xuất bóc lột tinh vi, Nhà nước tư sản vẫn tiếp tục kế thừa bản chất
bóc lột của các nhà nước trước nó. Nhà nước tư sản, một mặt ghi nhận các quyền và
lợi ích của con người, nhưng mặt khác sử dụng các thủ đoạn và biện pháp tinh vi khác
nhau để cản trở con người thực hiện các quyền và lợi ích đã được pháp luật ghi nhận
hoặc để chà đạp lên chúng một cách thô bạo và mất tính người.
Bản chất bóc lột của Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư
sản là miếng đất màu mỡ cho các tệ hại về đạo đức và lối sống trong các mối quan hệ
giữa con người và con người, đặt biệt là giữa con người và con người thuộc các giai
cấp và tầng lớp hay nhóm xã hội khác nhau tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, trong
các nhà nước bóc lột, những con người lao động nghèo khổ trong xã hội không những
không được hưởng dù là ở mức tối thiểu nhất các quyền và lợi ích của con người mà
còn tệ hơn nữa, họ bị xô đẩy xuống giới hạn tận cùng của tệ hại về đạo đức và lối
sống, của sự dã man, bất công và vô nhân đạo.
Trong những cảnh khốn cùng của sự bóc lột và đối xử bất công, dã man, tàn
bạo, mất tính người từ đó, những người lao động nghèo khổ vẫn luôn hy vọng một
cuộc sống tốt đẹp hơn và một trong những phương thức thực hiện hy vọng đó mà họ
nhận thức được là vùng lên đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột cũng như chống lại
GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

9

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
các tệ hại về đạo đức trong xã hội. Trong quá trình đấu tranh chống lại cái ác, các tệ
hại về đạo đức và lối sống, đặt biệt là trong quá trình đấu tranh vì tự do, công bằng,

bình đẳng, dân chủ, bác ái… xuất hiện trong quần chúng nhân dân lao động cũng như
trong một số người tiến bộ thuộc các giai cấp bóc lột những tư tưởng coi trọng giá trị
con người, ca ngợi cái thiện, chống lại cái ác và ở một trình độ cao hơn, ca ngợi các
giá trị công bằng, bình đẳng, bác ái, ước mơ giải phóng con người khỏi mọi áp bức
bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội vì hạnh phúc của con người. Và đến khi chủ
nghĩa Mác- Lênin ra đời với việc long trọng tuyên bố xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ chế
độ người bóc lột người và xác lập các mối quan hệ bình đẳng, công bằng về quyền và
nghĩa vụ giữa con người với con người trong xã hội, giữa nhà nước và công dân với
phương châm: tôn trọng và bảo vệ quyền con người, người với người là bạn, là đồng
chí, là anh em, nhân đạo mới thực sự đã trở thành giá trị xã hội có ý nghĩa vô cùng to
lớn đối với sự phát triển của xã hội, của Nhà nước và của cá nhân. Đó là những tư
tưởng mang tính nhân đạo cao cả.
Từ những điểm phân tích trên đây, có thể chia sẽ với quan điểm đã cho rằng
“với cái đức yêu thương con người, trên cơ sở tôn trọng phẩm giá, quyền và lợi ích của
con người, nhân đạo là phạm trù xã hội và là một giá trị xã hội được sản sinh trong quá
trình đấu tranh chống cái ác của loài người, đặt biệt trong thời kỳ đấu tranh vì tự do,
bình đẳng bát ái những tư tưởng nhân đạo đã được phát triển thành chủ nghĩa nhân đạo
với tính cách là tổng thể những quan điểm thể hiện sự tôn trọng phẩm giá và quyền của
con người, chăm lo đến hạnh phúc, sự phát triển toàn diện, chăm lo đến việc tạo ra
những điều kiện sinh hoạt xã hội thuận lợi cho con người”4.
Như vậy, ở nghĩa rộng, nhân đạo được hiểu là sự thừa nhận cá nhân (con
người) là một giá trị, khẳng định lợi ích của con người là tiêu chí đánh giá các quan
hệ xã hội. Vấn đề đạo đức, vì vậy là vấn đề con người, liên quan đến tất cả mọi người.
Ở nghĩa hẹp, nhân đạo được hiểu là sự yêu thương, quý trọng con người, là sự đối xử
nhân từ, có tình người đối với họ5.
1.1.2. Mối liên hệ giữa nhân đạo và pháp luật
Cũng bởi là vấn đề con người, nhân đạo chẳng những có mối liên hệ mật thiết,
đan xen và xâm nhập lẫn nhau với các giá trị xã hội khác như công bằng, bình đẳng,
dân chủ… vốn được coi là “là những yếu tố không thể thiếu của nhân đạo” mà còn có
mối liên hệ mật thiết với pháp luật.

Những năm gần đây, trên sách báo khoa học pháp lý trong và ngoài nước, pháp
luật được nhìn nhận không chỉ là công cụ, phương tiện, mà Nhà nước sử dụng để quản
lý xã hội mà còn là một giá trị xã hội thực sự. Việc thừa nhận pháp luật như một giá trị
4
5

Phạm Văn Tỉnh, tài liệu đã dẫn, tr. 29.
Hồ Sỹ Sơn, Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Khoa học – Xã hội, Hà Nội, 2009, tr. 24.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

10

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
xã hội làm nảy sinh nhu cầu nghiên cứu về mối liên hệ giữa pháp luật và nhân đạo.
Pháp luật được hiểu “là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí giai cấp
thống trị trong xã hội, được quy định bởi cơ sở kinh tế - xã hội, là yếu tố điều chỉnh
các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự ổn định trong xã hội”6. Cùng là những giá trị
xã hội, nhân đạo và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ đó được
thể hiện như sau:
Thứ nhất, cả nhân đạo lẫn pháp luật đều có nội dung vật chất do phương thức
sản xuất tương ứng quyết định. Chính đặc điểm này cho thấy được mối liên hệ bản
chất giữa nhân đạo và pháp luật, vì sao mà pháp luật trước đây không có tính nhân đạo
thực sự và sâu sắc. Do pháp luật trước đây được xây dựng trên nền tảng của cơ sở kinh
tế hạ tầng thấp kém, vì vậy tính nhân đạo được thể hiện trong pháp luật cũng thấp hơn
ngày nay.

