Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

vai trò của hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.92 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 31 (2005 – 2009)

VAI TRÒ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG VIỆC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ

GVHD:
Trương Thanh Hùng
Bộ môn: Tư Pháp

SVTH:
Châu Minh Tiếp
MSSV: 5054965
Lớp: Luật Hành Chính –K31

Cần Thơ, tháng 11 năm 2008


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………


………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
……………………………………………….

GVHD: Trương Thanh Hùng

2

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. ………………6
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài ............................................................... ………………6
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.......................................................................... ………………7
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ....................................................................... ………………7
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... ………………7

6. Kết cấu của luận văn .................................................................................. ………………7
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HỘI THẨM

NHÂN DÂN………………………………………………………………. ……...8
1. Những vấn đề lý luận chung về Hội thẩm nhân dân ............................. ……………...8
1.1. Khái niệm về Hội thẩm nhân dân ............................................................ ……………...8
1.2. Sự hình thành và phát triển chế định Hội thẩm nhân dân ở nước ta........ ……………...9
2. Tìm hiểu sơ lược về chế định Bồi thẩm đoàn với việc tham gia tố tụng ở một số
nước trên thế giới..................................................................................…………….13
2.1. Bồi thẩm đoàn với việc tham gia tố tụng ở Hợp chủng quốc Hoa kỳ..... ……………..13
2.2. Bồi thẩm đoàn với việc tham gia tố tụng ở Cộng hòa Pháp ................... ……………..15
2.3. Bồi thẩm đoàn với việc tham gia tố tụng ở Cộng hòa Liên bang Đức ... ………….....17
3. Cơ sở pháp lý về chế định Hội thẩm nhân dân ở nước ta ..................... ………….....18
3.1. Những quy định chung về chế định Hội thẩm nhân dân.......................... …………….18
3.1.1. Vị trí pháp lý, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân ... …………….18
a. Vị trí pháp lý, vai trò của Hội thẩm nhân dân ............................................. …………….18
b. Nhiệm vụ, quyền hạn Hội thẩm nhân dân................................................... …………….20
3.1.2. Tiêu chuẩn, thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân……......... ......23
a. Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân ................................................................... …………….23
b. Thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân ........................... …………….25
3.2. Hội thẩm nhân dân với pháp luật tố tụng................................................. …………….30
3.2.1. Những nguyên tắc Hiến định về hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân……… …..30
a. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa........................................................ …………….30
b. Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia ............ …………….31
c. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.................................... …………….31
d. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.... …………….31
đ. Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định ................................ …………….32
GVHD: Trương Thanh Hùng

3


SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự
e. Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số ............................................. ...................32
f. Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật................ .. 34
g. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử........................................................ ....................34
3.2.2. Số lượng Hội thẩm nhân dân theo quy định của pháp luật .................... ....................35
CHƯƠNG 2. VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ............................ .....................37
1. Nhưng hoạt động chính của Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử các vụ án
dân sự ............................................................................................................... ...................37
1.1. Tầm quan trọng của Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử................ ....................37
1.2. Giai đoạn chuẩn bị xét xử (Trước khi mở phiên tòa)................................ ....................38
1.2.1. Những việc Hội thẩm nhân dân cần làm khi được phân công tham gia xét xử một
vụ án nói chung. ...................................................................................................................38
a. Thông báo về việc tham gia phiên tòa .......................................................... ...................38
b. Giao, nhận hồ sơ vụ án..................................................................................................... 39
1.2.2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án ............................................................................................. 39
1.2.2.1. Những vấn đề chung về việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ............................................ 39
1.2.2.2. Kiểm tra sơ bộ hồ sơ ............................................................................................... 40
1.2.2.3. Nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự............................................................................... 41
1.2.2.3.1. Xác định yêu cầu của các đương sự (nguyên đơn, bị đơn) .................................. 41
1.2.2.3.2. Những điểm cần lưu ý khi Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ vụ án ............................. 48
1.3. Giai đoạn tham gia xét xử tại phiên Tòa sơ thẩm ......................................................... 49
1.3.1. Việc chuẩn bị tham gia xét xử ................................................................................... 49
a. Trước khi khai mạc phiên tòa .......................................................................................... 49
b. Trang phục ....................................................................................................................... 49
c. Tác phong......................................................................................................................... 49

d. Vào phòng xét xử............................................................................................................. 49
e. Cách ngồi tại phòng xét xử .............................................................................................. 49
1.3.2. Thủ tục bắt đầu phiên tòa........................................................................................... 50
1.3.3. Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa ...................................................................................... 50
a. Hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung rút yêu cầu và thỏa thuận giải quyết vụ án .............. 50
b. Nghe đương sự trình bày về vụ án ................................................................................... 51
c. Tiến hành hỏi tại phiên tòa sơ thẩm ................................................................................. 52
d. Công bố các tài liệu vụ án dân sự .................................................................................... 53
1.3.4. Theo dõi phần tranh luận tại phiên tòa....................................................................... 54
1.3.5. Tham gia nghị án ....................................................................................................... 55
1.3.6. Khi tuyên án............................................................................................................... 56
GVHD: Trương Thanh Hùng

4

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự
1.4. Giai đoạn sau khi phiên tòa kết thúc............................................................................. 56
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN VỀ ĐỘI NGŨ HỘI THẨM NHÂN DÂN CŨNG NHƯ
TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ - ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP............................................. 57
1. Thực trạng ...................................................................................................................... 57
1.1. Thực trạng về đội ngũ Hội thẩm nhân dân cũng như trong công tác xét xử................. 57
1.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng .................................................................................. 61
1.2.1. Nguyên nhân chủ quan............................................................................................... 61
1.2.2. Nguyên nhân khách quan........................................................................................... 61
2. Một số đề xuất về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội thẩm nhân dân................ 61
2.1. Cần xây dựng một quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm nhân dân .............. 61
2.2. Vấn đề về tổ chức và quản lý Hội thẩm nhân dân ........................................................ 62

2.3. Vấn đề miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân...................................................... 64
2.4. Về các tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân .......................................................................... 65
2.5. Vấn đề số lượng Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử ........................................ 66
2.6. Vấn đề kiêm nhiệm và chuyên nghiệp trong hoạt động của Hội thẩm nhân dân ......... 67
2.7. Chế độ chính sách đối với Hội thẩm nhân dân ............................................................. 68
3. Một số đề xuất phát huy vai trò của Hội thẩm nhân dân........................................... 68
3.1. Về việc lựa chọn bầu hoặc cử Hội thẩm nhân dân........................................................ 68
3.2. Về việc bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét xử cho Hội thẩm nhân dân ........................ 69
3.3. Tạo điều kiện về vật chất và tinh thần để Hội thẩm nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ
khi tham gia xét xử .............................................................................................................. 70
3.4. Về việc phân công Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử ............................................... 70
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Trương Thanh Hùng

