LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ long biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô giáo,
Th.S Nguyễn thị Duyên - giảng viên khoa Giáo dục Tiểu học, trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô giáo
trong khoa Giáo dục Tiểu học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại nhà
trường.
Xin được gửi lời cảm ơn đến ban giám hiệu, các thầy cô giáo và các em
học sinh trường Tiểu học Trưng Nhị, Thị xã Phúc Yên, Vĩnh Phúc đã tạo
điều kiện cho tôi điều tra, khảo sát các vấn đề thực tiễn có lien quan tới
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2012
Người thực hiện
Nguyễn Kim Hương
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là
thành quả nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung khóa luận không trùng với bất
cứmootj công trình nghiên cứu nào.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2012
Người thực hiện
Nguyễn Kim Hương
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
SL:
Số lượng
STT:
Số thứ tự
TL:
Tỉ lệ
TNXH:
Tự nhiên xã hội
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong những thập niên đầu thế kỉ XXI, thế kỉ của
những tiến bộ vượt bậc về tất cả các mặt, từ đời sống xã hội cho đến văn
hóa và công nghệ. Thế kỉ của những con người tài giỏi và có những năng
lực chuyên môn thực sự, tự chủ và sáng tạo. Từ những yêu cầu đó mà ở
nước ta hiện nay, giáo dục đang là mối quan tâm hàng đầu của xã hội, đặc
biệt là giáo dục tiểu học. Tiểu học là bậc học nền tảng, hình thành những cơ
sở ban đầu cho học sinh phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
thẩm mĩ và kĩ năng, đặt nền móng vững chắc cho những bậc học tiếp theo.
Muốn làm được điều này, chúng ta cần tiến hành đồng bộ những vấn đề của
ngành giáo dục, phải có nội dung và phương pháp thích hợp. Vậy sử dụng
phương pháp dạy học như thế nào để phát huy được tối đa tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh là một vấn đề đáng quan tâm.
Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Tự nhiên và Xã
hội là môn có tính tích hợp cao, là tổng hợp của nhiều ngành khoa học như:
Toán học, Hóa học, Sinh học…. Khi học môn Tự nhiên và Xã hội, học sinh
sẽ có những hiểu biết cơ bản về thế giới tự nhiên, xã hội và con người.
Đồng thời hình thành và rèn luyện cho học sinh những kĩ năng thực hành
cần thiết cho cuộc sống, phục vụ trong các mối quan hệ với cộng đồng xã
hội. Vì vậy, việc dạy học môn Tự nhiên và Xã hội cũng quan trọng như dạy
học môn Toán và Tiếng Việt.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy
học môn Tự nhiên và Xã hội theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh. Vì vậy khi dạy học, giáo viên cần gây hứng thú học
tập cho học sinh bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học
tập. Với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học thì dạy học môn Tự
4
nhiên và Xã hội không thể nào là thuyết giảng hay là nhồi nhét các kiến
thức về tự nhiên, xã hội, con người cho các em một cách máy móc mà cần
phải sử dụng các phương pháp dạy học một cách linh hoạt. Trong các
phương pháp dạy học môn Tự nhiên và Xã hội như: phương pháp quan sát,
phương pháp đàm thoại, phương pháp trò chơi, phương pháp hợp tác trong
nhóm… thì phương pháp trò chơi học tập là phương pháp gây được nhiều
hứng thú nhất cho các em. Đối với học sinh tiểu học, lứa tuổi vừa học vừa
chơi, hiếu động, chóng chán, vấn đề tạo nên hứng thú học tập cho các em là
rất quan trọng. Trò chơi tác động toàn diện đến trẻ em vì nó dễ dàng thâm
nhập vào xúc cảm, tình cảm thúc đẩy mọi hành động của trẻ.
Việc vận dụng phương pháp trò chơi trong quá trình dạy học là rất
cần thiết, thực hiện được quan điểm mà nguyên Bộ trưởng bộ GD&ĐT đã
đưa ra: “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui ”. Trò chơi xuất phát từ nội
dung bài học là hoạt động góp phần làm cho học sinh hứng thú, ham thích
học tập tạo không khí phấn khởi tạo tâm thế thoải mái trước giờ học hay
củng cố nắm chắc kiến thức đã được học, kích thích tư duy sáng tạo và rèn
kĩ năng.
Hiện nay, vận dụng trò chơi học tập vào dạy học không phải là vấn
đề mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về môn Tự nhiên - xã hội, các nguồn
tư liệu: các sách thiết kế, sách giáo viên hướng dẫn soạn giáo án… đã đưa
ra rất nhiều trò chơi nhưng còn rời rạc từng trò chơi cho từng bài học mà
chưa có tính hệ thống. Một số trò chơi đòi hỏi cao về công tác chuẩn bị
không phù hợp với đặc điểm cơ sở vật chất trường học...
Với chủ đề Tự nhiên, sách giáo viên hay sách thiết kế chỉ đưa ra các
trò chơi chưa có tính phong phú. Giáo viên rất khó áp dụng, đối với học
sinh rất dễ gây nhàm chán, làm giảm hiệu quả các tiết học.
