Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.67 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: VAI

TRÒ CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP TRONG
ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

Giáo viên hướng dẫn:
HUỲNH THỊ SINH HIỀN

Sinh viên thực hiện:
LÊ VĂN HIỂN
MSSV: 5044034
LỚP: TƯ PHÁP K30
MSL: LK0465A1

Cần Thơ 2008


Mục lục
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................1
1. Tình thế cấp thiết .............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu .........................................................................................2
4. Phương Pháp nghiên cứu ................................................................................2
5. Cơ cấu luận văn ...............................................................................................2
CHƯƠNG I


I.KHÁI QUÁT VỀ CƠ QUAN TƯ PHÁP VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA
TỘI PHAM ...........................................................................................................4
I.1 CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP .........................................................................4
I.1.1 Cơ quan điều tra ..................................................................................4
I.1.1.1 Khái niệm ......................................................................................4
I.1.1.2 Sự hình thành và phát triển của cơ quan điều tra ..........................5
I.1.1.3 Vị trí pháp lý, chức năng của cơ quan điều tra .............................6
I.1.2 Viện kiểm sát nhân dân ......................................................................7
I.1.2.1 Khái niệm.......................................................................................7
I.1.2.2 Sự hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân ..............7
I.1.2.3 Vị trí pháp lý, chức năng của Viện kiểm sát ................................17
I.1.3 Tòa án nhân dân..................................................................................21
I.1.3.1 Khái niệm .....................................................................................21
I.1.3.2 Sự hình thành và phát triển của tòa án nhân dân ..........................22
I.1.3.3 Vị trí pháp lý, chức năng của tòa án nhân dân..............................35
I.1.4 Cơ quan thi hành án ...........................................................................36
I.1.4.1 Khái niệm .....................................................................................36
I.1.4.2 Vị trí pháp lý, chức năng của cơ quan thi hánh án hình sự ..........37
I.2 ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM ..............................................38
I.2.1 Khái niệm tội phạm ...........................................................................38
I.2.2 Đấu tranh phòng ngừa tội phạm – Các nguyên tắc và biện pháp đấu
tranh phòng ngừa tội phạm ....................................................................................38
I.1.2.1 Đấu tranh phòng ngừa tội phạm ..................................................38
I.1.2.2 Các nguyên tắc trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm ................39
I.1.2.3 Các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm ...........................45
Chương II
II. VAI TRÒ CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP TRONG ĐẤU TRANH
PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM .............................................................................51
II.1 VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA ....................................................51
II.2 VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ......................................52

II.3 VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ....................................................57
II.4 VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN ...........................................60


II.5 MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP TRONG CÔNG TÁC
ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM .......................................................61
Chương III
III. THỰC TRANG ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM Ở CÁC CƠ
QUAN TƯ PHÁP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP TRONG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH
PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM .............................................................................63
III.1 THỰC TRẠNG TRONG CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG ............63
III.1.1 Cơ quan điều tra ..............................................................................63
III.1.2 Viện kiểm sát nhân dân ...................................................................65
III.1.3 Tòa án nhân dân ..............................................................................66
III.1.4 Cơ quan thi hành án .......................................................................68
III.2 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................................................................70
KẾT LUẬN CHUNG ...........................................................................................77


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều biện pháp cấp bách tăng
cường bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới; các Bộ, các
ngành, các cấp và toàn thể nhân dân đã tích cực hưởng ứng và tham gia, tình hình
trật tự an toàn xã hội nói chung đã có những chuyển biến tích cực, đạt được những
kết quả nhất định, góp phần ổn định tình hình chung của đất nước.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng

và diễn biến phức tạp. Cơ cấu thành phần tội phạm có những thay đổi, đối tượng
phạm tội là người lao động chiếm 70%, trong đó 30% không có việc làm; số thanh
niên phạm tội chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Đặc biệt là tình trạng phạm tội có tổ
chức như tham nhũng, buôn lậu, mua bán phụ nữ, xâm hại trẻ em ... phạm tội có
sử dụng bạo lực, cướp của, giết người, chống người thi hành công vụ, đâm thuê,
chém mướn, bảo kê nhà hàng và các hành vi phạm tội khác có tính chất côn đồ;
gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng gây lo lắng cho toàn xã hội.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do những tác động
của mặt trái nền kinh tế thị trường cùng với những yếu kém trong việc quản lý,
kinh tế, văn hóa, xã hội của các cơ quan Nhà nước tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
chúng ta chưa đánh giá đúng tính chất phức tạp nghiêm trọng sự phát triển tội
phạm trong thời kỳ mới, để đề ra những chủ trương, biện pháp đấu tranh phù hợp.
Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, việc thi hành pháp luật lại chưa nghiêm, sự phối
hợp hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu chặt chẽ, nhiều ngành,
nhiều cấp chưa coi trọng đúng mức công tác tham gia phòng, chống tội phạm. Một
bộ phận cán bộ, kể cả cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật bị tha hóa, ảnh hưởng
đến lòng tin của quần chúng nhân dân; công tác phòng ngừa tội phạm trong gia
đình, nhà trường, cộng đồng dân cư chưa được quan tâm đúng mức.
Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị,
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