5

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền đang có xu hướng trở thành quy luật của mọi
Nhà nước. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến sự đề cao vai trò của pháp
luật trong việc đều chỉnh mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội. Sự đề cao vai trò
của pháp luật gắn với vai trò của hoạt động tư pháp. Hay nói cách khác, hiệu quả
hiệu lực của tư pháp là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ

thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền vì tư pháp có vai trò bảo đảm
thực hiện tất cả các đặc trưng của Nhà nước ở mức độ này hay mức độ khác.
Theo Điều 2 Hiến pháp 1992 “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Quyền lực Nhà nước là
thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Với bản chất là Nhà nước của dân,
do dân, vì dân “lấy dân làm gốc”. Điều 11 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 cũng quy
định “Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định
của bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán”. Việc quy
định như thế là rất cần thiết để đảm bảo tính dân chủ xã hội chủ nghĩa, đúng với
bản chất thực sự của Nhà nước Việt Nam.
Hội thẩm nhân dân đại diện cho nhân dân tham gia xét xử ở Tòa án. Việc tham
gia của Hội thẩm và hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo đảm xét xử đúng pháp
luật, đúng thực tế khách quan của vụ án, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, đồng thời bảo đảm việc nhân dân tham gia giám sát hoạt động của
Nhà nước. Như vậy ta thấy rằng vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử
các vụ án nói chung và vụ án dân sự nói riêng là rất quan trọng và cần thiết. Chính
vì những lý lẽ trên mà tôi mạnh dạng chọn đề tài “Vai trò của Hội thẩm nhân dân
trong việc xét xử các vụ án dân sự” để làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Đề tài hướng đến mục đích làm sáng tỏ những quy định của pháp luật về vị trí,
tổ chức và hoạt động của Hội thẩm nhân dân cũng như những quy định của pháp
luật tố tụng có liên quan đến Hội thẩm trong quá trình xét xử các vụ án nói chung
và các vụ án dân sự nói riêng. Thông qua đó cho ta thấy được vai trò, nhiệm vụ
GVHD: Trương Thanh Hùng

6


SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

của Hội thẩm là rất có ý nghĩa và cực kỳ quan trọng. Bên cạnh đó đề tài cũng nêu
lên những mặt hạn chế của Hội thẩm để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện vai trò của Hội thẩm để nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Hội
thẩm trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Vai trò của Hội thẩm nhân dân thì thể hiện ở rất nhiều mặt. Nhưng do thời gian
có hạn và vốn hiểu biết còn hạn chế nên trong giới hạn của Luận văn tốt nghiệp cử
nhân luật, người viết chỉ tập trung nghiên cứu về vị trí, vai trò cũng như cơ cấu tổ
chức và công tác hoạt động xét xử của Hội thẩm trong vụ án dân sự, thông qua đó
có nêu lên thực trạng và một số đề xuất nhằm nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân
dân trong công tác xét xử nói chung và trong việc xét xử dân sự nói riêng.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về vai trò
của Hội thẩm nhân dân trong việc tham gia tố tụng.
Luận văn này cũng có thể sử dụng để các Hội thẩm, tổ chức, cơ quan hữu quan
nghiên cứu tham khảo để từ đó đưa ra những biện pháp, cách thức điều chỉnh về
hoạt động của Hội thẩm, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của Hội thẩm trong
hoạt động xét xử.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở của luận văn là những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chế định
Hội thẩm, những quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm.
Người viết sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, diễn dịch, phân
tích luật viết, sưu tằm tài liệu để thực hiện việc nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Mục lục

Lời nói đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp lý về Hội thẩm nhân dân
Chương 2: Vài nét về hoạt động của Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử các
vụ án dân sự
Chương 3: Thực tiễn về đội ngũ Hội thẩm nhân dân cũng như trong công tác xét
xử, đề xuất giải pháp
Kết luận
Tài liệu tham khảo

GVHD: Trương Thanh Hùng

7

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HỘI
THẨM NHÂN DÂN
1. Những vấn đề lý luận chung về Hội thẩm nhân dân
1.1. Khái niệm về Hội thẩm nhân dân
Như chúng ta đều biết, một trong những biểu hiện dân chủ của nền tư pháp
kiểu mới là có đại diện nhân dân tham gia vào việc xét xử của Tòa án. Lê-nin đã
khẳng định sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền: “Chúng ta phải tự
mình xét xử, toàn thể công dân không trừ một ai đều phải tham gia xét xử và quản
lý đất nước”. Theo quy định của pháp luật, Tòa án nước ta thực hiện chức năng xét
xử thông qua các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Vậy Hội thẩm nhân dân là ai?
Theo Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngày 04/01/2002, thì

Hội thẩm là: “ Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án”. Đó là những cá nhân có uy
tín, sinh hoạt và công tác ở các cơ quan, xí nghiệp, đoàn thể…được nhân dân tín
nhiệm, đại diện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ tập thể, đồng thời giám sát
việc thi hành pháp luật của cơ quan tư pháp mà cụ thể là Tòa án. Cũng theo pháp
lệnh trên tại Điêu 2 thì Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hội
thẩm nhân dân Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ( gọi
chung là Hội thẩm nhân dân)
Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự quân khu và tương đương; Hội thẩm quân
nhân Tòa án quân sự khu vực ( gọi chung là Hội thẩm quân nhân).
Qua thực tế tham gia xét xử ở các Tòa án nhân dân với tinh thần trách nhiệm
trước nhân dân, các Hội thẩm nhân dân góp phần quan trọng trong công tác xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tóm lại: Hội thẩm nhân dân là những công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc và Chủ nghĩa xã hội, có kiến thức pháp lý, liêm khiết, trung thực, có quan hệ
tốt với nhân dân…, được bầu để tham gia xét xử tại Tòa án nhân dân.

GVHD: Trương Thanh Hùng

8

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

1.2 Sự hình thành và phát triển chế định Hội thẩm nhân dân ở nước ta
Ở Việt Nam sự tham gia của đại diện nhân dân vào việc xét xử của Tòa án xuất

hiện từ rất sớm, ngay từ khi cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng bước vào giai đoạn quyết định trong những năm 40 của thế kỉ
XX. Trước cách mạng tháng Tám, trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940) đã thành
lâp Hội đồng Tòa án nhân dân cách mạng. Trong các phiên tòa này, ngoài các vị
Thẩm phán xét xử còn có các đại biểu của quần chúng lên phát biểu luận tội bọn
phản động. Đó là những hình ảnh đầu tiên của chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân
tham gia. Sau cách mạng tháng Tám thắng lợi, sự tham gia của đại diện nhân dân
vào xét xử ( dưới hình thức Phụ thẩm, Hội thẩm) đã ghi nhận chính thức trong các
văn bản pháp luật đầu tiên của nước ta.
Ngày 02/9/1945, Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công-nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đến ngày
13/9/1945 tức chỉ sau hơn 10 ngày thành lập nước, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 33/CV thiết lập các Tòa án quân sự, tiếp đó là một số sắc lệnh khác về
tổ chức và hoạt động của Tòa án, điển hình là Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng
giêng năm 1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Như vậy, bộ máy tư
pháp cũ của chính quyền thực dân phong kiến, đã bị đập tan và bộ máy tư pháp
mới đã được thiết lập.
Đặc trưng của bộ máy tư pháp mới này là nó được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở các nguyên tắc dân chủ mà cụ thể là có sự tham gia của nhân dân vào công việc
của Tòa án. Trong sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, tuy quy định mức độ tham
gia của phụ thẩm nhân dân ở các phiên tòa tiểu hình và đại hình có khác nhau
nhưng đều thể hiện tính nhân dân của nền tư pháp mới.
Khi Hiến pháp 1946 ban hành, nguyên tắc đại diện nhân dân tham gia xét xử đã
trở thành nguyên tắc Hiến định: “Trong khi xét xử các việc hình thì phải có phụ
thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định
với Thẩm phán nếu là việc đai hình” (Điều 65). Đến sắc lệnh số 85/SL ngày
22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đã quy định đổi tên Phụ
thẩm nhân dân thành Hội thẩm nhân dân và cũng với Sắc lệnh này quyền hạn của
Hội thẩm nhân dân được mở rộng hơn Sắc lệnh số 13/SL năm 1946. Trước đó,
Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia xét xử trong vụ án hình sự, giờ đây tham gia xét

xử cả vụ án hình sự và dân sự, có quyền biểu quyết bình đẳng với Thẩm phán.

