Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỉ XXI - thế kỉ của công nghệ thông tin, tri thức khoa học phát
triển như vũ bão. Trước sự phát triển đó đặt ra yêu cầu cho nền giáo dục nói
chung và nhà trường phổ thông nói riêng cần phải có những thay đổi nhất
định để phù hợp với sự phát triển của thời đại, đáp ứng được mục tiêu mà nền
giáo dục đặt ra. Mục tiêu đó là đào tạo con người phát triển toàn diện, đáp
ứng được yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Để đạt mục tiêu này các trường phổ
thông nói chung và bậc Tiểu học nói riêng đã có sự thay đổi mạnh mẽ, nội
dung ngày càng hiện đại, tính hệ thống ngày càng cao, vấn đề đưa ra ngày
càng sâu sắc, còn phương pháp dạy học ngày càng phong phú, đa dạng theo
hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tự nhiên và Xã hội là một môn
học có tính tích hợp cao những kiến thức của khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những phẩm chất, năng
lực của con người. Để đáp ứng được mục tiêu của hệ thống giáo dục quốc dân
nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng, chương trình môn Tự nhiên và Xã
hội đã đưa ra những mục tiêu nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức
ban đầu và thiết thực về một số sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội tiêu biểu
trong môi trường sống và mối quan hệ giữa chúng trong tự nhiên, đời sống,
sản xuất; hình thành ở các em những kĩ năng như: quan sát, mô tả, thảo luận,
phân tích, so sánh, đánh giá…, đồng thời giúp các em có thể vận dụng tri thức
đã học vào thực tiễn. Trên cơ sở những mục tiêu đó đòi hỏi việc hướng dẫn
của giáo viên phải hướng tới hoạt động tự chiếm lĩnh tri thức và hình thành,
rèn luyện kĩ năng của học sinh. Học sinh phải được hoạt động, tự bộc lộ mình
và phát triển tối đa khả năng của mình thông qua hoạt động học tập. Mục tiêu
này đòi hỏi trong quá trình giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội, giáo viên cần
phải tạo ra môi trường học tập khoa học, thân thiện; phải hướng học sinh tới
Tháng Thị Thèn
1
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
việc chủ động phát hiện các vấn đề và tìm kiếm giải pháp để giải quyết các
vấn đề đó; phân tích đánh giá và thu lượm được không chỉ các kiến thức, kĩ
năng, kĩ sảo mà cả các con đường để tìm kiếm được những kiến thức, kĩ năng,
kĩ sảo đó. Để đáp ứng được những yêu cầu trên giáo viên cần thiết phải xây
dựng tình huống có vấn đề và sử dụng nó trong quá trình dạy học.
Từ những lí do trên mà tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu của mình
là: “Xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội
lớp 2”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận này xây dựng và sử dụng tình huống có vấn đề
trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2, nhằm góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 nói riêng và dạy học ở Tiểu học
nói chung.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng: Các tình huống có vấn đề trong dạy học môn Tự nhiên và
Xã hội lớp 2.
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp
2.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và cở sở thực tiễn về tình huống có vấn đề
trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
- Thiết kế một số tình huống có vấn đề trong dạy học môn Tự nhiên và
Xã hội lớp 2.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp phân tích.
Tháng Thị Thèn
2
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
6. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng các tình huống có vấn đề vào dạy học môn Tự nhiên và
Xã hội lớp 2 thì sẽ nâng cao tính tích cực của người học trong dạy học môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 2 và góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu
học.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội
dung chính của khóa luận bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng tình huống có
vấn đề trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
Chương 2: Thiết kế tình huống có vấn đề trong dạy học môn Tự nhiên
và Xã hội lớp 2.
Tháng Thị Thèn
3
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
DẠY HỌC CÓ VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC MÔN
TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 2
1.1 . Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số vấn đề về tình huống có vấn đề trong dạy học
1.1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1.1. Tình huống
- Theo từ điển Tiếng Việt: “Tình huống là sự diễn biến của tình hình,
về mặt cần phải đối phó”.
- Theo tác giả Văn Tân: “Tình huống là toàn thể sự việc xảy ra tại một
nơi, trong một thời gian, buộc người ta phải suy nghĩ hành động, đối phó, chịu
đựng”.
Như vậy có thể hiểu tình huống là những sự kiện, vụ việc, hoàn cảnh có
chứa mâu thuẫn nảy sinh trong hành động, trong mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, với xã hội, giữa con người với nhau, buộc chúng ta phải giải
quyết, ứng xử kịp thời nhằm hướng những bất lợi thành có lợi làm cho hệ
thống xã hội ổn định, phát triển cao hơn và bền vững hơn.
1.1.1.1.2. Tình huống có vấn đề
Có nhiều quan niệm khác nhau về tình huống có vấn đề:
- Theo A.M. Machuskin: “Tình huống có vấn đề là một dạng đặc biệt
của sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, được đặc trưng bởi trạng
thái tâm lí xuất hiện ở chủ thể trong khi giải quyết một bài toán. Việc giải
quyết vấn đề đó lại cần đến tri thức mới, cách thức hành động mới chưa hề
biết trước đó”.
Tháng Thị Thèn
4
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Theo I.Ia.Lecne: “Tình huống có vấn đề là một khó khăn được chủ thể
ý thức rõ ràng hay mơ hồ mà muốn khắc phục được phải tìm tòi những tri
thức mới, những phương thức hành động mới”.
- Theo giáo sư Lê Nguyên Long: “Tình huống có vấn đề là trạng thái
tâm lí của sự khó khăn về trí tuệ xuất hiện ở con người khi họ trong tình
huống có vấn đề mà họ phải giải quyết, không thể giải thích một sự kiện mới
bằng tri thức đã có hoặc không thể thực hiện hành động bằng cách thức đã có
trước đây và họ phải tìm một cách thức hành động mới”.