Thứ hai, cả nhân đạo lẫn pháp luật đều gắn liền với lợi ích mà trước hết là lợi
ích của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị trong xã hội đó. Khi mà lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp và tầng lớp khác trong
xã hội, đặc biệt là phù hợp với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động, thì cả nhân đạo
lẫn pháp luật mới trở thành chuẩn mực chung cho mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy,
để xác lập nên hệ tư tưởng nhân đạo, giai cấp thống trị chẳng những phải biểu hiện lợi
ích của mình thành lợi ích chung của toàn xã hội mà còn “phải gắn cho hệ tư tưởng
của mình thành hệ tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến”. Do đó,
trong những điều kiện xã hội hiện nay, nhân đạo và pháp luật vượt lên trên tính giai
cấp của chúng để trở thành những giá trị xã hội đích thực và đều là những phương tiện
hữu hiệu điều chỉnh các quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp. Mặc khác, cả
nhân đạo lẫn pháp luật đều có vai trò tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư duy, tình
cảm và hành vi của mọi người trong xã hội. Tuy nhiên, để thể hiện được đầy đủ vai trò
đó, cả nhân đạo lẫn pháp luật phải được dựa trên nền tảng tư tưởng coi con người là
giá trị cao nhất, coi mục đích của tiến bộ xã hội là ngày càng thỏa mãn nhiều hơn nhu
cầu và lợi ích chính đáng của con người.
Thứ ba, cả nhân đạo lẫn pháp luật tồn tại, hoạt động trong sự tác động, bổ sung
cho nhau nhằm duy trì và củng cố trật tự xã hội và trật tự pháp luật. Cũng như những
cặp phạm trù: thiện - ác, tốt - xấu, công bằng – bất công, bình đẳng – bất bình đẳng,
nhân đạo và mặt đối lập của nó là vô nhân đạo, từ lâu đã trở thành những tiêu chí đánh
giá hành vi của con người. Khi Nhà nước và pháp luật ra đời, những tiêu chí đó còn
được dùng để dánh giá nội dung và bản chất của pháp luật mà Nhà nước ban hành.
6

Võ Khánh Vinh, Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Đại học Huế, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, 2002, tr. 209.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

11


SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
Cũng từ Nhà nước và pháp luật ra đời, nhân đạo chủ yếu được hóa thân vào pháp luật,
cùng với pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, phạm vi, phương thức và
cả hiệu quả điều chỉnh của nhân đạo và pháp luật không hoàn toàn giống nhau. Pháp
luật, như đã nhấn mạnh, là những quy tắc xử sự đã được chuẩn hóa cho toàn xã hội.
Trong khi đó, ngoài phạm vi đã được nâng lên thành luật, nhân đạo còn tồn tại dưới
những hình thức khác, vì vậy nó còn có khả năng hỗ trợ cho pháp luật trong những
trường hợp hay lĩnh vực mà pháp luật không thể hay không cần thiết phải điều chỉnh.
Chính sự cùng tồn tại của nhân đạo và pháp luật có tác dụng hỗ trợ cho nhau làm cho
các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp phát triển lành mạnh, có trật tự, có
tính người theo hướng và mục đích đã xác định trước.
Thứ tư, pháp luật là phương tiện ghi nhận và thực hiện nhân đạo có hiệu quả
nhất. Pháp luật ra đời còn là nhằm chuyển tải, chuẩn mực hóa quan niệm nhân đạo
chung của xã hội. Nói cách khác, pháp luật là hình thức pháp lý của nhân đạo. Khi
được thông qua pháp luật, tức thông qua những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế
Nhà nước, các quan niệm, quan điểm, tư tưởng nhân đạo đi vào đời sống xã hội một
cách đầy đủ và mạnh mẽ. Và khi sự chuẩn mực hóa quan điểm về nhân đạo thay đổi
tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi nội dung và bản chất của pháp luật. Đồng thời việc sử
dụng pháp luật thuần túy như một công cụ cưỡng chế nhằm phục vụ cho lợi ích của
một giai cấp nhất định, sẽ tạo ra sự vô nhân đạo trong xã hội. Chính vì vậy, cái “đạo
làm người” của giai cấp thống trị trong xã hội không lấy lợi ích của số đông con người
trong xã hội làm tiêu chí cho các mối quan hệ xã hội, sẽ không thể là nền tảng cho một
pháp luật nhân đạo tiến bộ.
Trong các nấc thang giá trị xã hội, pháp luật không thể ở vị trí cao hơn nhân
đạo. Và, xét đến cùng, pháp luật không thể là hình thức tồn tại duy nhất của nhân đạo.

Ngoài pháp luật ra, nhân đạo còn được thể hiện thông qua các hình thức khác như
chính trị, đạo đức, tập quán, tôn giáo, văn hóa,… Mỗi hình thức tồn tại của nhân đạo
có đặc trưng và phương thức tác động của mình tới các quan hệ xã hội trong sự hỗ trợ
lẫn nhau của chúng. Tuy nhiên, bởi hình thức biểu hiện đa dạng (các nguyên tắc pháp
lý, hệ thống các quy phạm pháp luật thực định, án lệ,…), bởi phạm vi thể hiện rộng
(qua hoạt động xây dựng pháp luật, qua cơ chế điều chỉnh pháp luật, qua ý thức pháp
luật của các chủ thể,…) và bởi những thuộc tính của mình (tính điển hình phổ biến,
tính chặt chẽ về mặt hình thức, tính được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà
nước), pháp luật luôn là phương tiện ghi nhận và thực hiện nhân đạo có hiệu quả nhất.
Không chỉ là phương tiện như vậy, “Luật pháp cũng cần phải có yếu tố tình người nếu

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

12

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
không nó chỉ là một cỗ máy vô cảm không hơn không kém và hoàn toàn không có tác
dụng làm cho xã hội tốt đẹp hơn và yên bình hơn”7.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhiều giá trị nhân đạo đã mang tính toàn
cầu bắt buộc chung. Điều này được thể hiện trong các điều ước quốc tế phổ biến về
nhân quyền. Những giá trị nhân đạo đó đã tác động sâu sắc tới pháp luật quốc gia, đặc
biệt các quốc gia có chuẩn mực nhân đạo thấp hơn chuẩn mực chung. Tuy nhiên, hiện
nay vẫn còn có những giá trị nhân đạo ở các quốc gia còn khác nhau và thậm chí có
điểm trái ngược nhau. Điều này có thể giải thích được khi chúng ta thấy được rằng cơ
sở kinh tế hạ tầng mà cốt lõi quyết định là lực lượng sản xuất của các quốc gia còn rất
chênh lệch nhau. Do vậy, chúng ta có thể hiểu được tại sao có quốc gia đã xóa bỏ hoàn
toàn hình phạt tử hình, có quốc gia vẫn duy trì nó. Tuy nhiên, chuẩn mực nhân đạo của

