Tải bản đầy đủ (.pdf) (228 trang)

Một số tín hiệu thẩm mỹ trong ca dao Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 228 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐÀO THỊ DƢƠNG

MỘT SỐ TÍN HIỆU THẨM MĨ
TRONG CA DAO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐÀO THỊ DƢƠNG

MỘT SỐ TÍN HIỆU THẨM MĨ
TRONG CA DAO VIỆT NAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS Mai Ngọc Chừ

Hà Nội- 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Một số tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao
Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dựa trên sự góp ý của
giáo viên hƣớng dẫn. Các số liệu, kết quả nghiên cứu đƣợc trình bày
trong luận văn này là xác thực, chƣa từng đƣợc công bố ở bất kỳ công
trình nào khác.

Hà Nội, ngày 06 tháng 08 năm 2015
Tác giả luận văn

Đào Thị Dƣơng


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận đƣợc rất nhiều sự giúp đỡ,
động viên, khích lệ của thầy cô cũng nhƣ bạn bè, ngƣời thân.
Trƣớc tiên, em xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS. TS Mai
Ngọc Chừ - ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn và chỉ bảo em hoàn thành tốt
luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong Khoa
Ngôn ngữ học – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã truyền đạt
kiến thức và tạo điều kiện học tập cho em trong suốt thời gian em học ở
trƣờng.
Nhân đây em cũng xin phép gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn
giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện tốt để em hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng nhƣng luận văn này không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự góp ý của thầy cô và các bạn.


Hà Nội, ngày 06/08/2015
Học viên

Đào Thị Dƣơng


BẢNG VIẾT TẮT

TH

: Tín hiệu

THTM

: Tín hiệu thẩm mĩ

CBH

: Cái biểu hiện

CĐBH

: Cái đƣợc biểu hiện


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................4
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................................8
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài .................................................................................8
7. Cấu trúc của luận văn ...........................................................................................9
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ...........................................................................10
1.1. Tín hiệu, tín hiệu ngôn ngữ và tín hiệu thẩm mĩ ...........................................10
1.1.1. Tín hiệu ...........................................................................................................10
1.1.2. Tín hiệu ngôn ngữ..........................................................................................12
1.1.3. Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ ...........................................................................13
1.2. Một số đặc tính cơ bản của THTM ................................................................15
1.2.1. Tính nguồn gốc ..............................................................................................15
1.2.2. Tính cấp độ .....................................................................................................16
1.2.3. Tính hệ thống .................................................................................................17
1.2.4. Tính biểu hiện ................................................................................................19
1.2.5. Tính biểu trưng ..............................................................................................20
1.2.6. Tính trừu tượng và cụ thể ..............................................................................22
1.3. Quá trình để hiểu Tín hiệu thẩm mĩ ...............................................................24
1.3.1. Tín hiệu thẩm mĩ với các yếu tố giao tiếp .....................................................24
1.3.2. Lý thuyết chiếu vật .........................................................................................27
1.4. Vài nét về ca dao và ngôn ngữ ca dao ...........................................................28
Tiểu kết: ...................................................................................................................30
Chƣơng 2: KHẢO SÁT MỘT SỐ TÍN HIỆU THẨM MĨ ..................................31
TRONG CA DAO VIỆT NAM ..............................................................................31
2.1. Một số tín hiệu thuộc tự nhiên ........................................................................31

1


2.1.1. Tín hiệu mưa ..................................................................................................33

2.1.1.1. Các biến thể từ vựng của tín hiệu mưa trong ca dao ................................33
2.1.1.2. Các biến thể kết hợp của tín hiệu mưa trong ca dao .................................35
2.1.1.3. Các biến thể quan hệ của tín hiệu mưa trong ca dao................................38
2.1.2. Tín hiệu nắng .................................................................................................40
2.1.2.1. Các biến thể từ vựng của tín hiệu nắng trong ca dao ...............................40
2.1.2.2. Các biến thể kết hợp của tín hiệu nắng trong ca dao ................................42
2.1.2.3. Các biến thể quan hệ của tín hiệu nắng trong ca dao...............................44
2.1.3. Tín hiệu gió.....................................................................................................45
2.1.3.1. Các biến thể từ vựng của tín hiệu gió trong ca dao ..................................45
2.1.3.2. Các biến thể kết hợp của tín hiệu gió trong ca dao ...................................47
2.1.3.3. Các biến thể quan hệ của tín hiệu gió trong ca dao ..................................50
2.2. Một số tín hiệu là vật thể nhân tạo .................................................................52
2.2.1. Tín hiệu áo ......................................................................................................54
2.2.1.1. Các biến thể từ vựng của tín hiệu áo trong ca dao....................................54
2.2.1.2. Các biến thể kết hợp của tín hiệu áo trong ca dao ....................................56
2.2.1.3. Các biến thể quan hệ của tín hiệu áo trong ca dao ...................................58
2.2.2. Tín hiệu yếm ...................................................................................................60
2.2.1.1. Các biến thể từ vựng của tín hiệu yếm trong ca dao .................................60
2.2.1.2. Các biến thể kết hợp của tín hiệu yếm trong ca dao..................................62
2.2.1.2. Các biến thể quan hệ của tín hiệu yếm trong ca dao ................................64
Tiểu kết .....................................................................................................................65
Chƣơng3: GIÁ TRỊ BIỂU TRƢNG CỦA MỘT SỐ TÍN HIỆU THẨM MĨ
TRONG CA DAO VIỆT NAM ..............................................................................66
3.1. Tín hiệu thuộc tự nhiên....................................................................................66
3.1.1. Tín hiệu mưa ..................................................................................................66
3.1.1.1. Mưa – hiện thân của sự sống .....................................................................66
3.1.1.2. Mưa mang dáng hình lam lũ, chịu thương chịu khó của người lao động ........ 69
3.1.1.3. Mưa trong lòng người .................................................................................71