GVHD: Trương Thanh Hùng

9

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

Ngày 05/5/1952 Bộ Tư pháp ra Thông tư số 02 quy định nhiệm vụ quyền hạn, lề
lối làm việc của Hội thẩm nhân dân các cấp, theo Thông tư này thành phần Hội
thẩm nhân dân sẽ do địa phương cử. Hội thẩm nhân dân cùng với Thẩm phán chịu
trách nhiệm chung trước Chính phủ và nhân dân về kết quả hoạt động của Tòa án.
Hội thẩm có quyền tham gia trong việc điều tra, xét xử, hòa giải, giáo dục nhân
dân và phải là sợi dây liên lạc, là cầu nói giữa Tòa án với nhân dân.
Đầu năm 1959 bắt đầu đợt bầu Hội đồng nhân dân các cấp. Qua đó, Bộ Nội vụ
và Bộ Tư pháp ra các văn bản hướng dẫn về việc bầu Hội thẩm nhân dân: Thông
tư số 05/TT ngày 10/02/1959 của liên Bộ Nội vụ-Bộ Tư pháp về việc chuẩn bị bầu
lại Hội thẩm nhân dân; Thông tư số 06/TT-LB ngày 09/03/1959 của liên Bộ Nội
vụ-Bộ Tư pháp về việc bầu cử Hội thẩm nhân dân các cấp; Thông tư số 174/VTC
ngày 12/3/1959 của Bộ Tư pháp về các Tòa án nhân dân tham gia công tác chuẩn
bị bầu lại Hội thẩm nhân dân; Thông tư số 07/TT-VTC ngày 12/3/1959 của Bộ Tư
pháp về hướng dẫn về thể lệ áp dụng bầu Hội thẩm nhân dân. Các văn bản nói trên
sau khi khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng của chế định Hội thẩm nhân dân đã
nêu ra các nguyên tắc chung của việc bầu cử Hội thẩm ; quy định rõ số lượng, tiêu
chuẩn Hội thẩm nhân dân cho từng cấp Tòa án, khu vực.
Trên cơ sở bộ máy Nhà nước cần được kiện toàn, đặc biệt là cơ quan tư pháp
cần được dân chủ hóa, thành phần nhân dân cần được quan tâm hơn trong việc xét

xử, ngày 31/12/1959 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thông qua Hiến
pháp mới thay thế Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1959 đã quy định: “Việc xét xử ở
các Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật”,
đăc biệt là: “Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán”. Thẩm
phán là người xét xử chuyên nghiệp, có kiến thức pháp lý, am hiểu pháp luật, còn
Hội thẩm nhân dân chỉ là công dân bình thường nhưng lại được pháp luật cho
quyền rất lớn “…ngang quyền với thẩm phán” khi thực hiện vai trò của mình.
Đây là quy định mới nhằm khẳng định hơn nữa vị trí của người dân khi tham gia
vào công tác xét xử ở Tòa án.
Để tiếp tục hoàn thiện chế định Hội thẩm nhân dân, Bộ Tư pháp ban hành thông
tư số 11/VTC ngày 11/01/1960 phổ biến một số kinh nghiệm về việc sử dụng Hội
thẩm nhân dân huyện; Chỉ thi số 200/VTC ngày 26/4 1960 về phát huy hơn nữa
vai trò của Hội thẩm nhân dân. Chỉ thị đã nêu rõ các biện pháp như đẩy mạnh
tuyên truyền cho chế định Hội thẩm nhân dân và huấn luyện Hội thẩm nhân dân,

GVHD: Trương Thanh Hùng

10

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

chế độ công tác của chế định Hội thẩm nhân dân tỉnh, Hội thẩm nhân dân huyện.
Luật ngày 14/7/1960 của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa về tổ chức
Tòa án nhân dân quy định: “Tòa án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và
quyết định theo đa số”. Tập thể xét xử bao gồm: đối với tập thể xét xử sơ thẩm
gồm 1 Thẩm phán và 2 Hội thẩm nhân dân, trừ những vụ án nhỏ, đơn giản có thể
không có Hội thẩm nhân dân. Sau hơn 10 năm thực hiện chế độ xét xử có sự tham

gia của Hội thẩm nhân dân, bên cạnh những ưu điểm vẫn còn những hạn chế cần
sửa đổi để phù hợp. Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 quy định: “Tòa phúc thẩm
gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm nhân dân”, nhưng do tính chất quan trọng của
phiên tòa phúc thẩm: đây là cấp xét xử cuối cùng, bản án của Tòa án có hiệu lực
ngay nên phiên tòa này đòi hỏi những người xét xử phải tinh thông pháp luật,
vững vàng kiến thức pháp lý để xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Có lẽ
vì thế luật tổ chức Tòa án 1960 đã không quy định cấp phúc thẩm có Hội thẩm
nhân dân tham gia xét xử (trừ trường hợp đặc biệt).
Mùa xuân năm 1975, nhân dân ta giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc tổng tiến
công và nỗi dậy mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau khi miền
Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, chúng ta bắt tay vào cuộc xây
dựng Chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình mới, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua Hiến pháp ngày 18/12/1980, đồng thời trên cơ sở cụ thể
hóa các quy định của Hiến pháp và Tòa án nhân dân, ngày 07/3/1981 Luật tổ chức
Tòa án nhân dân ra đời. Qua đó đã bổ sung thêm một nguyên tắc xét xử của Tòa
án mà đến nay nguyên tắc ấy vẫn được khẳng định và tuân thủ: “Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Để trở thành Hội
thẩm nhân dân công dân chỉ cần hội đủ một số tiêu chuẩn: “…trung thành với Tổ
quốc và Chủ nghĩa xã hội, có quan hệ tốt với nhân dân, thì có thể được bầu làm
Hội thẩm nhân dân” (Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981). Như vậy, đối
với người được bầu làm Hội thẩm nhân dân không nhất thiết phải “Có kiến thức
pháp lý” mà chỉ cần “Có quan hệ tốt với nhân dân”. Ngoài ra, tại Điều 4 của luật
này cũng quy định: “Hội thẩm nhân dân của mỗi Tòa án nhân dân do cơ quan
quyền lực Nhà nước cùng cấp bầu ra và có thể bị cơ quan này bãi miễn. Nhiệm kỳ
của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân Tối cao là 2 năm rưỡi, nhiệm kỳ của Hội
thẩm nhân dân địa phương là 2 năm”.