1

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
trách nhiệm của các ngành, các cấp trong phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm.
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm đề ra những

phương hướng để ngăn chặn,phòng chống các loại tội phạm đang diễn biến ngày
càng phức tạp, trong đó đề cao vai trò của các cơ quan tư pháp trong công cuộc
phòng ngừa tội phạm. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “Vai trò của các cơ quan tư
pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm” để làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Trong phạm vi vấn đề này người viết chỉ tập trung vào vai trò của các cơ
quan tư pháp trong công tác phòng ngừa tội phạm để thấy rõ hơn về chức năng
cũng như sự cần thiết của các cơ quan này trong hoạt động phòng chống tội phạm
trong tình hình hiện nay. Qua đó, để hình dung được cơ bản về hệ thống cơ quan
tư pháp của nước ta và biết được về chiến lược cải cách tư pháp của nhà nước ta
trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, người viết sẽ tìm hiểu về các Cơ quan
tư pháp trong hệ thống các cơ quan nhà nước của nước ta, trong đó sẽ tập trung
làm rõ vai trò của một số cơ quan điển hình như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án nhân dân, thêm vào đó sẽ sơ lược về vai trò của Cơ quan thi hành án để bổ
sung làm rõ thêm vấn đề cần đạt được trong phạm vi bài viết này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những kiến thức đã được học tập, tìm hiểu bên
cạnh có sử dụng thêm phương pháp sưu tầm, tổng hợp tài liệu. Đồng thời tìm hiểu
thêm một số văn bản pháp luật, tư liệu thực tế qua các tạp chí, sách báo để làm cơ
sở lý luận trong phạm vi bài viết này.
5. Cơ cấu luận văn:
Bài viết được trình bày thành ba chương:
Chương I: Khái quát về cơ quan tư pháp và đấu tranh phòng ngừa tội phạm:
Chương II: Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm:

GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

2


SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
Chương III: Thực trạng đấu tranh phòng ngừa tội phạm ở các cơ quan tư pháp và
một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của các cơ quan tư pháp trong công tác
đấu tranh phòng ngừa tội phạm:

GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

3

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm

CHƯƠNG I
I. KHÁI QUÁT VỀ CƠ QUAN TƯ PHÁP VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA
TỘI PHẠM:
I.1 CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP:
Khái niệm:
Cơ quan tư pháp là các cơ quan nhà nước được nhà nước giao nhiệm vụ bảo vệ
pháp luât, gồm có các cơ quan như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa
án nhân dân, Cơ quan thi hành án…và một số cơ quan trực thuộc Bộ tư pháp, thế
nhưng ở phạm vi bài viết này, người viết chỉ tập trung vào một số cơ quan tư pháp
điển hình có ảnh hưởng cũng như có vai trò quan trọng trong công tác phòng ngừa
tội phạm.
I.1.1 CƠ QUAN ĐIỀU TRA:

I.1.1.1. Khái niệm:
Cơ quan điều tra là một trong số các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự,
có nhiệm vụ tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi
phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố người đã thực hiện tội phạm; tìm ra nguyên
nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các
biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Cơ quan điều tra được tổ
chức trong công an nhân dân, quân đội nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân Tối
cao. Trong công an nhân dân, Cơ quan điều tra bao gồm: Cơ quan cảnh sát điều tra,
Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan cảnh sát điều tra, Cơ quan an ninh
điều tra công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ quan cảnh sát điều tra
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong quân đội nhân dân, Cơ quan điều
tra gồm: Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng, Cơ quan điều tra hình sự quân
khu và tương đương, Cơ quan điều tra hình sự khu vực, cơ quan an ninh điều tra
Bộ Quốc phòng, cơ quan an ninh điều tra cấp quân khu và tương đương. Ở Viện
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

4

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
kiểm sát nhân dân Tối cao, Cơ quan điều tra gồm: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao, Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương. Thẩm
quyền điều tra, quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra của từng
loại Cơ quan điều tra được quy định cụ thể tại Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh
tổ chức điều tra hình sự.
I.1.1.2. Sự hình thành và phát triển của Cơ quan điều tra:

Theo Sắc lệnh số 141/SL ngày 16/12/1953, Nha công an Việt Nam được đổi
thành Thứ bộ công an và hệ thống Cơ quan điều tra của Thứ bộ công an được
thành lập gồm có: Vụ chấp pháp và lao cải (ở trung ương); Ban chấp pháp (ở các
tỉnh, thành phố) và phòng chấp pháp (ở các liên khu).
Thời kì 1960 – 1980
Hệ thống Cơ quan điều tra trong thời kì này gồm có: Các Cơ quan điều tra
hình sự của Bộ công an và Bộ quốc phòng và các Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát nhân dân các cấp. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm
vụ trực tiếp điều tra một số loại tội phạm kinh tế và trị an mà kẻ phạm pháp và
hành vi phạm tội đã tương đối rõ; Cơ quan điều tra của Công an điều tra tất cả
những vụ án phản cách mạng và những tội phạm phức tạp; còn Cơ quan điều tra
của quân đội thực hiện việc điều tra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự. Nhìn chung, hệ thống Cơ quan điều tra trong thời kì này đã có
sự phát triển và có sự phối hợp hoạt động, bảo đảm tốt việc điều tra, truy tố, phục
vụ cho việc xét xử của toà án.
Thời kì 1980 -1992
Trong thời kì này hệ thống Cơ quan điều tra được tiếp tục củng cố và phát
triển, bao gồm: Cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân; Cơ quan điều
tra của lực lượng an ninh nhân dân; Cơ quan điều tra trong quân đội; Cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, các cơ quan như bộ đội biên phòng, hải
quan, kiểm lâm cũng được giao nhiệm vụ tổ chức điều tra những việc theo quy
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