2



3.1.1.4. Mưa biểu trưng cho hình ảnh người phụ nữ ............................................73
3.1.1.5. Mưa và mô thức tình cảm ái ân .................................................................74
3.1.2. Tín hiệu nắng .................................................................................................77
3.1.2.1. Nắng mở ra một không gian tràn ngập ánh sáng trong ca dao ................77
3.1.2.2. Nắng biểu trưng cho nét tính cách của người lao động ...........................79
3.1.2.3. Nắng biểu trưng cho thời cuộc và các mối quan hệ xã hội ......................80
3.1.3. Tín hiệu gió.....................................................................................................82
3.1.3.1. Gió – không gian nên thơ, êm đềm và thanh thản ....................................82
3.1.3.2. Gió – không gian tình yêu lãng mạn ..........................................................84
3.1.3. Gió – không gian li biệt ..................................................................................87
3.1.3.4. Gió – sự thay lòng đổi dạ ............................................................................90
3.2. Tín hiệu là vật thể nhân tạo.............................................................................93
3.2.1. Tín hiệu áo ......................................................................................................93
3.2.1.1. Áo và sự đồng nhất với chủ thể ..................................................................93
3.2.1.2. Áo biểu trưng cho tình cảm gia đình .........................................................97
3.2.1.3. Áo biểu trưng cho tình yêu lứa đôi.............................................................98
3.2.1.4. Áo biểu trưng cho quan niệm về cái đẹp ..................................................100
3.2.1.5. Áo thể hiện nhân sinh quan của người xưa ............................................102
3.2.2. Tín hiệu yếm ................................................................................................103
3.2.2.1. Yếm biểu trưng cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam..104
3.2.2.2. Yếm trở thành ngôn ngữ trao gửi tình yêu lứa đôi .................................107
3.2.2.3. Yếm biểu trưng cho tính dục ....................................................................110
Tiểu kết ...................................................................................................................114
KẾT LUẬN ............................................................................................................116
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................119
NGUỒN TƢ LIỆU ................................................................................................123

3



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Ca dao ra đời từ rất sớm và lƣu truyền cho đến ngày nay. Ca dao thấm vào
tâm hồn mỗi chúng ta từ lúc lọt lòng qua lời ru của bà, câu hát của mẹ. Nhà thơ
Nguyễn Duy đã giãi bày niềm xúc cảm chân thành của mình:
“Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”
Vòng tròn đời ngƣời khởi phát từ lời ca dao đƣợc mẹ ru bên cánh võng từ
thuở ấu thơ, để rồi qua từng trƣờng đoạn bể dâu, ca dao lại là lời gợi nhắc con ngƣời
trở về với cội nguồn, với những giá trị văn hóa – nhân bản của dân tộc mình. Bao
đời nay, từ những câu ca dao đẹp nhƣ lòng mẹ, mỗi lớp hậu sinh vẫn tìm thấy mình
trong tinh hoa ngàn đời của dân tộc tích tụ lại thành một dấu ấn riêng. Trong kho
tàng văn hóa dân gian Việt Nam, ca dao chính là một viên ngọc vô giá và đến nay
vẫn là một mảnh đất màu mỡ cho những tìm tòi, sáng tạo trong nghiên cứu khoa
học trên cả lĩnh vực văn hóa, văn học và ngôn ngữ học.
2. Nói đến tín hiệu thẩm mĩ (THTM) là nói đến một vấn đề lí luận mang tính
liên ngành. Đây là một thuật ngữ có thể dùng trong nhiều bộ môn nghệ thuật nhƣng
có lẽ quen thuộc hơn cả là ngƣời ta thƣờng nói đến THTM nhƣ sự thể hiện của
những tín hiệu (TH) ngôn ngữ đƣợc đặt trong mối quan hệ với tác phẩm văn
chƣơng. Bản thân TH ngôn ngữ đã mang nghĩa biểu trƣng. Không dừng lại ở đó,
một TH ngôn ngữ thông thƣờng khi đi vào thế giới thi ca thì đã đƣợc chuyển hóa
thành TH nghệ thuật, THTM – ngôn ngữ hay TH văn chƣơng. THTM có nhiều đặc
tính trong đó đáng chú ý nhất là tính biểu trƣng. Tính biểu trƣng đƣợc xét trong mối
quan hệ hai mặt: cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt. Đó là mối quan hệ “có lí do” liên
quan đến năng lực biểu trƣng hóa, đến khả năng của THTM vừa có tính chất biểu
thị - nói lên một cái gì, vừa có tính chất hàm nghĩa - sự thêm nghĩa trên một nghĩa
có sẵn. Ví dụ: Cây thuỳ dƣơng trong thơ dân gian Nga biểu trƣng cho tƣ tƣởng, tình
cảm nam nữ; con cò biểu trƣng cho điều lành, đức thiếu thảo; hoa sen biểu trƣng

cho lòng trong trắng… Biểu trƣng, một mặt có tính hình tƣợng cụ thể, cái biểu hiện
nó là đối tƣợng nào đó đƣợc quy chiếu từ hiện thực. Mặt khác, là ý nghĩa xã hội
nào đó đƣợc cả cộng đồng chấp nhận.

4


3. Vấn đề tiếp cận văn học dƣới ánh sáng của ngôn ngữ học đang trở thành
mối quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Từ góc độ ngôn ngữ, ngƣời nghiên
cứu sẽ có những phƣơng pháp hữu hiệu để biến những cảm nhận trực quan của
ngƣời tiếp nhận văn học thành những phân tích khoa học khách quan và xác đáng.
Ở Việt Nam những năm qua, nghiên cứu ngôn ngữ ca dao đã có nhiều thành tựu,đặc
biệt là những công trình của các tác giả Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Xuân Kính, Mai
Ngọc Chừ, Phạm Thị Thu Yến…
Trong tình hình nghiên cứu ngôn ngữ học hiện nay, cách tiếp cận nghiên cứu
tín hiệu thẩm mĩ đƣợc coi nhƣ một trong những con đƣờng đến với những cái hay,
cái đẹp cũng nhƣ những giá trị đích thực, muôn đời của ca dao Việt Nam. Con cò,
con bống, hạt mưa, làn gió, hoa sen, hoa nhài, ngọn đèn không tắt, chiếc áo rách,
dải yếm đào, trầu cau, tấm gương mờ… là những THTM quen thuộc trong ca dao.
Đó là những hình ảnh có khả năng biểu trƣng những ý nghĩa sâu xa, đƣợc dân gian
chọn lọc trong sử dụng và thử thách qua nhiều năm tháng, thể hiện đậm nét những
đặc trƣng truyền thống của folklore.
Với những lý do nhƣ trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Một số tín
hiệu thẩm mĩ trong ca dao Việt Nam”. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi hy vọng góp
phần xử lý một vấn đề thu hút đƣợc quan tâm từ cả hai phía nghiên cứu ngôn ngữ
và văn học. Mặt khác, thông qua việc chọn lọc và phân tích một số THTM tiêu biểu,
chúng tôi hy vọng sẽ tìm ra đúng những từ chìa khóa để đi vào giải mã thế giới
nghệ thuật ca dao đồng thời góp phần làm sáng tỏ những giá trị đặc sắc của ngôn
ngữ ca dao Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề

Khái niệm THTM ra đời gắn với khuynh hƣớng cấu trúc trong nghiên cứu
mỹ học và nghệ thuật những năm giữa thế kỷ XX, đƣợc đƣa vào nƣớc ta từ những
năm 70 qua các bản dịch công trình của Iu. A. Philipiep, M. B. Khrapchenco, các
nghiên cứu của Hoàng Trinh, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Lai, Trần Đình Sử… Cho đến
nay, vấn đề về THTM đang đƣợc quan tâm và việc tiếp cận tác phẩm văn học bằng
cách nghiên cứu THTM trở nên phổ biến hơn.
Các luận án, luận văn triển khai theo hƣớng ngôn ngữ học khi đi vào phân
tích THTM trong tác phẩm văn học đã xuất hiện nhƣng không nhiều. Với luận án
“Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ – không gian trong ca

5


dao”(1995), tác giả Trƣơng Thị Nhàn đã vận dụng những phƣơng pháp và kiến
thức ngôn ngữ học hiện đại vào nghiên cứu một phƣơng diện của văn học – phƣơng
diện THTM, góp phần đƣa ngôn ngữ học vào nghiên cứu văn học và xử lý THTM
trong văn học; đồng thời, luận án cũng tiến hành nghiên cứu thi pháp ca dao cũng
nhƣ đƣa ra cách tiếp cận mới đối với ca dao. Trong luận văn “Một số tín hiệu thẩm
mĩ trong thơ tình Xuân Quỳnh” (1990), tác giả Lê Thị Tuyết Hạnh đã ứng dụng
phƣơng pháp nghiên cứu ngữ nghĩa học vào việc phát hiện và khẳng định giá trị của
một số THTM có tần số xuất hiện cao trong thơ tình Xuân Quỳnh, từ đó góp cơ sở
cho việc tìm hiểu những đặc sắc và sáng tạo về nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của
phong cách thơ Xuân Quỳnh. Gần đây nhất là các luận văn sau đại học “Khảo sát
một số tín hiệu thẩm mĩ tiêu biểu thuộc trường nghĩa tự nhiên trong thơ Xuân Diệu
và Hàn Mặc Tử trước Cách mạng tháng Tám” (2008) của Phùng Thị Cảnh Trang,
luận văn “Tìm hiểu tín hiệu thẩm mĩ hoa trong Truyện Kiều của Nguyễn Du trên ba
bình diện: kết học, nghĩa học, dụng học” (2008) của Nguyễn Ngọc Bích… Các tác
giả luận văn đã sử dụng phƣơng pháp phân tích ngữ cảnh tu từ để làm sáng rõ giá trị
của các THTM đƣợc khảo sát.
Nhiều công trình đã vận dụng khái niệm “biểu trƣng”, “biểu tƣợng” để

nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm văn học, song thực chất đó cũng là nghiên cứu về
THTM. Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Điệp trong luận án “Biểu tượng nghệ thuật trong
ca dao truyền thống người Việt” (2002) đã tiến hành phân loại, miêu tả và tìm hiểu
hệ thống biểu tƣợng nghệ thuật trong ca dao từ nhiều phƣơng diện nhƣ: nguồn gốc
và con đƣờng hình thành biểu tƣợng, sự vận động của biểu tƣợng trong từng chỉnh
thể đơn vị hoặc nhóm đơn vị ca dao. Tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa trong luận án
“Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt
Nam” (2005) đã phân loại và phân tích sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tƣợng
trang phục trong các giai đoạn thơ ca khác nhau dƣới ánh sáng của lý thuyết về biểu
tƣợng. Đó là những công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc và đạt đƣợc nhiều
thành tựu.
Nhiều công trình nghiên cứu thơ ca dân gian cũng đã sử dụng các khái niệm
THTM, biểu trƣng, biểu tƣợng. Vấn đề nghiên cứu biểu tƣợng trong ca dao và một
số biểu tƣợng con cò, con bống… đã đƣợc nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan chú ý
ngay từ khi ông công bố lần đầu tuyển tập “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” của

6


mình. Sau đó, Cao Huy Đỉnh, Phan Đăng Nhật, Hà Công Tài, Trƣơng Thị Nhàn,
Nguyễn Xuân Kính, Mai Ngọc Chừ, Phạm Thị Thu Yến… cũng đã có các bài
nghiên cứu về biểu tƣợng, biểu trƣng, THTM trong thơ ca dân gian ở những góc độ
khác nhau. Hà Công Tài đi sâu khảo sát biểu tƣợng “trăng” trong ca dao. Nguyễn
Xuân Kính chỉ ra đặc sắc riêng của một số biểu tƣợng ca dao trong tƣơng quan với
văn học viết.Với “Lối đối đáp trong ca dao trữ tình”, tác giả Cao Huy Đỉnh đã đề
cập đến các cặp tín hiệu nhƣ: “trúc – mai”, “mận – đào”, “thuyền – bến”… Từ đó,
tác giả chỉ ra nét độc đáo, thú vị trong ca dao chính là ở lối đối đáp, trò chuyện giữa
hai ngƣời…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã tiếp cận tác phẩm văn học nói
chung và thơ ca dân gian nói riêng dƣới ánh sáng lý thuyết của ngôn ngữ học nhƣ:

