Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Nghiên cứu sinh kế của hộ nông dân sau thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp tại xã Đông Mỹ - thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.16 KB, 112 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và gần
70% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Khu vực nông thôn có 13 triệu hộ
trong đó có khoảng 11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp. Vì thế đảm bảo sinh kế
bền vững cho hộ nông dân là vấn đề được quan tâm nhiều trong nông thôn khi mà hiện
nay quá trình CNH - HĐH ngày càng diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Ngay từ Đại hội
Đảng VI (1986) Đảng và nhà nước ta đã chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN, trong đó chú trọng phát triển công nghiệp. Đến nay Việt Nam
đã có khoảng trên 150 KCN tập trung với diện tích đất tự nhiên vào khoảng 30.000ha ở
45 tỉnh thành trong cả nước, thu hút hàng nghìn dự án với tổng số vốn đầu tư lên đến
hàng trăm nghìn tỷ đồng.
Quá trình phát triển KCN đã mang lại nhiều kết quả tốt, giúp nhiều địa
phương có điều kiện phát triển công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên cùng với đó là việc
thu hồi đất sản xuất đã có tác động đến đời sống của hàng ngàn hộ gia đình. Các hộ
bị thu hồi đất phần lớn là những hộ sản xuất nông nghiệp. Sau khi bị thu hồi đất, có
nhiều hộ đã được tạo điều kiện chuyển đổi sang các ngành nghề khác, nhưng cũng có
rất nhiều hộ phải đối mặt với mất việc làm. Hàng năm có khoảng 50 – 60 nghìn ha
đất nông nghiệp được chuyển sang mục đích phi nông nghiệp, tương ứng với khoảng
1.5 lao động/hộ bị mất việc làm.Việc thu hồi đất không chỉ làm các hộ nông dân mất
đi tài sản sinh kế đặc biệt quan trọng là đất đai mà còn làm mất đi địa vị, các cơ hội,
nguồn thực phẩm, thu nhập của hộ gia đình và cộng đồng, gây ra sự xáo trộn xã hội.
Không còn hoặc còn rất ít đất sản xuất nông nghiệp, nông dân phải tìm cách kiếm
sống mới. Với trình độ dân trí có hạn, quen lao động chân tay, người nông dân đã
xoay xở như thế nào với cuộc sống mới? Có nhiều người phải đổ ra thành thị để kiếm
việc làm và đối mặt với rủi ro của cuộc sống nơi đô thị, một số ít lao động trẻ được
tuyển dụng vào làm việc trong khu công nghiệp, một số lao động tìm kiếm việc làm
tại các địa phương khác hoặc mở các dịch vụ (mở quán nước, xây dựng nhà ở cho
thuê...). Bên cạnh đó những nông dân không bị thu hồi đất cũng bị tác động đến sản
1


xuất của mình, một phần lao động trong gia đình chuyển sang làm việc trong nhà
máy hoặc dịch vụ trong khu công nghiệp. Đảng và nhà nước ta cũng đã có nhiều
biện pháp tác động nhằm ổn định đời sống cho người dân sau khi bị thu hồi đất
như: Chính sách định cư, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề… Mặc
dù thế vấn đề sinh kế của người dân mất đất sản xuất nông nghiệp còn gặp rất nhiều
khó khăn.
Như vậy, cùng với tốc độ hình thành các KCN thì số lao động nông nghiệp
không còn đất sản xuất nông nghiệp hoặc còn quá ít đất sản xuất nông nghiệp ngày
càng tăng lên, trong số đó một số đã thích nghi được với điều kiện mới và đã tìm được
việc làm đảm bảo cho cuộc sống, xây dựng mô hình sinh kế phù hợp với điều kiện của
hộ, tăng thu nhập, song nhiều hộ lại vẫn đang thiếu việc làm, rất cần sự trợ giúp của
các cấp, ngành và của địa phương để họ ổn định với cuộc sống mới.
Xã Đông Mỹ là một xã nằm ven trung tâm thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình,
có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội. Theo quy hoạch của tỉnh Thái Bình năm
2007 đã thu hồi gần 14ha đất nông nghiệp của xã để xây dựng khu công nghiệp Gia Lễ.
Gần 140 hộ nông dân bị thu hồi đất sản xuất. Có nhiều lao động được nhận vào làm việc
trong nhà máy thuộc khu công nghiệp và cũng có nhiều lao động chỉ có việc làm tạm
thời hoặc rơi vào cảnh thiếu việc làm. Họ phải đi làm thuê để kiếm sống hoặc mở quán
nước. Nhìn chung đời sống của họ cũng còn nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là sau khi
mất đất sinh kế của các hộ dân thay đổi như thế nào? Có đảm bảo cho cuộc sống hiện tại
của họ hay không? Mức sống của họ thay đổi ra sao? Làm sao để ổn định đời sống, đảm
bảo an sinh xã hội cho họ?
Để trả lời những câu hỏi này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu sinh kế của hộ nông dân sau thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng
khu công nghiệp tại xã Đông Mỹ - thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu sinh kế của hộ nông dân sau thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để xây
dựng khu công nghiệp, đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo sinh kế cho hộ nông dân
xã Đông Mỹ - thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình.

1.2.2 Mục tiêu cụ thể
2
- Góp phần hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về sinh kế của hộ nông dân sau
thu hồi đất để xây dựng KCN.
- Đánh giá thực trạng sinh kế và kết quả sinh kế sau thu hồi đất của hộ nông
dân xã Đông Mỹ - thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo sinh kế cho hộ nông dân
sau thu hồi đất.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hộ nông dân, nguồn lực sinh kế, các hoạt
động tạo thu nhập, sự chuyển đổi nghề nghiệp sau khi mất ruộng, thu nhập và đời
sống của các hộ dân xã Đông Mỹ sau thu hồi đất.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình sinh kế của hộ
nông dân sau thu hồi đất sản xuất cho xây dựng khu công nghiệp tại xã Đông Mỹ.
Phân tích quá trình thay đổi sinh kế và các yếu tố ảnh hưởng tới sinh kế của người
dân trong xã, từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục và phát triển kinh tế hộ.
- Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại xã Đông Mỹ, thành phố
Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi về thời gian:
+ Số liệu được thu thập qua 3 năm (2006 - 2008).
+ Thời gian thực hiện đề tài từ ngày 08/01/2009 đến ngày 22/5/2009.
3
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm về khu công nghiệp
Có nhiều khái niệm về khu công nghiệp, tuy nhiên có thể liệt kê một số khái
niệm sau:
KCN: là khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp và cả xí nghiệp công nghiệp,

doanh nghiệp phục vụ sản xuất và doanh nghiệp phục vụ khác. Có ranh giới địa lý
xác định. Các doanh nghiệp trong KCN cùng xây dựng một hệ thống kỹ thuật hạ tầng
và hạ tầng xã hội.
KCN tập trung là một khu vực được xây dựng cho các xí nghiệp công nghiệp
vừa và nhỏ. Trong đó có sẵn các khu nhà máy cũng như các dịch vụ và tiện nghi cho
những người làm việc trong KCN sinh sống.
Chức năng chủ yếu của KCN là sản xuất và cung cấp dịch vụ trực tiếp phục
vụ sản xuất. Trong những trường hợp cụ thể KCN có thể có khu dịch vụ công cộng,
khu nhà ở… trong KCN có thể có khu chế xuất, khu kỹ thuật cao.
Các KCN ở Việt Nam do Chính phủ quyết định thành lập và quản lý phát triển
theo một quy chế riêng.
Có nhiều khái niệm về KCN
- KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen
với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt,
vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở… Thực chất mô hình này là khu
hành chính kinh tế đặc biệt như KCN Bata (Indonexia), các khu công viên công cộng
ở khu vực lãnh thổ Đài Loan và một số nước Tây Âu.
- KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có
cư dân sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất (theo quy chế KCN, ban hành theo
quyết định 36/CP ngày 24/04/1997).
4
Như vậy KCN là một khu vực lãnh thổ hữu hạn được phân cách trong đường
bao hữu hình hoặc vô hình. Được phân bổ tập trung với hạt nhân là doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp (hay tiêu dùng, công nghệ chế biến, tư liệu sản xuất) và hệ thống
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ với doanh nghiệp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất công nghiệp
sử dụng hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo cơ chế tổ chức quản lý thống nhất của Ban
quản lý KCN. Trong KCN có doanh nghiệp xây dựng KCN, có trách nhiệm đảm bảo

hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả khu trong thời gian tồn tại KCN.
Nguồn nhân lực chủ yếu là lao động trong nước và tại chỗ.
Được quản lý trực tiếp của Chính phủ (từ quyết định thành lập, quy hoạch
tổng thể, khung điều lệ mẫu, kiểm tra, kiểm soát…).
* Vai trò của xây dựng KCN
+ Thu hút vốn đầu tư trên quy mô lớn và phát triển kinh tế.
+ Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
+ Tạo nhiều việc làm cho lao động. Trong khi các nước đang phát triển dư
thừa sức lao động thì tình trạng khan hiếm nguồn lao động và giá nhân công cao ở
các nước tư bản phát triển đặt các nước này trước sự lựa chọn sử dụng lao động dồi
dào ở các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, KCN là công cụ hữu hiệu thực
hiện chiến lược lâu dài về tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu lao động cũng như sử
dụng lao động một cách hiệu quả nhất ở các nước đang phát triển.
+ Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
+ Chuyển giao công nghệ mới. Nhờ đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất sẽ nâng
cao trình độ cũng như tay nghề cho công nhân, cán bộ kỹ thuật, và như vậy sẽ có một
lực lượng lao động có tay nghề cao trong sản xuất.
+ Phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm bảo sự phát triển kinh tế
xã hội trong vùng
+ Kiểm soát được vấn đề ô nhiễm môi trường. Do tập trung các cơ sở sản xuất
nên có điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát xử lý chất thải và bảo vệ môi trường.
KCN là địa điểm tốt nhất để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ các đô thị, thành
phố lớn, phục vụ mục tiêu phát triển công nghiệp bền vững.
5
+ Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô
thị hoá. Xây dựng KCN là nhân tố thúc đẩy tốc độ đô thị hoá và tác động lan toả tích
cực trong việc CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ KCN còn có vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia.
KCN là nơi thử nghiệm chính sách kinh tế mới đặc biệt là chính sách kinh tế đối
ngoại. KCN luôn đi đầu trong việc phát triển chính sách kinh tế đối ngoại và của toàn

bộ nền kinh tế.
+ KCN đóng vai trò tiên phong trong sự phát triển kinh tế quốc dân. KCN sẽ
là đầu tầu tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự phát triển ở những vùng lân cận và những
vùng khác của đất nước.
* Một số mô hình công nghiệp khác: KCN địa phương, khu TTCN, KCN (nông – lâm
– ngư nghiệp) là các khu sản xuất gắn với địa phương có các nghề TTCN, nghề
truyền thống, sản xuất sản phẩm nông – lâm – ngư nghiệp kết hợp với dịch vụ kinh
doanh du lịch…
Đặc điểm cơ cấu sản xuất của các KCN này chủ yếu dành cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ gắn với vùng dân cư có các nghề nghiệp truyền thống, TTCN và
các lợi thế về nông – lâm – ngư nghiệp (cây trồng, chăn nuôi, chế biến).
* Tác động của KCN
 Tác động tích cực:
+ KCN vừa khai thác lợi thế của vùng, vừa tránh được đầu tư phân tán, phát huy
được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng CSHT.
+ Sự có mặt của KCN góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng, giảm
khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành thị, góp phần đẩy mạnh CNH – HĐH
đất nước.
+ Thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài. KCN là nơi du nhập kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của các công ty tư bản
nước ngoài. Hình thành đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân kỹ
thuật có trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới cũng như trình độ quản lý phù
hợp với cơ chế mới và phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Cung cấp hàng hóa cho thị trường nội địa và một phần xuất khẩu ra nước ngoài.
6
+ KCN tạo thêm nhiều ngành nghề, dịch vụ phát triển từ đó giải quyết việc làm cho
một lực luợng lớn lao động tại chỗ cũng như trong vùng. Bên cạnh đó cũng kích thích
các ngành nghề truyền thống ở địa phương phát triển do nguời dân không còn đất sản
xuất.
+ KCN phát triển người dân trong vùng có cơ hội kinh doanh các loại hình dịch vụ để

tăng thu nhập.
+ KCN góp phần nâng cao đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương có KCN, CSHT
của địa phương phát triển, cơ sở vật chất của hộ cũng được tăng thêm nhờ số tiền đền
bù. Chuyển dịch nguồn lực lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
+ Trình độ dân trí và ý thức cộng đồng ngày càng nâng cao hơn.
 Tác động tiêu cực:
+ Việc thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng KCN đã làm mất đi tài sản sinh
kế đặc biệt của nông dân là đất đai, hàng vạn lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp,
số người có công việc gắn với công nghiệp hóa tăng rất ít, nguy cơ thất nghiệp cao.
+ Tệ nạn xã hội ở địa phương có nguy cơ gia tăng do lực lượng lớn lao động ở vùng
khác vào làm việc ở KCN và tạm trú ở địa phương.
+ Giá cả lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng sẽ tăng lên do nhu cầu tăng lên.
+ Nhiều hạng mục công trình bị phá vỡ một phần do việc xây dựng KCN (như công
trình thủy lợi, nước sạch…).
+ KCN làm giảm quỹ đất nông nghiệp, từ đó làm phá vỡ môi trường tự nhiên, suy
giảm hệ động thực vật. Chất thải của KCN làm ô nhiễm môi trường đất, môi trường
đất, môi trường không khí, môi trường nước (nhiều con sông bị ô nhiễm, nước sinh
hoạt cũng bị ô nhiễm). Điều đó ảnh hưởng đến đời sống của nguời dân.
+ KCN tăng làm lối sống đô thị thâm nhập vào quan hệ cộng đồng làng xã, làm
truyền thống làng xã mất dần đi.
Như vậy, việc xây dựng KCN giúp cho sự phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa
của địa phương cũng như của đất nước. Phát triển KCN góp phần đẩy mạnh CNH –
HĐH đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực thì nó cũng đưa đến
nhiều tác động tiêu cực cần khắc phục.
7
2.1.2 Khái niệm và nội dung sinh kế
2.1.2.1 Khái niệm về sinh kế
Phương pháp tiếp cận sinh kế là một trong các phương pháp tiếp cận mới
trong phát triển nông thôn nhằm không chỉ nâng cao mọi mặt đời sống hộ gia đình
mà còn phát triển nông nghiệp, nông thôn theo xu hướng bền vững và hiệu quả.