mỗi quốc gia còn tùy thuộc vào tổng thể các yếu tố khác, song cơ sở kinh tế hạ tầng
mà cốt lỗi là lực lượng sản xuất của quốc gia đó là yếu tố quyết dịnh.
1.2. Nhân đạo – nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự Việt Nam
1.2.1 Khái niệm nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam
Nhân đạo, như đã nhấn mạnh là phạm trù đạo đức thừa nhận và tôn trọng danh
dự, nhân phẩm của con người, coi con người là giá trị cao nhất, coi mục đích của các
quá trình phát triển xã hội và của sự tiến bộ xã hội là vì lợi ích của mọi người. Trong
lĩnh vực xã hội pháp luật, nhân đạo thể hiện ở chỗ không phải con người tồn tại vì
pháp luật mà ngược lại, pháp luật phải tồn tại vì con người. Do vậy, tư tưởng nhân đạo
phải là nền tảng cho nội dung của hệ thống pháp luật, “chi phối chẳng những phương
pháp điều chỉnh pháp luật, mà còn chi phối cả tính chất của các quan hệ pháp lý cũng
như các hoạt động của các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật”8. Với nghĩa đó,
nhân đạo phải trở thành nguyên tắc của hệ thống pháp luật.
Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là tư tưởng chủ đạo được ghi nhận
trong Luật hình sự chỉ đạo hoạt động xây dựng và áp dụng Luật hình sự mà nội dung
cơ bản của nó là sự khoan hồng của Luật hình sự đối với người phạm tội. Mức độ,
phạm vi của sự khoan hồng của Luật hình sự đối với người phạm tội được quyết định
bởi điều kiện xã hội và ràng buộc bởi các nguyên tắc khác của Luật hình sự, mà trước
hết là công lý, công bằng xã hội9.
Với tính cách là một nguyên tắc của pháp luật, nhân đạo đòi hỏi pháp luật phải
thể hiện và bảo vệ được những giá trị nhân đạo của xã hội. Cụ thể là: thứ nhất, ghi
nhận và bảo đảm thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh,…”; thứ hai, ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế tư
7

Xem: Báo đời sống và pháp luật, Số 79, ngày 01 tháng 7 năm 2008, tr. 16
Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1, (Phần chung), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 281.
9
Hồ Sỹ Sơn, Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt nam, Nxb. Khoa học – Xã hội, Hà Nội, 2009, tr. 70.

8

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

13

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
tưởng coi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, xác định rõ các hình
thức nhằm bảo đảm cho nhân dân được tham gia rộng rãi vào quản lý các công việc
của Nhà nước ; thứ ba, quy định ngày càng nhiều các quyền và lợi ích, đặc biệt là các
quyền tự do dân chủ và bảo đảm cho các quyền và lợi ích đó được thực hiện đầy đủ
trên thực tế, đồng thời phải xử lý một cách công minh mọi hành vi xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân; thứ tư, xác lập phạm vi tối thiểu và cần thiết của
công quyền trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, đồng thời phải quy định
những bảo đảm thực tế để công dân phòng ngừa được các hành vi lạm dụng quyền lực
Nhà nước vi phạm các quyền và lợi ích của họ; thứ năm, quy định phạm vi pháp lý
giống nhau của hành vi vi phạm pháp luật, quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý như
nhau đối với mọi thành viên của xã hội, quy định các quy phạm loại bỏ đặc quyền đặc
lợi đối với những cá nhân nhất định; thứ sáu, quy định các biện pháp trách nhiệm pháp
lý không nhằm gây đau đớn về thể xác, không nhằm hạ thấp hoặc xúc phạm danh dự
nhân phẩm của người vi phạm pháp luật, kể cả người đó là người phạm tội, mà nhằm
bảo đảm công lý, công bằng xã hội, cải tạo giáo dục người vi phạm pháp luật sửa chữa
lỗi lầm để trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ tái vi phạm
pháp luật và không vi phạm pháp luật; thứ bảy, quy định ngày càng đầy đủ, có tính khả
thi các trình tự thủ tục tố tụng các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hình sự,… để các vụ
án đó được giải quyết một cách nhanh chóng, công khai có cơ sở pháp luật, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.2.2. Nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam
Là bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật hình sự không thể
không hàm chứa nội dung và các yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật.
Tuy nhiên bởi đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của luật hình sự và bởi
mục đích và nhiệm vụ của ngành luật này mà nguyên tắc nhân đạo có tính đặc thù lớn
đến nổi cho đến ngày nay trong khoa học pháp lý hình sự trong và ngoài nước vẫn
chưa có câu trả lời thống nhất trước câu hỏi: nói đến nhân đạo trong Luật hình sự là
nói đến nhân đạo với ai? Với xã hội? Với nhà nước? Với người bị hại? Với người
phạm tội?
Xuất phát từ nội dung trừng trị vốn có của hình phạt, một số nhà luật học nhận
thức nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự theo một bình diện: nhân đạo đối với
người phạm tội thể hiện ở việc xác định tính chất của các phương tiện tác động của
Luật hình sự. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng “Nguyên tắc nhân đạo không đặc
trưng cho Luật hình sự có nhiều điều cấm hình sự (tội phạm) và nhiều loại hình phạt
nghiêm khắc, trong đó có hình phạt tử hình và hình phạt tù có thời hạn dài. Vì vậy,
nguyên tắc nhân đạo chỉ có ý nghĩa hạn chế cưỡng chế hình sự thông qua việc xác định
loại và mức hình phạt và các nguyên tắc quyết định hình phạt”. Kênh cơ bản để thực
GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

14

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
hiện đối xử nhân đạo đối với người phạm tội, vì vậy cần tiếp tục nhân đạo hóa Luật
hình sự bằng cách làm mềm hóa các phương tiện và biện pháp đấu tranh với tội
phạm”. Tương tự, khi bàn về việc áp dụng hình phạt tử hình, có quan điểm nhấn mạnh
rằng: “Đôi khi người ta gọi việc làm đó là việc làm nhân đạo – nhân đạo đối với xã
hội. Chúng tôi cho rằng, dù sao đi nữa thì việc làm đó không phải là việc làm nhân đạo