Qua các khái niệm trên ta thấy rằng tình huống có vấn đề được đặc
trưng bởi một trạng thái tâm lí của chủ thể, đó là sự khó khăn về trí tuệ khi
đứng trước một vấn đề (mâu thuẫn trong nhận thức) mà họ thấy cần thiết và
có khả năng vượt qua nhưng không thể giải quyết ngay được với những kiến
thức kĩ năng có sẵn mà cần phải có tri thức mới, phương pháp hành động mới.
Như vậy tình huống có vấn đề mang tính chủ quan bên trong chủ thể nhận
thức và xuất hiện nhờ tính tích cực nghiên cứu của người học.
1.1.1.1.3. Tình huống có vấn đề trong dạy học
Vấn đề là điều cần được xem xét, nghiên cứu và giải quyết (Hoàng
Phê- Từ điển Tiếng Việt). Vấn đề chỉ có tính tương đối, ở thời điểm này nó là
vấn đề nhưng ở thời điểm khác nó không phải là vấn đề.
Bởi vậy, tình huống có vấn đề trong dạy học là những tình huống gợi
cho học sinh những khó khăn về mặt lí luận hay thực tiễn mà họ thấy cần thiết
phải vượt qua nhưng không phải ngay tức khắc nhờ một thuật giải, mà phải
qua quá trình tích cực suy nghĩ và hành động để làm biến đổi đối tượng hành
động và điều chỉnh kiến thức đã có.
Tình huống có vấn đề là tình huống thỏa mãn ba điều kiện sau:
- Tồn tại một vấn đề: Tình huống phải bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa thực tế
với trình độ nhận thức mà vốn hiểu biết sẵn có của chủ thể chưa đủ điều kiện
để vượt qua.
Tháng Thị Thèn
5
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Gợi nhu cầu nhận thức: Nếu tình huống có vấn đề nhưng học sinh
không có nhu cầu tìm hiểu, giải quyết thì đó chưa phải là một tình huống có
vấn đề. Điều quan trọng là giáo viên phải gợi ý ở học sinh làm bộc lộ khiếm
khuyết về kiến thức và kĩ năng của các em để các em thấy cần phải bổ sung,
hoàn thiện kiến thức, kĩ năng bằng cách tham gia giải quyết vấn đề nảy sinh.
- Gợi niềm tin ở khả năng của bản thân: Nếu một tình huống tuy có vấn
đề và học sinh có nhu cầu giải quyết vấn đề, nhưng họ cảm thấy vấn đề vượt
quá so khả năng của mình thì học sinh cũng không sẵn sàng tham gia giải
quyết vấn đề. Tình huống cần gợi ở học sinh những cảm nghĩ là tuy các em
chưa có ngay lời giải nhưng đã có một số tri thức, kĩ năng liên quan đến vấn
đề đặt ra và nếu các em tích cực suy nghĩ thì có nhiều hi vọng giải quyết vấn
đề đó. Như vậy có được niềm tin ở khả năng huy động tri thức và kĩ năng sẵn
có để giải quyết hoặc tham gia giải quyết vấn đề. Tình huống có vấn đề là tình
huống ở đó xuất hiện một vấn đề như đã nói ở trên. Vấn đề này vừa lạ vừa
quen đối với học sinh:
+ Quen vì chưa đựng những kiến thức có liên quan mà học sinh đã
được học trước đó.
+ Lạ vì mặc dù trông quen nhưng ngay tại thời điểm đó học sinh chưa
thể giải quyết được.
1.1.1.2. Phân loại tình huống có vấn đề
Về hình thức tổ chức, tình huống có vấn đề có thể được thể hiện dưới
dạng các câu hỏi, các bài tập hoặc các tình huống trò chơi.
- Dựa vào trình độ nhận thức của học sinh và nội dung của bài học, có
thể có bốn loại tình huống sau:
+ Các tình huống có vấn đề đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến
thức đã có trước đây vào những điều kiện thực hành mới.
+ Các tình huống có vấn đề chứa đựng mâu thuẫn giữa kiến thức lí
thuyết và thiếu khả năng giải quyết chúng trong thực tiễn.
Tháng Thị Thèn
6
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
+ Các tình huống có chứa đựng mâu thuẫn giữa kết quả thực hành với
việc thiếu khả năng chứng minh và lí giải kết quả đó về mặt lí thuyết.
+ Những tình huống có vấn đề mà học sinh không biết cách giải quyết
các bài tập đã cho.
Việc sử dụng loại tình huống nào còn phụ thuộc vào nội dung các bài
học và trình độ nhận thức cũng như vốn hiểu biết của học sinh.
- Dựa vào tính chất của mâu thuẫn xuất hiện có thể phân loại tình
huống có vấn đề làm nhiều loại khác nhau:
+ Tình huống mâu thuẫn (tình huống không phù hợp): Tình huống này
xuất hiện do mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, mâu thuẫn giữa
kiến thức thực tế và bài học mới. Học sinh đối diện với những vấn đề, hiện
tượng, quy luật trái với quan niệm thông thường hay ngược lại với những kiến
thức mình đã biết. Khi loại tình huống này xuất hiện buộc học sinh phải thắc
mắc, tò mò và muốn tìm cách giải quyết.
+ Tình huống nghịch lí (tình huống xung đột): Tình huống xuất hiện
khi có hiện tượng, vấn đề xảy ra trái ngược với suy nghĩ của học sinh, điều
này xảy ra sự xung đột trong tư duy của học sinh. Loại tình huống này tạo ra
sự bất ngờ, nghịch lí so với những gì học sinh đã hiểu (trước đó). Chính sự
bất ngờ nhiều khi tưởng chừng như vô lí này lại dễ lôi cuốn sự tò mò của học
sinh, gây hứng thú để học sinh tìm cách tiếp cận và giải quyết tình huống.