5

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
định tại Điều 93 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Thời kì 1992 đến nay
Hệ thống Cơ quan điều tra về cơ bản vẫn được củng cố và hoàn thiện trên cơ
sở kế thừa và phát triển mô hình tổ chức và hoạt động của giai đoạn trước.
I.1.1.3. Vị trí pháp lý, chức năng của Cơ quan điều tra:
Cơ quan điều tra là một cơ quan góp phần quan trọng trong công tác phòng
ngừa tội phạm hiện nay. Cho đến nay trong hệ thống Cơ quan điều tra ở nước ta,
theo quy định của pháp luật hiện hành, chúng ta có 6 tiểu hệ thống Cơ quan điều
tra đang tồn tại và hoạt động độc lập với nhau, được tổ chức trong lực lượng cảnh
sát, an ninh, trong quân đội và hệ thống Viện kiểm sát, có nhiều đầu mối quản lý
khác nhau. Bên cạnh các Cơ quan điều tra mang tính chuyên trách, pháp luật tố
tụng hình sự còn cho phép một số cơ quan hành chính cũng được quyền tham gia
vào một số hoạt động điều tra: Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan
Kiểm lâm và các cơ quan khác thuộc lực lượng cảnh sát nhân dân (Cảnh sát kinh
tế, hình sự, cảnh sát phòng chống ma túy, v.v.); thuộc lực lượng an ninh nhân dân
(chống gián điệp, phản động ….) và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân
Việt Nam…
Về vị trí và chức năng cũng như thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều
tra được quy định khá chi tiết tại Điều 110, Điều 111 của Bộ luật tố tụng hình sự
1999. Qua đó, thẩm quyền điều tra cũng như trách nhiệm của từng Cơ quan điều
tra đã được quy định rõ ràng. Ta cũng thấy được rằng vai trò của các cơ quan này
góp phần quan trọng trong công tác điều tra tội phạm, tìm hiểu nguyên nhân, động
cơ phạm tội của người phạm tội.
Về cơ bản có thể khái quát đơn giản về chức năng của Cơ quan điều tra là
tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng
hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập

GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

6


SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ
quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
Một phần khá quan trọng của Cơ quan điều tra trông công tác phòng ngừa tội
phạm là trong phạm vi trách nhiệm của mình, Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, thông báo kết quả giải quyết cho cơ
quan, tổ chức đã báo tin, kiến nghị, người đã tố giác tội phạm biết và áp dụng các
biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm. Thực hiện công tác này
một cách chặt chẽ, có hiệu quả cao, Cơ quan điều tra đã góp phần không nhỏ vào
công tác phòng ngừa tội phạm.
I.1.2 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN:
I.1.2.1. Khái niệm:
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan làm chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan nhà nước từ cấp bộ trở xuống, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân, thực hành quyền công tố, điều tra tội
phạm trong những trường hợp do Luật tố tụng hình sự quy định. Viện kiểm sát nhân
dân Tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các
cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố,
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm
sát nhân dân địa phương kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan chính
quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân, thực hành quyền
công tố ở địa phương mình. Các viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật.
I.1.2.2. Sự hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cuộc cách mạng thành công,
Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ đó, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,

một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời.
Trong hơn 50 năm xây dựng và không ngừng hoàn thiện bộ máy nhà nước kiểu
mới, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Có thể khái quát về sự
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

7

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
ra đời của Viện kiểm sát qua một số giai đoạn sau:
1- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký ban hành nhiều sắc lệnh đầu tiên là Sắc lệnh số 33A ngày 14/9/1945, Tại
Sắc lệnh này có quy định mỗi khi bắt người phải thông báo ngay cho ông Biện lý
biết (tức là Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố). Tiếp theo, trong Sắc lệnh số 7/SL
ngày 15/1/1946 đã quy định cụ thể như sau: “Đứng buộc tội, tuỳ quyết định của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp, sẽ là nhân viên của Công tố viện do Chưởng lý Toà
thượng thẩm chỉ định”. Như vậy, Công tố viện đã bước đầu được hình thành dưới
sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, Sắc lệnh
hoàn chỉnh đầy đủ nhất về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là Sắc
lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức Toà án (Ban tư pháp xã, Toà án sơ cấp, Toà
án đệ nhị cấp, Toà thượng thẩm) và tổ chức các ngạch Thẩm phán (ngạch Thẩm
phán; việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán; quyền, nghĩa vụ của Thẩm phán). Có
hai ngạch Thẩm phán là ngạch sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm
việc ở Toà sơ cấp; Thẩm phán đệ nhị làm việc ở các Toà đệ nhị cấp và Toà thượng
thẩm. Thẩm phán đệ nhị cấp được chia ra làm hai chức vụ: các Thẩm phán xử án
do Chánh nhất Toà thượng thẩm đứng đầu và các Thẩm phán Công tố viên (Thẩm
phán buộc tội) do Chưởng lý đứng đầu. Những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động