mà là việc làm bắt buộc vì lợi ích xã hội, là sự làm gián đoạn quá trình đưa nguyên tắc
nhân đạo vào cuộc sống”. Ở mức độ mạnh mẽ, trực diện hơn, có quan điểm khẳng
định: “Ngay cả khi thừa nhận nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự có nội dung
rộng lớn thể hiện ở cả tính chất các quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ, ở cả các
phương tiện và phương pháp mà Luật hình sự sử dụng để bảo vệ các quan hệ xã hội
đó, ở cả các loại và khung hình phạt mà nhà làm luật quy định đối với tội phạm, cũng
cần phải nhận thức nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong Luật hình sự trái
ngược với mục đích trả thù người phạm tội mà là tạo điều kiện có thể có được để
người phạm tội cải tạo tốt, trở lại làm ăn lương thiện. Hình phạt cũng như các biện
pháp tác động khác của Luật hình sự chỉ áp dụng đến mức độ cần cho sự cải tạo và
giáo dục chứ không nhằm mục đích khác. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa được
thể hiện khi quyết định hình phạt và các biện pháp tác động khác của cơ quan có thẩm
quyền, trong quá trình cải tạo giáo dục người phạm tội và khi họ đã chấp hành xong
hình phạt”. Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự, theo một quan điểm khác, “trước
hết thể hiện ở chỗ với người phạm tội thì xã hội, Nhà nước không có mục đích trả thù
mà ngược lại tạo mọi điều kiện có thể được để cho người đó cải tạo tốt, trở lại làm ăn
lương thiện, có ích cho xã hội. Hình phạt cũng như các biện pháp tác động pháp lý
hình sự khác không nhằm gây đau đớn về thể xác, không nhằm hạ thấp phẩm giá của
con người và chỉ được áp dụng đến mức độ cần thiết tối thiểu cho sự cải tạo và giáo
dục. Luật hình sự Việt Nam khoan hồng đối với những người nhất thời phạm tội ít
nghiêm trọng, đối với người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc
tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại. Luật hình sự Việt
Nam có những quy định tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo và tích cực cải tạo
như: miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt,
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự, án treo. Hình phạt tù
chung thân và hình phạt tù tử hình được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng và với điều kiện chặt chẽ, phạm vi nhất định; hình phạt tù chung thân và
hình phạt tử hình không được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với
phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc
khi xét xử”10. Cũng có quan điểm nhìn nhận rộng hơn về nội dung của nguyên tắc nhân

10

Võ Khánh Vinh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002,
tr. 33.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

15

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
đạo trong Luật hình sự, theo đó: 1) “Hình phạt, các biện pháp tư pháp và các chế định
pháp lý hình sự khác được áp dụng đối với người phạm tội không nhằm mục đích gây
nên những đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm của con người; 2) Nếu trong việc
gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự mà thiếu dù chỉ một trong năm đặc điểm của tội
phạm – thiếu một trong năm dấu hiệu của chủ thể của tội phạm – thiếu một trong năm
điều kiện của trách nhiệm hình sự thì tương ứng như vậy, hành vi ấy không phải là tội
phạm – người thực hiện hành vi ấy không phải là chủ thể của tội phạm và do đó trách
nhiệm hình sự bị loại trừ; 3) Mức độ trách nhiệm hình sự của người có năng lực trách
nhiệm hình sự hạn chế, người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ,
người quá già yếu hoặc mắc bệch hiểm nghèo được giảm nhẹ hơn so với người bình
thường”11.
Khác với các quan điểm trên đây vốn được rút ra từ việc nghiên cứu nguyên tắc
nhân đạo trong Luật Hình sự theo một bình diện: nhân đạo đối với người phạm tội,
một số quan điểm khác lại được rút ra từ việc nghiên cứu nguyên tắc này theo hai bình
diện: Vừa nhân đạo đối với người phạm tội lại vừa nhân đạo đối với xã hội, Nhà nước,
và các công dân khác trong xã hội. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng “Nguyên tắc
nhân đạo có nội dung: a) Bảo đảm an ninh xã hội và nhà nước (bảo vệ lợi ích hợp pháp

của đông đảo nhân dân); b) Tiết kiệm các biện pháp tác động khác không đem lại hoặc
khó đem lại hiệu quả mong muốn; c) Không áp dụng những hình phạt có tính chất gây
đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp danh dự, nhân phảm con người; d) Bản thân hệ thống
hình phạt được xây dựng theo sơ đồ đi từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng hơn và các
chế tài cụ thể của các điều luật tương ứng cũng được thiết kế theo sơ đồ đó; đ) Quy
định thẩm quyền của Chủ Tịch Nước (Tổng Thống) về kiểm tra tính có cơ sở của hình
phạt tử hình đã được tuyên đối với cả những trường hợp người bị kết án không có đơn
xin ân giảm; e) Quy định trong Bộ luật Hình sự các điều kiện và khả năng được miễn,
giảm hình phạt, áp dụng án treo, đặc xá, ân xá… các điều kiện và khả năng miễn trách
nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp tác động hình sự khác đối với các trường
hợp phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, gây nguy hại không lớn,… g) Quy định trong
Bộ luật Hình sự chế độ đặc biệt đối với việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội, người già cả và những đối tượng khác đang được
hưởng sự khoan hồng của Luật hình sự. Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự, theo
một quan điểm khác, thể hiện hai bình diện: bảo đảm an ninh cho các thành viên của
xã hội khỏi sự xâm phạm và bảo đảm quyền con người của người phạm tội. Ở bình
diện thứ nhất, việc quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với một số trường hợp
nhất định phải bảo đảm tính nghiêm khắc ở mức có thể để tác động đến “những thành
viên không vững vàng” trong xã hội nhằm ngăn ngừa họ phạm tội và thông qua đó để
11

Lê Văn Cảm, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 69.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