5
Từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài: “Xây dựng và sử dụng trò
chơi học tập trong dạy học chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2”
hi vọng khi nghiên cứu đề tài này sẽ mang lại nhiều kinh nghiệm dạy học
khi áp dụng phương pháp sử dụng trò chơi, bổ sung, phát triển vốn trò chơi
thêm phong phú và đa dạng.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất quy trình xây dựng và sử dụng trò chơi học tập, đồng thời
xây dựng một số trò chơi học tập để giáo viên tham khảo trong quá trình
dạy học chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng và sử dụng hệ thống trò chơi trong dạy học chủ đề Tự
nhiên thuộc chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
3.2 Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc
xây dựng và sử dụng trò chơi học tập phần chủ đề Tự nhiên môn Tự
nhiên và Xã hội lớp 2.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt những mục tiêu đề ra việc xây dựng và giải quyết các nhiệm
vụ là hết sức quan trọng. Thông qua các nhiệm vụ chúng tôi sẽ tiến hành
từng bước như thế nào để hoàn chỉnh đề tài nghiên cứu. Các nhiệm vụ đó
là: Đầu tiên chúng tôi nghiên cứu cơ sở lý luận nắm bắt những nền tảng cơ
sở ban đầu của vấn đề. Lí thuyết là một vấn đề và thực tiễn là vấn đề khác,
chúng tôi đi vào nghiên cứu cơ sở thực tiễn: Vấn đề sử dụng trò chơi trong
dạy học các bài thuộc chủ đề: Tự nhiên lớp 2. Nhiệm vụ cuối cùng là đưa ra
6
quy trình, đồng thời xây dựng một số trò chơi mới và đề xuất quy trình sử
dụng trò chơi trong dạy học chủ đề Tự nhiên.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực tốt các nhiệm vụ đề ra đạt được mục tiêu nghiên cứu thì
không thể thiếu được các phương pháp nghiên cứu. Có rất nhiều phương
pháp trong nghiên cứu khoa học thường được áp dụng, với các vấn đề của
đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp thu thập tài liệu:
Thông qua các giáo trình, tạp chí giáo dục và mạng internet chúng
tôi tiến hành thu thập, nghiên cứu, phân tích các thông tin liên quan đến
đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra và hỏi ý kiến chuyên gia:
Điều tra thực trạng sử dụng trò chơi học tập trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội lớp 2 ở trường phổ thông. Sau mỗi tiết dạy, chúng tôi tiến
hành thăm dò ý kiến giáo viên có thể bằng phiếu trưng cầu ý kiến hoặc
phỏng vấn trực tiếp nắm bắt số liệu.
+ Phương pháp quan sát sư phạm:
Chúng tôi quan sát lớp học trong mỗi tiết dạy của giáo viên đứng lớp
hay chính tiết dạy của mình.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Soạn các giáo án và trực tiếp giảng dạy ứng dụng tổ chức trò chơi
trong giờ dạy một số bài thuộc chủ đề Tự nhiên, chương trình Tự nhiên và
Xã hội lớp 2.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp
Sau khi thu thập các thông tin cũng như số liệu liên quan chúng tôi
tiến hành thống kê và xử lí các số liệu liên quan.
Chúng tôi sử dụng phối hợp một cách linh hoạt các phương pháp.
7
6. Giả thuyết khoa học
Nếu việc xây dựng và sử dụng trò chơi học tập trong chủ đề Tự nhiên
môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 một cách hợp lí sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học chủ đề Tự nhiên môn TN-XH lớp 2 nói riêng và môn Tự nhiên và
Xã hội nói chung.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục, danh mục bảng và tài
liệu tham khảo thì nội dung chính của khóa luận bao gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Xây dựng và sử dụng trò chơi học tập trong dạy học chủ đề
Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
8
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỀN CỦA VIỆC XÂY
DỰNG VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC
CHỦ ĐỀ TỰ NHIÊN MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 2
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Trò chơi
a. Khái niệm
Trước đây và hiện nay có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về trò
chơi đưa ra những quan niệm khác nhau về trò chơi.
Theo nhà tâm lí học Đức Karin Eden thì: “ Cũng như cuộc sống và
tình yêu, vui chơi là một khái niệm không thể định nghĩa được vì nó là một
quá trình, mà đã là quá trình thì nó luôn sống động, luôn đổi thay và phát
triển”. Tuy nhiên, người ta có thể miêu tả vui chơi là những gì trẻ em làm
và lá cái trẻ em thích chơi.
Tác giả Huizinga [ 10;39-40] miêu tả như sau: “ Vui chơi là một chức
năng văn hóa, là một trong những nền tảng của văn minh có tính chất toàn
cầu và hòa nhập cho cuộc sống của con người cũng như loài vật. Vì vậy, vui
chơi là trọng tâm không những cho trẻ em mà còn cho người lớn và cho cả
xã hội ta đang sống ”.