+ Tình huống lựa chọn: Tình huống đặt học sinh trước một vấn đề có
một số dấu hiệu quen thuộc liên quan đến những kiến thức mà học sinh đã
biết nhưng bản thân chưa xác định được dùng kiến thức, phương pháp nào để
giải quyết vấn đề đó. Hoặc có thể các phương án đưa ra để lựa chọn, phương
án nào cũng đúng nhưng học sinh cần tìm một phương án đúng, hợp lí nhất
trong điều kiện cụ thể của tình huống đã nêu.
- Dựa vào tính chất của tình huống có các loại sau:
+ Các tình huống có vấn đề trong thực tiễn.
Tháng Thị Thèn
7
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
+ Các tình huống có vấn đề từ các kiến thức đã biết bằng cách biến đổi
hay dấu đi một yếu tố nào đó.
+ Các tình huống mà việc giải quyết dẫn đến một kiến thức mới.
Cách phân loại các tình huống học tập trên chỉ là tương đối. Để tăng sự
hấp dẫn của bài học, sự mềm dẻo trong tư duy của học sinh, giáo viên nên
thường xuyên thay đổi kiểu tình huống một cách hợp lí.
1.1.1.3. Yêu cầu về tình huống có vấn đề trong dạy học
Khi xây dựng các tình huống có vấn đề trong dạy học, giáo viên cần
chú ý phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Các tình huống có vấn đề đưa ra phải phù hợp với đặc điểm nhận thức
đặc biệt là tư duy của học sinh.
- Các tình huống có vấn đề phải có sức hấp dẫn lôi cuốn học sinh và
kích thích các em ở lòng mong muốn giải quyết các tình huống đó.
- Các tình huống có vấn đề phải kích thích học sinh tích cực vận dụng
vốn hiểu biết và các kĩ năng nhận thức (quan sát, phân tích, so sánh, suy luận,
phán đoán, khái quát hóa…).
- Tình huống có vấn đề phải mang tính chất nêu vấn đề, chứa đựng mâu
thuẫn nhận thức, đặt học sinh luôn ở trạng thái có nhu cầu giải quyết các mâu
thuẫn.
- Các tình huống có vấn đề phải phù hợp với nội dung cơ bản của từng
chương trình, từng bài, từng phần để sau khi trả lời học sinh lĩnh hội được các
kiến thức trọng tâm.
- Tình huống có vấn đề được xây dựng phải đảm bảo cho học sinh có
đủ tri thức hay nguồn tài liệu tra cứu, gia công tìm tòi giải quyết.
1.1.1.4. Cấu trúc tâm lí của tình huống có vấn đề
Một tình huống có vấn đề có cấu trúc tâm lí gồm ba thành phần chính
như sau:
Tháng Thị Thèn
8
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Có một điều chưa biết: Điều chưa biết ở đây có thể là tri thức mới
hoặc cách thức hành động mới; là điều khám phá, không phải là điều phải
tìm.
- Nhu cầu cần tìm kiếm tri thức mới, nhu cầu cần giải quyết vấn đề:
Điều này có tác dụng kích thích sự hoạt động trí tuệ của trẻ hay nói cách khác
là kích thích tính tích cực nhận thức của trẻ.
- Khả năng của học sinh trong việc hoàn thành bài làm đặt ra, trong
việc phân tích các điều kiện và phát hiện điều chưa biết, biểu hiện khả năng
trí tuệ của học sinh.
Phân tích cấu trúc tâm lí của tình huống có vấn đề, ta thấy rằng, một
tình huống có vấn đề trong dạy học phải nhằm cung cấp tri thức mới, hình
thành khái niệm cho học sinh, đảm bảo chứa đựng một mâu thuẫn giữa tri
thức cũ và tri thức mới trong đó tri thức cũ phải là cơ sở, nền tảng cho tri thức
mới, mâu thuẫn phải vừa sức và học sinh phải có nhu cầu khám phá và có khả
năng giải quyết được.
1.1.2. Một số vấn đề vấn đề môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
1.1.2.1. Mục tiêu của môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Sau khi học xong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2, học sinh sẽ:
- Biết sơ lược về hoạt động của cơ quan vận động và cơ quan tiêu hoá ở
trong cơ thể người; phòng chống cong vẹo cột sống; giữ vệ sinh ăn uống,
phòng nhiễm giun.
- Biết về công việc của các thành viên trong gia đình, nhà trường và
một số nghề nghiệp trong xã hội, ở địa phương; giữ sạch nhà ở, trường học,
giữ an toàn khi ở nhà, ở trường và khi đi đường.
- Biết cây cối và các con vật có thể sống được ở khắp nơi: trên cạn,
dưới nước, trên không; biết quan sát bầu trời ban ngày, ban đêm; có hiểu biết
sơ lược về hình dạng và đặc điểm của Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì sao.
Tháng Thị Thèn
9
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
1.1.2.2. Cấu trúc nội dung chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
1) Nội dung chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Gồm 3 chủ đề:
I. Con người và sức khỏe
1. Cơ thể người
- Cơ quan vận động.
- Cơ quan tiêu hóa.
2. Vệ sinh phòng bệnh
- Vệ sinh cơ quan vận động, phòng bệnh cong vẹo cột sống.
- Vệ sinh cơ quan tiêu hóa, phòng bệnh giun.
3. Dinh dưỡng
- Ăn sạch, uống sạch.
II. Xã hội
1. Cuộc sống gia đình
- Công việc các thành viên trong gia đình.
- Cách bảo quản và sử dụng một số đồ dùng trong nhà.
- Vệ sinh xung quanh nhà ở.
- An toàn khi ở nhà.
2. Trường học
- Các thành viên trong trường học.
- Cơ sở vật chất của trường học.
- Vệ sinh trường học.
- An toàn khi ở nhà,
3. Địa phương
- Huyện hoặc quận nơi đang sống.
- An toàn giao thông.
III. Tự nhiên
1. Thực vật và động vật
Tháng Thị Thèn
10
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Một số thực vật sống trên cạn, dưới nước.