16

SVTH: Hứa Văn Biên



Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
bảo vệ xã hội. Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện sự bảo đảm quyền con người của
người phạm tội. Bàn về nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự, cũng có quan điểm
nhấn mạnh rằng: “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự thể hiện ở chỗ trước hết và
cần phải bằng các phương tiện tác động của Luật hình sự để bảo đảm nhân thân con
người và công dân, bảo vệ tài sản của họ khỏi sự xâm phạm của tội phạm. Sẽ là có cơ
sở, công bằng và nhân đạo nếu áp dụng các chế tài hình phạt nghiêm khắc nhất đối với
những người thực hiện tội phạm một cách quyết liệt đến cùng bởi hơn ai hết những
người đó đã gây hoang mang lo sợ cho mọi người trong xã hội về an toàn tính mạng
của mình, về việc không được bảo vệ một cách vững chắc khỏi sự xâm phạm của tội
phạm. Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở chỗ nếu có thể thì áp dụng những hình phạt
nhẹ đối với những người lần đầu tiên thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng, gây nguy hại
không lớn cho xã hội, ăn năn hối cải, mong muốn khắc phục hậu quả đã gây ra. Cùng
chia sẽ với quan điểm này, là quan điểm cho rằng “mặc dù tử hình là hình phạt nghiêm
khắc tước đoạt quyền được sống của người phạm tội, là hình phạt chỉ có tác dụng
trừng trị và phòng ngừa mà không có tác dụng giáo dục, cải tạo, nhưng điều đó không
có nghĩa là loại hình phạt này mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự. Ở
đây cần thấy rằng, tính nhân đạo được tập trung thể hiện một cách triệt để ở khía cạnh
xã hội, tức là ở việc phòng ngừa, răn đe phạm tội, bảo đảm an toàn xã hội, chất lượng
cuộc sống. Cũng cần nhắc lại rằng khi nói đến nhân đạo thông thường chúng ta thường
xem xét trước hết là từ phía người phạm tội mà đôi khi đánh giá chưa hết lợi ích của
người khác và xã hội. Cũng khẳng định cần phải nghiên cứu nguyên tắc nhân đạo
trong Luật hình sự theo hai bình diện, nhưng có quan điểm lại cho rằng: “Ở bình diện
thứ nhất, nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là nhân đạo với người bị hại, còn ở
bình diện thứ hai, đó là nhân đạo đối với người phạm tội. Vì vậy, Luật hình sự trước
hết phải bảo vệ con người, công dân về mọi mặt: tính mạng, sức khỏe, các quyền và
lợi ích hợp pháp,… của họ khỏi sự xâm phạm của tội phạm. Nhân đạo hoàn toàn xa lạ
với tình trạng áp dụng hình phạt nhẹ một cách tùy tiện, không có căn cứ - hiện tượng
vẫn thường xảy ra trong thực tiễn xét xử, trong khi cả cơ cấu, cả động thái của tình
hình tội phạm không đòi hỏi thực hiện điều đó. Sự tùy tiện trong áp dụng hình phạt

nhẹ, đã làm cho sự nhân đạo trở thành sự vô nhân đạo đối với con người bị hại – nạn
nhân của tội phạm”.
Từ những quan điểm và cách tiếp cận nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự
được trình bày trên đây có thể thấy các nhà khoa học pháp lý hình sự trong và ngoài
nước rất quan tâm đến vấn đề về nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự, song vẫn
nhận thức nguyên tắc này theo nhiều cách khác nhau. Điều đó cho thấy các nhà khoa
học pháp lý hình sự hoặc quá mở rộng hoặc quá thu hẹp cơ sở lý luận nhận thức về
nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự.
GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

17

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
Các quan điểm và cách tiếp cận nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự trên
hai bình diện mặc dù chỉ ra được mối liên hệ giữa yêu cầu nhân đạo với các yêu cầu
khác của Luật hình sự mà trước hết là công lý, công bằng xã hội, song chưa lột tả được
nội dung của nhân đạo trong ngành luật này. Để có thể nhận thức được một cách có cơ
sở khoa học về nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự, hay nói cách khác, để trả lời
được câu hỏi nói đến nhân đạo trong Luật hình sự là nhân đạo đối với ai, không thể
không xuất phát trước hết từ lý luận về đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự. Chúng
ta biết rằng, đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh khi có
hành vi phạm tội xảy ra, trong đó chủ yếu là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm
tội. Nhà nước là chủ thể có quyền quy định hành vi nào là phạm tội, quy định loại và
mức hình phạt cũng như các biện pháp cưỡng chế hình sự khác để áp dụng đối với
người phạm tội. Nhà nước còn là chủ thể thông qua các cơ quan và những người có
thẩm quyền, có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội. Người phạm
tội là chủ thể phải chấp hành hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự mà Nhà

nước quy định và áp dụng đối với họ. Như vậy, nói đến nguyên tắc nhân đạo trong
Luật hình sự chỉ có thể hiểu là nói đến nhân đạo của Luật hình sự mà chính xác hơn là
nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội chứ không thể là nhân đạo của Nhà
nước đối với Nhà nước. Mặc khác, đành rằng nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự
cần phải được xem xét từ góc độ lợi ích của những cá nhân khác trong xã hội cũng như
của toàn xã hội, song điều đó không có nghĩa là cần coi việc “bảo đảm an ninh xã hội
và Nhà nước”, (bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi người công dân), “bảo vệ nhân thân
con người và công dân, bảo vệ tài sản của họ khỏi sự xâm phạm của tội phạm”… cũng
thuộc nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự12. Điều khẳng định này là
có cơ sở bởi lẽ sự nhân đạo đối với xã hội, đối với Nhà nước và đối với người bị hại…
tuy có liên quan, song không phụ thuộc nội hàm của nguyên tắc nhân đạo trong luật
hình sự.
Các quan điểm xuất phát từ tính chất của hình phạt và các biện pháp tác động
khác của Luật hình sự cũng như từ góc độ áp dụng chúng để nghiên cứu nguyên tắc
nhân đạo trong Luật hình sự trên một bình diện: nhân đạo đối với người phạm tội là
đáng tin cậy. Tuy nhiên, nếu chỉ xuất phát từ nội dung trừng trị vốn có của hình phạt
hoặc tính chất của hình phạt để làm xuất phát điểm nghiên cứu nhân đạo cũng như
nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là chưa hoàn toàn chặt chẽ và có sức thuyết
phục cao. Do vậy, ngoài việc lập luận nhân đạo và nguyên tắc nhân đạo trên cơ sở lý
luận về đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự như đã phân tích, cần lập luận nhân đạo
và nguyên tắc nhân đạo trên cơ sở lý luận về mục đích và nhiệm vụ của Luật hình sự.
Nhân đạo và nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự không thể không liên quan trực
12

Hồ Sỹ Sơn, Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Khoa học – Xã hội, Hà Nội, 2009. tr. 66.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