lý thuyết về tín hiệu, lý thuyết về hệ thống, lý thuyết về biểu tƣợng, trƣờng nghĩa…
và đã có những đóng góp nhất định. Trong bối cảnh của sự gặp gỡ, giao thoa giữa
hai ngành nghiên cứu ngôn ngữ và văn học, chúng tôi lựa chọn một đề tài nghiên
cứu ngôn ngữ học liên quan đến văn học “Một số tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao
Việt Nam”. Tiếp thu thành tựu của những công trình đã công bố, đồng thời để tránh
trùng lặp với ngƣời đi trƣớc, luận văn tập trung vào một số THTM chƣa đƣợc khai
thác hoặc mới chỉ đƣợc nói đến một cách sơ lƣợc. Đó là các tín hiệu: mưa, nắng,
gió, áo, yếm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tiến hành nghiên cứu một số THTM tiêu biểu trong ca dao Việt
Nam nhằm phát hiện những ý nghĩa biểu trƣng trong cách sử dụng THTM của thơ
ca dân gian. Từ đó thấy đƣợc vai trò của những TH đó trong đời sống vật chất và
tinh thần của dân tộc Việt Nam. Đồng thời khẳng định những đóng góp của thơ ca
dân gian trong việc lƣu giữ và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân
tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, ngƣời viết đã đặt ra và thực hiện những nhiệmvụ
chính dƣới đây:
- Khảo sát một cách hệ thống về tần số xuất hiện của các TH thuộc tự
nhiên(mưa, nắng, gió)và các TH là vật thể nhân tạo(áo, yếm). Các TH này liên kết

7


tạo thành bức tranh tự nhiên và con ngƣời hài hòa, phong phú, sinh động trong ca
dao Việt Nam.
- Khảo sát, phân tích về khả năng phân bố của các THTM dựa trên hai trục
song hành: trục tuyến tính và trục liên tƣởng.
- Phân tích, miêu tả giá trị biểu trƣng của một số THTM tiêu biểu đó trong ca

dao Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là một sốTHTM tiêu biểu trong ca dao
Việt Nam: mưa, nắng, gió, áo yếm.
- Phạm vi nghiên cứu: Nguồn tƣ liệu mà chúng tôi chọn để khảo sát là tất cả
các lời ca dao trong cuốn “Ca dao Việt Nam” – Vũ Dung, Vũ Thúy Anh sƣu tầm và
biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003. Sở dĩ chúng tôi chọn
nguồn tƣ liệu này bởi vì đây là một công trình tiêu biểu và đƣợc đánh giá cao. Đồng
thời chúng tôi cũng thu thập thêm tƣ liệu từ một số tuyển tập ca dao khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp phân tích, miêu tả ngôn
ngữ học là chủ yếu. Trên cơ sở những tƣ liệu đƣợc thu thập và xử lý, trên nền tảng
những con số đƣợc thống kê và phân tích, chúng tôi đƣa ra những nhận xét mang
tính khái quát về vấn đề cần nghiên cứu.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng thao tác thống kê, phân loại để đƣợc tần số
xuất hiện của các TH, sắp xếp chúng vào các nhóm TH có chung đặc điểm.
Từ đó chúng tôi xác định cấp độ của đối tƣợng đang xem xét rồi đặt vào
trong quan hệ dọc, quan hệ ngang để so sánh nhằm tìm ra những yếu tố đồng nhất
và đối lập trong hệ thống.
Đồng thời, chúng tôi cũng sử dụng phƣơng pháp phân tích ngữ cảnh kết hợp
với các yếu tố giao tiếp để khai thác các tầng nghĩa biểu trƣng của TH.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lí
luận liên quan đến THTM. Đề tài cũng góp phần làm rõ những đặc trƣng nghệ thuật
của ca dao Việt Nam.
Về ý nghĩa thực tiễn, bằng việc làm sáng tỏ các THTM trong ca dao, luận
văn sẽ góp phần vào việc giúp bạn đọc hiểu thêm cái hay, cái đẹp của ca dao Việt

8



Nam, giúp các thầy cô giáo trong việc phân tích sâu hơn những tác phẩm ca dao
đƣợc giảng dạy trong nhà trƣờng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết
Chƣơng 2: Khảo sát một số tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao Việt Nam
Chƣơng 3: Giá trị biểu trƣng của một số tín hiệu thẩm mĩ tiêu biểu trong ca
dao Việt Nam

9


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Cho đến nay các định nghĩa về THTMđã đƣợc tìm thấy rải rác trong những
công trình của các tác giả nhƣ In. A. Philipiep, M. B. Khrapchenko, Hoàng Trinh,
Trần Đình Sử, Đỗ Hữu Châu… Trong chƣơng này, chúng tôi sẽ lần lƣợt trình bày
một cách vắn tắt những điểm chủ yếu trong quan niệm của các tác giả kể trên, để từ
đó tự định cho mình một cách hiểu cụ thể, làm cơ sở cho việc tiến hành nghiên cứu
THTM trong đề tài. Vì THTM, về bản chất cũng là một loại TH cho nên nghiên cứu
một THTM phải đặt nó trong phạm trù chung của TH. Mặt khác, yêu cầu của việc
nghiên cứu THTM trong tƣơng quan với hệ thống ngôn ngữ biểu hiện trong tác
phẩm văn học đòi hỏi phải nhìn nhận THTM trong mối quan hệ với TH ngôn ngữ.
Những vấn đề về THTM mà chúng tôi quan tâm liên quan đến cả những quan niệm
về TH nói chung và TH ngôn ngữ nói riêng.
1.1. Tín hiệu, tín hiệu ngôn ngữ và tín hiệu thẩm mĩ
1.1.1. Tín hiệu
Có nhiều định nghĩa khác nhau về TH, liên quan đến những cách hiểu rộng
hẹp khác nhau của các tác giả. Trong cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng”, Đỗ
Hữu Châu đã nêu ra định nghĩa TH của P. Guiraud: “Một tín hiệu… là một kích

thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh ký ức của một kích thích khác”
[6, 51]. Còn A. Schaff lại định nghĩa THTM theo nghĩa hẹp:“Một sự vật vật chất
hay thuộc tính của nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành TH nếu như trong quá
trình giao tiếp nó được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của một
ngôn ngữ để truyền đạt một tư tưởng nào đó về thực tế, tức về thế giới bên ngoài
hay về những cảm thụ nội tâm” [6, 51].
Định nghĩa của A. Schaff hẹp ở chỗ chỉ thừa nhận những sự vật hiện tƣợng là
TH khi nó đƣợc sử dụng có ý thức trong phạm vi một hệ thống có tƣ cách nhƣ một
ngôn ngữ để trao đổi tƣ tƣởng, tình cảm giữa ngƣời với ngƣời, còn những TH giao
tiếp không ý thức của động vật không đƣợc thừa nhận là TH.
Quan niệm của P. Guiraud về TH rộng hơn vì nó bao hàm cả những TH hẹp,
những TH nhận biết đối với thế giới sinh vật, cả những TH giao tiếp có tính chất
bản năng của loài vật. Theo cách hiểu này, tất cả những hình thức vật chất có khả
năng gợi ra những hình ảnh đều đƣợc coi là TH, không phân biệt nguồn gốc tự
nhiên hay nhân tạo, có chức năng giao tiếp hay phi giao tiếp… Một đám mây với