2. Bầu trời ban ngày và ban đêm
- Mặt trời.
- Mặt trăng và các vì sao.
2) Cấu trúc nội dung
SGK môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 gồm 3 chủ đề với 35 bài ứng với 35
tiết của 35 tuần thực học, trong đó có 31 bài học mới và 4 bài ôn tập, được
phân phối như sau:
- Con người và sức khỏe: 10 bài
- Xã hội
: 13 bài
- Tự nhiên
: 12 bài
Nội dung kiến thức trong toàn bộ cuốn sách được phát triển theo nguyên
tắc từ gần đến xa, dẫn dắt học sinh mở rộng vốn hiểu biết từ bản thân đến gia
đình, trường học; từ cuộc sống xã hội xung quanh đến thiên nhiên rộng lớn; từ
những cây cối, con vật thường gặp đến Mặt trời, Mặt trăng và các vì sao.
Nội dung kiến thức trong mỗi chủ đề đều được tích hợp nội dung giáo
dục sức khỏe một cách hợp lí, đi từ sức khỏe cá nhân trong chủ đề “Con
người và sức khỏe” đến sức khỏe cộng đồng trong chủ đề “Xã hội” và sức
khỏe liên quan đến môi trường trong chủ đề “Tự nhiên”.
3) Cách trình bày cuốn sách
SGK Tự nhiên và Xã hội lớp 2 được trình bày bằng những hình ảnh minh
họa sinh động, màu sắc tươi sáng, do đó sẽ thu hút và hấp dẫn học sinh lứa
tuổi Tiểu học. Ở mỗi bìa thường bắt đầu bằng phần “Liên hệ thực tế và trả
lời”. Ở phần này SGK đưa ra những câu hỏi về những sự việc xảy ra thường
ngày của bản thân và xung quanh. Bên dưới là những hình ảnh minh họa rất
sinh động thể hiện câu hỏi và tiếp đó là phần “Bạn cần biết”. Đây chính là
phần cung cấp cho các em những hiểu biết về bản thân, về gia đình và xã hội.
Phần quan sát tranh và trả lời câu hỏi cũng đưa ra những hình ảnh minh họa
Tháng Thị Thèn
11
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
rất sinh động giúp các em biết những việc nào nên làm và những việc nào
không nên làm. Những câu hỏi và những “lệnh” yêu cầu học sinh làm việc, tất
cả đều ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ. Điều đó đặc biệt quan trọng với
học sinh Tiểu học. Việc học của các em lúc này nhờ vào việc trực tiếp quan
sát các hình ảnh trong SGK kết hợp với sự hướng dẫn của giáo viên.
Một điểm mới là ở đầu các câu hỏi hoặc các “lệnh” trong SGK có các kí
hiệu chỉ dẫn hoạt động học tập của học sinh. Kí hiệu này được dùng trong
sách là một hình vẽ tượng trưng mang tính biểu tượng. Chúng tương ứng với
việc quan sát, liên hệ thực tế, trò chơi học tập, vẽ, thực hành, bạn cần biết.
Với cách trình bày như vậy, mỗi bài học đã thể hiện một chuỗi các trình tự
hoạt động học tập của học sinh, đồng thời gợi ý cho giáo viên xây dựng các
tình huống có vấn đề, lựa chọn các phần và hình thức tổ chức thích hợp.
1.1.2.3. Đặc điểm chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
- Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 được xây dựng theo quan
điểm tích hợp, thể hiện ở 3 điểm sau:
+ Môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 xem xét tự nhiên – con người – xã hội
trong một thể thống nhất, có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau.
+ Các kiến thức trong chương trình môn Tự nhiên và Xã hội là kết quả
tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học: Sinh học, Vật lí, Hóa học, Địa
lí, Lịch sử, Môi trường, Dân số…
+ Học sinh lớp 2 là giai đoạn đầu của bậc Tiểu học, ở giai đoạn này tri
giác của trẻ mang tính tổng thể, thu nhận kiến thức thông qua trực giác, khả
năng phân tích chưa cao, khó nhận ra các mối quan hệ giữa sự vật, hiện
tượng. Vì vậy, chương trình có cấu trúc dưới dạng các chủ đề, bao gồm 3 chủ
đề: con người và sức khỏe, xã hội, tự nhiên.
Do vậy, giáo viên xây dựng các tình huống phải tổng hợp nội dung các
kiến thức của nhiều môn học và tình huống phải phù hợp với nội dung cơ bản
Tháng Thị Thèn
12
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
của từng chủ đề, từng bài, từng phần để sau khi giải quyết học sinh lĩnh hội
được các kiến thức trọng tâm.
- Chương trình có cấu trúc đồng tâm và phát triển. Các kiến thức trong
các chương trình được trình bày đi từ cụ thể đến trìu tượng. Các kiến thức
được trình bày từ gần đến xa, từ dễ đến khó, tăng dần mức độ phức tạp và
khái quát hóa, tạo điều kiện để học sinh dễ tiếp thu kiến thức.
Do đó khi giáo viên xây dựng các tình huống trong bài học hay trong cả
quá trình học phải từ dễ đến khó. Các tình huống khó học sinh không giải
quyết được thì giáo viên nên chia nhỏ thành các tình huống nhỏ, dễ giải quyết
hơn sau đó giúp học sinh tổng hợp, khái quát lại để giải quyết tình huống đã
cho.
- Môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 là một môn học mà học sinh có nhiều
vốn sống, vốn hiểu biết để tham gia xây dựng bài học. Học sinh tới trường
mang theo cả vốn sống, vốn hiểu biết được hình thành từ trong cuộc sống với
gia đình, làng quê, phố phường nơi các em đang sinh sống và cả từ nguồn gốc
xã hội của mỗi em.