của các cơ quan tư pháp trong các Sắc lệnh được ban hành trong những năm đầu
của chính quyền cách mạng đã được ghi nhận trong bản Hiền pháp đầu tiên của
Nhà nước ta, Hiến pháp năm 1946. Tại Chương VI về “cơ quan tư pháp” của Hiến
pháp năm 1946 quy định “cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
gồm có:
a) Toà án tối cao;
b) Các Toà án phúc thẩm;
c) Các Toà án đề nhị cấp và sơ cấp”;
“Các nhân viên Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm”.
Cần lưu ý rằng, tổ chức Chính phủ theo Hiến pháp năm 1946 có nét đặc thù riêng
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

8

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
biệt. Theo Điều 44 thì Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Phó Chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng.
Có thể có Phó Thủ tướng.
Như vậy, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1946 cho thấy cơ
quan tư pháp có một vị trí độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ quan thực
hiện quyền công tố và xét xử.
Trong thời gian từ năm 1946 đến năm 1959, Nhà nước ta không thành lập cơ quan
thực hành quyền công tố riêng. Trong cơ cấu Toà án, các Thẩm phán được chia
làm hai loại:
- Các Thẩm phán xét xử do Chánh án Toà án Thượng thẩm đứng đầu.
- Các Thẩm phán Công tố viên (Thẩm phán buộc tội) hợp thành một đoàn
thể độc lập (Công tố viện) với các Thẩm phán xét xử do Chưởng lý đứng đầu. Các

Thẩm phán Công tố viên ở Toà án đệ nhị cấp gọi là Biện lý, Phó biện lý; ở Toà
thượng thẩm gọi là Chưởng lý, Phó chưởng lý, Tham lý. Thực hành nhiệm vụ
công tố trong việc hình, Thẩm phán Công tố viên được áp dụng nhiều biện pháp
trong quá trình giải quyết vụ án và có nhiệm vụ thay mặt Nhà nước buộc tội bị cáo
tại phiên toà. Trong việc hộ, Thẩm phán Công tố viên bảo vệ quyền lợi của những
người ở tuổi vị thành niên, của các pháp nhân hành chính và phải tham gia vào
một số công việc khác theo quy định của pháp luật.
Trong cơ cấu các Toà án quân sự có một số công cáo uỷ viên đứng buộc
tội. Các công cáo uỷ viên trực tiếp đặt dưới quyền của các Bộ trưởng Bộ Nội vụ,
Bộ Tư pháp và tuân theo mệnh lệnh của cả hai Bộ trưởng này. Trong Toà án đặc
biệt có một Uỷ viên Ban Thanh tra đặc biệt do Chính phủ lập ra để đứng buộc tội.
Uỷ viên Chính phủ là một quân nhân hoặc một nhân viên Bộ Quốc phòng do Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng chỉ định theo đề nghị của Cục trưởng quân pháp.
Thực hiện cuộc cải cách tư pháp năm 1950, cùng với việc thành lập Toà án
nhân dân các cấp, tổ chức và hoạt động của Viện công tố cũng có sự chuyển biến
đáng kể. Theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, Viện công tố có quyền kháng
nghị cả bản án hay quyết định về dân sự của Toà án. Mặt khác, Thông tư số
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

9

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
21/TTg ngày 7/6/1950 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên bộ số 18/BKTTT ngày 8/6/1950 của Bộ Kinh tế và Bộ Tư pháp đã quy định các Viện công tố
địa phương phải chịu sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban kháng chiến hành
chính. Cụ thể là: “Uỷ bán các cấp điều khiển Viện công tố trong địa hạt của mình,
Uỷ ban kháng chiến hành chính có thể ra mệnh lệnh cho Viện công tố. Đại diện
Viện công tố phải tuân theo mệnh lệnh của Uỷ ban”.

Vào cuối những năm 1950, tổ chức của Viện công tố lại được kiện toàn và
tăng cường một bước quan trọng. Thực hiện Nghị quyết ngày 29/4/1958 của Quốc
hội khoá I và Nghị định số 256/TTg ngày 1/7/1959, Nghị định số 321/TTg ngày
2/7/1959 của Chính phủ, các Viện công tố được tổ chức thành hệ thồng gồm
Chính phủ, các Viện công tố đã được tổ chức thành hệ thống gồm:
- Viện công tố Trung ương;
- Viện công tố thành phố, tỉnh;
- Viện công tố huyện và các đơn vị hành chính tương đương;
- Viện công tố quan sự các cấp.
Viện công tố Trung ương thuộc Chính phủ, có trách nhiệm và quyền hạn như
một bộ và các nhiệm vụ cụ thể như sau;
- Điều tra và truy tố tước Toà án những kể phạm pháp về hình sự;
- Giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của Cơ quan
điều tra;
- Giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án về hình
sự, dân sự và trong hoạt động giam giữ, cải tạo;
- Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có liên
quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Có thể nói, những quy định trên đây là bước phát triển quan trọng tổ chức và hoạt
động của Viện công tố, tiến tới việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân vào giữa
năm 1960.
2- Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Với thắng lợi của cuộc kháng chống thực dân Pháp và cùng với việc xây
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