10


khả năng gợi ra hình ảnh về cơn mƣa trong nhận thức của con ngƣời. Một giọng
nói “tự nói lên” những đặc điểm về quê quán, về tuổi tác, nghề nghiệp, trạng thái
tâm sinh lý… của ngƣời nói trong sự nhận thức của ngƣời nghe. Một câu hỏi nhƣng
chính là một lời tỏ tình của ca dao: “Tre non đủ lá đan sàng được chăng?”. Một
con thuyền trong ý nghĩa của “ngƣời đi” mà ca dao vẫn thƣờng nhắc đến… Các nhà
nghiên cứu lý thuyết về thông tin gọi đó là những yếu tố mang tin. Các nhà nghiên
cứu ngữ nghĩa học gọi đó là những yếu tố mang nghĩa.
Tác giả Đỗ Hữu Châu cũng đãchỉ ra những điều kiện cần cho một sự vật,
hiện tƣợng, hay thuộc tính vật chất trở thành TH: 1. Phải có một hình thức cảm tính
(cái biểu hiện); 2. Phải có một nội dung ý nghĩa (cái đƣợc biểu hiện); 3. Phải đƣợc
nhận thức bởi một chủ thể nào đó (đối tƣợng của thông tin); 4. Phải nằm trong một

hệ thống nhất định. Chúng tôi coi những điều kiện này là cơ sở cho sự nhận diện
TH trong đề tài. Một TH là một yếu tố bao hàm hai mặt: “Cái biểu hiện” (CBH) và
“cái đƣợc biểu hiện” (CĐBH), đồng thời cũng là một yếu tố chỉ có thể xác định
đƣợc trong mối tƣơng quan với chủ thể nhận thức và với hệ thống mà nó tham gia.
Về phân loại TH, các tác giả cũng đƣa ra nhiều cách phân loại khác nhau dựa
vào những tiêu chí khác nhau. Phân loại của C. Peirce phân biệt ba phạm trù chính
của TH: hình hiệu, dấu hiệu, biểu trƣng. C. Morris đƣa thêm vào hệ thống phân loại
những phạm trù: chỉ hiệu, định hiệu. Bảng phân loại của P. Guiraud có sự phân biệt
TH tự nhiên với TH nhân tạo, TH biểu hiện và TH giao tiếp. Lấy bảng phân loại TH
của P. Guiraud làm trục chính, trên cơ sở bổ sung thêm kết quả phân loại của các
tác giả khác, Đỗ Hữu Châu đã đƣa ra nguyên tắc phân loại theo những tiêu chí khác
nhau. Căn cứ vào chức năng xã hội có thể phân loại các TH thành TH giao tiếp và
TH phi giao tiếp. Căn cứ vào đặc tính thể chất của cái biểu đạt có thể phân loại
thành: TH thị giác, TH tính giác, TH xúc giác… Căn cứ vào nguồn gốc để chia
thành TH tự nhiên và TH nhân tạo. Căn cứ vào quan hệ giữa cái biểu đạt và cái
đƣợc biểu đạt có thể quy TH thành ba loại: dấu hiệu, hình hiệu và ƣớc hiệu.
Các phạm trù TH đƣợc kể ở đây tuy không đồng nhất trong quan niệm của
mỗi tác giả và cũng không tƣơng đồng với nhau trên cùng một tiêu chí phân loại
nhất định nhƣng có tác dụng cung cấp những khái niệm TH quan trọng trong việc
nghiên cứu những đặc tính tín hiệu học khác nhau của các TH, làm cơ sở cho sự
phân biệt TH đƣợc nghiên cứu trong đề tài.

11


Trong tất cả những phân loại kể trên, chúng tôi sử dụng bảng phân loại của
Đỗ Hữu Châu mà ƣu điểm là bao quát đƣợc tất cả những phạm trù – loại khác nhau
của TH, đồng thời chỉ ra đƣợc mối quan hệ loại hình giữa các TH trên các tiêu chí
khác nhau nhƣ: chức năng xã hội của TH, đặc tính thể chất của CBH, nguồn gốc
TH, tính chất mối quan hệ giữa hai mặt CBH và CĐBH, sự chuyển mã, đặc tính tổ

chức của TH…
1.1.2. Tín hiệu ngôn ngữ
Ngôn ngữ thƣờng đƣợc nói đến nhƣ một hệ thống TH đặc biệt. Cuốn giáo
trình “Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng” đã nhấn mạnh đến vấn đề chức năng và đặc
tính đa chức năng của các TH ngôn ngữ so với các hệ thống TH nói chung và TH
mang chức năng giao tiếp nói riêng. Ngôn ngữ không chỉ thuần túy mang chức năng
giao tiếp mà đồng thời còn là công cụ để tƣ duy, để tổ chức xã hội, để duy trì sự
sống con ngƣời, ngôn ngữ còn mang chức năng thi pháp… Riêng đối với chức năng
giao tiếp, cũng có sự phân biệt giữa những chức năng khác nhau liên quan đến
những nhân tố khác nhau của hoạt động giao tiếp: chức năng miêu tả, chức năng
dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng cú học.
Từ những khía cạnh chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý
nghĩa “tín hiệu” của chúng trên tất cả những đơn vị mang nghĩa (đơn vị hai mặt), từ
từ đến cụm từ, đến câu, đoạn, văn bản. Một từ, ngữ, câu nói nào đó có thể vừa
mang thông tin về sự vật, hiện tƣợng đƣợc nói tới, vừa bộc lộ những đặc điểm về
địa phƣơng, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lý của ngƣời nói… Từ “nỏ” trong
câu ca dao “Đã thương thì thương cho chắc, Nỏ bằng trục trặc thì trục trặc cho
luôn…” cho biết ngƣời nói là ngƣời xứ Nghệ. Câu hỏi “Mấy giờ rồi?” trong những
hoàn cảnh nhất định, có thể cho biết thái độ khó chịu (mong khách ngồi lâu đứng
dậy ra về) của ngƣời nói… Ở bất kỳ cấp độ nào, một TH ngôn ngữ cũng phải bao
hàm một hình thức ngữ âm (CBH) tƣơng ứng với một nội dung ngữ nghĩa (CĐBH)
và ở bất kỳ cấp độ nào, giá trị của TH ngôn ngữ cũng phải do những mối quan hệ
thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định.
Về các quan hệ hệ thống của TH ngôn ngữ,“Giáo trình ngôn ngữ học đại
cương” của F. de Saussure đề cập đến hai loại quan hệ chung nhất: 1. Quan hệ đồng
nhất – đối lập và quan hệ khác biệt; 2. Quan hệ hình tuyến và quan hệ trực tuyến.
Ngôn ngữ học hiện đại lƣu ý thêm các loại quan hệ: 3. Quan hệ tôn ti (giữa các cấp