Các nguồn thông tin ngày càng nhiều và càng dễ tiếp nhận qua thông
tin đại chúng. Mặt khác, môn Tự nhiên và Xã hội lại là một môn học về tự
nhiên, con người và xã hội gẫn gũi bao quanh học sinh. Vì vậy dưới sự hướng
dẫn của giáo viên, học sinh hoàn toàn có khả năng tự phát hiện (khám phá)
kiến thức và áp dụng các kiến thức đó vào cuộc sống.
Do vậy, giáo viên xây dựng tình huống có vấn đề phải gẫn gũi, thiết
thực với cuộc sống hàng ngày của các em, phải đảm bảo học sinh có đủ tri
thức hay nguồn tài liệu tra cứu, gia công tìm tòi cách giải quyết.
1.1.3. Tác dụng của việc sử dụng tình huống có vấn đề trong dạy học môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Thế giới nội tâm của con người rất đa dạng và phong phú. Nó biến đổi
không chỉ theo đối tượng mà theo từng giai đoạn phát triển của đối tượng.
Tháng Thị Thèn
13
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Qua nghiên cứu tôi thấy, ở lứa tuổi bậc đầu tiểu học, học sinh có những đặc
điểm tâm lí mà việc dạy học môn Tự nhiên và Xã hội nói chung hay dạy môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 2 nói riêng cần thiết phải sử dụng tình huống có vấn
đề.
Học sinh ở lứa tuổi tiểu học nhân cách đang dần hình thành. Lứa tuổi
đầu cấp học sinh có những biến đổi không ngừng trong đời sống tinh thần,
điều này thể hiện rõ trong nhu cầu cũng như tính cách và đời sống tình cảm
của học sinh. Trong hệ thống các nhu cầu, nhu cầu nhận thức nổi lên giữ vai
trò chủ đạo. Nhu cầu tự đánh giá một loạt thói quen hành vi, đạo đức của con
người dần hình thành ở học sinh. Học sinh cũng rất dễ xúc động trước một đối
tượng trực tiếp và cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong các em. Đặc điểm này có
thể khẳng định các em rất yêu thích môn học, ham muốn tìm hiểu và khám
phá thế giới xung quanh. Các tình huống có vấn đề luôn lôi cuốn học sinh và
kích thích các em lòng ham muốn giải quyết các tình huống đó, các em sẽ
hoạt động tích cực và sôi nổi trong học tập.
Ở Tiểu học sự chín muồi của các cơ quan trong cơ thể diễn ra một cách
tích cực, thể hiện rõ ràng ở sự phát triển chiều cao, cân nặng, sự cốt hóa bộ
xương…. Tất cả những đặc điểm trên cho phép trẻ hoàn thiện và phối hợp sự
phát triển của các phẩm chất: dũng cảm, nhanh nhẹn, khéo léo, mền dẻo,
mạnh mẽ đặc biệt là sức chịu đựng – phẩm chất có quan hệ chặt chẽ tới khả
năng lao động. Trong khi đó giải quyết các tình huống có vấn đề học sinh
luôn ở trạng thái vận động, sử dụng mọi giác quan, điều này sẽ giúp học sinh
không chỉ lĩnh hội được nhiều thông tin, tri thức, kĩ năng mà còn giúp học
sinh phát triển thể chất. Đây chính là mục đích luôn hướng tới của giáo dục
tiểu học: giúp học sinh phát triển một cách toàn diện.
Xây dựng tình huống có vấn đề được xem là nội dung cơ bản, quan
trọng và có ý nghĩa then chốt trong dạy học giải quyết vấn đề (Lence-1997),
trong đó học sinh được tham gia tích cực vào quá trình học tập, giải quyết vấn
Tháng Thị Thèn
14
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
đề. Mà nét bản chất của dạy học giải quyết vấn đề không phải đặt ra những
câu hỏi mà là tạo ra những tình huống có vấn đề. Vì vậy việc xây dựng tình
huống có vấn đề có một ý nghĩa quan trọng trong dạy học nói chung và dạy
học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 nói riêng.
1.1.4. Một số quy trình xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học
Theo tiêu chí phân loại tình huống có vấn đề, dựa vào tính chất của
mâu thuẫn xuất hiện của Nguyễn Thị Diệu Phương thì quy trình xây dựng
tình huống có vấn đề gồm hai bước:
- Bước 1: Tái hiện tri thức đã có liên quan đến tình huống sắp phải giải
quyết. Tình huống nào cũng xuất phát từ nội dung trong bài học, mà nội dung
bài học luôn có quan hệ với những kiến thức đã có. Việc tái hiện, vận dụng
kiến thức đã có sẽ làm cơ sở đưa ra tình huống có vấn đề.
- Bước 2: Tìm ra cái đối lập với cái đã biết. Cần xây dựng được những
sự kiện hiện tượng mâu thuẫn với tri thức vốn có của học sinh về nội dung
đang đề cập. Kĩ thuật tạo nên mâu thuẫn có nhiều cách: Mâu thuẫn giữa kiến
thức cũ và kiến thức mới, có thể là một nghịch lí, một bất ngờ, một thực tiễn
trái với lí thuyết,… buộc học sinh phải tìm cách giải quyết vấn đề nảy sinh đó.
Thạc sỹ Phạm Thị Thu Hiền đưa ra quy trình xây dựng tình huống có
vấn đề trong dạy học gồm bốn bước:
- Bước 1: Xác định mục tiêu bài học: Các lĩnh vực phẩm chất phải đạt
của mục tiêu bài học là những kiến thức, kĩ năng, thái độ.
- Bước 2: Phân tích lôgic nội dung bài học: Toàn bộ nội dung của bài
học đều có mối quan hệ lôgic với nhau. Nếu như mối liên hệ này bị vi phạm
thì việc tiếp thu tri thức gặp rất nhiều khó khăn, vì muốn nghiên cứu một nội
dung mới cần gắn liền cái chưa biết với cái đã biết.