GVHD: Trương Thanh Hùng

11


SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

Đường lối đổi mới mọi mặt do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
cộng sản Việt Nam khởi xướng đòi hỏi đất nước phải có một hệ thống pháp luật,
một bộ máy Nhà nước được đổi mới để quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa và một xã hội dân chủ toàn diện. Chính vì vậy,
ngày 15/4/1992, Quốc hội khóa VII, kì họp thứ 11 đã nhất trí thông qua bản Hiến
pháp mới, kịp thời đổi mới đất nước trong giai đoạn mới.
Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Tòa án 1992, cuộc cải
cách tư pháp lần thứ 3 được thực hiện (lần thứ nhât 1946, lần thứ hai 1981). Chế
độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với Tòa án nhân dân địa phương và
chế độ cử Hội thẩm được thực hiện đối với Tòa án nhân dân tối cao. Ngoài ra,
Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 còn quy định tiêu chuẩn cụ thể trở thành Hội
thẩm: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất, đạo đức tốt, có
kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa thì có
thể được tuyển chọn bổ nhiệm làm Thẩm phán, được bầu hoặc cử làm Hội thẩm”.
Qua đó, ta thấy rằng một người có thể làm Hội thẩm nếu được bầu hoặc được cử,
nhưng cũng có thể làm Thẩm phán nếu được bổ nhiệm bởi Thẩn phán và Hội thẩm
có cùng điều kiện về tiêu chuẩn chung.
Trong công tác xét xử tại Tòa án, giữ vai trò quan trọng nhất là Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân, để đáp ứng yêu cầu to lớn ấy, năm 1993 Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đã ban hành pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Pháp lệnh này
đã quy định về tiêu chuẩn, chế độ, nhiệm vụ, quyền hạn, thủ tục bầu cử, miễn
nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm.
Sau hơn 10 năm đổi mới mục tiêu xây dựng Xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì
dân, đất nước ngày càng phát triển, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 và Pháp

lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 1993 có những điểm tỏ ra không phù hợp
cần phải thay đổi. Có thể nói đến thời điểm này, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 là những văn
bản tương đối hoàn thiện nhất quy định về cơ quan có thẩm quyền xét xử cũng
như những người làm công tác xét xử ở Việt Nam.
Như vậy, chế định Hội thẩm nhân dân đã được hình thành ngay từ những ngày
đầu khi Nhà nước ta thiết lập bộ máy tư pháp và theo thời gian nó được hoàn thiện
dần cho đến ngày nay.

GVHD: Trương Thanh Hùng

12

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

2. Tìm hiểu sơ lược về chế định Bồi thẩm đoàn với việc tham gia tố tụng ở
một số nước trên thế giới.
2.1. Bồi thẩm đoàn với việc tham gia tố tụng ở Hợp chủng quốc Hoa kỳ
Trong xét xử, bên cạnh quan tòa là các Bồi thẩm viên, sau khi cuộc biện luận
của các luật sư hai bên đã kết thúc quan tòa còn phải chờ các Bồi thẩm viên biểu
quyết, rồi mới tuyên bố bị cáo có tội hay không có tội.
Một vấn đề đặt ra, quan tòa xử án lại quyết định do các Bồi thẩm viên đưa ra,
cuối cùng thì quyền của Bồi thẩm viên lớn hơn hay quan tòa lớn hơn?. Mục đích
của chế độ xét xử này là nhằm hạn chế những quan tòa độc đoán chuyên quyền,
một mình quyết định, dẫn đến sai lầm nghiêm trọng khi tuyên án, chứ không nhằm
phân biệt thẩm quyền để cho thấy Bồi thẩm viên hay quan tòa lớn hơn.
Ở Hoa kỳ, quyền được xét xử bằng Bồi thẩm đoàn là một quyền Hiến định của

công dân: “Trong vụ truy tố hình sự, bị cáo sẽ có quyền xử nhanh chống và công
khai bởi một Bồi thẩm đoàn vô tư của tiểu bang và khu vực, mà tại đây tội trạng
đã xảy ra ở khu vực đã được pháp định chỉ định trước” (Tu chính án Điều 6). Đối
với vụ án dân sự, công dân được tôn trọng quyền được xử bằng Bồi thẩm viên nếu
giá trị vụ tranh chấp quá 20 USD. Hiến pháp đa số của các tiểu bang đều có quy
định giống Hiến pháp liên bang về quyền của công dân được xét xử bằng Bồi thẩm
đoàn.
Trước năm 1898, chỉ có nam giới tham gia Bồi thẩm đoàn. Sau năm 1898, một
số tiểu bang của Hoa kỳ đã ban hành các quyền của phụ nữ tham gia Bồi thẩm
đoàn ở mức độ khác nhau.
Điều kiện trở thành Bồi thẩm viên
Để thành Bồi thẩm viên trong đoàn Bồi thẩm trước hết phải là công dân Mỹ với
độ tuổi từ 20-70, đồng thời phải biết đọc và viết tiếng Anh. Ngoài ra tùy theo pháp
luật của từng bang, có bang loại trừ những người đã phạm một số tội nhất định.
Điều quan trọng là Bồi thẩm viên không được che giấu bất cứ một thông tin nào
về địa vị công dân, về tiền án tiền sự của mình.
Thủ tục tuyển chọn bồi thẩm viên
Số lượng Bồi thẩm viên ở các Tòa án phụ thuộc vào sự quy định của pháp luật
của từng bang. Từ danh sách cử tri đã đăng ký tại quận, Tòa án chọn lấy một danh
sách đủ điều kiện luật định. Một số bang ở Mỹ, những người có tên trong danh
sách sẽ được gọi đến để phỏng vấn sơ bộ, nếu một người nào đó có lý do để miễn

GVHD: Trương Thanh Hùng

13

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự


thực hiện Bồi thẩm viên, Tòa án sẽ loại trừ người đó ra khỏi danh sách. Tuy nhiên,
ở một số bang khác, danh sách Bồi thẩm viên chỉ được lập và kiểm tra định kỳ
theo danh sách cử tri, không có cuộc gặp gỡ hay phỏng vấn trực tiếp.
Để lựa chọn Bồi thẩm viên và thành lập Bồi thẩm đoàn cho một phiên tòa, vào
ngày mở phiên tòa, một số lượng Bồi thẩm viên trong danh sách được gọi đến tòa
án, sau đó lựa chọn 12 người chính thức và 2 người dự bị làm Bội thẩm viên xét
xử tại tòa án. Các Bồi thẩm viên phải chịu sự thử thách của luật sư và Công tố viên
bằng cách trả lời một số câu hỏi của Công tố viên và Luật sư của các bên; đồng
thời tuyên thệ về tính công bằng, khách quan và tiêu chuẩn của Bồi thẩm viên
trong vụ án. Qua đó, cả Luật sư và bị cáo và Công tố viên đều có thể loại bỏ
những thành viên của Bồi thẩm đoàn mà họ cho rằng có thể sẽ có thái độ thiên vị
cho bên kia, nếu qua các câu trả lời thấy có căn cứ cho rằng Bồi thẩm viên đó sẽ
không khách quan, vô tư khi tham gia xét xử.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Bồi thẩm đoàn
Đối với vụ án hình sự, Bồi thẩm đoàn có quyền quyết định bị cáo có tội hay
không có tội, không có quyền quyết định về mức hình phạt nhưng có thể khuyến
nghị về hình phạt. Đối với vụ án dân sự, Bồi thẩm đoàn sẽ xác định ai có lỗi và giá
trị bồi thường là bao nhiêu.
Để thực hiện các chức năng của mình, Bồi thẩm đoàn phải có mặt đầy đủ tại
phiên tòa để nghe các nhân chứng, xem xét vật chứng, nghe lời giải thích cần thiết
của Thẩm phán về luật áp dụng… Các Bồi thẩm viên có thể giơ tay đề nghị được
hỏi và chuyển các câu hỏi đến Thẩm phán. Thẩm phán sẽ tự nêu các câu hỏi của
Bồi thẩm viên nếu thấy đó là những câu hỏi đúng, ngược lại Thẩm phán sẽ không
hỏi và ghi vào biên bản phiên tòa lý do câu hỏi bị bác. Phần tranh luận về các khía
cạnh luật, Bồi thẩm đoàn có thể không tham dự vì chức trách của họ là đánh giá,
phán xét về các sự kiện chứ không phải về luật.
Bồi thẩm đoàn đưa ra các phán quyết trên cơ sở nguyên tắc nhất trí. Trong các vụ
án hình sự có thể áp dụng nguyên tắc nhất trí tuyệt đối khi quyết định các tội bị
phạt tù giam từ một năm trở lên, đối với các tội ít nghiêm trọng hơn thì nguyên tắc