12



độ của ngôn ngữ) và 4. Quan hệ hiện thực hóa (giữa bình diện trừu tƣợng và bình
diện cụ thể, giữa điển dạng và hiện dạng của TH)…
Những nguyên tắc của đồng nhất và đối lập, của kết hợp và liên tƣởng, của
trừu tƣợng và cụ thể… trong hệ thống TH ngôn ngữ cũng chính là những vấn đề cốt
yếu giúp cho việc lý giải về TH ngôn ngữ trong quá trình hoạt động thực hiện các
chức năng của ngôn ngữ trong giao tiếp, kể cả giao tiếp nghệ thuật (giao tiếp của
văn học).
1.1.3. Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ
Bƣớc vào thế giới nghệ thuật, những TH thông thƣờng sẽ chuyển hóa thành
THTM, mang những đặc thù nghệ thuật. Hiểu một cách chung nhất, THTM là yếu
tố thuộc hệ thống các phƣơng tiện biểu hiện của nghệ thuật. Nói đến phƣơng tiện
biểu hiện nghệ thuật là nói đến hai mặt: thể chất và tinh thần. Mặt thể chất là những
chất liệu (hình thức vật chất) đƣợc sử dụng trong mỗi ngành nghệ thuật, mỗi loại
chất liệu sẽ có chỗ mạnh, chỗ yếu riêng làm nên đặc thù của ngành nghệ thuật đó:
đƣờng nét, màu sắc trong hội họa, âm thanh có nhịp điệu trong âm nhạc, ngôn ngữ
trong văn học. Còn mặt tinh thần thì trừu tƣợng và phức tạp, bao hàm nhiều loại nội
dung, nhiều lớp ý nghĩa, nhiều tầng khái quát hóa, trừu tƣợng hóa mang tính thẩm
mĩ.
Đối với tác phẩm văn học, hình thức vật chất của THTM chính là ngôn ngữ.
Cấu trúc đặc biệt của TH ngôn ngữ cho phép chứa đựng trong mỗi ngôn từ của tác
phẩm văn học một phạm vi nào đó của đời sống hiện thực cùng những nét thuộc
tính khách quan của đời sống hiện thực đƣợc phản ánh, làm thành ý nghĩa biểu vật,
biểu niệm của từ. Vì vậy, ngôn ngữ không chỉ là phƣơng tiện mà còn là chất liệu
của văn học. Tuy nhiên, không thể đồng nhất ngôn ngữ với văn học, và không thể
đồng nhất TH ngôn ngữ với THTM.
THTM trong tác phẩm văn học bao giờ cũng có hình thức vật chất của nó, đó
là hình thức ngôn ngữ. Các yếu tố của hiện thực đƣợc đƣa vào tác phẩm với vai trò
THTM, bao giờ cũng phải đƣợc diễn đạt bằng ngôn ngữ tự nhiên. Nhƣng ngƣợc lại
những tín hiệu của ngôn ngữ tự nhiên, ngay cả khi đã đƣợc sử dụng vào tác phẩm

văn học cũng chƣa hẳn đã là THTM. THTM phân biệt với các TH ngôn ngữ tự
nhiên ở chỗ ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở phạm vi tái tạo hiện thực mà phải

13


là một khái quát nghệ thuật về tƣ tƣởng, một ý nghĩa nào đó của tác giả văn học.
Có thể hình dung THTM trong quan hệ với TH ngôn ngữ theo sơ đồ sau:
Cbh
THTM

TH ngôn ngữ

Cđbh

Cbh

Âm thanh

Cđbh

Ý nghĩa ngôn ngữ

Ý nghĩa thẩm mĩ

Từ sơ đồ trên, ta có thể hiểu cả hợp thể CBH và CĐBH của TH ngôn ngữ lại
lại trở thành CBH cho một CĐBH mới là THTM trong tác phẩm văn học. Do vậy,
trong văn học, không thể đánh đồng phƣơng tiện văn học – THTM với TH ngôn
ngữ thông thƣờng đƣợc dùng làm chất liệu của tác phẩm văn học. Sự khác biệt có
tính chất vƣợt cấp này là do vai trò quyết định của chủ thể sáng tạo khiến cho “giữa

cách dùng ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ của nhà văn có một vực thẳm không
qua được” [45; 9].
Trong TH ngôn ngữ tự nhiên, quan hệ giữa CBH và CĐBH có thể là võ
đoán. Nhƣng trong THTM, nó luôn có lý do và là lý do liên hội. Tính chất liên hội
của THTM trong văn học giúp cho hình tƣợng nghệ thuật luôn thoát khỏi những
giới hạn ngữ nghĩa thuần ngôn ngữ, trở thành những yếu tố có sức khái quát lớn về
mặt nội dung và tƣ tƣởng nghệ thuật. Thông thƣờng, cái đƣợc biểu hiện của một
THTM càng có tính khái quát hơn so với nội dung khái niệm của ngôn ngữ, càng có
giá trị hơn trong việc giúp ngƣời đọc tƣ duy rộng hơn, cao hơn những gì thuộc về
thực tại.
Có thể nói, hiện thực, để trở thành chất liệu hiện hình trong tác phẩm văn
học, đã đi theo con đƣờng “ngôn ngữ hóa”, sử dụng những hình thức ngữ âm mang
ý nghĩa biểu vật, biểu niệm, sử dụng những kết cấu ngữ pháp chứa đựng những yếu
tố, sự kiện của cuộc sống… Nhƣng các yếu tố ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật,
muốn trở thành chất liệu thực thụ của văn học phải chịu một quá trình khái quát hóa
nghệ thuật, biểu trƣng hóa nghệ thuật để đạt tới những ý nghĩa thẩm mĩ (hay còn gọi
là ý nghĩa biểu trƣng hóa nghệ thuật).
Từ sự phân tích ý nghĩa thực sự của phƣơng tiện nghệ thuật, tác giả Đỗ Hữu
Châu đã có những kiến giải cụ thể hơn về THTM: THTM là phƣơng tiện sơ cấp của
văn học. Ngôn ngữ (chất liệu) trong văn học chỉ là hình thức – cái biểu hiện của