Tinna Bruce ( 1991 ) thì đã mô tả hoạt động chơi như là trung tâm
của toàn bộ quá trình học tập của trẻ em, nó không chỉ là một hoạt động giải
trí sau thời gian học tập còn là một sự chuẩn bị để bước vào thế giới người
lớn. Trò chơi giúp tích cực hóa hoạt động của trẻ, làm cho những kiến thức
mà trẻ học được trở nên sau sắc, rộng rãi, trọn vẹn và sáng tạo hơn. Trò
9
chơi và những kinh nghiệm đầu tiên giúp cho trẻ trở nên thành thạo và
nhanh nhẹn hơn. Thông qua hoạt động vui chơi, trẻ em hiểu và biết cách
diễn đạt thể hiện những suy nghĩ và cảm nhận của mình về thế giới xung
quanh một cách rõ ràng và mạch lạc. Hoạt động vui chơi cũng là một hoạt
động sáng tạo, thông qua trò chơi trẻ em có thể nắm bắt và vân dụng những
kiến thức mà chúng đã học được. Vui chơi cho phép trẻ em phát triển và thể
hiện những hiểu biết về kiến thức của mình mà không cần phải thông qua
việc tạo ra những sản phẩm thực. Vui chơi là tư duy, là tưởng tượng, là sáng
tạo.
Theo tác giả Hà Nhật Thăng và Nguyễn Dục Quang [ 7;12] thì tuy
không thể đưa ra một định nghĩa hoàn thiện nhưng chúng ta có thể thừa
nhận rằng: “ Vui chơi là một dạng hoạt động nhằm thỏa mãn sở thích, hứng
thú và nhu cầu phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, ý chí, tình cảm của
cá nhân. Cùng với các hoạt động khác như lao động, học tập... vui chơi là
một dạng hoạt động giải trí, giao lưu xã hội, đặc biệt là để phát triển tính
cộng đồng, trách nhiệm chung, tình yêu thương đồng loại. Qua đó có thể
rèn luyện các kĩ năng giao tiếp, phát triển tình cảm, niềm tin đạo đức, xúc
cảm thẩm mĩ của các nhân ’’. Đây cũng có thể coi như một cách nhìn hợp lý
và quan niệm phù hợp về khái niệm “ vui chơi ”. Vui chơi hợp lý, khoa học
sẽ góp phần hỗ trợ, nâng cao chất lượng học tập cho các giờ học chính khóa
trên lớp.
Trò chơi là một loại hình hoạt động rất quen thuộc, gần gũi với mọi
người. Ở nhiều gốc độ khác nhau trò chơi được định nghĩa riêng, có thể trò
chơi là một hoạt động tự nhiên cần thiết thỏa mãn nhu cầu giải trí của con
người hay là một phương pháp thực hành hiệu nghiệm đối với việc hình
thành nhân cách và trí lực của trẻ em...
10
Theo quan điểm của tác giả Hà Nhật Thăng, trong cuốn “Tổ chức
hoạt động vui chơi ở Tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ, thể lực cho
học sinh”, “trò chơi là một hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một nội
dung nhất định và có những quy định mà người tham gia phải tuân thủ”[4,
tr 6].
Như vậy, có thể hiểu vui chơi là dạng hoạt động để con người có thể
thỏa mãn hứng thú, nhu cầu phát triển và sở thích cá nhân, nó là một dạng
giải trí, đồng thời cũng thiết lập được rất nhiều mối quan hệ và góp phần
phát triển các chức năng trí tuệ cũng như việc hoàn thiện nhân cách cho trẻ
nếu vui chơi hợp lí.
Tóm lại, trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích
trước tiên và chủ yếu là vui chơi, thư giãn sau giờ làm việc căng thẳng.
Thông qua trò chơi, người chơi được rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác
quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè trong
nhóm.
b. Đặc trưng của trò chơi
Đây chính là tính khác biệt của trò chơi thiếu nhi với các hoạt động
khác nhằm làm rõ khái niệm: Trò chơi là gì ?
Thứ nhất, trò chơi là một hoạt động tự do, tự nguyện.
Tất cả các em thiếu nhi khi tham gia trò chơi đều tự nguyện, tự giác,
không bị gò ép.
Đặc trưng này là nguyên nhân quan trọng tạo nên sự hấp dẫn, lôi
cuốn của các em đối với trò chơi. Bởi các em hoàn toàn chủ động trong suy
nghĩ, sự lựa chọn và hành động. Từ đó các em có thể phát huy cao nhất khả
năng sáng tạo mà không phụ thuộc và bị người khác chi phối.Trong không
khí náo nức phấn khởi, được tự do tham gia cùng với sự cổ vũ vô tư của tập
thể giúp các em phát huy cao nhất năng lực, sở trường của mình.
11
Thứ hai, trò chơi được giới hạn bởi không gian và thời gian.