Người đi đầu về nội dung sinh kế đó là Robert Chambers trong tác phẩm của ông vào
những năm 1980 (sau đó được phát triển và hoàn thiện hơn nữa bởi Chamber,
Conway và những người khác vào đầu những năm 1990). Từ đó một số cơ quan phát
triển đã tiếp nhận khái niệm sinh kế và cố gắng đưa vào thực hiện. Phương pháp tiếp
cận sinh kế đã được phát triển và hoàn thiện ở các nước phát triển trên thế giới, dựa
trên khuôn khổ cam kết hỗ trợ của Bộ phát triển quốc tế Anh (DFDI) về “Những
chính sách và hành động cho việc xúc tiến các loại hình sinh kế bền vững”. Đây là
một trong ba mục tiêu mà DFDI đã đặt ra trong Sách Trắng năm 1997 nhằm đạt được
những mục đích chung về xoá đói giảm nghèo.
Theo khái niệm của DFID đưa ra thì: “Một sinh kế có thể được miêu tả như là
sự tập hợp các nguồn lực và khả năng con người có được kết hợp với những quyết
định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để kiếm sống cũng như để đạt được các mục
tiêu và ước nguyện của họ”.
Theo khái niệm nêu trên thì chúng ta thấy sinh kế bao gồm toàn bộ những hoạt
động của con người để đạt được mục tiêu dựa trên những nguồn lực sẵn có của con
người như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nguồn vốn, lao động, trình độ phát
triển của khoa học công nghệ.
Tiếp cận sinh kế là cách tư duy về mục tiêu, phạm vi và những ưu tiên cho phát
triển nhằm đẩy nhanh tiến độ xoá nghèo. Đây là phương pháp tiếp cận sâu rộng với mục
đích nắm giữ và cung cấp các phương tiện để tìm hiểu nguyên nhân và các mặt trọng của
đói nghèo với trọng tâm tập trung vào một số yếu tố (như các vấn đề kinh tế, an ninh
lương thực). Nó cũng cố gắng phác hoạ những mối quan hệ giữa các khía cạnh khác
nhau của nghèo đói, giúp xác lập ưu tiên tốt hơn cho những hoạt động xoá nghèo.
Phương pháp tiếp cận sinh kế có mục đích giúp người dân đạt được thành quả
lâu dài trong sinh kế mà những kết quả đó được đo bằng các chỉ số do bản thân họ tự
xác lập và vì thế họ sẽ không bị đặt ra bên ngoài. Điều đó thể hiện tính chất lấy người
8
dân làm trung tâm. Phương pháp này thừa nhận người dân có những quyền nhất định,
cũng như trách nhiệm giữa họ với nhau và xã hội nói chung.
Phương pháp tiếp cận sinh kế được sử dụng để xác định, thiết kế và đánh giá

các chương trình, dự án mới, sử dụng cho đánh giá lại các hoạt động hiên có, sử dụng
để cung cấp thông tin cho việc hoạch định chiến lược và sử dụng cho nghiên cứu.
Một trong những điểm nổi trội của tiếp cận sinh kế là khả năng linh hoạt và khả năng
áp dụng của chúng đối với nhiều tình huống.
Chiến lược sinh kế là quá trình ra quyết định về các vấn đề cấp hộ, bao gồm
những vấn đề như thành phần của hộ, tính gắn bó giữa các thành viên, phân bổ các
nguồn lực vật chất và phi vật chất của hộ (Seppala, 1996). Để duy trì hộ, hộ gia đình
thường có các chiến lược sinh kế khác nhau, theo (Seppala, 1996) chiến lược sinh kế
có thể chia làm 3 loại:
Chiến lược tích luỹ: là chiến lược dài hạn nhằm hướng tới tăng trưởng và có
thể là kết hợp của nhiều hoạt động hướng tới tích luỹ và giàu có.
Chiến lược tái sản xuất: là chiến lược trung hạn gồm nhiều hoạt động tạo thu
nhập, những ưu tiên có thể nhắm tới hoạt động của cộng đồng và an sinh xã hội.
Chiến lược tồn tại: là chiến lược ngắn hạn, gồm cả các hoạt động tạo thu nhập
chỉ để tồn tại mà không tích luỹ.
2.1.2.2 Khung sinh kế bền vững
Khung sinh kế bền vững bao gồm những nhân tố chính ảnh hưởng đến sinh kế
của con người, và những mối quan hệ cơ bản giữa chúng. Nó có thể sử dụng để lên
kế hoạch cho những hoạt động phát triển mới và đánh giá sự đóng góp vào sự bền
vững sinh kế của những hoạt động hiện tại. Cụ thể là:
- Cung cấp bảng liệt kê những vấn đề quan trọng nhất và phác hoạ mối liên hệ
giữa những thành phần này.
- Tập trung sự chú ý vào các tác động và các quy trình quan trọng.
- Nhấn mạnh sự tương tác phức tạp giữa các nhân tố khác nhau, làm ảnh
hưởng tới sinh kế.
Khung sinh kế bền vững có dạng như sau:
9
Sơ đồ 2.1: Khung sinh kế bền vững
Chú thích: N (Natural Capital): Nguồn lực tự nhiên
H (Human Capital): Nguồn lực con người

P (Physical Capital): Nguồn lực vật chất
F (Financial Capital): Nguồn lực tài chính
S (Social Capital): Nguồn lực xã hội
Đây là khung giúp cho người sử dụng hiểu được các loại hình sinh kế hiện
hữu và dùng nó làm cơ sở để lập kế hoạch cho các hoạt động phát triển và các hoạt
động khác. Điều này kéo theo việc phân tích và sử dụng nhiều loại công cụ hiện có
như phân tích xã hội và phân tích các bên liên quan, các phương pháp đánh giá nhanh
và đánh giá kinh tế về:
- Bối cảnh sống của người dân, trong đó bao gồm những ảnh hưởng của các
xu hướng bên ngoài với họ (xu hướng về kinh tế, xu hướng phát triển dân số).
- Khả năng tiếp cận của người dân đối với các loại tài sản sinh kế và khả năng
sử dụng chúng vào sản xuất.
Khả năng phục hồi sau sốc Thiết lập trạng thái cân bằng mới
KẾT QUẢ ĐẦU RA
- Cuộc sống của hộ ra
sao? (cải thiện an ninh
lương thưc? Thu nhập
tốt hơn? Giảm tính dễ
bị tổn thương?)
- Năng lực của hộ có
được cải thiện? (sử
dụng bền vững các
nguồn tài nguyên thiên
nhiên)
THU HỒI ĐẤT LÀ
MỘT CÚ SỐC LỚN
- Làm giảm đột ngột
tài sản sinh kế chính:
Đất canh tác
- Hộ nông dân không

còn sử dụng các kỹ
năng sản xuất nông
nghiệp vốn có.
- Nhận số tiền đền bù
lớn
CƠ SỞ NGUỒN
LỰC CỦA HỘ
CÁC LỰA CHỌN
CỦA HỘ
- Các hoạt động tạo
thu nhập
- Xây dựng năng
lực
- Các lựa chọn khác
được xem như quá
trình điều chỉnh và
thích ứng sau sốc
Các tài sản
(N, H, P,
F, S)
CƠ HỘI
10
CÁC CHÍNH SÁCH VÀ XU
HƯỚNG KINH TẾ VĨ MÔ
Rủi ro và các rào cản khác
Nguồn: Tham
khảo từ tài liệu
của ĐFI, 1999
- Những thể chế, những chính sách và tổ chức định hình cho các loại hình tài
sản sinh kế của người dân.

- Các chiến lược mà người dân áp dụng để theo đuổi mục đích của mình.
Khung sinh kế giúp ta sắp xếp những nhân tố gây cản trở hoặc tăng cường các
cơ hội sinh kế, đồng thời cho ta thấy cách thức chúng liên quan với nhau như thế nào.
Nó không phải là mô hình chính xác trong thực tế mà nó chỉ đưa ra một cách tư duy về
sinh kế, nhìn nhận nó trên góc độ phức hợp và sâu rộng nhưng vẫn trong khuôn khổ có
thể quản lý được. Khung sinh kế luôn được đặt trong trạng thái động, nó không có
điểm đầu, điểm cuối. Giá trị của một khung sinh kế giúp cho người sử dụng nhìn nhận
một cách bao quát và có hệ thống các tác nhân gây ra nghèo khổ và mối quan hệ giữa
chúng. Có thể đó là những cú sốc và các xu hướng bất lợi, các chính sách và thể chế
hoạt động kém hiệu quả hoặc việc thiếu cơ bản các tài sản sinh kế.
Mục đích sử dụng khung sinh kế là để tìm hiểu những cách thức mà con người
đã kết hợp và sử dụng các nguồn lực, khả năng nhằm kiếm sống cũng như để đạt
được các mục tiêu và ước nguyện của họ. Mà những mục tiêu và ước nguyện mà con
người đạt được nhờ sử dụng và kết hợp các nguồn lực khác nhau có thể gọi là kết quả
sinh kế. Đây là những thứ mà con người muốn đạt được trong cuộc sống kể cả trước
mắt cũng như lâu dài.
Nghiên cứu kết quả sinh kế sẽ cho chúng ta hiểu được động lực nào dẫn tới
các hoạt động mà họ đang thực hiện và những ưu tiên của họ là gì. Đồng thời cũng
cho thấy phản ứng của người dân trước những cơ hội và nguy cơ mới. Kết quả sinh
kế thể hiện trên chỉ số như cuộc sống hưng thịnh hơn, đời sống được nâng cao, khả
năng tổn thương giảm, an ninh lương thực được củng cố và sử dụng bền vững các
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do đó cần phải kết hợp và sử dụng khác nhau như đất
đai, vốn, khoa học công nghệ.
2.1.2.3 Các thành phần của khung sinh kế bền vững
a, Hoàn cảnh dễ bị tổn thương
Hoàn cảnh dễ bị tổn thương là môi trường sống bên ngoài của con người. Sinh
kế và tài sản sẵn có của con người bị ảnh hưởng cơ bản bởi những xu hướng chủ yếu,
cũng như bởi những cú sốc và tính thời vụ. Chính những điều này khiến sinh kế và
tài sản trở nên bị giới hạn và không kiểm soát được.
11