10

SVTH: Lê Văn Hiển



Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
dựng miền Bắc sau ngày giải phóng, Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân
chủ công hoà ra đời. Những quy định về tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến
pháp năm 1959 có những sửa đổi căn bản so với Hiến pháp năm 1946. Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Phó Chủ tịch nước được tách ra khỏi Hội
đồng Chính phủ, là người thay mặt cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Hội
đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất.
Viện công tố được thay thế bằng Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân
cùng với Toà án nhân dân là các cơ quan tư pháp, không còn trực thuộc Hội đồng
Chính phủ mà chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Khác với Hiến pháp năm
1959 xác định cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan nhà nước, nhân viên cơ quan nhà nước và công dân bao gồm:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện
Kiểm sát quân sự. Viện kiểm sát nhân dân trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 1959 thì
Viện kiểm sát nhân dân các cấp được tổ chức thành một hệ thống nhất, độc lập với
cơ quan xét xử và cơ quan hành chính, chỉ chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc
hội.
Nhưng quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân các cấp đã được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1960. Theo quy định tại Điều 4 này thì các Viện kiểm sát nhân dân
gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương
và các Viện Kiểm sát quân sự. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương gồm có:
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành
chính tương đương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã
hoặc đơn vị hành chính tương đương, Viện kiểm sát nhân dân ở các khu vực tự trị.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn: kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa phương, kiểm sát việc

GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

11

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước và công dân; điều tra những
việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà án nhân dân những người phạm
pháp về hình sự; kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công
an và của Cơ quan điều tra khác; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét
xử của Toà án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc giam giữ của trại giam; khởi tố hoặc tham gia tố tụng
những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân
dân.
Triển khai thực hiện Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, sau một thời gian
ngắn, Viện kiểm sát nhân dân đã được tổ chức thành một hệ thống từ Trung ương
đến các đơn vị hành chính cấp huyện, hoạt động theo nguyên tắc trung thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời gian
này, tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sat không ngừng được củng cố và do đó
đã góp phần tích cực vào việc giữ vững trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, góp phần quan trọng vào công cuộc giải
phòng miền Nam, thống nhất đất nước.
3- Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp
năm 1980. So với Hiến pháp năm 1959 thì vai trò, vị trí của Viện kiểm sát nhân
dân đã được khẳng định rõ hơn và có những điểm bổ sung mới trong Hiến pháp
năm 1980. Hiến pháp năm 1980 đã nhấn mạnh đến chức năng “thực hành quyền
công tố” của Viện Kiểm sát, đồng thời đã đề cao vai trò và trách nhiệm của Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân cao. Điều 140 Hiến pháp năm 1980 quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
trên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa
phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm và bãi nhiệm”.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

12

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
Để cụ thể hoá những quy định trên đây về Viện kiểm sát nhân dân trong
Hiến pháp năm 1980, Quốc hội khoá VII đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1981 và được sửa đổi, bổ sung vào năm 1989. So với luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, thì Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được sửa đổi, bổ sung vào năm 1989
đã quy định cụ thể, chi tiết hơn rất nhiều về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và khi thực hiện công
tác kiểm sát chung.
Tuy nhiên, cũng như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1980 vẫn giữ nguyên những quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của Uỷ ban Kiểm sát là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng. Cụ thể là:
“trong các cuộc họp Uỷ ban Kiểm sát, Viện trưởng kết luận và quyết định cuối
cùng. Trong trường hợp Viện trưởng kết luận khác với ý kiến của đa số trong Uỷ
ban Kiểm sát thì Viện trưởng thực hiện ý kiến của mình, đồng thời báo cáo lên
Hội đồng Nhà nước”.

Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân đã có những cố gắng cùng với
các cơ quan tư pháp và các cơ quan nhà nước khác tiếp tục thực hiện những nhiệm
vụ cách mạng do các Đại hội lần thứ IV, V và VI của Đảng đề ra.
4- Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI của
Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, xây dựng
Hiến pháp năm 1992, một Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất nước. Một số quy
định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã
thể hiện rõ nét những điểm đổi mới trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các
cơ quan này.
Để cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh về tổ chức Viện Kiểm sát quân sự, Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

13

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
Theo các quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002, thì tổ chức, hoạt động và cơ cấu của Viện kiểm sát nhân dân
đã có những đổi mới cơ bản như sau:
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân:
Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan, một hệ thống cấu trúc của bộ máy nhà
nước nên cần phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước (có 5 nguyên tắc cơ bản). Tuy nhiên, xuất phát từ hoạt động đặc
thù của cơ quan kiểm sát là những cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật bằng