18


SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
tiếp đến việc xác định mục đích và nhiệm vụ của ngành luật này, cũng như không thể
liên quan trực tiếp đến các phương tiện mà Luật hình sự lựa chọn để giải quyết những
nhiệm vụ và đạt được mục đích đã đề ra. Mục đích mà Luật hình sự hướng đến và
những phương tiện mà ngành luật này sử dụng để đạt được mục đích đó không chỉ là
“công việc mang tính chất nội bộ”. Để phòng ngừa tội phạm, Luật hình sự có thể tác
động và cần phải tác động không chỉ đến người phạm tội mà còn tác động trực tiếp đến
tất cả mọi công dân.
Trình độ phát triển hiện nay của khoa học pháp lý hình sự và tội phạm học cho
phép làm sáng tỏ một cách đầy đủ và chính xác các nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm nói chung cũng như của từng loại tội phạm nói riêng, đồng thời đề ra được các
biện pháp có cơ sở khoa học để tác động một cách có hiệu quả đến người phạm tội.
Con người là một thực thể phức tạp, năng động, không tách rời môi trường xã hội,
nhưng cũng làm chủ được các hành vi của mình. Do vậy, nếu muốn tác động tích cực
đến con người cần phải: thứ nhất, tác động đến chính cá nhân đồng thời tác động đến
điều kiện sống của cá nhân đó; thứ hai, cân nhắc tính phức tạp và tính đặc thù của từng
cá nhân cũng như của các dạng cá nhân; thứ ba, chú ý đến các nhân tố tâm lý – xã hội
cũng như các nhân tố khác với môi trường xã hội mà đôi khi sự tác động của nó đối
với cá nhân còn mạnh hơn sự tác động của Luật hình sự. Luật hình sự muốn hay không
muốn phải đồng thời đạt được các mục đích: bảo vệ được các lợi ích khác nhau trong
xã hội và cải tạo giáo dục người phạm tội thành người lương thiện, có ích cho xã hội
và không phạm tội mới. Nói cách khác, Luật hình sự bảo vệ xã hội khỏi sự xâm phạm
của người phạm tội, đồng thời trả lại cho xã hội chính con người đã từng xâm hại nó
sau khi đã được giáo dục, cải tạo. Những mục đích đó chỉ có thể cùng đạt được một
khi người phạm tội được đối xử một cách nhân đạo, tức được áp dụng những biện
pháp tác động không gây đau đớn về thể xác, không xúc phạm danh dự, nhân phẩm
con người, được áp dụng hình phạt cũng như các biện pháp cưỡng chế hình sự khác

chỉ đến mức “cần” và “đủ” cho việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa họ phạm tội mới
vv… và đó vốn là những biểu hiện của sự khoan hồng của Luật hình sự đối với người
phạm tội.
Mặc dù sự đối xử nhân đạo của Luật hình sự đối với người phạm tội xuất phát
từ nội dung quan hệ trách nhiệm hình sự cụ thể và được thể hiện trong bản án của Tòa
án, nhưng sự đối xử nhân đạo đó cần phải được quy định trong Bộ luật Hình sự, bởi sự
ghi nhận đó là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện đầy đủ nguyên tắc nhân đạo trong
thực tiễn áp dụng Luật hình sự, tránh được sự tùy tiện theo hướng “quá có lợi” hoặc
“quá bất lợi cho người phạm tội”, làm giảm khả năng bảo vệ của Luật hình sự đối với
các lợi ích trong xã hội hoặc áp dụng không đúng hình phạt cũng như các biện pháp
tác động hình sự khác đối với người phạm tội. Do vậy, nội dung của nguyên tắc nhân
GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

19

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
đạo trong Luật hình sự luôn được phản ánh vào các quy định của pháp Luật hình sự
của nước ta. Không phải ngẫu nhiên mà Bộ luật Hình sự năm 1985 của nước ta tại Lời
nói đầu, đã khẳng định: “Bộ luật Hình sự (…) thể hiện chính sách của Đảng và Nhà
nước ta xử phạt người phạm tội không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm giáo dục cải
tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa
và lòng tin vào khả năng cải tạo con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa”. Cũng không
phải ngẫu nhiên mà trong tờ trình của Chính phủ lên Quốc hội nước ta ngày 05 tháng 5
năm 1999 về Dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi), một trong sáu quan điểm chỉ đạo sửa
đổi Dự án này, được nhấn mạnh là “Việc sửa đổi Bộ luật Hình sự phải tuân thủ các
nguyên tắc của Luật hình sự như: pháp chế, dân chủ, nhân đạo, bình đẳng, cụ thể hóa
trách nhiệm hình sự và hình phạt, bảo đảm tôn trọng các điều ước quốc tế mà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia”. Quan điểm nhân đạo đó
được thể hiện một cách nhất quán trong Bộ luật Hình sự mới của nước ta đã được
Quốc Hội nước ta thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực pháp luật từ
ngày 01 tháng 07 năm 2000, như một cấu trúc quan trọng, xung quanh đó các quy định
và chế định được hình thành. Với nghĩa đó, nhân đạo trở thành nguyên tắc cơ bản của
Luật hình sự.
Rõ ràng, nói đến nhân đạo trong Luật hình sự là nói nhân đạo đối với người
phạm tội mà thực chất là nói đến sự khoan hồng của Luật hình sự đối với họ. Sự khoan
hồng của Luật hình sự đối với người phạm tội có biểu hiện duy nhất là xử lý các mức
độ trách nhiệm và quyết định hình phạt vì những lý do nhân đạo. Và vì vậy, không thể
không đồng ý với quan điểm cho rằng, “nói đến nhân đạo là chỉ nói đến giảm bớt trách
nhiệm hình sự và hình phạt”13. Tuy nhiên, mức độ giảm bớt trách nhiệm hình sự và
hình phạt phải được đặt trong mối liên hệ với các yêu cầu của pháp Luật hình sự như
công lý, công bằng xã hội. Đó cũng chính là giới hạn của nhân đạo trong Luật hình sự.
Tuy nhiên, giới hạn của nhân đạo trong Luật hình sự còn tùy thuộc vào trình độ phát
triển của xã hội.
1.2.3. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam
Với nội dung nêu trên, nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự thật sự là giá trị
xã hội tồn tại một cách khách quan, được hình thành trong quá trình phát triển xã hội
do điều kiện lịch sử cụ thể của đời sống xã hội đất nước quyết định. Cũng như những
nguyên tắc khác của Luật hình sự, nguyên tắc nhân đạo “không phải là điểm xuất phát
của sự nghiên cứu mà là kết quả cuối cùng của nó; những nguyên lý ấy không phải
được ứng dụng vào giới tự nhiên và lịch sử loài người mà được rút ra từ giới tự nhiên
và lịch sử loài người; không phải là giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với các
nguyên lý mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng trong chừng mực chúng phù hợp với giới
13

Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1, (Phần chung), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 280.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo


20

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
tự nhiên và lịch sử. Đó là quan điểm duy nhất của vấn đề”. Cũng với nội dung trên
đây, nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện
xã hội cả về phương diện pháp lý. Về phương diện xã hội, nguyên tắc nhân đạo là một
trong những bảo đảm cho việc thực hiện công bằng xã hội về trách nhiệm hình sự,
theo đó, việc quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với mọi người phạm tội
không phân biệt nòi giống, dân tộc, thành phần xuất thân, vị trí xã hội, tình hình kinh
tế, tài sản của họ. Đó là sự công bằng ở khía cạnh ngang bằng của trách nhiệm hình sự
đối với mỗi loại tội phạm. Song, các tội phạm được thực hiện bởi những con người cụ
thể với những điểm khác biệt về nhân thân với sự khác nhau về hình thức và mức độ
thực hiện tội phạm, về tính chất lỗi, về mức độ hậu quả xảy ra trên thực tế có ảnh
hưởng rất lớn đến mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội đòi hỏi phải có cả
khía cạnh phân phối của công bằng về trách nhiệm hình sự, bởi “Cả lịch sử lẫn lý trí”
theo C. Mác “đều đã khẳng định một thực tế là sự tàn bạo, không đếm xỉa gì đến
những trường hợp cụ thể khác nhau, làm cho hình phạt hoàn toàn mất hiệu nghiệm bởi
vì nó làm thủ tiêu hình phạt với tính cách là hệ quả của pháp luật”. Chính nội dung của
nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi Luật hình sự phải biểu đạt một cách toàn diện và đầy đủ
các cơ sở của trách nhiệm hình sự, tạo tiền đề cho việc quyết định công bằng về trách
nhiệm hình sự, và hình phạt, nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ của Luật hình sự nói
chung và của hình phạt nói riêng. Vì vậy, nguyên tắc nhân đạo thực sự trở thành
phương tiện cần thiết để thực hiện công bằng xã hội trong Luật hình sự. Đồng thời, nội
dung của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự còn có ý nghĩa ở phương diện sử
dụng pháp luật Hình sự đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm, theo đó, một mặt,
không phủ nhận vai trò quan trọng của các biện pháp cưỡng chế hình sự một khi các

biện pháp pháp lý khác không có hiệu quả. Đồng thời, các biện pháp cưỡng chế hình
sự chỉ được áp dụng trong giới hạn “cần” và “đủ” để đấu tranh, phòng ngừa và chống
tội phạm một cách có hiệu quả. Để thực hiện chủ trương đó, bên cạnh xác định nhiệm
vụ của Luật hình sự, quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự, hình phạt, hệ thống hình
phạt, các căn cứ quyết định các tình tiết giảm nhẹ, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự, xóa án tích…Đó chính là những cách thức đưa nội dung của nguyên tắc nhân đạo
vào lĩnh vực xử lý tội phạm và người phạm tội với mục đích cao nhất là phòng ngừa
tội phạm. Đó chính là ý nghĩa xã hội của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự.
Giải quyết đúng đắn trách nhiệm hình sự là vấn đề then chốt trong vụ án hình
sự. Để giải quyết tốt vấn đề đó, không thể không căn cứ vào nội dung của nguyên tắc
nhân đạo trong Luật hình sự. Bởi vậy, nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự còn có
ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý. Để đảm bảo sự tương xứng giữa tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt,
nội dung của nguyên tắc nhân đạo được sử dụng như những nhu cầu và phương tiện
GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

21

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
cần thiết cho hoạt động phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong áp dụng Luật
hình sự. Trên bình diện này, nhờ “Trách nhiệm hình sự càng được phân hóa trong luật
thì càng tạo điều kiện cho cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp dụng”, mà công
bằng trong xử lý tội phạm và người phạm tội càng được thực hiện một cách triệt để.
Về mặt pháp lý, ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự thể hiện ở nhu
cầu và phương tiện phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong Luật hình sự; ở
nhu cầu và phương tiện cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp dụng Luật hình sự; ở
điều kiện không áp dụng các biện pháp tác động có tính nghiêm khắc cao và những

điều kiện cần thiết khác để đạt được mục đích của hình phạt.
Các quy định và chế định mang tính nhân đạo của luật hình sự cũng như một
phán quyết mang tính nhân đạo áp dụng đối với người phạm tội có tác dụng giúp họ
“dễ dàng nhận thấy sự hợp lý trong phán quyết đó mà có tâm lý sẵn sàng chấp nhận
phần trách nhiệm đã được quyết định cho cá nhân mình. Yếu tố tâm lý là điều kiện tích
cực trong quá trình cải hóa người phạm tội, hứa hẹn một tác động tốt đến người phạm
tội để họ quyết tâm phục thiện”. Có thể khẳng định rằng, đạt đến mục đích quan trọng
này cũng chính làm “bớt đi một nguồn nguy hiểm cho xã hội”, góp phần làm lành
mạnh môi trường xã hội. Thiết nghĩ, đây chính là ý nghĩa thực tiễn của nguyên tắc
nhân đạo trong Luật hình sự.
Luật hình sự không chỉ tác động đến người phạm tội mà còn tác động đến cả
các thành viên khác trong xã hội, đặt biệt là đối với người bị hại. Các quy định và chế
định mang tính nhân đạo của Luật hình sự, cũng như các phán quyết mang tính nhân
đạo của Tòa án đối với người phạm tội có tác động đến tâm lý của các thành viên
trong xã hội, giúp họ nhận thức được tính công lý, công bằng và nhân đạo của Luật
hình sự, tin tưởng vào vai trò và khả năng của nó trong cuộc đấu tranh, phòng ngừa và
chống tội phạm, nâng cao ý thức pháp luật của mọi người tham gia tích cực vào cảm
hóa giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện có ích cho xã hội. Thiết nghĩ,
đây cũng chính là một trong những ý nghĩa thực tiễn của nguyên tắc nhân đạo trong
Luật hình sự.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