Một số ví dụ về các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản và sinh kế của con người:
- Xu hướng: xu hướng dân số, xu hướng tài nguyên kể cả xung đột, xu hướng
kinh tế quốc gia, quốc tế, những xu hướng thể chế (bao gồm chính sách, những xu
hướng kỹ thuật...).
- Cú sốc: cú sốc về sức khoẻ con người, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh cây
trồng vật nuôi...
- Tính thời vụ: biến động giá cả, sản xuất, sức khoẻ, những cơ hội làm việc.
Những nhân tố cấu thành hoàn cảnh dễ bị tổn thương quan trọng vì chúng có tác
động trực tiếp lên tình trạng tài sản và những lựa chọn của con người mà với chúng sẽ mở
ra cơ hội để họ theo đuổi những kết quả sinh kế có lợi.
b, Những tài sản sinh kế
Tiếp cận sinh kế cần tập trung trước hết và đầu tiên với con người. Nó cố gắng
đạt được sự hiểu biết chính xác và thực tế về sức mạnh của con người (tài sản hoặc
tài sản vốn) và cách họ cố gắng biến đổi chúng thành kết quả sinh kế hữu ích.
Sơ đồ 2.2: Tài sản sinh kế của người dân
Nguồn:
Khung sinh kế xác định 5 loại tài sản trung tâm mà dựa vào đó tạo ra những
sinh kế: Nguồn vốn con người, nguồn vốn xã hội, nguồn vốn tự nhiên, nguồn vốn vật
thể, nguồn vốn tài chính.
- Nguồn vốn nhân lực
Nguồn nhân lực bao gồm kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức khoẻ
con người. Các yếu tố đó giúp cho con người có thể theo đuổi những chiến lược tìm
12
kiếm thu nhập khác nhau và đạt những mục tiêu kế sinh nhai của họ. Ở mức độ gia
đình nguồn nhân lực được xem là số lượng và chất lượng nhân lực có sẵn. Những
thay đổi này phụ thuộc vào quy mô hộ, trình độ kỹ năng, khả năng lãnh đạo và bảo
vệ sức khoẻ.
Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành nên kế sinh nhai. Nó được xem là nền
tảng hay phương tiện để đạt được mục tiêu thu nhập.
Điều gì có thể tạo nên vốn con người cho người dân ở nông thôn?

Việc hỗ trợ nguồn nhân lực có thể thực hiện cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Trong
cả hai cách thực hiện đó kết quả thực sự mang lại chỉ khi con người, chính bản thân
họ sẵn sàng đầu tư vào vốn nhân lực của họ bằng cách tham gia vào các khoá đào tạo
hay trường học. Tiếp cận với các dịch vụ phòng ngừa dịch bệnh. Trong trường hợp
con người bị ngăn cản bởi những việc làm trái với lẽ thường (những tiêu chuẩn xã
hội hay chính sách cứng nhắc ngăn cấm phụ nữ tới trường) thì việc hỗ trợ gián tiếp
vào việc phát triển vốn con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong nhiều trường hợp ta nên kết hợp cả hai hình thức hỗ trợ. Cơ chế phù
hợp nhất cho việc kết hợp hỗ trợ là thực hiện các chương trình trọng điểm. Các
chương trình trọng điểm có thể hướng vào việc phát triển nguồn nhân lực, đế xuất
những thông tin thông qua việc phân tích các phương thức kiếm sống để chắc chắn
rằng các nỗ lực tập trung vào nơi cần thiết nhất.
Cải thiện phương thức tiếp cận với giáo dục chất lượng cao, thông tin, công
nghệ và đào tạo nâng cao dinh dưỡng và sức khoẻ sẽ góp phần làm phát triển nguồn
vốn con người.
- Nguồn vốn xã hội
Vốn xã hội là những nguồn lực xã hội dựa trên những gì mà con người vẽ ra
để theo đuổi mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm:
Các tương tác và mạng lưới, cả chiều dọc (người bảo lãnh/khách hàng quen)
và chiều ngang (giữa các cá nhân có cùng mối quan tâm) có tác động làm tăng cả uy
tín và khả năng làm việc của con người, mở rộng tiếp cận với các thể chế, như các
thể chế chính trị và cộng đồng.
Là thành viên trong một nhóm ảnh hưởng hoặc kế thừa triệt để các quyết định
chung, các quy tắc được chấp nhận, các tiêu chuẩn và mệnh lệnh. Uy tín của các mối quan
13
hệ, sự nhân nhượng và sự trao đổi khuyến khích kết hợp, cắt giảm các chi phí giao dịch và
có thể tạo ra một mạng lưới không chính thức xung quanh vấn đề nghèo đói.
Trong năm yếu tố cơ bản của kế sinh nhai, nguồn vốn xã hội có quan hệ sâu sắc
nhất đối với sự chuyển dịch quá trình và chuyển dịch cơ cấu. Thực sự có thể là hữu ích
nếu xem vốn xã hội như sản phẩm của một tiến trình hoặc cấu trúc, thông qua các mối

quan hệ đơn giản này các tiến trình và cấu trúc trở thành sản phẩm của nguồn vốn xã hội.
Mối quan hệ này đưa ra hai con đường và có thể làm cho nó phát triển hơn.
VD: + Khi người ta sẵn sàng liên kết các tiêu chuẩn và mệnh lệnh thông
thường chúng có thể làm cho việc hình thành các hoạt đông mới dễ dàng hơn để theo
đuổi các mối quan tâm của họ.
+ Những người có địa vị trong xã hội giúp chúng ta gọt giũa các chính
sách và bảo đảm rằng các mối quan tâm của họ được thể hiện trong luật pháp.
Làm gì để tạo ra nguồn vốn xã hội cho người dân nông thôn?
Hầu hết những nỗ lực xây dựng vốn xã hội đều tập trung vào các thể chế địa
phương, ngay cả hoạt động trực tiếp (thông qua việc tạo ra các khả năng, huấn luyện
đào tạo hay phân phối các nguồn lực) hoặc gián tiếp thông qua việc tạo ra một môi
trường dân chủ thông thoáng.
Trong khi việc trao quyền cho các nhóm có thể xem như một mục tiêu chính,
vốn xã hội có thể được xem là sản phẩm phụ trong các hoạt động khác (tham gia
nghiên cứu sự hình thành nên các nhóm để phát triển và kiểm tra các công nghệ có
khả năng nâng cao đời sống của họ). Thông thường, những biến động gia tăng nguồn
vốn xã hội được theo đuổi cần phải có sự hỗ trợ từ các lĩnh vực khác. Do đó cần gắn
chặt trách nhiệm của các tổ chức tiết kiệm và tín dụng vào nguồn vốn xã hội. Cũng
như việc kết hợp quản lý các tai hoạ cần phải dựa vào việc kết nối các hành động để
hạn chế chúng.
- Nguồn vốn tự nhiên
Vốn tự nhiên là những yếu tố được sử dụng trong các nguồn lực tự nhiên. Nó
cung cấp và phục vụ rất hữu ích cho phương kế kiếm sống của con người. Có rất
nhiều nguồn lực hình thành nên vốn tự nhiên. Từ các hàng hoá công vô hình như
không khí, tính đa dạng sinh học đến các tài sản có thể phân chia được sử dụng trực
tiếp trong sản xuất như: đất đai, nguồn nước, cây trồng, vật nuôi, mùa màng...
14
Trong khung sinh kế bền vững. Mối quan hệ giữa nguồn vốn tự nhiên và các
tổn hại có sự gắn kết thực sự. Nhiều thảm hoạ tàn phá kế sinh nhai của người nghèo
thường xuất phát từ các tiến trình của tự nhiên, tàn phá nguồn vốn tự nhiên (cháy