14


THTM, là phƣơng tiện thứ cấp so với THTM. Đi tìm THTM vì vậy không thể chỉ
căn cứ trên các hình thức ngôn ngữ thuần túy. Để trả lời câu hỏi đặt ra: thế nào là
một THTM, tác giả chủ trƣơng căn cứ vào sự tƣơng ứng của THTM với các vật quy
chiếu thuộc thế giới hiện thực: “THTM phải tương ứng với một vật quy chiếu nào
đấy trong thế giới hiện thực: một con thuyền, một dòng sông, một nỗi buồn… nào
đó chẳng hạn. THTM là cái được tác giả lựa chọn từ thế giới hiện thực mà xây

dựng nên, sáng tạo ra”.
Trên cơ sở những điều trình bày trên, chúng ta có thể hiểu THTM là TH
thuộc hệ thống các phƣơng tiện biểu hiện của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn
bộ những yếu tố của hiện thực, những chi tiết, những sự vật, hiện tƣợng của đời
sống đƣợc đƣa vào tác phẩm vì mục đích thẩm mĩ.
Nhƣ vậy, điều kiện để các yếu tố hiện thực trở thành THTM bao gồm: Thứ
nhất, phải có cái biểu hiện là các hình thức vật chất (chất liệu) nghệ thuật. Thứ hai,
THTM phải đảm bảo cái đƣợc biểu hiện mang một nội dung tinh thần (ý nghĩa thẩm
mĩ) rộng hơn, cao hơn bản thân hiện thực đƣợc nói đến. Thứ ba, một yếu tố hiện
thực trở nên mang tính thẩm mĩ là do vai trò của sự liên tƣởng trong tƣ duy của chủ
thể tiếp nhận; những nội dung ý nghĩa thẩm mĩ có đƣợc tiếp nhận, đƣợc mở rộng
hay không qua các thời đại, các cộng đồng, các cá nhân… phụ thuộc ở những điều
kiện về lịch sử, xã hội, về tâm lý liên quan đến sự liên tƣởng của chủ thể tiếp nhận.
Cuối cùng, một yếu tố hiện thực đƣợc coi là THTM chỉ khi nó thuộc về một hệ
thống THTM nhất định, mỗi hệ thống có những đặc điểm cụ thể với những kiểu
quan hệ đem lại giá trị riêng cho THTM trong mỗi lần xuất hiện.
1.2. Một số đặc tính cơ bản của THTM
Để có một cái nhìn toàn diện hơn về THTM, cần tìm hiểu một số đặc tính
thƣờng đƣợc nói tới của THTM.
1.2.1. Tính nguồn gốc
Việc chỉ ra nguồn gốc của một THTM là việc bƣớc đầu xác định hai phƣơng
diện rất quan trọng: phƣơng diện thể chất và phƣơng diện tinh thần của THTM.
THTM có nguồn gốc trƣớc hết là từ thế giới hiện thực, bao gồm toàn bộ
những chi tiết, những sự vật, hiện tƣợng của đời sống đƣợc đƣa vào tác phẩm vì
mục đích thẩm mĩ.

15


THTM còn có nguồn gốc từ những liên tƣởng logic hoặc phi logic của chủ

thể sáng tác. Đó có thể là sản phẩm của trực giác mà chỉ với những hiểu biết về thế
giới thực tại thông thƣờng sẽ khó lý giải đƣợc những THTM loại này. Bởi vậy,
trƣớc tiên ta phải xác định đƣợc là THTM đƣợc quy chiếu từ nguồn gốc – hiện thực
nào.
THTM còn có nguồn gốc từ các sự kiện ngôn ngữ nhƣ từ địa phƣơng, một
đoạn đối thoại; các yếu tố ngôn ngữ nhƣ tiếng, âm, vần, thanh…; cấu trúc ngữ pháp
câu nhƣ đảo trật tự từ, tỉnh lƣợc, lặp từ…; cách trình bày văn bản… Những yếu tố
này đều có thể trở thành THTM trong tác phẩm với điều kiện chúng đều nhằm phục
vụ cho một tƣ tƣởng thẩm mĩ nhất định, đƣợc nhận thức bởi một chủ thể thẩm mĩ
nhất định.
1.2.2. Tính cấp độ
THTM trong tác phẩm gắn với các cấp độ trong TH ngôn ngữ. Nếu quan
niệm THTM nhữ một loại đơn vị hai mặt, có ý nghĩa thẩm mĩ, sẽ có các đơn vị
THTM tƣơng ứng với các TH đơn “có ý nghĩa trực tiếp” và những TH mới đƣợc kết
hợp từ nhiều TH đơn. Theo sự phân loại của Đỗ Hữu Châu, THTM đƣợc chia thành
hai cấp độ:
Cấp độ thứ nhất là cấp độ cơ sở (các tín hiệu đơn): Là những THTM tƣơng
đƣơng với một chi tiết, một sự vật, hiện tƣợng thuộc thế giới khách quan nhƣ: mây,
mưa, gió, bão, mặt trời, con thuyền, bến nước…Nó mang ý nghĩa biểu trƣng nghệ
thuật tƣơng đối hoàn chỉnh trong tƣơng quan với những yếu tố khác cùng tham gia
vào quá trình biểu trƣng nghệ thuật.Các tín hiệu cơ sở này có chức năng cấu tạo nên
THTM ở cấp độ cao hơn. Thuộc phạm vi này, THTM có thể tƣơng đƣơng với đơn
vị từ trong TH ngôn ngữ.
Cấp độ thứ hai là cấp độ xây dựng (các tín hiệu phức): Là những THTM
tƣơng đƣơng với nhiều sự vật, hiện tƣợng… đƣợc xây dựng từ những TH đơn
nhƣng ý nghĩa không phải là kết quả của phép cộng đơn giản các tín hiệu đơn. Nó
mang ý nghĩa thẩm mĩ mới có tính chất tổng hòa và tƣơng đối độc lập so với ý
nghĩa của từng tín hiệu riêng lẻ tham gia trong nó. Ở cấp độ này, THTM có thể
tƣơng đƣơng với các đơn vị câu, đoạn, văn bản trong hệ thống các TH ngôn ngữ.
Mỗi THTM lúc này không còn là một yếu tố nào đó của hiện thực, mà là những sự

kiện, những quá trình của đời sống hiện thực trong sự ghi nhận của tác giả.