3/4 hoặc 2/3 nhất trí. Trong các vụ án dân sự, một số tiểu bang cho phép phán

GVHD: Trương Thanh Hùng

14

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

quyết của Bồi thẩm đoàn về lỗi và mức độ bồi thường của các bên trên cơ sở 5/6
nhất trí1.
Chế độ Bồi thẩm đoàn ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có những ưu điểm sau
Hạn chế sự độc quyền của Thẩm phán khi xét xử, bởi vì các thẩm phán ở Hoa
Kỳ không có quyền quyết định bị cáo có tội hay không có tội (quyền này do Bồi
thẩm đoàn thực hiện) mà chỉ có quyền quyết định hình phạt.
Thể hiện tính độc lập, khách quan giữa Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn bởi vì các
Bồi thẩm viên tự thảo luận ở phòng riêng và ra phán quyết của mình theo niềm tin
nội tâm.
Bên cạnh những ưu điểm, chế độ Bồi thẩm đoàn vẫn còn có những hạn chế
Việc lựa chọn bồi thẩm đoàn cho phiên tòa gây mất nhiều thời gian cho phiên
tòa và cả những Bồi thẩm viên. Bởi vì, Bồi thẩm đoàn cho phiên tòa không được
thành lập trước mà chỉ lựa chọn những Bồi thẩm viên từ một số lượng lớn Bồi
thẩm viên được mời đến vào ngày mở phiên tòa. Sau đó, các Bồi thẩm viên chịu
sự thử thách của Công tố viên, Luật sư các bên và có thể sẽ bị thay đổi. Nếu Bồi
thẩm viên bị thay đổi thì thủ tục tương tự cũng áp dụng để chọn Bồi thẩm viên
khác thay thế và cứ thế tiếp tục cho đến khi lập xong Bồi thẩm đoàn cho phiên tòa.
Vai trò của Bồi thẩm đoàn rất quan trọng nhưng họ lại bị hạn chế nhiều về
quyền hạn khi tham gia xét xử (Thẩm phán chỉ hỏi những câu hỏi của Bồi thẩm

đoàn đưa ra nếu thấy câu hỏi đó đúng; Bồi thẩm viên dễ dàng bị thay thế theo suy
nghĩ chủ quan của Luật sư hoặc Công tố viên).
Bồi thẩm đoàn bị hạn chế về năng lực chuyên môn do họ được chọn từ công dân
bình thường, không có trình độ, kiến thức pháp lý nhất định.
Sự phân biệt vai trò của Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn sẽ dẫn đến tình trạng đôi
khi vì sợ rằng các Thẩm phán sẽ tuyên phạt quá nặng đối với bị cáo mà Bồi thẩm
đoàn thường quyết định tha tội cho bị cáo.
2.2 Bồi thẩm đoàn với việc tham gia tố tụng ở Cộng hòa Pháp
Bồi thẩm đoàn xuất hiện ở Pháp từ năm 1789. Kể từ khi thiết lập chế định Bồi
thẩm đoàn ở Pháp cho đến nay luôn tồn tại hai ý kiến khác nhau về chế định này.
Những người theo quan điểm ủng hộ Bồi thẩm đoàn cho rằng Bồi thẩm đoàn
chính là phản ánh tiếng nói của công luận, phù hợp với dân chủ, đạo đức xã hội.
1

Về chế định: “Công dân tham gia xét xử” của Mỹ và một số nước Asean, trong chuyên đề về chế định Hội
thẩm nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam. Thông tin khoa học pháp lý, viện nghiên cứu khoa học
pháp lý-Bộ tư pháp tháng 1. 1999.

GVHD: Trương Thanh Hùng

15

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

chính vì vậy, quyết định của Bồi thẩm đoàn cũng khẳng định giá trị và tính đúng
đắn của các đạo luật hình sự.
Điều kiện để trở thành Bồi thẩm viên

So với Hoa kỳ, điều kiện để trở thành Bồi thẩm viên ở Pháp có phần nghiêm
khắc hơn như phải hội đủ một số điều kiện nhất định: Là công dân pháp từ 23 tuổi
trở lên; được hưởng đầy đủ các quyền về chính trị, các quyền công dân Pháp; cư
trú trong quản hạt của Tòa phúc thẩm. Ngoài ra, Bồi thẩm viên còn phải đáp ứng
những điều kiện năng lực chuyên môn và không thuộc trường hợp bất khả kiêm
nhiệm.
Thủ tục tuyển chọn
Thành viên của Bồi thẩm đoàn được chỉ dịnh bằng hình thức rút thăm. Hàng
năm, mỗi tỉnh tổ chức rút thăm trong danh sách cử tri để thành lập Bồi thẩm đoàn
của tỉnh. Từ danh sách theo năm sẽ rút thăm đoàn Bồi thẩm cho từng phiên tòa đại
hình.
Sau Khi đã lập danh sách 9 thành viên của Bồi thẩm đoàn, Viện trưởng viện
Công tố, bên cạnh Tòa án phúc thẩm có quyền yêu cầu thay đổi 4 thành viên của
Bồi thẩm đoàn mà không cần nói lý do. Bị cáo hay Luật sư của bị cáo có quyền
thay đổi 5 thành viên Bồi thẩm đoàn theo cùng những điều kiện thay đổi Thẩm
phán.
Nhiệm vụ, quyền hạn
Bồi thẩm đoàn chỉ tham gia xét xử sơ chung thẩm những tội phạm hình sự
nghiêm trọng tại Tòa đại hình. Bồi thẩm đoàn không tham gia xét xử trong tòa án
hành chính cũng như trong việc xét xử phúc thẩm ở các Tòa án tư pháp.
Khi xét xử, Bồi thẩm đoàn bình dẳng và ngang quyền với thẩm phán chuyên
nghiệp. Bồi thẩm đoàn cùng nghị án với thẩm phán chuyên nghiệp cả về tính chất
tội phạm, hình phạt áp dụng đối với bị cáo.
Bồi thẩm không được hưởng lương chỉ được hưởng phụ cấp bao gồm phụ cấp đi
lại và phụ cấp lưu trú.
Chế độ Bồi thẩm đoàn ở Cộng hòa Pháp có những ưu điểm và hạn chế sau
Về ưu điểm
Bồi thẩm đoàn cùng nghị án với Thẩm phán sẽ tạo điều kiện cho Bồi thẩm đoàn
nâng cao vai trò của mình.
Về hạn chế