rừng, lũ và động đất làm thiệt hại về hoa màu và đất nông nghiệp) Và tính mùa vụ thì
ảnh hưởng lớn đến những biến đổi trong năng suất và giá trị của nguồn vốn tự nhiên
qua các năm.
Điều gì có thể làm nên nguồn vốn tự nhiên cho người dân nông thôn?
Mục tiêu sinh kế hướng đến một tầm rộng lớn hơn, chú trọng vào con người
và hiểu tầm quan trọng của các quy trình và cấu trúc (những cách thức phân phối đất,
các quy tắc rút ra từ việc đánh bắt cá) trong quá trình xác định cách mà các nguồn
vốn tự nhiên được tạo ra và sử dụng.
Những tiến trình và cấu trúc điều chỉnh các phương cách tiếp cận đối với
nguồn lực tự nhiên và có thể khuyến khích, hoặc ép buộc khi cần thiết để cải thiện
việc quản lý các nguồn lực. Nếu các thị trường hoàn thiện hơn thì giá trị các nguồn
lực cũng được cao hơn, việc xúc tiến quản lý tốt hơn (trong một vài trường hợp, thị
trường phát triển có thể dẫn đến sự sụt giảm doanh số bởi vì nghèo đói có thể làm
tăng sự cơ cực).
Việc hỗ trợ gián tiếp đối với vốn tự nhiên thông qua sự chuyển đổi các tiến
trình và cấu trúc thì có ý nghĩa rất quan trọng .Sự hỗ trợ trực tiếp tập trung vào các
nguồn lực mà chính các nguồn lực đó có thể chống lại khả năng sử dụng các nguồn
lực đó của con người vẫn có sự tái tạo cho nhu cầu sử dụng trong tương lai. Một
trong các thành phần chính của mục tiêu sinh kế bền vững là tin và theo đuổi mục
tiêu ổn định nhiều loại nguồn lực khác nhau. Sao cho không ảnh hưởng đến sự ổn
định của môi trường (ổn định nguồn vốn tự nhiên và các dịch vụ của nó, như giảm
khí cacbon và quản lý sự xói mòn).
- Nguồn vốn vật thể
Vốn vật thể gồm các cơ sở hạ tầng xã hội, tài sản hộ gia đình hỗ trợ cho sinh
kế như: giao thông, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống ngăn, tưới tiêu, cung cấp năng
lượng, nhà ở, các phương tiện sản xuất, đi lại, thông tin.
Chúng ta phải làm gì để tạo ra nguồn vốn vật thể cho người dân nông thôn?
15
Trước đây DFID đã khuyến khích việc dự trữ trực tiếp hàng hoá sản xuất cho
người nghèo. Có thể là vấn đề của một số nguyên nhân:

• Hoạt động nhỏ một nhà cung ứng trực tiếp hàng hoá sản xuất dẫn đến sự phụ
thuộc và phá vỡ thị trường tư nhân.
• Dự trữ trực tiếp có thể làm giảm sự tham gia cải thiện cơ cấu và quy trình thể
chế để đảm bảo những gì đạt được là bền vững và hàng hoá sản xuất được sử dụng là
tốt nhất.
Vì vậy mục tiêu sinh kế tập trung vào việc giúp đỡ tiếp cận thích hợp, những
thứ giúp ích cho sinh kế của người nghèo. Tiến tới việc tham gia là cần thiết để thiết
lập sự ưu tiên và cần thiết cho những người sử dụng.
Vốn vật thể (in particular infrastructure) có thể là đắt đỏ. Nó không chỉ yêu
cầu nguồn vốn đầu tư ban đầu mà còn cung cấp tài chính cho những gì đang diễn ra
và nguồn lực con người đáp ứng những hoạt động và duy trì chi phí cho dịch vụ.Vì
vậy, việc nhấn mạnh cung cấp một dịch vụ không chỉ đáp ứng những nhu cầu trung
gian của người sử dụng mà còn phải đủ trong thời gian dài. Nó không chỉ quan trọng
để cung cấp sự khuyến khích cùng một lúc đến phát triển kĩ năng, năng lực để đảm
bảo việc quản lý có hiệu quả của dân chúng địa phương.
Cơ sở hạ tầng là một trong những loại tài sản hỗ trợ trực tiếp người dân, đặc
biệt là người nghèo. Tài sản này có thể giúp người nghèo thoát nghèo một cách nhanh
chóng, nếu được đầu tư đúng, và phù hợp với sinh kế hộ nghèo. Như hệ thống đường
xá, vận tải, y tế.
- Nguồn vốn tài chính
Vốn tài chính thể hiện nguồn lực tài chính được con người sử dụng để hướng
tới mục tiêu sinh kế của họ. Định nghĩa được sử dụng ở đây không mang tính chất
kinh tế mà nó bao gồm những dòng tích trữ và có thể góp phần vào việc tiêu dùng sản
phẩm. Tuy nhiên, nó phải được thực hiện để đạt được một nền tảng sinh kế quan
trọng, đó là sự giá trị của tiền mặt hoặc tính thanh khoản, người ta có thể làm theo
những cách sinh kế khác.
Có hai nguồn vốn tài chính chủ yếu.
+ Vốn sẵn có: Tiết kiệm là loại vốn tài chính được ưa thích vì nó không bị
ràng buộc về tính pháp lý. Chúng có thể có nhiều hình thức: tiền mặt, tín dụng ngân
16

hàng, hoặc tài sản thanh khoản khác như vật nuôi, nữ trang.... Nguồn lực tài chính có
thể tồn tại dưới dạng các tổ chức cung cấp tín dụng.
+ Dòng tiền đều: Ngoại trừ thu nhập hầu hết loại này là tiền trợ cấp, hoặc sự
chuyển giao. Để có sự tạo lập rõ ràng vốn tài chính từ những dòng tiền này phải xác
thực (trong khi sự đáng tin cậy hoàn toàn không bao giờ được đảm bảo có sự khác
nhau giữa việc trả nợ một lần với sự chuyển giao thường xuyên vào kế hoạch đầu tư).
Chúng ta làm gì để tạo nguồn vốn tài chính cho người dân nông thôn?
Những chi nhánh ngân hàng phát triển không giao tiền cho người nghèo ( hỗ
trợ trực tiếp vốn tài chính). Người nghèo ít có khả năng vay, vì ít tài sản thế chấp,
đồng thời cho người nghèo vay rủi ro thường cao hơn, đó là việc không trả được nợ.
Do đó tiếp cận vốn tài chính đối với người nghèo chỉ có thể thông qua các tổ chức,
trung gian gián tiếp. Có thể là:
+ Mang tính tổ chức: Tăng tiết kiệm và dòng tài chính nhờ sự hỗ trợ để phát
triển sản xuất hiệu quả thông qua những tổ chức dịch vụ tài chính cho người nghèo.
Bằng cách truyền đạt cho họ phương thức sản xuất hiệu quả, đồng thời các dịch vụ
tài chính này, cần phải đảm bảo nguồn hỗ trợ không bị thất thoát, người nhận cuối
cùng phải là người nghèo.
+ Có tính chất cơ quan: Tăng sự tiếp cận dịch vụ tài chính, vượt qua rào cản
liên đới những người nghèo với nhau ( cung cấp cho họ sự bảo đảm hoặc máy móc
đồng nhất để họ có được những loại tài sản hoạt động song song nhau).
+ Lập pháp/ sự điều chỉnh – cải thiện môi trường dịch vụ tài chính để tổ
chức hoặc giúp đỡ chính phủ cung cấp tốt hơn độ an toàn cho những người
nghèo (như trợ cấp).
Vấn đề có tính tổ chức của sự bền vững là sự gia nhập quan trọng của bộ phận
tài chính vi mô. Trừ khi người ta tin tưởng rằng những tổ chức dịch vụ tài chính sẽ
tồn tại theo thời gian và sẽ tiếp tục đưa ra lãi suất hợp lý, họ không thể giao phó tiết
kiệm của họ cho những tổ chức đó hoặc tin rằng sẽ được trả nợ.
Khi tiết kiệm không theo một hình thức rõ ràng, đặc biệt đến nhu cầu và văn
hoá của chính người sử dụng, cách thức hỗ trợ khác nhau có thể thích hợp. Ví dụ,
người chăn nuôi có được lợi nhuận từ việc cải tiến sức khoẻ vật nuôi và hệ thống tiếp