Mục đích và nội dung của mỗi trò chơi phụ thuộc vào người tổ chức
trò chơi. Vì thế, người tổ chức trò chơi phải lựa chọn không gian phù hợp
để đáp ứng cho từng trò chơi. Mặt khác, dù bất kì quy mô chơi như thế nào
thì trò chơi phải có một thời gian nhất định: thời gian chuẩn bị, thời gian
nghe nhìn, thời gian chơi thử, thời gian chơi thật... Do vậy, người tổ chức
chơi, người hướng dẫn chơi phải tính toán và hình dung được những vấn đề
sau: chơi ở đâu, thời gian chơi bao nhiêu thì hợp lí, chơi như thế nào thì
hiệu quả cao nhất để đáp ứng được mục đích, yêu cầu đề ra vừa đảm bảo
được kế hoạch chung của hoạt động.
Thứ ba, trò chơi là một hoạt động sáng tạo.
Đây là đặc trưng quan trọng tạo nên sự hấp dẫn, thu hút trẻ tham gia
chơi, người xem, người tổ chức, người hướng dẫn trò chơi. Bở lẽ trong suốt
quá trình chơi cho đến khi kết thúc luôn là một ẩn số và đầy những yếu tố
bất ngờ mà không ai biết trước, đó cũng chính là thời gian dành cho sự sáng
tạo của người tham gia trò chơi.
Thứ tư, trò chơi là một hoạt động có quy tắc.
Trò chơi nào cũng vậy, dù đơn giản hay phức tạp thì những người
tham gia chơi đều phải tuân thủ những quy tắc nhất định. Điều đó làm hấp
dẫn thêm trò chơi vì người chơi đều bình đẳng với nhau và cùng tuân theo
những quy định mới mà không bị giàng buộc hay bị chi phối bởi bất kì điều
kiện khách quan, chủ quan nào.
Thứ năm, trò chơi là một hành động giả định.
Dù trò chơi có nguồn gốc từ đâu và từ lúc nào nhưng bao giờ trò chơi
cũng tạo ra cuộc sống khác hẳn với cuộc sống bình thường đang diễn
12
ra. Do đó, mỗi trò chơi luôn tạo nên cho người chơi một nhận thức,
một cảm giác khác với thực tại.
c. Phân loại trò chơi
Có nhiều cách phân loại trò chơi:
- Phân loại theo địa điểm: trò chơi được tổ chức trong phòng học, sân
tập, dưới nước, trên bãi cát...
- Phân loại theo tính năng của trò chơi có: trò chơi tĩnh, trò chơi
động, trò chơi tĩnh động nhẹ, trò chơi tĩnh động vừa, trò chơi tĩnh động
mạnh...
- Phân loại theo số lượng người tham gia có: trò chơi cá nhân, trò
chơi theo nhóm nhỏ, trò chơi theo nhóm lớn...
- Phân loại theo mục đích tổ chức trò chơi có: trò chơi học tập, trò
chơi giải trí, trò chơi rèn luyện thể lực...
Tuy nhiên, sự phân loại trên chỉ mang tính chất tương đối. Bởi vì bất
cứ loại trò chơi nào cũng đều tác động đến sự phát triển nhiều mặt ở trẻ em
và trên thực tế có những loại trò chơi hỗn hợp, tổng hợp của hai hay nhiều
loại trò chơi trên.
1.1.1.2. Trò chơi học tập và vai trò của trò chơi học tập
a. Khái niệm
Trò chơi học tập là trò chơi có luật và có nội dung định trước. Là trò
chơi của sự nhận thức hướng đến sự mở rộng chính xác hóa, hệ thống hoá
biểu tượng của trẻ về thế giới xung quanh, hướng đến sự phát triển các năng
lực trí tuệ, giáo dục lòng ham hiểu biết cho trẻ, trong đó nội dung học tập
được kết hợp với hình thức chơi. Ngoài ra trò chơi học tập còn mang những
đặc điểm chung của trò chơitrẻ em và chứa đựng tất cả hững đặc điểm của
trò chơi có luật. Sự có mặt củaluật chơi và nội dung chơi cho phép trẻ có thể
13
nắm vững luật chơi và tự tổ chức,thực hiện trò chơi. Trò chơi học tập mang
tính tự lập, tự điều khiển gồm các loại trò chơi học tập sau :
- Trò chơi học tập với đồ vật và tranh ảnh được tiến hành với những
đồvật, đồ chơi khác nhau.
- Trò chơi học tập bằng lời nói.
- Trò chơi vừa dùng lời nói vừa dùng đồ vật.
Cùng với những trò chơi khác, trò chơi học tập là trò chơi mà luật
chơi được quy định cụ thể rõ ràng, trong trò chơi học tập. Trong trò chơi
học tập, mọi trẻ đều được tham gia một cách bình đẳng và việc thực hiện
được trò chơi là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá năng lực trẻ. Nội dung
giáo dục của trò chơi học tập gắn liền với nhiệm vụ chơi trongcác hành
động chơi, trong các luật chơi và nó không đặt ra cho trẻ những nhiệm vụ
độc lập
Trò chơi học tập là một hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một
nội dung nhất định và có những quy định mà người chơi phải tuân thủ. Nếu
vui chơi là một thuật ngữ chỉ một dạng hoạt động giải trí tự nguyện của mọi
người, tạo ra sự sảng khoái thư giãn về thần kinh, tâm lí thì trò chơi là một
sự vui chơi có nội dung tổ chức của nhiều người, có quy định và luật lệ mà
người chơi phải tuân theo. Nếu vui chơi của cá nhân được tổ chức dưới
dạng trò chơi thì nó mang lại ý nghĩa giáo dục rèn luyện đối với người chơi,
đặc biệt là đối với trẻ lứa tuổi Tiểu học, nó góp phần hình thành phẩm chất
và hoàn thiện nhân cách cho trẻ. Khi được tham gia trò chơi, trẻ rất vui vẻ,
vận dụng hết khả năng, sức lực, sự tập trung, chú ý của mình.