22

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
CHƯƠNG 2

SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG CÁC CHẾ ĐỊNH
CỦA PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1 Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong chế định hồi tố theo Luật hình sự
Việt Nam
Hiệu lực hồi tố là một dạng hiệu lực pháp luật của văn bản quy phạm pháp luật.
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được coi là “tính bắt buộc thi hành của văn
bản quy phạm pháp luật trong một giai đoạn nhất định, trên một không gian nhất định
và với những chủ thể pháp luật nhất định”14.
Hiệu luật hồi tố là “hiệu lực trở về trước của một văn bản quy phạm pháp luật
trước cả ngày văn bản đó được ban hành, tức là các quy định của văn bản quy phạm
pháp luật đó được áp dụng với cả những hành vi, sự kiện đã xảy ra trước ngày văn
bản quy phạm pháp luật đó được ban hành”15. Thông thường văn bản quy phạm pháp
luật bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày văn bản đó được công bố, được đăng Công
báo hoặc được xác định ngay trong văn bản pháp luật đó và thường ở thời điểm muộn
hơn. Nói một cách ngắn gọn, hiệu lực pháp luật của một văn bản pháp luật là trở về
sau, từ ngày hoặc sau ngày văn bản được thông qua, ban hành, công bố, đăng Công
báo… Tuy nhiên, trong những trường hợp cá biệt và như Điều 79 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật quy định, có một số trường hợp cần thiết có thể quy định hiệu
lực trở về trước cho văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, Điều 79 quy định:
“1. Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được
quy định hiệu lực trở về trước.
2. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây:
a. Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành
vi đó pháp luật không vi định trách nhiệm pháp lý.
b. Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn”.
Trước khi Bộ luật hình sự được ban hành (năm 1985), do điều kiện Luật hình
sự chưa hoàn chỉnh nên Luật hình sự Việt Nam còn vận dụng nguyên tắc hồi tố. Việc
vận dụng này xuất phát từ sự cần thiết phải bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã
hội và công dân. Tuy nhiên, khi xã hội phát triển đến một chừng mực nào đó, kỹ thuật
lập pháp hình sự phát triển, yêu cầu của nguyên tắc pháp chế không cho phép áp dụng

nguyên tắc hồi tố để xử lý tội phạm, bởi nó khiến người ta không thể biết trước liệu
việc mình làm hôm nay có chắc chắn không vi phạm pháp luật Hình sự hay không. Tại
khoản 1, 2 Điều 7 Bộ luật Hình sự 1999 quy định:

14
15

/> />
GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

23

SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
“1. Điều luật áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi
hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.
2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế
phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, xóa án tích và các
quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành
vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Theo nguyên tắc đã được thừa nhận chung đó, các quy định của Bộ luật Hình sự
chỉ có thể áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra sau khi Bộ luật Hình sự có hiệu lực
pháp luật và trước khi Bộ luật Hình sự đó hết hiệu lực thi hành. Điều đó xuất phát từ
yêu cầu của nguyên tắc pháp chế là tội phạm và hình phạt phải quy định trong Bộ luật
Hình sự. Dĩ nhiên, yếu tố không có luật không đồng nhất với yếu tố không biết luật. Vì
vậy, về nguyên tắc, Luật hình sự Việt Nam không có hiệu lực hồi tố. Tuy nhiên, thực
hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, Luật hình sự Việt Nam cho phép vận dụng
nguyên tắc hồi tố trong trường hợp có lợi cho người phạm tội. 16Nhưng những điều

kiện và những trường hợp được phép áp dụng hiệu lực hồi tố được quy định hết sức
chặt chẽ, rõ ràng và chỉ nhằm mục đích mang lại quyền lợi cho người phạm tội. Do
vậy, khoản 3 điều 7 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: “Điều luật xóa bỏ một tội phạm,
một hình phạt, một tình tiết nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm
nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì
được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực
thi hành”. Điều đó có nghĩa là, trong những trường hợp khi có điều luật mới quy định
các hậu quả pháp lý có lợi hơn đối với hành vi phạm tội của người phạm tội thì hành vi
đó được áp dụng theo điều luật mới.
Ví dụ: Đối với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới thì Điều
154 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bỏ hình phạt tử hình và hình phạt tù chung thân mà
Điều 97 Bộ luật Hình sự năm 1985 có quy định hai loại hình phạt này; do đó, đối với
người phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trước 0 giờ 00
ngày 01-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
thì áp dụng Điều 154 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Không cần lập luận sâu hơn cũng có thể thấy rằng, quy định tại khoản 3 Điều 7
Bộ luật Hình sự 1999 đã trích dẫn ở trên thấm đượm tinh thần nhân đạo của Luật hình
sự nước ta, kế thừa có chọn lọc giá trị lập pháp của ông cha ngày trước và đặc biệt thể
hiện sự tin tưởng mạnh hơn của Luật hình sự hiện nay vào khả năng cải tạo giáo dục
của người phạm tội.
16

Xem: 1. Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự.
2. Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 05/7/2000 hướng dẫn
thi hành Điều 7 Bộ luật Hình sự 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21/12/1999.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

24


SVTH: Hứa Văn Biên


Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS hiện hành
2.2. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong chế định miễn trách nhiệm hình
sự
Để quy định một hành vi nào đó là tội phạm, nhà làm luật bao giờ cũng xuất
phát từ việc xem xét hành vi đó đã nguy hiểm như thế nào cho xã hội và cũng chỉ có
những hành vi thật sự nguy hiểm cho giai cấp thống trị, cho xã hội mới được Nhà nước
quy định là tội phạm. Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý do
người phạm tội phải chịu trước Nhà nước. Trách nhiệm hình sự được thể hiện qua việc
người phạm tội bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự khác nhau như bị truy tố,
khởi tố, điều tra, các biện pháp tư pháp, hình phạt. Tuy nhiên, trong thực tế, không
phải tất cả các tội phạm cũng như các trường hợp phạm tội đều giống nhau. Có tội
phạm ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Chính vì vậy, để cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đạt kết quả cao, cùng
với việc phân loại tội phạm, Luật hình sự đồng thời cũng phân hoá các trường hợp
phạm tội, các đối tượng phạm tội khác nhau để có đường lối xử lý phù hợp, công bằng
và đúng đắn. Đặc biệt, sự phân hóa người phạm tội và các trường hợp phạm tội còn thể
hiện ở chỗ không phải tất cả những người phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Đó là trường hợp khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định, thì
một người đã phạm tội có thể không phải chịu trách nhiệm hình sự, có thể được miễn
trách nhiệm hình sự.
Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng trong Luật
hình sự Việt Nam thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta
đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời qua đó nhằm động viên,
khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo
nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và giúp họ trở thành người có ích cho xã hội.
Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy, nhưng khái niệm miễn trách nhiệm hình sự

vẫn chưa được nhà làm luật nước ta ghi nhận trong pháp luật Hình sự thực định. Tuy
nhiên, trong khoa học Luật hình sự nước ta, có thể định nghĩa miễn trách nhiệm hình
sự như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm mà người đó đã thực hiện17.
Miễn trách nhiệm hình sự là sự phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của
chính sách hình sự nói chung và Luật hình sự nói riêng trong một Nhà nước. Miễn
trách nhiệm hình sự do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định phải được thể
hiện bằng văn bản. Cụ thể, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra (bằng văn
bản) khi có căn cứ quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự
(Điều 164 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003); Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ
17

Trịnh Tiến Việt, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, Tạp chí Kinh tế Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2009, tr. 3.

GVHD: Ts. Phạm Văn Beo

25

SVTH: Hứa Văn Biên


×