thị, thị trường giảm rủi ro khi kết hợp với tiết kiệm của họ (ở hình thức vật nuôi) hơn
là thiết lập ngân hàng địa phương.
17
Đặc điểm của mô hình 5 loại tài sản
- Những ngũ giác có hình dạng khác nhau có thể được vẽ cho những cộng
đồng khác nhau hoặc cho những nhóm xã hội khác nhau trong cộng đồng đó.
- Một tài sản riêng lẻ có thể tạo ra nhiều lợi ích. Nếu một người có thể tiếp cận
chắc chắn với đất đai (tài sản tự nhiên) họ cũng có thể có được nguồn tài chính vì họ có
thể sử dụng đất đai không chỉ cho những hoạt động sản xuất trực tiếp mà còn cho thuê.
- Phẩm chất của tài sản thay đổi thường xuyên vì vậy ngũ giác cũng thay đổi
liên tục theo thời gian.
- Hình dạng của ngũ giác diển tả khả năng tiếp cận của người dân với các loại
tài sản. Tâm điểm là nơi không tiếp cận được với loại tài sản nào. Các điểm nằm trên
chu vi là tiếp cận tối đa với các loại tài sản. Như vậy những ngũ giác có hình dạng
khác nhau có thể được vẽ cho những cộng đồng khác nhau hoặc cho những nhóm xã
hội khác nhau trong cộng đồng đó. Điều quan trọng là một tài sản riêng lẻ có thể tạo
ra nhiều lợi ích. Sơ đồ hình ngũ giác rất hữu ích cho việc tìm ra điểm nào thích hợp,
những tài sản nào sẽ phục vụ cho nhu cầu của nhóm xã hội khác nhau và cân bằng
giữa những tài sản đó như thế nào.
c, Chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế
Chiến lược sinh kế là cách thức sinh nhai để người dân đạt được mục tiêu của
họ. Các hộ gia đình, các cộng đồng thường theo đuổi chiến lược đa sinh kế (nhiều cách
sinh sống). Các chiến lược sinh kế đó có thể phụ thuộc hoặc không phụ thuộc vào điều
kiện môi trường, chúng phụ thuộc ít nhiều vào thi trường, việc làm trong nền kinh tế và
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Người dân có thể sử dụng những gì mà
họ có thể tiếp cận được để tồn tại hoặc cải thiện tình hình hiện tại.
Chiến lược sinh kế của người dân bao gồm những quyết định và lựa chọn của
họ về sự đầu tư và sự kết hợp các nguồn lực sinh kế nào với nhau. Quy mô của các
hoạt động tạo thu nhập mà họ đang theo đuổi. Quản lý như thế nào để bảo tồn được
các nguồn lực sinh kế và thu nhập của họ? Cách người dân thu thập và phát triển các

kiến thức, kĩ năng cần thiết để kiếm sống ? Cách sử dụng thời gian và công sức?
Cách họ đối phó với rủi ro....
Kết quả sinh kế mang tính chất là tiêu chí cao nhất trong khung sinh kế bền
vững. Kết quả sinh kế là vấn đề thuộc về an sinh xã hội, cuộc sống của người dân ra
18
sao ? Thu nhập của họ như thế nào? An ninh lương thực, khả năng ứng biến sinh kế
trước những thay đổi, cải thiện công bằng xã hội. Đây là kết quả của những thay đổi
cuối cùng mà người dân, cộng đồng và các tổ chức phát triển mong muốn đạt được.
2.1.2.4. Mối quan hệ giữa các loại tài sản trong khung
a, Quan hệ giữa các tài sản
Những tài sản sinh kế nối kết với nhau theo vô số cách để tạo ra kết quả sinh
kế có lợi. Hai loại quan hệ quan trọng là:
- Sự tuần tự: Việc sở hữu một loại tài sản giúp người dân từ đó tạo thêm các
loại tài sản khác. Ví dụ người dân dùng tiền (nguồn vốn tài chính) để mua sắm vật
dụng sản xuất và tiêu dùng (nguồn vốn vật thể).
- Sự thay thế: Một loại tài sản có thể thay thế cho những loại tài sản khác
không? Sự gia tăng nguồn vốn con người có đủ đền bù sự thiếu hụt nguồn vốn tài
chính không? Nếu có, điều này có thể dựa vào mở rộng lựa chọn cho cung cấp.
b, Mối quan hệ trong khung
- Tài sản và hoản cảnh dễ bị tổn thương: Tài sản có thể vừa bị phá huỷ vừa
được tạo ra thông qua các biến động của hoàn cảnh.
- Tài sản và sự tái cấu trúc và thay đổi quy trình thể chế: Thể chế, chính sách
và sự chuyển dịch cơ cấu, quy trình sản xuất có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng tiếp
cận tài sản.
- Tạo ra tài sản: Chính sách đầu tư xây dựng CSHT cơ bản (nguồn vốn hữu
hình) hoặc phát minh kỹ thuật (nguồn vốn con người) hoặc sự tồn tại của những thể
chế địa phương làm mạnh lên nguồn vốn xã hội.
- Xác định cách tiếp cận tài sản: Quyền sở hữu, những thể chế điều chỉnh cách
tiếp cận với những nguồn tài nguyên phổ biến.
- Ảnh hưởng tỉ lệ tích luỹ tài sản: Chính sách thuế ảnh hưởng đến doanh thu