GVHD: Trương Thanh Hùng

16

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

Bồi thẩm viên là công dân bình thường được cơ cấu theo cách rút thăm làm
thành viên đoàn Bồi thẩm nên họ thường không có lối tư duy và lập luận pháp lý,
thường thiên về tình cảm, dễ thay đổi ý kiến…
Số lượng thành viên trong Bồi thẩm đoàn nhiều (9 thành viên) dễ gây ra tình
trạng bất đồng quan điểm.
2.3. Bồi thẩm đoàn với việc tham gia tố tụng ở Cộng hòa Liên bang Đức
Nước Đức bắt đầu áp dụng chế định Bồi thẩm đoàn từ 1840, ở bang Bavaria là
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên, ở Đức công dân tham gia xét xử với
tư cách là những Thẩm phán không chuyên nghiệp chứ không phải với tư cách Bồi
thẩm đoàn. Đặc biệt hơn, chính cộng đồng mới là người lựa chọn các công dân
tham gia Hội đồng xét xử cùng với Thẩm phán chuyên nghiệp.
Thủ tục tuyển chọn
Các Thẩm phán không chuyên được bầu theo nhiệm kỳ 4 năm. Thông thường,
thời gian tham gia xét xử của họ là 01 ngày trong một tháng. Nếu thời gian của họ
trên 24 ngày trong một năm, họ có thể đề nghị rút ra khỏi danh sách các Thẩm
phán không chuyên.
Sự lựa chọn các Thẩm phán không chuyên làm việc trong tòa hình sự bắt đàu
bằng việc lập danh sách các ứng cử viên do Hội đồng của cộng đồng cử. Danh
sách này sẽ được chuyển đến tòa án quận nơi có cộng đồng đề cử và sẽ được một
Hội đồng lựa chọn theo nguyên tắc đa số tuyệt đối với nhiệm kỳ 4 năm. Tòa án

của bang quy định số công dân cùng bầu cũng như lập danh sách các Thẩm phán
không chuyên chính thức và những người dự bị.
Nhiệm vụ, quyền hạn
Các Thẩm phán không chuyên cũng có đầy đủ các quyền thẩm vấn, tranh luận,
biểu quyết, ra bản án như thẩm phán chuyên nghiệp.
Chế độ Bồi thẩm đoàn ở Cộng hòa Liên bang Đức có những ưu điểm và hạn
chế sau
Về ưu điểm
Quyền của thẩm phán không chuyên được mở rộng hơn (Quyền được thẩm vấn,
tranh luận, biểu quyết và ra bản án)
Mang tính đại diện cho nhân dân cao hơn (Danh sách ứng cử viên do Hội đồng
của cộng đồng đề cử)
Về hạn chế

GVHD: Trương Thanh Hùng

17

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

Các Thẩm phán không chuyên không được chỉ định cho từng vụ án cụ thể nên
có khả năng một vài Thẩm phán không chuyên nào đó không thích hợp với việc
xét xử vụ án cụ thể nào đó.
3. Cơ sở pháp lý về chế định Hội thẩm nhân dân ở nước ta.
3.1. Những qui định chung về chế định Hội thẩm nhân dân.
3.1.1. Vị trí pháp lý, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân.
a. Vị trí pháp lý, vai trò của Hội thẩm nhân dân.

Bản thân chế định Hội thẩm nhân dân là sự thể hiện tư tưởng “Lấy dân làm
gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét
xử của Tòa án. Tòa án là cơ quan quyền lực của Nhà nước, Nhà nước thông qua
Tòa án để thực hiện quyền lực tư pháp của mình. Chính bằng hoạt động xét xử,
Tòa án giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Hội thẩm bằng sự tham gia
của mình vào Hội đồng xét xử thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để
nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói
chung, hoạt động của Tòa án nói riêng.
Không ai có thể phủ nhận pháp luật tố tụng có đặc điểm là liên quan trực
tiếp đến tính mạng, tài sản, danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì
vậy, sự tham gia của Hội thẩm có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, Hội thẩm
tham gia xét xử các vụ án hình sự và phi hình sự là thể hiện sự giám sát trực tiếp
của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, thông qua việc xét xử công khai, dân chủ
tại phiên tòa. Tư pháp với ý nghĩa chung nhất là ý tưởng về một nền công lý, đòi
hỏi hoạt động của Tòa án nhằm giải quyết mọi tranh chấp, xử lý mọi hành vi trái
pháp luật xảy ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo
đảm trật tự kỹ cương theo thể chế Nhà nước mà Hiến pháp, pháp luật quy định.
Những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật, không trái với ý chí của
nhân dân.
Theo qui định của pháp luật, Hội thẩm nhân dân tham gia trực tiếp trong
việc đưa ra các phán quyết của Tòa án, cùng với Thẩm phán ra những bản án và
quyết định đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói tại hội
nghị học tập của ngành cán bộ tư pháp năm 1950: “Trong công tác xử án phải
công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt

GVHD: Trương Thanh Hùng

18


SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

động của mình trong khung tòa án. Phải gần dân, giúp dân, hiểu dân…”2. Muốn
đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp lý lẽ công
bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, được quần chúng nhân dân ủng hộ, hiển nhiên
đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh,
có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Ngoài ra, để Hội đồng xét xử có
phán quyết đúng đắn, đòi hỏi họ phải có kiến thức, vốn hiểu biết cuộc sống, có
kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì vậy, sự tham gia của Hội thẩm vào Hội đồng xét
xử là sự bổ sung cần thiết trong lĩnh vực đó.
Hội thẩm là những người có thể bổ sung cho Thẩm phán chuyên nghiệp
những vốn sống, kinh nghiệm xã hội, dư luận quần chúng để góp phần giải quyết
vụ án chính xác hơn, toàn diện và khách quan hơn vì họ là những người đại diện
cho sự hiểu biết pháp luật và đánh giá các hiện tượng ở mức trung bình của nhân
dân. Họ tiếp cận với vụ án theo cách những người không chuyên xét xử, họ mang
lại cho phiên tòa những ý niệm đạo đức xã hội, những nhận xét, ý kiến đánh giá
của nhiều thành phần xã hội về các hành vi phạm tội thông qua những phạm trù
đạo đức như công bằng, thiện ác, nghiêm minh, tốt xấu mà Thẩm phán chuyên
nghiệp cần quan tâm tham khảo.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy những người được bầu làm Hội thẩm là những
người có uy tín trong xã hội được quần chúng tín nhiệm và có ảnh hưởng nhất
định trong xã hội. Họ thường là những người có lối sống gương mẫu, có phẩm
chất tốt, là tấm gương trong lao động, công tác. Sự tham gia xét xử của Hội thẩm,
uy tín của cơ quan xét xử ngày càng được nâng cao và được nhân dân tín nhiệm,
ủng hộ.
Vai trò của Hội thẩm không chỉ dừng lại ở tham gia hoạt động xét xử và đưa
ra phán quyết đúng pháp luật mà còn có ý nghĩa to lớn trong công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là
việc những người tiến hành tố tụng xét xử bằng hoạt động của mình giúp cho
những người tham gia tố tụng, những người theo dõi hoạt động xét xử hiểu rõ ràng
và sâu sắc hơn về những qui định của pháp luật được áp dụng để giải quyết vụ án;
giúp họ đánh giá về hành vi và trách nhiệm pháp lý của từng người trong vụ việc;
giúp hình thành ở họ những cảm xúc về sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật,
củng cố lòng tin, thái độ tôn trọng pháp luật, từ đó định hướng hành vi phù hợp
2