- Bước 3: Xác định nội dung kiến thức có thể mã hóa thành tình huống
có vấn đề: Những đơn vị kiến thức trong SGK được viết một cách cô đọng,
kiểu thuyết trình theo lôgic tường minh khoa học nhất định của môn học. Bởi
Tháng Thị Thèn
15
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
vậy, có xác định được lôgic vận động của nội dung cơ bản, trọng tâm của bài
học thì mới có thể xây dựng được tình huống có vấn đề giúp học sinh lĩnh hội
được những kiến thức đầy đủ, chính xác, có hệ thống. Nghĩa là tình huống có
vấn đề phải có tác dụng tổ chức, hướng dẫn học sinh trong quá trình tìm lời
giải, làm bộc lộ lôgic bên trong của hoạt động nhận thức. Khi ấy tình huống
có vấn đề trở thành phương tiện truyền tải nội dung tri thức SGK cho học
sinh tiến hành các hoạt động trí tuệ một cách tích cực để thu nhận tri thức mới
theo quan điểm lôgic hệ thống.
- Bước 4: Diễn đạt các khả năng mã hóa nội dung kiến thức đó thành
tình huống có vấn đề: Các tình huống có vấn đề nên diễn đạt sao cho có thể
giúp học sinh chủ động lĩnh hội được nhiều tri thức thuộc nhiều lĩnh vực phù
hợp với các mức độ học khác nhau của học sinh như: nhớ, hiểu, vận dụng, kĩ
năng, thái độ. Có thể sử dụng các từ nghi vấn chung về phẩm chất, phương
thức, nguyên nhân, kết quả, so sánh, chứng minh,… để tạo ra các tình huống
có vấn đề cụ thể.
Thạc sỹ Dương Giáng Thiên Hương đưa ra quy trình xây dựng tình
huống có vấn đề gồm bốn bước sau:
- Bước 1: Xác định mục tiêu bài dạy.
- Bước 2: Phân tích nội dung bài dạy, xây dựng mối quan hệ giữa các
nội dung kiến thức trong bài cũng như mối quan hệ giữa các nội dung đó với
các kiến thức có liên quan ở các bài học trước.
- Bước 3: Xây dựng nguồn tư liệu (tìm kiếm thông tin liên quan đến bài
học).
- Bước 4: Xác định khả năng có thể xây dựng tình huống có vấn đề và
thực hiện thành vấn đề học tập.
Như vậy mỗi tác giả đều đưa ra một quy trình xây dựng tình huống có
vấn đề. Dựa trên việc nghiên cứu cơ sở lí luận của tình huống có vấn đề ở
chương 1 và kết hợp với các quy trình xây dựng tình huống có vấn đề của một
Tháng Thị Thèn
16
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
số tác giả, tôi xin đề xuất quy trình xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy
học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 gồm 5 bước như sau:
- Bước 1: Xác định mục tiêu bài học
Giáo viên cần xác định các lĩnh vực phẩm chất phải đạt của mục tiêu
bài học là: kiến thức, kĩ năng, thái độ.
Giáo viên cần phân hóa học sinh theo những trình độ kiến thức và tư
duy khác nhau, để mỗi học sinh đều được làm việc với sự nỗ lực trí tuệ nhưng
vừa sức.
- Bước 2: Phân tích lôgic cấu trúc nội dung bài học
Tri thức của mỗi môn học đều có quan hệ nội môn, liên môn gắn bó
chặt chẽ. Nếu như mối liên hệ này không được khai thác, thì việc khơi dậy
động cơ hứng thú tìm tòi cho học sinh sẽ rất khó khăn, nghĩa là khó làm học
sinh ý thức được tình huống có vấn đề.
Giáo viên phân tích lôgic nội dung bài học để xác định cụ thể mối liên
hệ giữa vốn tri thức, kĩ năng của học sinh với tri thức kĩ năng mới cần hình
thành. Đồng thời, giúp giáo viên xác định các nội dung có thể tạo tình huống
có vấn đề (ở bước 3) và vận dụng các kĩ thuật tạo tình huống có vấn đề đối
với nội dung đó (ở bước 4).
- Bước 3: Xác định các nội dung có thể tạo tình huống có vấn đề
Không phải mọi bài học trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 đều tồn
tại vấn đề và không phải nội dung nào cũng có thể tạo được tình huống có vấn
đề. Giáo viên cần biết được nội dung có thể tạo tình huống có vấn đề được
xác định bởi 3 tiêu chí sau:
+ Tiêu chí 1: Kiến thức đã có ở chủ thể (nghĩa là có “tồn tại vấn đề” đối
với học sinh, trong đó điều chưa biết phải mới và mang tính khái quát).
+ Tiêu chí 2: Nhu cầu nhận thức (mâu thuẫn trong tình huống có vấn đề
làm nảy sinh nhu cầu nhận thức cho học sinh).
Tháng Thị Thèn
17
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
+ Tiêu chí 3: Đối tượng nhận thức (nghĩa là đảm bảo tính vừa sức đối
với từng học sinh).
Như vậy, mối quan hệ để xác định tình huống có vấn đề là sự xuất hiện
mâu thuẫn (duy nhất) khi kiến thức đã có ở chủ thể về đối tượng nhận thức
không đủ thỏa mãn nhu cầu nhận thức.
Các tiêu chí nêu trên sẽ được sử dụng để kiểm tra tính đúng đắn của
tình huống có vấn đề (ở bước 5).
- Bước 4: Lựa chọn kĩ thuật tạo tình huống có vấn đề và xây dựng tình
huống có vấn đề
Theo nghiên cứu của A.M. Machuskin đã đưa ra 27 loại tình huống có
vấn đề. Tuy nhiên trong dạy học nói chung người ta sử dụng phổ biến
một số loại sau:
+ Kĩ thuật tạo tình huống có vấn đề bằng việc sử dụng nghịch lí, bất
ngờ. Tức là tạo ra sự bất ngờ, nghịch lí so với những gì học sinh đã có mà khi
mới tiếp nhận vấn đề tưởng chừng như vô lí.