của những chiến lược sinh kế.
Tuy nhiên, đây không phải là mối quan hệ đơn giản, những cá nhân và
những nhóm cũng ảnh hưởng lên sự tái cấu trúc và thay đổi quy trình thể chế. Nói
chung, tài sản càng được cung ứng cho người dân thì họ sẽ sử dụng càng nhiều. Vì
vậy một cách để đạt được sự trao quyền có thể là hỗ trợ cho người dân xây dựng
những tài sản của họ.
19
Tài sản và những chiến lược sinh kế: Những ai có nhiều tài sản có khuynh
hướng có nhiều lựa chọn lớn hơn và khả năng chuyển đổi giữa nhiều chiến lược để
đảm bảo sinh kế của họ.
Tài sản và những kết quả sinh kế: Khả năng người dân thoát nghèo phụ thuộc
chủ yếu vào sự tiếp cận của họ đối với những tài sản. Những tài sản khác nhau cần để
đạt được những kết quả sinh kế khác nhau.
Ví dụ thu nhập nông hộ phụ thuộc vào đầu tư các yếu tố sản xuất chính: Diện
tích đất đang sử dụng, số lao động trong gia đình, giá trị của tài sản cố định ngoài đất
đai, có điều kiện tiếp cận thuỷ lợi dễ dàng và áp dụng giống lúa mới. Tất cả các yếu
tố trên đóng góp vào gia tăng năng suất đất đai và thu nhập của nông hộ. Sự gia tăng
năng suất nông nghiệp có thể gián tiếp ảnh hưởng lên lĩnh vực phi nông nghiệp, bằng
sự gia tăng thặng dư tương tự lúa gạo và như vậy tạo ra cơ hội việc làm trong lĩnh
vực chế biến ở nông thôn, thương mại và các hoạt động vận chuyển (Seppala, 1996)
từ đó có thể đóng góp trực tiếp làm thu nhập nông nghiệp lớn hơn. Sự phát triển tài
nguyên nhân lực tuỳ thuộc cấp lớp đã đến trường của chủ hộ, có thể góp phần làm
tăng năng suất lao động các hoạt động phi nông nghiệp, từ đó thu nhập nông hộ gia
tăng. Giáo dục cũng tạo cơ hội nghề nghiệp cho thành phần lao động gia đình thủ
công, năng suất thấp (chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và các hoạt động xây dựng)
chuyển sang các hoạt động ngoài nông nghiệp như: thương maị và dịch vụ. Tình
trạng của cơ sở hạ tầng cũng đóng góp tích cực vào thu nhập thông qua giá cả của
đầu vào, đầu ra trong lĩnh vực thương mại và qua việc gia tăng cơ hội lao động làm
tăng thu nhập trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn. Ngoài nguồn vốn tiết kiệm
của gia đình, tiếp cận tín dụng làm tăng thêm vốn cũng làm tăng thêm thu nhập của

nông hộ.
2.2 Vấn đề sinh kế hộ nông dân và thay đổi sinh kế hộ nông dân ở một số
nước trên thế giới và Việt Nam
2.2.1 Kinh nghiệm về vấn đề sinh kế và nâng cao thu nhập cho nông dân trong
phát triển các khu công nghiệp ở một số nước trên thế giới
2.2.1.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia có điều kiện tự nhiên và phong tục tập quán tương
đối giống Việt Nam. Là nước đông dân nhất thế giới, với trên 1.3 tỷ người nhưng cũng
20
giống như Việt Nam, gần 70% dân số Trung Quốc vẫn sống ở khu vực nông thôn, hàng
năm có tới hơn 10 triệu lao động đến tuổi tham gia vào lực lượng lao động. Vì thế nhu
cầu giải quyết việc làm càng trở nên gay gắt. Sau cải cách và mở cửa nền kinh tế năm
1978, Trung Quốc thực hiện phương châm “Ly nông bất ly hương” thông qua chính sách
khuyến khích phát triển mạnh mẽ công nghiệp Hương Trấn nhằm đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội ở nông thôn, từ đó rút ngắn khoảng cách
nông thôn và thành thị. Trung Quốc coi việc phát triển công nghiệp nông thôn là con
đường giải quyết vấn đề việc làm và sinh kế của người dân. Quá trình công nghiệp hoá,
đô thị hoá đã thu hút lực lượng lao động dôi dư ở nông thôn. Bên cạnh đó, chính sách
khuyến khích đầu tư của nhà nước cùng với sự đầu tư của kinh tế tư nhân vào khu vực
phi nông nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương. Trong
những năm đầu đã có đến 20% thậm chí có nơi 50% tổng thu nhập của người dân nông
thôn là từ các doanh nghiệp địa phương.
Cùng với việc đưa ra các chính sách phát triển thì nhà nước cũng đẩy mạnh
xây dựng CSHT nông thôn, tạo điều kiện cho các hộ nông dân sản xuất hàng hoá, thu
mua bảo trợ hàng hoá nông nghiệp, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thị trường
tín dụng.
Chỉ trong vòng hơn 10 năm (từ 1978 đến 1991) Trung Quốc đã thu hút được
96 triệu lao động vào các xí nghiệp Hương Trấn (bằng 13.8% lực lượng lao động ở
nông thôn), tạo ra được 1162 tỷ nhân dân tệ (chiếm đến 60% giá trị sản phẩm khu
vực nông thôn, 1/3 giá trị sản lượng công nghiệp và 1/4 GDP cả nước). Đây là một

thành công lớn, nó đã làm cho tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm từ trên 70% (năm
1978) xuống còn dưới 50% (năm 1991).
Trong những năm gần đây, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân (vấn
đề tam nông) vẫn được chú trọng phát triển ở Trung Quốc. Những chính sách nhằm
nâng cao thu nhập cho nông dân luôn được coi trọng. Trong đó đặc biệt chú trọng
việc nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người nghèo bằng việc mở mang các
ngành nghề dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, chính sách vốn, tín dụng...
Từ thực tiễn phát triển công nghiệp và giải quyết vấn đề sinh kế cho người dân
nông thôn Trung Quốc trong thời gian qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm
sau:
21
- Thứ nhất: Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đa dạng hoá
ngành nghề, khuyến khích nông dân đầu tư dài hạn để phát triển sản xuất, mở mang
hoạt động phi nông nghiệp... đã góp phần lớn tạo nên tốc độ phát triển kinh tế và làm
đa dạng mô hình sinh kế cho người dân nông thôn, thu hút nhiều lao động vào các
hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn.
- Thứ hai: Trong một giai đoạn nhất định, nhà nước bảo hộ sản xuất trong
nước. Điều này giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn. Từ đó sinh kế của
người dân cũng được cải thiện hơn.
- Thứ ba: Việc hạn chế lao động di chuyển giữa các vùng, miền làm hạn chế
sinh kế của người dân nông thôn. Do các doanh nghiệp sẽ gây khó dễ trong việc trả
lương hoặc hạn chế trong việc sử dụng tay nghề của người dân.
2.2.1.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một quốc gia có nhiều sự tương đồng với sự phát triển kinh tế
của Việt Nam. Trước những năm 70, Hàn Quốc cũng là một nước nông nghiệp, nông
nghiệp chiếm 50% GDP Hàn Quốc. Nông dân Hàn Quốc cũng là người Châu Á,
mang ý thức hệ của người Á Đông: mặc cảm, tự ti. Trước năm 1970, GDP bình quân
đầu người của Hàn Quốc tương tự nước ta vào năm 1991, 1992, khoảng 300 – 350
USD/người/năm.
Cũng là nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, năm 1954 thực hiện cải cách

ruộng đất. Nhà nước mua lại đất của chủ có trên 3ha để bán lại cho nông hộ thiếu đất
với phương thức trả dần để tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển. Từ năm 1965 đến
năm 1971 tốc độ phát triển nông nghiệp tăng 2.5%. Năm 1971 đến năm 1978 tăng
6.9%, 3/5 đất hoang được nông hộ khai thác sử dụng có hiệu quả kinh tế cao. Năm
1975 tự túc được nhiều lương thực và nhiều nông sản khác, chăn nuôi tăng 8 –
10%/năm. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng hàng hóa với hệ thống cây, con,
ngành nghề có giá trị kinh tế cao. Thu nhập phi nông nghiệp chiếm 35% tổng số. (Bài
giảng kinh tế hộ nông dân. TS Đỗ Văn Viện, ThS Đặng Văn Tiến. 2000).
Trước năm 1970 Hàn Quốc lấy CNH – HĐH làm trọng điểm, công nghiệp
tăng trưởng rất nóng nhưng lại ko có cơ hội vì không có thị trường. Trong khi đó
nông nghiệp tăng chậm. Khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa giàu – nghèo
lớn.
22
Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra 1 con đường giải phóng đó là phong trào
“Sumomidon” (phong trào xây dựng nông thôn mới). Học tập phương châm “Lấy nông
nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp phát triển nông nghiệp”. Một mặt vẫn phát
triển công nghiệp, mặt khác đầu tư vào nông nghiệp, phát huy nội lực của người nông
dân trên mảnh đất của họ để phát triển kinh tế. Chính phủ đầu tư, hỗ trợ vào nông nghiệp
bằng vật chất để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Với tư tưởng là chỉ đầu tư tài chính
một phần mà chủ yếu là vật chất bằng cách đưa sản phẩm công nghiệp không thể ra thị
trường tiêu thụ về nông thôn như sắt, thép... xây dựng cơ sở vật chất như: đường giao
thông, các công trình công cộng (trường học, bệnh viện ...)
Mặt khác chuyển giao một số khoa học công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực nông
thôn. Xây dựng các phương án, dự án phát triển theo từng cấp:
Cấp 1: Nâng cao điều kiện sống cho người dân
Cấp 2: Nâng cao cơ sở hạ tầng
Cấp 3: Tăng thu nhập cho nông dân
Làm từ thấp đến cao, chỉ khi nào hoàn thành cấp 1 mới được làm tiếp cấp 2.
Từ thực tiễn của Hàn Quốc rút ra kinh nghiệm : Phát triển công nghiệp song
song với đầu từ phát triển nông nghiệp. Như vậy vừa thực hiện được CNH – HĐH