Hồ Chí Minh, Nhà nước và pháp luật, NXB pháp lý, Hà Nội 1985

GVHD: Trương Thanh Hùng

19

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

với pháp luật. Bằng những định hướng giáo dục như vậy trong quá trình xét xử
Tòa án nhân dân phát huy tác dụng phòng ngừa ngăn chặn tội phạm.
Hội thẩm nhân dân cần có những nhận thức sâu sắc về vai trò to lớn của
mình để từ đó không ngừng tu dưỡng đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn,
pháp luật, kĩ năng nghề nghiệp; dành nhiều hơn thời gian, công sức cho việc
nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa. Đồng thời tăng cường mối quan hệ gắn bó
mật thiết với nhân dân, lắng nghe dư luận xã hội; chủ động tích cực tham gia các
hoạt động phổ biến, thông tin, định hướng đúng cho nhân dân về hoạt động của
Tòa án nói chung, về ý nghĩa giáo dục của từng phiên tòa nói riêng. Có như vậy
Hội thẩm mới góp phần thiết thực vào xây dựng tòa án của dân do dân vì dân thực

sự đúng tên gọi Tòa án nhân dân.
b. Nhiệm vụ, quyền hạn Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân là những người kiêm nhiệm giữ nhiệm vụ xét xử không
chuyên, chịu sự quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương theo Quy chế
về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm. Cũng như Thẩm phán “Hội thẩm nhân dân
làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án” (Điều 32 Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân 2002). Trước khi chuẩn bị tham gia xét xử Hội thẩm được thực
hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ pháp luật quy định kể từ khi nhận được quyết
định phân công của Tòa án. Quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm lúc này là quan
hệ đồng nghiệp trong một đơn vị, gắn bó với nhau trong hoạt động, tác động qua
lại lẫn nhau để cùng nhằm hướng tới một mục đích là chuẩn bị cho việc xét xử thật
tự tin, vô tư, khách quan nhưng phải trên nguyên tắc Hiến định “Khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 130 Hiến
pháp 1992 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Để tạo sự vô tư, khách
quan, tránh ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài thì “Hội thẩm phải từ chối tham gia
xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định” (Điều
35 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002). Thế nhưng nếu không có lý
do chính đáng, Hội thẩm bắt buộc phải tham gia, không được từ chối khi được
phân công làm nhiệm vụ xét xử.
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 đã quy định có phần nghiêm khắc hơn
“Hôm phiên tòa 2 Phụ thẩm đã được chọn bắt buộc phải đến dự. Người nào vắng
mặt, nếu không có duyên cớ chính đáng, sẽ bị phạt lần đầu từ 20 đồng đến 50
đồng, lần thứ nhì từ 50 đồng đến 100 đồng, lần thứ ba từ 100 đến 200 đồng, ngoài

GVHD: Trương Thanh Hùng

20

SVTH: Châu Minh Tiếp



Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

ra lại có thể mất chức Phụ thẩm” (Điều 22). Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân 2002 thể hiện sự tin tưởng hoàn toàn của nhân dân vào đội ngũ Hội thẩm
nhân dân, những con người ưu tú đại diên cho nhân dân, những con người sẽ tận
tụy hết lòng vì nhiệm vụ thiên liêng cho nên không nhất thiết phải đặt vấn đề
“phạt”. Những ngày đầu mới giải phóng nhân dân ta còn nhiều bở ngỡ với vai trò
làm chủ đất nước, họ đã sống quá lâu với cuộc sống nô lệ, giờ đây được độc lập,
được tự do lao động và sinh hoạt đối với họ như thế đã quá đủ. Họ không quan
tâm nhiều đến chuyện chính trị-xã hội. Ngày nay, chúng ta sinh ra khi đất nước đã
được độc lập, tự do và đang từng bước xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa - một
Nhà nước do nhân dân làm chủ nên điều chúng ta quan tâm chính là vấn đề quyền
làm chủ của ta được thực hiện như thế nào, thực hiện đến đâu. Chúng ta sẵn sàng
và chủ động thực hiện quyền làm chủ đó thông qua vai trò của người Hội thẩm
nhân dân.
Thực hiện vai trò của mình đòi hỏi người Hội thẩm luôn tuân thủ đạo đức
nghề nghiệp, giữ gìn bí mật công tác theo quy định của pháp luật, phải luôn tôn
trọng nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Hội thẩm có trách nhiệm dựa vào
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên Mặt trận, các tổ chức kinh
tế, đơn vị vũ trang, công dân, thực hiện tốt những nhiệm vụ được Nhà nước và
nhân dân giao phó.
Cũng như các cán bộ công chức khác, Hội thẩm vẫn phải chịu tránh nhiệm
trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình kể cả trách nhiệm
hình sự. Mặt khác, theo Điều 8 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội hẩm nhân dân 2002
quy định: “Thẩm phán và Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi thẩm phán, Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ
xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán , Hội thẩm đã gây thiệt hại
có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật”. Đây là quy định
mới so với Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 1993 nhằm nhắc nhở các

Hội thẩm rằng với tư cách là một trong những người tiến hành tố tụng, họ phải có
tinh thần trách nhiệm, thận trọng, cân nhắc, phán quyết sự việc vì lẽ công bằng
chứ không vì vị nể hay vì vụ lợi.
Ngày 03/5/1997 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/CP về việc giải
quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra và văn bản hướng dẫn thi hành của các

GVHD: Trương Thanh Hùng

21

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

bộ, ngành… Tuy nhiên, các quy định này chỉ là những nguyên tắc cơ bản nhất ghi
nhận quyền được bồi thường của người bị oan mà chưa xác định rõ cơ chế, trách
nhiệm, thủ tục bồi thường cụ thể.
Với yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân, ngày 13/3/2003 Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội ban hành nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại
cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
Nghị quyết thực sự là một bước đột phá quan trọng trong việc khắc phục những
hậu quả oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Nghị quyết 388 ngày
13/3/2003 quy định: “Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây
oan do lỗi của mình trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
hình sự có nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật”. Thế nhưng, theo Nghị
quyết chỉ quy định người có nghĩa vụ phải bồi thường là Thẩm phán3.
Có nhiều ý kiến về vấn đề Hội thẩm nhân dân tham gia vào quá trình xét xử

cũng như Thẩm phán nhưng khi có oan sai thì chỉ có Thẩm phán mới chịu bồi
thường là không công bằng. Thực tế ta thấy rằng, các Hội thẩm nhân dân rất tinh
tưởng Thẩm phán về chuyên môn và nghiệp vụ nên họ thường thống nhất với ý
kiến Thẩm phán.
Mặt khác, đối với Hội thẩm nhân dân là những cán bộ hưu trí nếu như buộc họ
phải bồi thường thì Tòa án gặp rất nhiều khó khăn trong việc yêu cầu người tham
gia Hội thẩm. Điều chúng ta quan tâm là việc nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ
của Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử.
Hội thẩm được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết công tác
xét xử của Tòa án. Trình độ nghiệp vụ của Hội thẩm nâng cao là điều kiện tiên
quyết để Hội thẩm thực hiện quyền Hiến định: “Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền
với Thẩm phán” (Điều 129 Hiến pháp 1992). Tất cả các giai đoạn và trong mọi thủ
tục tố tụng giải quyết vụ án kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử Hội thẩm
điều có quyền tham gia. Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 quy định quyền của Hội
thẩm còn rất nhiều hạn chế: Phụ thẩm nhân dân chỉ có quyền góp ý kiến khi xử
việc tiểu hình, họ không được xem hồ sơ trước khi phiên tòa. Đối với việc đại
hình: “Về các vấn đề liên can đến thủ tục, tạm tha, đòi bồi thường, ông Chánh án