Trò chơi học tập được hiểu một cách đơn giản là các trò chơi có nội
dung gắn với các hoạt động học tập của học sinh nhằm giúp học sinh học
tập trên lớp được hứng thú, vui vẻ hơn[5, tr 49]. Nội dung của trò chơi này
14
là sự thi đấu về một hoạt động trí tuệ nào đó như sự chú ý, sự nhanh trí, sức
tưởng tượng, sáng tạo...Ví dụ như các câu đố, triển lãm, đố bạn con gì?.
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn
với kiến thức, kĩ năng có được trong hoạt động gắn với nội dung bài học
giúp trẻ khai thác được vốn kinh nghiệm của bản thân. Thông qua trò chơi
trẻ được rèn luyện kiến thức, kĩ năng đã học, kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí
tuệ. Nhờ dử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một quá
trình vui chơi hấp dẫn, một cơ hội học tập mới mẻ và đa dạng, lôi cuốn
được học sinh vào học tập tích cực hơn. Học sinh vừa học vừa chơi mà vẫn
có kết quả học tập tốt. Phương pháp này được nhà tâm lí học người Thụy Sĩ
J.Piaget rất quan tâm và ủng hộ: “ Thông qua trò chơi để tiến hành hoạt
động học tập ”.
Như vậy, trò chơi học tập là phương pháp tổ chức cho học sinh thực
hiện thao tác các hoạt động phù hợp với bài học thông qua trò chơi nào đó.
b. Bản chất của trò chơi học tập
Bản chất của trò chơi học tập là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt
động cho học sinh, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt
động bằng cách tự chơi trò chơi. Trong đó: mục đích của trò chơi là truyền
tải mục tiêu của bài học; luật chơi, cách chơi quy định nội dung, phương
pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Thông qua các hoạt động của trò chơi học sinh phải tự chiếm lĩnh các
tri thức, nội dung bài học.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động bằng cách
tham gia trò chơi. Trong trò chơi, nội dung của trò chơi được giáo viên
truyền tải mục tiêu, nội dung bài học để học sinh nắm vững và ghi nhớ.
15
Qua luật chơi, học sinh có được những phương pháp học tập đúng
đắn cùng với sự hợp tác của các thành viên trong đội để đạt được kết quả
học tập tốt nhất.
Như vậy, tổ chức trò chơi học tập cho học sinh là một phương pháp
đi sâu vào sự tự phát hiện tri thức bài học của học sinh, coi trọng năng lực
của học sinh để tổ chức các hoạt động, thiết kế nội dung dạy học phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lí, với khả năng và trình độ của học sinh Tiểu học.
c. Đặc trưng của trò chơi học tập
Trò chơi học tập là một bộ phận của trò chơi. Bên cạnh những đặc
trưng nói chung của trò chơi thì trò chơi học tập còn có những đặc trưng
riêng sau:
Thứ nhất, mỗi trò chơi học tập đều gồm ba phần
Tất cả các trò chơi học tập khi được tổ chức ở bất kì thời gian nào
trong tiết học, nhằm mục đích phát hiện tri thức hay ôn tập, củng cố đều
phải có đầy đủ ba phần:
- Nội dung chơi: Đây chính là nhiệm vụ học tập, nó có tính chất như
một bài toán mà học sinh phải dựa trên những điều kiện đã cho. Nội dung
chơi là một thành phần cơ bản của trò chơi học tập, nó khêu gợi những
hứng thú của trẻ.
- Luật chơi: Mỗi trò chơi học tập đều có luật chơi do nội dung trò
chơi quy định. Những luật này có vai trò xác định tính chất, phương pháp
hoạt động, tổ chức và điều khiển hành vi cùng các mối quan hệ của trẻ với
nhau khi chơi. Những luật này là tiêu chuẩn đánh giá hoạt động đúng hay
sai.
- Hoạt động chơi: Là những hoạt động học sinh làm trong lúc chơi,
những hoạt động ấy càng phong phú bao nhiêu thì số học sinh tham gia
16
càng nhiều bấy nhiêu. Những động tác chơi do giáo viên thực hiện, cho
phép giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thông qua “ tiến trình làm thử ”.
Trong trò chơi học tập, ba phần này có liên quan chặt chẽ với nhau và chỉ
cần thiếu một trong ba phần thì trò chơi sẽ không thể tiến hành.