công tác kiểm sát và công tố, do đó tổ chức và hoạt động của các cơ quan kiểm sát
còn có những nguyên tắc đặc thù.
Những nguyên tắc đó được quy định ở Điều 138, 140 Hiến pháp 1992 sửa đổi,
bổ sung và được cụ thể trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
+ Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
+ Nguyên tắc không lệ thuộc vào cơ quan nhà nước nào ở địa phương
+ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp.
@ . Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành
- Khẳng định nguyên tắc này không có nghĩa là khẳng định hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân hoạt động theo các nguyên tắc riêng biệt, không liên quan đến
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động chung của bộ máy nhà nước ta. Dù là một hệ
thống cơ quan riêng, các Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận không thể tách
rời của bộ máy nhà nước ta.
- Việc thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo
đảm cho các cấp kiểm sát. Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này nhằm đề cao
trách nhiệm cá nhân của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Khẳng định Viện
trưởng là người có quyền và có trách nhiệm quyết định các vấn đề của Viện kiểm
sát và chịu trách nhiệm quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát
và chịu trách nhiệm cá nhân về mọi công việc thuộc phạm vi thẩm quyền của mình
không có nghĩa là loại trừ nguyên tắc tập trung dân chủ ra khỏi hoạt động kiểm
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

14

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
sát. Phải thấy rằng, Viện trưởng không quyết định các vấn đề một cách độc đoán,

mà trên cơ sở bàn bạc tập thể.
- Viện kiểm sát nhân dân tối và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có Ủy ban
kiểm sát. Ủy ban kiểm sát làm việc tập thể, thảo luận và quyết định những vấn đề
quan trọng như phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác, dự án luật, dự án
pháp lệnh… trong trường hợp Ủy ban kiểm sát thảo luận và biểu quyết ngang
nhau thì quyết định về phía có Viện trưởng.
@. Nguyên tắc không lệ thuộc vào Cơ quan nhà nước nào ở địa phương
- Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất kỳ Cơ
quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chổ: các Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện chức năng, nhiệm vụcủa mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi
các Cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện kiểm sát nhân dân chỉ
phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp
luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
và chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó có nghĩa là Cơ
quan nhà nước ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân.
- Về mặt tổ chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ
máy và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên và các Viện kiểm sát nhân dân
địa phương.
- Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung quyền lực
có sự phân công, phân nhiệm rành mạch, rõ ràng. Để bảo đảm hoạt động đạt hiệu
quả cao, các Cơ quan nhà nước luôn luôn có sự phối hợp chặt chẽ toàn diện và
nhịp nhàng với nhau. Do đó, trong hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân
địa phương phải có sự phối hợp chặt chẽ với các Cơ quan nhà nước khác ở địa
phương, hổ trợ cho nhau để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chung của Nhà nước. Để
bảo đảm sự phối hợp này, Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền


15

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
1992 đã quy định Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương phải báo cáo về
tình hình chấp hành pháp luật trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
@. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp:
- Bắt nguồn từ nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”,
nguyên tắc này đã được xác định với tất cả Viện kiểm sát nhân dân địa phương.
- Thứ nhất, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu
trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải trả lời chất vấn, kiến nghi, yêu cầu của
đại biểu Quốc hội và có thể bị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm.
- Thứ hai, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát
của Hội đồng nhân dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân
dân.
Về cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tai chương X Hiến
pháp năm 1992 và tại các chương VII, VIII Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2002. Các Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta tạo thành một hệ thống thống nhất,
bao gồm:
+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao
+ Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
+ Các Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
+ Các Viện kiểm sát quân sự

Như vậy, về mặt cơ cấu tổ chức, sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992, về
cơ bản, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kiện toàn và đổi mới một bước quan
trọng. Với cơ cấu tổ chức như vậy, Viện kiểm sát nhân dân đã đạt được những kết
quả nhất định, tạo nên một số chuyển biến tích cực trong hoạt động tư pháp ở
nước ta, cùng với các cơ quan nhà nước khác thực hiện một cách có hiệu quả
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

16

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước.
I.1.2.3. Vị trí pháp lý, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân:
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa mà xét về nội dung cốt lõi đó chính là sự quản lý nhà nước bằng
pháp luật và triệt để tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và
công dân phải đặt mình trong khuôn khổ của pháp luật. Nội dung này đặt ra nhiều
vấn đề nặng nề, mà một trong nhưng nhiệm vụ đó là phải xây dựng một quy chế
bảo đảm sự tuân thủ pháp luật và có một cơ chế xử lý nghiêm minh những vi
phạm pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm sự an toàn và môi
trường pháp lý đáng tin cậy trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Trong các
cơ chế để bảo đảm thực hiện yêu cầu nêu trên, thì cơ chế kiểm tra, thanh tra, kiểm
sát, giám sát của cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể nhân dân đóng một vai
trò rất quan trọng. Kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát tuy là các khái niệm có
nội dung khác nhau nhưng đều là các khái niệm chỉ các hoạt động có chung một
mục đích: theo dõi và kiểm tra xem xét việc thực hiện có đúng những điều quy
định hay không hoặc theo một nghĩa chung hơn là trông nom, xem xét công việc
được tiến hành có tốt hay không. Tuy nhiên, căn cứ vào chủ thể tiến hành các hoạt

động này, đối tượng chịu sự tác động của hoạt động, tính chất của hoạt động thì
trong hệ thống các cơ quan nhà nước có sự phân công các cơ quan có thẩm quyền
có nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm sát hoặc giám sát khác nhau. Viện kiểm sát
nhân dân là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội, có
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các
cơ quan tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc
Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Là một cơ quan tư pháp quan trọng, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