3

Theo báo pháp luật số 178 ra ngày 27.7.2003

GVHD: Trương Thanh Hùng

22

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự


và hai Thẩm phán chuyên môn quyết định lấy, các Phụ thẩm nhân dân không tham
dự” (Điều 33).
Để tạo sự thống nhất uy nghiêm cho phiên tòa cũng như tạo điều kiện cho
Hội thẩm khi làm nhiệm vụ. Điều 34 Pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
2002 quy định: “Hội thẩm được cấp trang phục, giấy chứng minh Hội thẩm để làm
nhiệm vụ… Khi làm nhiệm vụ xét xử Hội thẩm được hưởng phụ cấp theo quy
định của pháp luật”. Hội thẩm sẽ được hưởng phụ cấp cho từng phiên tòa, riêng
đối với trang phục sẽ cấp phát vào đầu hoặc giữa nhiệm kỳ để sử dụng theo niên
hạn. Mặt khác, “Hội thẩm là cán bộ, công chức, quân nhân tại ngũ, công nhân
quốc phòng thì thời gian làm nhiệm vụ Hội thẩm được tính vào thời gian làm việc
ở cơ quan, đơn vị” (Điều 33). Nếu so sánh, có thể nói rằng những quy định ở sắc
lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng thì Hội
thẩm nhân dân mới được hưởng những đặc quyền nhiều nhất: “Hội thẩm nhân dân
được hưởng quyền tài phán như các Thẩm phán và lương bổng như các ủy viên
Uỷ ban kháng chiến hành chính cấp tương đương. Hội thẩm nhân dân dự khuyết
hưởng phụ cấp vãng phản và phụ cấp lưu trú như các hội viên Hội đồng nhân dân
tỉnh đi hợp Hội đồng nhân dân” (Điều 3).
3.1.2. Tiêu chuẩn, thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân.
a. Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân
Tiêu chuẩn chung của Hội thẩm nhân dân: Để nắm chắc tiêu chuẩn, tiêu
chuẩn chung của Hội thẩm Tòa án nhân dân cần nghiên cứu kỹ quy định tại khoản
2 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002
Cần nắm chắc những đòi hỏi cụ thể trong các tiêu chuẩn chung quy định tại
khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, theo Thông tư liên
tịch số 01/2003/Thông tư liên tịch, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ
Nội vụ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 01/4/2003/TTLTTANDTC-BQP-BNV-UBTWMTTQVN hướng dẫn thi hành một số quy định của
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì “Công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ

pháp chế xã hội chủ nghĩa” phải là:

GVHD: Trương Thanh Hùng

23

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

Không có bất kỳ hành vi nào gây nguy hại cho độc lâp, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, nền quốc phòng toàn dân, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, các chủ trương của Đảng và
các chính sách của Nhà nước, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các nguyên tắc
sinh hoạt của cộng đồng;
Kiên quyết đấu tranh chống lại những người, những hành vi có hại đến Đảng
đến Tổ quốc và nhân dân;
Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt trẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;
Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền;
Có tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình, bảo vệ công lý;
Không có những việc quy định tại Điều 15 của pháp lệnh
Chưa bao giờ bị kết án (kể cả trường hợp đã được xóa án tích)
Không thuộc trường hợp quy định tại Điều 2 Chương I của Quy định số 75/QĐTW ngày 25/4/2000 của Bộ Chính trị;
Khi đã là thành viên của Hội đồng xét xử, Hội thẩm nhân dân phải là người có
phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết trung thực. Phẩm chất đạo đức của họ phải thể
hiện nhiều mặt của cuộc sống. Đó là phẩm chất thanh liêm, trung thực, nhân ái, có

bản lĩnh, đấu tranh chống lại cái ác, có lối sống giản dị, có uy tín trong quần chúng
được mọi người tin yêu. Phẩm chất đạo đức tốt được biểu hiện tập trung nhất ở
Hội thẩm nhân dân là người trọng lẽ công bằng, liêm khiết và trung thực, với
phẩm chất đó sẽ giúp họ vượt qua mọi trở ngại khó khăn khi tham gia hoạt động
xét xử.
Tiêu chuẩn cụ thể của Hội thẩm nhân dân Điều 5 khoản 2 Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân năm 2002 quy định: “Công dân Việt Nam trung trành với
Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất
đạo đức, liêm khiết và trung thực, có kiên thức pháp lý có tinh thần kiên quyết bảo
vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội thẩm”. Tòa án nhân dân tối cao,
Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Thông tư liên tịch số

GVHD: Trương Thanh Hùng

24

SVTH: Châu Minh Tiếp


Đề tài: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án dân sự

01/2004 hướng dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án
nhân dân.
Theo đó, thì khi xem xét lựa chọn giới thiệu nhân sự để bầu Hội thẩm TAND
phải căn cứ vào tiêu chuẩn Hội thẩm TAND và pháp lệnh Thẩm pán và Hội thẩm
Tòa án nhân dân. Chúng ta có thể phân tích điều 5 khoản 2 Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm Tòa án nhân dân cụ thể:
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, chấp
hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng
quy tắc sinh hoạt cộng đồng, tôn trọng nhân dân phục vụ nhân dân, liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, đấu tranh phê
bình và tự phê bình, bảo vệ công lý…
Là người phải có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định. Đối với
những người làm công tác tại các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Điều tra,
Thi hành án và những người đang làm việc tại các tổ chứ Luật sư, tư vấn pháp lý
thì không được giới thiệu để bầu làm Hội thẩm Tòa án nhân dân.
“Có sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ được giao” là người có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, ngoài thể lực cần thiết, còn bao gồm yếu tố ngoại hình đó là không
có dị tật, dị hình ảnh hưởng trực tiếp đến tư thế hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của
người Hội thẩm.
Tuổi của Hội thẩm Tòa án nhân dân từ 70 tuổi trở xuống đối
với nam và từ 65 tuổi trở xuống đối với nữ.
Ngoài những tiêu chuẩn nêu trên Hội thẩm nhân dân còn phải có uy tín với nhân
dân nơi mình cư trú, công tác. Tính chất này bảo đảm đại diện cho nhân dân trong
hoạt động xét xử của Tòa án. Chỉ có những người có uy tín mới có thể thực hiện
nhiệm vụ mà nhân dân tin cậy, giao phó.
b. Thủ tục bầu; miễn nhiệm; bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân
Thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân
Kế thừa và phát triển chế định Hội thẩm nhân dân trong các bản Hiến pháp năm
1946, năm 1959, năm 1980 của Nhà nước ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước của dân do dân vì dân, Hiến pháp năm 1992 của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và
xã hội…” (Điều 5), “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham

GVHD: Trương Thanh Hùng


25

SVTH: Châu Minh Tiếp


×