Thứ hai, trò chơi học tập bao giờ cũng có một kết quả nhất định
Kết quả có được khi trò chơi kết thúc, khi học sinh đã giải quyết xong
nhiệm vụ học tập của mình: hình thành nhận thức mới hay ôn tập, củng cố
những kiến thức đã có. Đối với học sinh, kết quả của mỗi trò chơi khuyến
khích các em tích cực hơn trong các trò chơi tiếp theo. Đối với giáo viên,
kết quả của trò chơi là chỉ tiêu về mức độ thành công hoặc lĩnh hội tri thức
của các em.
Thứ ba, mỗi trò chơi học tập không đơn thuần là trò chơi mang tính giải
trí mà còn thể hiện rõ mục đích học tập
Đây vừa là đặc trưng vừa là yêu cầu của trò chơi học tập. Khi giáo
viên tiến hành tổ chức cho học sinh chơi, học sinh không chỉ được giải trí
mà qua đó học sinh nắm được những tri thức, kĩ năng của bài học thông qua
trò chơi ấy. Đó cũng chính là mục đích học tập của trò chơi.
d. Phân loại trò chơi học tập
Có nhiều cách phân loại trò chơi học tập
- Phân loại theo mục tiêu dạy học có: trò chơi hình thành kiến thức,
trò chơi hình thành thái độ, trò chơi hình thành hành vi, thói quen...
- Phân loại theo tiến trình bài học có: trò chơi khởi động, trò chơi
hình thành kiến thức và rèn luyện kĩ năng, trò chơi ôn tập củng cố.
- Phân loại theo hình thức tổ chức thì có: trò chơi tập thể, trò chơi cá
nhân, trò chơi trong lớp, trò chơi ngoài lớp...
Tuy nhiên, cách phân loại trên cũng chỉ mang tính chất tương đối.
17
e. Vai trò của trò chơi học tập
Cùng với học, chơi là nhu cầu không thể thiếu được của học sinh tiểu
học. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: Nếu biết tổ chức cho trẻ vui chơi
một cách hợp lí, đúng đắn thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Học trong
quá trình chơi là quá trình lĩnh hội tri thức, vốn sống, kinh nghiệm xã hội
một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gò bó, phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lí của học sinh tiểu học. Học bằng chơi sẽ khơi dậy hứng thú tự nguyện, làm
giảm sự căng thẳng thần kinh ở các em, giữ được sự hồn nhiên của trẻ thơ.
Chính vì vậy, việc sử dụng trò chơi học tập hợp lí sẽ mang lại hiệu quả giáo
dục cao. Cụ thể:
- Mục tiêu cuối cùng của giáo dục là hình thành hành vi đúng đắn.
Trong khi đó, nội dung của trò chơi học tập sẽ minh họa một cách sinh động
các mẫu hành vi này. Nhờ đó mà các hành vi sẽ tạo được những biểu tượng
rõ rệt ở học sinh, giúp các em ghi nhớ rõ ràng và lâu bền.
- Qua trò chơi, học sinh có cơ hội thể hiện những chuẩn mực hành vi.
Chính nhờ sự thể hiện này sẽ hình thành được ở học sinh niềm tin về những
chuẩn mực hành vi đã học, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi
trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định, lựa
chọn cho mình một cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với cuộc sống xung
quanh.
- Qua trò chơi, học sinh hình thành được năng lực quan sát, được rèn
luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của người khác phù hợp hay
không phù hợp với chuẩn mực hành vi.
18
1.1.2. Chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và xã hội lớp 2
1.1.2.1. Mục tiêu chủ đề Tự nhiên
Sau khi học xong chủ đề Tự nhiên học sinh cần đạt được mục tiêu đề ra:
Biết cây cối và các con vật có thể sống được ở khắp nơi: trên cạn, dưới nước,
trên không; biết quan sát bầu trời ban ngày, ban đêm; có hiểu biết sơ lược về
hình dạng và đặc điểm của Mặt trời, Mặt trăng và các vì sao.
Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng: Quan sát, nhận xét,
nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt những hiểu biết của mình về
các sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.
Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi: Yêu thiên nhiên.
1.1.2.2. Nội dung chương trình chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 2
Nội dung chương trình chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội
lớp 2 được thể hiện trong sách giáo khoa môn TNXH lớp 2, cụ thể:
Chủ đề Tự nhiên thể hiện từ bài 24 đến bài 33 có nội dung nói về sự
đa dạng của động vật và thực vật trong thiên nhiên chúng có thể sống ở
khắp mọi nơi: trên cạn, dưới nước, trên không. Có ý thức, thái độ yêu quý,
bảo vệ các loài vật đó. Tác động của thiên nhiên đối với đời sống con
người. Nét đẹp của thiên nhiên vào ban ngày và ban đêm. Hình thành thái
độ yêu mến và gần gũi thiên nhiên.