17

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
công dân bằng cách áp dụng các biện pháp cần thiết do pháp luật quy định nhằm
phát hiện chính xác trong các đạo luật và các văn bản pháp luật mà hệ thống các
cơ quan có chức năng bảo đảm cho quyền lực, ý chí đó được thực thi lại hoạt động
không tốt thì quyền lực, ý chí Nhà nước sẽ không thể phát huy hiệu lực, hiệu quả
trong việc quản lý mọi mặt của đời sống xã hội; thậm chí trong không ít các
trường hợp còn làm cho quyền lực, ý chí Nhà nước bị méo mó. Với ý nghĩa như
vậy, Viện kiểm sát nhân dân, với tư cách và cơ quan cơ chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố Nhà nước, có một vai trò rất quan
trọng.
Xét xử phía công dân, thì hoạt động của Viện Kiểm sát là những phương tiện

hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Nhiều hoạt động của Viện Kiểm sát có
liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, do đó công dân
đòi hỏi Viện Kiểm sát trong hoạt động của mình phải thể hiện tính công minh,
khách quan, phải thực sự là cơ quan gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Chính vì những lý do đó mà cùng với hoạt động của các cơ quan tư pháp khác,
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước ta
là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố báo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất là chức năng đặc thù của
Viện kiểm sát nhân dân (Điều 137 Hiến pháp năm 1992). Trước tiên, chức năng
này của Viện Kiểm sát bắt nguồn từ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất
không phân chia nhưng có phân công rành mạch giữa 3 quyền: lập pháp, hành
pháp và tư pháp, mà quyền lực nhà nước cao nhất được tập trung ở Quốc hội.
Quốc hội cần phải Quốc hội cần phải có cơ quan thực hiện quyền lực của mình là
Viện kiểm sát nhân dân, giúp cho Quốc hội tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp
luật và thực hiện quyền công tố Nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả nước, chống các biểu hiện cục bộ, địa
phương chủ nghĩa. Được quốc hội giao cho việc thực hiện chức năng này, một mặt
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát được việc tuân theo pháp luật, góp phần bảo đảm
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

18

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
cho tổ chức và tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan khác thuộc Chính
phủ, các cơ quan thuộc chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
xã hội phủ hợp với hiến pháp, luật của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ

Quốc hội, phù hợp với các nghị quyết, nghị định của Chính phủ (gọi tắt là kiểm sát
chung). Mặt khác, Viện Kiểm sát được thực hành quyền công tố Nhà nước bảo
đảm cho pháp luật về tư pháp được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực
hành quyền công tố Nhà nước là việc đưa vụ án ra toà với quyền truy tố và buộc
tội. Điều này là cho cơ quan Viện kiểm sát nhân dân được cơ quan lập pháp giao
cho chức năng đặc thù riêng mà các cơ quan khác của Nhà nước không thể thay
thế.
Tuy nhiên, như đã trình bày trên đây, trong bộ máy nhà nước có nhiều cơ
quan thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát. Do đó, việc phân
định rõ ràng chức năng của các cơ quan nhà nước này, đặc biệt là việc phân định
ranh giới giữa chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát với chức năng thanh
tra của các cơ quan Thanh tra nhà nước với một ý nghĩa rất quan trọng, để khi thực
hiện trong thực tiễn không có sự chồng chéo, trùng lặp giữa hai cơ quan, đặc biệt
là trong lĩnh vực hành chính – kinh tế. Cần phải đặc biệt chú ý rằng các Viện kiểm
sát nhân dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình, kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong các văn bản pháp quy và trong việc chấp hành pháp luật khi thấy có dấu
hiệu vi phạm pháp luật, bảo đảm cho các văn bản pháp quy do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành đúng pháp luật, bảo đảm cho việc chấp hành pháp luật
của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân
được nghiêm chỉnh và thống nhất; còn Thanh tra nhà nước là cơ quan thuộc Chính
phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong thanh tra việc thực hiện các quyết
định, mệnh lệnh của cơ quan cấp trên đối với cấp dưới trong nội bộ cơ quan nhà
nước. Công tác thanh tra là công tác thường xuyên được thực hiện trên nhiều mặt
của các cơ quan, đơn vị. Khi thanh tra phát hiện có dấu hiệu phạm tội thì chuyển
cho các cơ quan pháp luật như Công an hay Viện Kiểm sát tiến hành điều tra.
Thanh tra cũng tiến hành xem xét, đối chiếu với pháp luật, nhưng chỉ là xem xét,
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