đất nước vừa đảm bảo được an ninh lương thực. Phát triển nông nghiệp, nông thôn
theo từng bước không nóng vội, hoàn thành cấp này mới làm tiếp cấp kia.
2.2.2 Chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề giải quyết việc
làm và sinh kế cho hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ quá
trình CNH – HĐH ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp với trên 70% dân số sống ở nông thôn và
làm nông nghiệp. Theo thống kê của hội Nông dân Việt Nam, mỗi năm nước ta có
khoảng 200.000 ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng, tương ứng với
mỗi hộ có khoảng 1,5 lao động mất việc làm. Điều này đòi hỏi Đảng và Nhà nước
phải có biện pháp giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất, làm sao để đảm
bảo sinh kế bền vững cho họ. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 11/2006/CT – TTG
yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương có định hướng quy hoạch,
kế hoạch về chuyển đổi mục đích sử dụng, chủ động xây dựng kế hoạch hỗ trợ dạy
nghề, tạo việc làm và vay vốn giải quyết việc làm cho người lao động ngay trong quá
23
trình xây dựng quy hoạch và kế hoạch thu hồi đất nông nghiệp.
( BT2410088126).
- Thứ nhất là việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sao cho có hiệu quả, nâng
cao độ phì của đất, bồi dưỡng đất, tăng hiệu quả kinh tế của đất. Vì đất đai là tư liệu
sản xuất đặc biệt, không sinh thêm mà lại ngày càng thu hẹp lại cho nên phải có kế
hoạch sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, đất nào sử dụng với mục đích ấy. Hạn chế tối đa
việc sử dụng đất 2 vụ lúa vào xây dựng KCN, khu đô thị. Nên sử dụng đất đồi, đất
bãi để xây dựng KCN. Trước khi quy hoạch sử dụng đất để xây dựng KCN, khu chế
xuất, khu đô thị mới thì cần thông báo công khai cho nhân dân biết. Cần có sự phối
hợp giữa các cơ quan, đơn vị, chính quyền các cấp để tuyên truyền chủ trương, chính
sách đất đai của Đảng và Nhà nước. Thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và đền bù phải
theo quy định.
- Thứ hai là việc giải quyết việc làm cho nông dân đang là vấn đề bức xúc.
Trong những năm qua, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ cho người
dân những vùng bị thu hồi đất như chính sách định cư tại chỗ, hỗ trợ đào tạo nghề,

chuyển đổi nghề... Các cấp chính quyền nên tạo điều kiện cho những hộ nông dân
bị mất đất sản xuất có việc làm mới ngay trên địa bàn: cho họ vào làm tại các nhà
máy, xí nghiệp ngay trên mảnh đất của họ trước đây. Thực hiện phương châm “Ly
nông bất ly hương”. Phải có biện pháp bắt buộc thực hiện chính sách dạy nghề
miễn phí cho người dân trong vùng bị lấy đất. Phải có lớp tập huấn, đào tạo để
giúp người nông dân có kiến thức về sản xuất, kinh doanh, giúp họ tiếp cận thị
trường. Chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cũng cần cải cách. Ngoài ra,
một biện pháp đang được đánh giá ưu việt là khi thu hồi đất nhà đầu tư không bồi
hoàn tất cả mà để lại cho người dân một phần cổ phần nhất định trong dự án đó.
Nếu bồi hoàn toàn bộ 1 lượng tiền, người nông dân không có nghề nghiệp có thể
sẽ tiêu hết tiền và trở thành người trắng tay, trong khi nếu có cổ phần họ sẽ có
được lợi ích lâu dài để đảm bảo cuộc sống.
Để tạo việc làm một cách bền vững và phát triển mạnh thị trường xuất khẩu lao
động, chiến lược đào tạo của quốc gia cần có sự định hướng rõ ràng ngay từ cấp trung
học. Trên cơ sở chiến lược phát triển Quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có những
định hướng đào tạo nghề cho học sinh ngay từ bậc trung học: Khoảng 1/3 số học sinh
24
PTTH sẽ tiếp tục học lên Cao đẳng, Đại học; 1/3 đào tạo nghề theo mô hình công nhân
kỹ thuật cao, số này sẽ cung cấp lao động cho các KCN, khu chế xuất và phục vụ xuất
khẩu, 1/3 còn lại sẽ được đào tạo nghề kỹ thuật cơ bản, nghề thủ công truyền thống, số
này có thể đáp ứng được lực lượng lao động cho khối các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
( 11448185).
Với những hộ nông dân có nhu cầu đến vùng khác để sinh sống thì chính
quyền địa phương nên phối hợp với hội nông dân và các ban ngành khác để có chính
sách hỗ trợ việc di dân, định canh, định cư.
- Thứ ba là tình trạng hộ nông dân thiếu đất sản xuất do phát triển KCN ngày
càng có xu hướng tăng. Vì vậy việc giao đất ở địa phương không chỉ giao cho những
hộ có hộ khẩu trong vùng, mà phải mở rộng cho các đối tượng nghèo không có ruộng
khác. Tuy nhiên phải có biện pháp quản lý chặt chẽ, không để bị lợi dụng giao đất sai
đối tượng, giao đất sai mục đích. Chính quyền các cấp kết hợp với các đoàn thể, đặc

biệt là hội nông dân vận động người dân nâng cao nhận thức, tuân thủ luật pháp nói
chung và luật đất đai nói riêng.
2.2.3 Một số kinh nghiệm giải quyết vấn đề sinh kế và việc làm cho hộ nông dân bị
thu hồi đất sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
2.2.3.1 Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội
Theo thống kê của Bộ Lao động – TBXH trong 5 năm (2001 - 2004) số người
mất việc do bị thu hồi đất phục vụ cho các nhu cầu: xây dựng KCN, khu chế xuất,
khu đô thị... ở Hà Nội là gần 800.000 người. Trong 8 năm (từ 2001 đến 2007), Hà nội
đã triển khai hơn 2800 dự án đầu tư liên quan đến thu hồi đất. Thành phố đã bàn giao
cho chủ đầu tư gần 1300 dự án với 6300 ha đất, trong đó trên 80% là đất nông
nghiệp, liên quan đến gần 180.000 hộ dân. Bình quân mỗi năm Hà Nội đã giải phóng
mặt bằng gần 1000ha. ( />Trong những năm qua, mặc dù Trung Ương và Thành phố đã có những chính
sách về hỗ trợ việc làm và học nghề nhưng lại chưa đồng bộ và hiệu quả, dẫn đến nguy
cơ thất nghiệp ở người nông dân mất tư liệu sản xuất là đất đai rất lớn. Bởi họ khó học
nghề mới, phần lớn lại ở độ tuổi cao, trình độ văn hoá hạn chế, không đáp ứng được nhu
cầu lao động chất lượng cao. Một bộ phận nông dân khi bị thu hồi trên 30% diện tích đất
nông nghiệp đã trở thành hộ nghèo. Ở 5 quận, huyện bị thu hồi nhiều nhất, có 1223 hộ
nghèo với 4389 nhân khẩu. ( /2008/03/772111/).
25

×