1.1.2.3. Đặc điểm chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Thứ nhất, nội dung chủ đề Tự nhiên cũng giống như môn Tự nhiên và Xã
hội, nó được xây dựng theo quan điểm tích hợp thể hiện ở các mặt sau:
Chủ đề Tự nhiên bao gồm các nội dung về Thực vật, Động vật, Mặt
trăng, Mặt trời và Trái đất.
19
Kiến thức trong chủ đề Tự nhiên là các kiến thức tích hợp của nhiều kiến
thức thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau như: sinh vật, vật lý, địa lý, thiên
văn...
Quá trình nhận thức của học sinh đầu Tiểu học mang tính trực quan, cụ
thể. Tư duy gắn với hoạt động trực tiếp, hình ảnh cụ thể. Để học sinh tiếp thu
được kiến thức mang tính tổng hợp trên thì giáo viên phải tổ chức cho học sinh
được hoạt động trực tiếp trong phạm vi có thể.. Có như vậy học sinh mới tìm ra
được tri thức, nắm được nó và có niềm tin sâu sắc vào kiến thức khoa học đó.
Thứ hai, nội dung chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
chủ yếu là những bài học giúp các em có những hiểu biết về thế giới tự nhiên
xung quanh, những sự vật như: hoa, quả, cây cối, các con vật gần gũi với học
sinh. Chính vì vậy muốn học sinh có những hiểu biết về thế giới xung quanh
mình, tạo ở các em tình cảm tích cực ở thiên nhiên, có ý thức bảo vệ thiên
nhiên, môi trường xung quanh mình thì phải tạo điều kiện cho học sinh được
trực tiếp tìm hiểu, khám phá tri thức và năm bắt chúng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát về đối tượng điều tra
1.2.1.1. Về giáo viên
Giáo viên lớp 2 đều có trình độ đạt chuẩn. Các giáo viên khối 2 đều là
những giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy, yêu nghề, nhiệt tình trong công tác.
20% số giáo viên có thâm niên công tác từ 5-10 năm, 50% số giáo viên có thâm
niên công tác từ 10-15 năm và 30% số giáo viên có thâm niên công tác từ 15-20
năm. Hơn 80% giáo viên có trình độ đạt chuẩn và gần 20% giáo viên có trình độ
chưa đạt chuẩn.
1.2.1.2. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 2
Ở lứa tuổi Tiểu học cơ thể trẻ đang trong thời kì phát triển hay nói cụ
thể là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện. Vì thế, sức dẻo dai của cơ thể
20
còn thấp nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là khi
hoạt động quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng khí.
Học sinh Tiểu học nghe giảng rấ dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay
khi chúng không tập trung cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng
thú trong học tập và phải thường xuyên luyện tập.
Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật –
hiện tượng nào đó, nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới, song
các em chóng chán. Do vậy trong dạy học, giáo viên phải sử dụng nhiều
phương pháp dạy học hợp lý, xen kẽ những trò chơi trong tiết học để giảm
bớt căng thẳng, gây hứng thú cho học sinh đồng thời để củng cố, khắc sâu
kiến thức.
1.2.1.3. Khái quát về quá trình điều tra
* Mục đích: Tìm hiểu thực trạng xây dựng và sử dụng trò chơi học
tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội
lớp 2.
* Nội dung: Để tìm hiểu thực trạng xây dựng và sử dụng trò chơi học
tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội
lớp 2 chúng tôi đã tiến hành điều tra các nội dung sau:
- Tìm hiểu nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của việc xây dựng
và sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên trong
môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy
học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2, bao gồm:
+ Mục đích sử dụng.
+ Mức độ sử dụng.
+ Các nguồn tài liệu.
21
- Tìm hiểu hứng thú của học sinh khi tham gia giờ học chủ đề Tự
nhiên khi sử dụng trò chơi học tập.
- Tìm hiểu những khó khăn và thuận lợi của giáo viên khi xây dựng
và sử dụng trò chơi học tập.
- Những điều kiện để việc sử dụng trò chơi học tập đạt hiệu quả.
* Địa điểm tiến hành nghiên cứu là trường Tiểu học Trưng Nhị - Thị
xã Phúc Yên- Tỉnh Vĩnh Phúc.
* Tổng số phiếu phát ra: 10 phiếu.
* Để tìm hiểu thực trạng xây dựng và sử dụng trò chơi học tập trong
quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2,
chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp điều tra giáo dục
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục
* Xử lý kết quả điều tra theo tỉ lệ %.
1.2.1.4. Kết quả điều tra
a. Thực trạng nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của việc xây dựng
và sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên
trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi sử dụng phiếu thăm dò ý kiến cùng
với trao đổi trực tiếp với giáo viên. Nội dung phiếu thăm dò như sau:
22
Bảng1: Tổng hợp ý kiến của giáo viên về sự cần thiết của việc xây dựng và
sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên trong
môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Các mức độ
Số lượng
%
Cần thiết
10
100
Không cần thiết
0
0
Phân vân
0
0
Nhìn vào kết quả điều tra ở bàng trên cho thấy 100% giáo viên khi được
hỏi đều khẳng định đây là phương pháp có tác dụng tốt đối với hoạt động học
tập của học sinh. Điều này chứng tỏ tất cả các giáo viên được hỏi đều có nhận
thức đúng đắn về sự cần thiết của việc xây dựng và sử dụng trò chơi học tập
trong quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên nói riêng và trong môn Tự nhiên
và Xã hội lớp 2 nói chung. Trên cơ sở đó, giáo viên có thể tìm tòi, suy nghĩ
để biến nhận thức của mình thành việc làm cụ thể trong thực tế. Từ đó vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các trò chơi học tập vào bài dạy.