+ Kĩ thuật tạo tình huống có vấn đề bằng cách tạo nhiều phương án,
biện pháp, cách thức khác nhau trên một vấn đề đưa ra mà xem ra các phương
án, biện pháp, cách thức đều có vẻ hợp lí. Từ đó buộc học sinh đứng trước sự
lựa chọn đúng nhất.
+ Kĩ thuật tạo tình huống có vấn đề dựa trên sự mâu thuẫn giữa kinh
nghiệm cá nhân và tri thức khoa học.
+ Kĩ thuật tạo tình huống có vấn đề bằng việc gây mâu thuẫn nội tại.
+ Kĩ thuật tạo tình huống có vấn đề dựa trên mối quan hệ nhân - quả.
Từ việc nắm chắc các kĩ thuật tạo tình huống giáo viên xây dựng các
tình huống có vấn đề.
- Bước 5: Kiểm tra tính đúng đắn của tình huống có vấn đề
Bước này nhằm khẳng định tính khả thi và đúng đắn của tình huống có
vấn đề đã được xây dựng bằng các kĩ thuật khác nhau (ở bước 4). Nội dung
Tháng Thị Thèn
18
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
chính của bước này tập trung vào việc phân tích chứng tỏ tình huống có vấn
đề vừa xây dựng thỏa mãn 3 tiêu chí ở bước 3.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Để đạt được mục đích mà nội dung đề tài đã đưa ra trên cơ sở lí luận đã
đề xuất, tôi tiến hành khảo sát thực trạng sư phạm bước đầu nhằm kiểm chứng
giả thuyết khoa học và hiệu quả thực tế của việc vận dụng tình huống có vấn
đề trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2. Tôi đã tiến hành điều tra tại 3
trường tiểu học địa bàn thị xã Phúc Yên:
1. Trường Tiểu học Xuân Hoà – Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
2. Trường Tiểu học Lưu Quý An – Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
3. Trường Tiểu học Trưng Nhị - Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
Điều tra được tiến hành ở các trường tiểu học với điều kiện dạy học
khác nhau để khảo sát, đánh giá của đề tài mang tính khái quát, tổng hợp hơn.
Việc điều tra khảo sát tôi tiến hành theo các nội dung sau:
1.2.1. Hiểu biết của giáo viên về tình huống có vấn đề trong dạy học
Trước tiên tôi điều tra sự hiểu biết của giáo viên về tình huống có vấn
đề và vai trò của tình huống có vấn đề trong dạy học. Để có được kết quả
chính xác, khách quan tôi đã sử dụng phiếu điều tra kết hợp với trao đổi, trò
chuyện với giáo viên.
Nội dung phiếu điều tra: Câu 1 và câu 2 (Phụ lục)
Kết quả điều tra người nghiên cứu tổng kết bằng biểu đồ 1 và biểu đồ 2:
Tháng Thị Thèn
19
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
70
60
50
40
30
20
10
0
Quan niệm 1
Quan niệm 2
Quan niệm 3
Biểu đồ 1: Quan niệm của giáo viên về tình huống có vấn đề trong dạy
học.
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Quan niệm 1
Quan niệm 2
Quan niệm 3
Biểu đồ 2: Quan niệm của giáo viên về vai trò của tình huống có vấn đề
trong dạy học.
Tháng Thị Thèn
20
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Qua biểu đồ ta thấy sự hiểu biết của giáo viên về tình huống có vấn đề
trong dạy học còn hạn chế, chưa sâu sắc. Có tới 75% số giáo viên được hỏi
hiểu biết chưa đầy đủ về tình huống có vấn đề trong dạy học. Chỉ có 25 % số
giáo viên được hỏi hiểu đúng và hiểu đầy đủ về tình huống có vấn đề trong
dạy học. Qua điều tra thì tôi thấy đa số giáo viên đã hiểu đúng về vai trò của
tình huống có vấn đề trong dạy học, chỉ có 15% giáo viên chưa hiểu đúng về
vai trò của nó.
1.2.2. Mức độ và hiệu quả việc xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy
học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Dựa theo những kết quả ở phiếu điều tra (phần phụ lục), kết hợp với
trao đổi và trò chuyện với các giáo viên về việc xây dựng tình huống có vấn
đề trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2, tôi nhận thấy mức độ xây
dựng tình huống có vấn đề tương đối cao. Kết quả điều tra được cụ thể hoá ở
biểu đồ 3 như sau:
60
50
40
30
20
10
0
Thường xuyên Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Chưa bao giờ
Biểu đồ 3: Mức độ xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học môn tự
nhiên và Xã hội lớp 2.
Tháng Thị Thèn
21
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Qua biểu đồ 3 ta thấy được mức độ xây dựng tình huống có vấn đề
trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 tương đối cao. Có tới 60% giáo
viên cho biết là thường xuyên xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học
môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2, còn 20% giáo viên thì thỉnh thoảng xây dựng.
Bên cạnh đó có 80% giáo viên cho rằng thường xây dựng các tình huống có
vấn đề ở hoạt động dạy học bài mới. Trong khi đó qua nghiên cứu tôi thấy
tình huống có vấn đề trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 được xây
dựng nhiều nhằm mục đích kích thích ở học sinh khả năng tìm tòi nghiên cứu
để chiếm lĩnh tri thức mới và phát triển khả năng tư duy của học sinh. Muốn
đạt được mục tiêu ấy trong quá trình học tập môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2,
giáo viên cần phải xây dựng tình huống có vấn đề phù hợp với từng hoạt động
học tập, từ đó mà việc dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 sẽ mang lại hiệu
quả rất cao. Các giáo viên trực tiếp đứng lớp cũng nhận thấy rất rõ điều này.