19


SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
đánh giá việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước, không
chỉ đơn thuần đánh giá hành vi hợp pháp hay bất hợp pháp mà còn xác định hiệu
quả thu được nhiều hay ít các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Trong khi đó, Viện Kiểm sát chủ yếu chỉ xem xét khi có dấu hiệu của hành
vi vi phạm pháp luật, đã xác định nguyên nhân và hậu quả của hành vi vi phạm
pháp luật ấy. Thanh tra khi pháp hiện những việc làm sai trái, không phù hợp với
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, với chỉ thị, mệnh lệnh
của cấp trên thì có những quyền hạn xử lý đối với tổ chức và các nhân trong phạm
vi thẩm quyền do luật định. Viện Kiểm sát không có quyền trực tiếp xử lý về mặt
hành chính theo thẩm quyền, trừ trường hợp sai phạm có thể dẫn tới những hậu
quả nghiêm trọng thì kiến nghị về mặt hành chính của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao là có tính chất bắt buộc. Khi phát hiện có yếu tố cấu thành tội
phạm thì Viện Kiểm sát chỉ có quyền khởi tố, truy tố và luận tội trước toà. Việc
quyết định có tội hay vô tội, và là tội gì, chịu hình phạt như thế nào lại thuộc
quyền của Toà án. Nếu Viện Kiểm sát không đồng ý với quyết định hay bản án
của Toà án thì có quyền kháng nghị theo thủ tục tố tụng.
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản
pháp quy của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ
quan chính quyền địa phương kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các tổ chức,
đơn vị và cá nhân khi pháp hiện có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Yêu cầu thông báo về hành vi vi phạm pháp luật; cung cấp các văn bản
pháp quy, tài liệu cần thiết cho việc xác định vi phạm pháp luật, kiểm tra
việc vi phạm pháp luật.
- Yêu cầu cơ quan Thanh tra cung cấp thanh tra việc làm vi phạm pháp luật
và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân.

- Yêu cầu viên chức nhà nước, nhân viên tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
quân nhân và công dân trả lời và cung cấp tài liệu về việc vi phạm pháp luật
có liên quan đến họ.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

20

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (năm 2002) còn chỉ rõ khi kết luận có vi
phạm pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị với cơ quan nhà nước, các tổ
chức kinh tế - xã hội, yêu cầu đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ các văn bản, chấm dứt
hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý về kỷ luật hay khởi tố nếu có dấu hiệu
tội phạm. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trả lời kháng nghị với Viện kiểm
sát nhân dân trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng nghị. Trong
trường hợp cơ quan, tổ chức đơn vị hữu quan cấp trên nhận được kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân đối với cấp dưới của mình thì thời hạn trả lời là 30 ngày
kể từ ngày nhận được kháng nghị. Nếu cơ quan, tổ chức không nhất trí với nội
dung kháng nghị thì đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp xem xét lại.
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp phải xem xét và trả lời trong thời hạn 30
ngày kể từ ngày nhận được đề nghị.
I.1.3 TÒA ÁN NHÂN DÂN:
I.1.3.1. Khái niệm:
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Các Tòa án nhân dân tạo thành một phân hệ trong bộ máy nhà nước ta. “Tòa
án là một cơ quan nhà nước, hoạt động của Tòa án là một bộ phận của hoạt động
của nhà nước”
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định

“Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể;
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 126).
Điều 127 Hiến pháp 1992 đã quy định “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân
dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt.
Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi
phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật”.
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

21

SVTH: Lê Văn Hiển


Vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
I.1.3.2. Sự hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân:
- Trước Hiến pháp năm 1946
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, các cơ quan tư pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được thành lập, bao gồm: Toà án
quân sự, toà án đặc biệt, toà án binh và toà án thường (toà án tư pháp). Tòa án
quân sự được thành lập theo Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1995, tại các tỉnh và
thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Quảng Ngãi,
Sài Gòn, Mỹ Tho. Sau đó, theo Sắc lệnh số 77C ngày 18/12/1945, thành lập thêm
hai Tòa án quân sự tại Nha Trang và Phan Thiết. Tòa án quân sự được tổ chức
theo mô hình một cấp, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm tất cả
những người phạm vào tội làm phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Việc xét xử các vụ án hình sự thường như xâm phạm sức khoẻ,

nhân phẩm, danh dự, tài sản của công dân và trật tự an toàn xã hội... và các vụ án
dân sự được tạm thời giao cho ban tư pháp thuộc Uỷ ban hành chính cấp huyện và
cấp tỉnh đảm nhiệm.
Theo Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946, Toà án binh lâm thời đã được
thành lập tại Hà Nội, có thẩm quyền xét xử các quân nhân hoặc những người làm
việc tại cơ quan chuyên môn của quân đội phạm pháp hoặc phạm pháp có ảnh
hưởng đến quân đội. Đồng thời, các toà án binh tại mặt trận cũng được thành lập
để kịp thời xét xử các vụ việc xảy ra ở các điểm đang tác chiến nhằm đáp ứng yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ cách mạng, củng cố sức mạnh của quân đội.
Theo Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945, tại Hà Nội toà án đặc biệt đã
được thành lập để xét xử những người là nhân viên của uỷ ban hành chính các cấp
và của các cơ quan Chính phủ phạm tội, do ban thanh tra đặc biệt truy tố.
Các toà án tư pháp được thành lập ở các cấp theo Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/1/1946: Ở mỗi quận (phủ, huyện, châu) có một toà án sơ cấp; ở mỗi tỉnh và các
thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn có một toà án đệ nhị cấp; ở mỗi
kì có một toà thượng thẩm đặt tại Hà Nội, Huế (Thuận Hoá) và Sài Gòn. Toà án sơ
GVHD: Huỳnh Thị Sinh Hiền

22

SVTH: Lê Văn Hiển


×