Khi trao đổi với giáo viên lớp 2 về lí do thầy (cô) khẳng định việc
xây dựng và sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự
nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 là cần thiết thì đều nhận được
câu trả lời: do ở giai đoạn đầu tiểu học, các em rất thích hình thức “ học mà
chơi, chơi mà học ”, những môn học kéo dài 30-35 phút với những thao tác
nghe, làm mẫu khiến không khí lớp học trở nên nặng nề và các em dễ mất
tập trung. Những trò chơi được tổ chức ngay tại lớp học, phục vụ mục tiêu
bài học, trong thời gian của tiết học sẽ giúp các em tránh được những căng
thẳng thần kinh, tạo cho các em hứng thú và niềm vui học tập, duy trì sự
chú ý của các em. Hơn nữa chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội
chủ yếu là liên quan tới thiên nhiên, nếu không có trò chơi để các em có cơ
23
hội nắm kĩ và hiểu bài thì các em sẽ nhanh chán, không chú ý dẫn đến kết
quả giờ học không cao.
Việc giáo viên xây dựng những trò chơi mới, không lặp lại gây sự
nhàm chán cũng là việc hết sức quan trọng trong quá trình vận dụng trò
chơi học tập vào tiết học. Từ đó học sinh sẽ hứng thú tiếp nhận bài học một
cách sáng tạo, không thụ động.
Mở rộng điều tra ở phạm vi rộng hơn, chúng tôi đã có dịp trò chuyện
với một số giáo viên các khối lớp khác về nhận thức của họ đối với tác dụng
của việc sử dụng xen kẽ trò chơi học tập vào bài học thì đều nhận được câu
trả lời là việc sử dụng trò chơi học tập có tác dụng tốt. Ngay cả học sinh lớp
4,5 cũng rất hào hứng, sôi nổi khi giáo viên tổ chức trò chơi học tập.
Như vậy, tất cả các giáo viên đều có nhận thức đúng đắn về sự cần
thiết của việc xây dựng và sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học.
Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi để áp dụng hiệu quả việc việc xây
dựng và sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên
trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 nói riêng.
b. Thực trạng sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự
nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Để tìm hiểu thực trạng này, chúng tôi kết hợp điều tra, quan sát và
trao đổi trực tếp với các giáo viên.
b1. Thực trạng về mục đích sử dụng
Để tìm hiểu thực trạng về mục đích sử dụng trò chơi học tập trong
quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
chúng tôi tiến hành quan sát và trao đổi trực tiếp với giáo viên.Nội dung
phiếu thăm dò như sau:
24
Bảng 2: Tổng hợp ý kiến của giáo viên về mục đích sử dụng trò chơi học
tập trong quá trình dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội
lớp 2
Mục đích sử dụng
Số lượng
Tỉ lệ
Làm phương tiện củng cố tri thức.
6
60
Làm phương tiện để hình thành thái độ, hành vi.
2
20
Làm phương tiện để khởi động, gây hứng thú
1
10
1
10
cho học sinh trước khi vào bài mới.
Mục đích khác: lấp thời gian trốn, giải tỏa căng
thẳng...
Nhìn vào kết quả chúng ta thấy 60% giáo viên được điều tra thường
sử dụng trò chơi học tập để thực hiện bước củng cố, 20% sử dụng để khởi
động trước khi vào bài mới. Còn việc sử dụng trò chơi học tập như một
phương tiện cung cấp tri thức mới và rèn kĩ năng trong quá trình dạy học thì
rất ít chiếm 10%. Thậm chí có giáo viên sử dụng trò chơi học tập như là
một phương tiện để giải tỏa những căng thẳng, lấp thời gian trống... chiếm
10%.
Trong khi đó, thực tế cho rằng, trò chơi học tập là một hình thức học
tập hấp dẫn đối với học sinh, thế nhưng ở đây giáo viên chỉ xem trò chơi
học tập như một hình thức bổ trợ và thường diễn ra ở khâu củng cố tri thức.
Điều này có thể cho chúng ta thấy rõ rằng đại đa số giáo viên chưa nhận
thức được ưu điểm cốt lõi của trò chơi học tập trong quá trình dạy học nói
chung và trong chủ đề Tự nhiên nói riêng. Thực ra, trò chơi học tập không
chỉ là hình thức để củng cố tri thức mà còn là phương tiện để cung cấp tri
thức và rèn các kĩ năng cho các em. Bởi qua trò chơi, học sinh tiếp thu kiến
thức một cách nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn và hiệu quả hơn.
25