Vì vậy, khi được hỏi ý kiến các thầy cô về sự cần thiết xây dựng tình huống
có vấn đề trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 thì có tới 83% số giáo
viên được hỏi cho là cần thiết và 17% cho rằng rất cần thiết. Đây cũng là điều
kiện thuận lợi để xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học ở Tiểu học nói
chung và trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 nói riêng.
1.2.3. Thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng tình huống có vấn đề
trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
1.2.3.1. Thuận lợi
Trong dạy học, các tình huống có vấn đề gợi cho học sinh những khó
khăn về mặt lí luận hay thực tiễn mà học sinh cảm thấy cần thiết phải vượt
qua thông qua quá trình tích cực suy nghĩ và hành động. Vì vậy nó có tác
dụng kích thích ở học sinh khả năng tìm tòi nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức
mới và phát triển khả năng tư duy của học sinh. Người học luôn học ở trạng
thái vận động, giải tỏa sức ỳ, khuyến khích người học vượt qua khó khăn, bộc
lộ được năng lực, sở trường của bản thân, tạo không khí học tập vui vẻ, dễ tìm
Tháng Thị Thèn
22
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
thấy “tiếng nói chung” và phát triển mối quan hệ học tập một cách nhanh
chóng.
Trong khi giải quyết các tình huống có vấn đề học sinh luôn ở trạng
thái vận động, sử dụng mọi giác quan, điều này sẽ giúp các em không chỉ lĩnh
hội được nhiều thông tin tri thức, kĩ năng mà con giúp các em phát triển về
thể chất. Đây chính là mục đích luôn tiến tới của giáo dục tiểu học: giúp học
sinh phát triển một cách toàn diện.
Trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, sự tiến
bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, sự bùng nổ thông tin…thì khả năng nhận
thức, tìm tòi nghiên cứu của học sinh ngày càng phát triển. Điều này tạo điều
kiện thuận lợi cho việc xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học ở tiểu
học nói chung và dạy học môn Tự nhiên và Xã hội nói riêng.
1.2.3.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trong việc xây dựng tình huống có vấn đề
trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 vẫn còn những khó khăn.
Để kích thích ở học sinh khả năng tìm tòi, nghiên cứu đòi hỏi giáo viên
phải lựa chọn kĩ các hoạt động học tập để xây dựng các tình huống có vấn đề.
Các tình huống có vấn đề phải đảm bảo mục tiêu bài học và đảm bảo tính vừa
sức đối với học sinh. Mặt khác, trong quá trình giải quyết các tình huống có
vấn đề nhiều khi giáo viên không thể lường trước được diễn biến của hoạt
động. Vì vậy muốn tiến hành thành công một giờ dạy đòi hỏi giáo viên phải
có một trình độ nhất định.
Khi xây dựng các tình huống có vấn đề giáo viên sẽ mất nhiều thời gian
để chuẩn bị xây dựng các tình huống có vấn đề và thời gian để chuẩn bị tổ
chức cho học sinh giải quyết các tình huống đó. Bên cạnh đó, giáo viên phải
nắm chắc được các kĩ thuật và nội dung bài học để xây dựng tình huống có
vấn đề và đảm bảo các tình huống đó phải nằm ở giới hạn trên của vùng phát
triển trí tuệ gần nhất của học sinh.
Tháng Thị Thèn
23
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Thực tiễn và kinh nghiệm dạy học cho thấy việc tổ chức, hướng dẫn
học sinh tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới có vai trò quan trọng trong quá
trình hình thành và phát triển tư duy cho học sinh. Tuy nhiên trong quá trình
tổ chức thực hiện vẫn còn gặp một số khó khăn nhất định: trình độ tư duy của
học sinh trong lớp không đồng đều, các em hay có thói quen học vẹt, ghi nhớ
máy móc, tiếp thu vấn đề một cách thụ động… .Trong khi đó, giáo viên
thường sợ mất nhiều thời gian làm ảnh hưởng đến tiết học và còn lúng túng
trong quá trình lựa chọn, xây dựng tình huống có vấn đề.
Tháng Thị Thèn
24
GVHD: Phạm Quang Tiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ TRONG DẠY
HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 2
2.1. Nguyên tắc xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội lớp 2
Để xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 2, ngoài việc đảm bảo các nguyên tắc giáo dục nói chung, giáo viên
cần phải đảm bảo một số nguyên tắc riêng khi xây dựng các tình huống có
vấn đề sau:
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo mục tiêu bài học
Một tình huống có thể phục vụ giảng dạy cho một môn học, một bài
học hoặc một phần nội dung bài học. Khi xây dựng tình huống có vấn đề, giáo
viên cần xác định rõ mục tiêu của các tình huống đó để lựa chọn một lượng
thông tin vừa đủ cung cấp cho học sinh. Các tình huống có vấn đề phải nhằm
hướng học đến các hoạt động mang tính chất tìm tòi, khám phá tự nhiên, đời
sống xã hội xung quanh một cách tích cực. Giáo viên cần đặt những câu hỏi
như : Tình huống này là gì? Thông qua việc giải quyết tình huống này, học
sinh có học được những kiến thức lí thuyết gì?.... Những thông tin đưa ra
trong tình huống chỉ cần ở mức độ vừa và đủ để giúp học sinh có thể đạt được
mục tiêu của bài học. Nếu lượng thông tin đưa ra quá nhiều, có sự kết hợp
nhiều nội dung trong một tình huống sẽ gây ra sự nhàm chán, mất thời gian và
có thể vấn đề không được giải quyết triệt để, sẽ phá vỡ kết cấu bài giảng.
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức chung với
tính vừa sức riêng
Dạy học vừa sức nghĩa là những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra mọi
học sinh trong lớp có thể thực hiện được với sự nỗ lực cao nhất về trí tuệ và
thể lực. Nguyên tắc này đòi hỏi giáo viên khi xây dựng tình huống có vấn đề
trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 cần có sự hiểu biết sâu sắc về học sinh để
Tháng Thị Thèn
25
GVHD: Phạm Quang Tiệp