16


Trong luận văn này, THTM đƣợc xét đến là những TH đơn. Mỗi TH ứng với
một yếu tố hiện thực (yếu tố tự nhiên, yếu tố con ngƣời) và đƣợc cụ thể, đa dạng
hóa bằng các hình thức ngôn ngữ nhất định. Nghiên cứu các hình thức biểu đạt này
sẽ là cách thức để phát hiện ra các ý nghĩa của các THTM.
1.2.3. Tính hệ thống
Tính hệ thống là đặc tính quan trọng của THTM nói chung và THTM trong
ngôn ngữ văn chƣơng nói riêng. Là THTM nghĩa là nó phải thuộc về một hệ thống,
chịu sự chi phối của những yếu tố khác trong hệ thống. Chỉ có thể hiểu đƣợc một
THTM khi đặt nó vào trong hệ thống – môi sinh của nó. Hệ thống quy định chiều
hƣớng tạo nghĩa cũng nhƣ chiều hƣớng luận nghĩa của THTM. Theo đó, mọi cấp độ
chuyển hóa tinh tế, phức tạp nhất giữa nội dung và hình thức trong THTM mới
đƣợc làm sáng tỏ. Nguyễn Lai đã nói tầm quan trọng của hệ thống: “Tính hệ thống
không phải là bản thân TH, nhƣng nó khống chế và điều chỉnh làm cho phẩm chất
vốn có của TH (đặc biệt là TH ngôn ngữ) trở nên năng động hơn; đồng thời qua đó
tạo ra đƣợc những trƣờng hợp mới vô cùng đa dạng phản ánh nhận thức mới theo
những phẩm chất khác nhau” [34; 32]
Hệ thống của THTM trƣớc hết là tác phẩm đƣợc nó góp phần cấu thành. Các
mối quan hệ hệ thống tạo ra giá trị của nó bao gồm: các mối quan hệ trong văn bản
tác phẩm văn học và các mối quan hệ bên ngoài văn bản tác phẩm văn học. Giá trị
của THTM là tổng hòa ý nghĩa của các mối quan hệ nội – ngoại tại đó.
(1) Những mối quan hệ trong văn bản tác phẩm văn học:
Mỗi tác phẩm văn học là một tổ hợp những THTM. Cấu trúc một văn bản tác
phẩm văn học hình thành trên mối quan hệ điều chỉnh lẫn nhau của THTM đƣợc sử
dụng trong tác phẩm. Những tín hiệu này, sau một quá trình lựa chọn, trở thành
những yếu tố hiện diện trong tác phẩm và bắt đầu cuộc sống của nó trong văn bản,

chịu sự quy định của kết cấu văn bản: những quy tắc cú pháp, quy tắc về sự cộng
hƣởng ngữ nghĩa của các yếu tố ngôn từ…
Tuy nhiên, nếu chỉ xét THTM trong mối quan hệ với các yếu tố ngôn ngữ
khác trong văn bản tác phẩm văn học thì chƣa đủ để giải thích quá trình đƣa một
yếu tố hiện thực vào THTM trong tác phẩm văn học và giá trị chân thực của nó
trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung, cũng chƣa đủ điều kiện để lĩnh hội
hết tƣ tƣởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm văn chƣơng.

17


(2) Những mối quan hệ bên ngoài văn bản tác phẩm văn học:
Mỗi hệ thống, trong sự hành chức của nó đều có những hệ thống khác làm
môi trƣờng hoạt động cho nó. Nói đến tác phẩm văn học, không thể tách nó ra khỏi
một hệ thống chỉnh thể lớn hơn nó, quy định giá trị của nó, là cả một quy trình sáng
tạo nghệ thuật bao hàm các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau: quy trình cuộc
sống – chủ thể sáng tạo – tác phẩm văn học – chủ thể tiếp nhận. Bởi vậy, tác phẩm
văn học không phải là sản phẩm tùy ý của ngƣời viết mà là kết quả tổng hòa của các
nhân tố giao tiếp, trong đó bao hàm cả ngƣời sáng tác, ngƣời tiếp nhận, cả cuộc
sống với tƣ cách là nội dung đƣợc nói tới. Những nhân tố đó chính là điều kiện chi
phối quá trình lựa chọn một yếu tố hiện thực nào đó để đƣa vào tác phẩm thành
THTM.
Nhƣ vậy, hệ thống của THTM trong tác phẩm văn học phải đƣợc hiểu là hệ
thống bao gồm những nhân tố của quy trình sáng tạo. Từ đó hình thành những liên
hệ giữa một THTM với các nhân tố của quá trình sáng tạo này. Đó là: THTM với
toàn bộ những yếu tố còn lại trong văn bản tác phẩm văn học; THTM với phạm vi
cuộc sống mà tác giả lựa chọn vào mục đích thẩm mĩ; THTM với hệ thống cảm xúc
của chủ thể sáng tác; THTM với những tín hiệu lĩnh hội của chủ thể tiếp nhận. Tính
hệ thống của THTM nằm ở mối quan hệ điều chỉnh lẫn nhau giữa các nhân tố để tạo
nên giá trị thẩm mĩ của tín hiệu.

Ví dụ:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai…
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi chưa yên một bề”.
(Ca dao)
Để hiểu đƣợc giá trị chuẩn xác và sâu sắc của tín hiệu khăn, chúng ta cần đặt
nó trong ngữ cảnh của toàn bài ca dao. Các tín hiệu đi cùng báo hiệu tâm trạng rối
bời thƣơng nhớ của kẻ tƣơng tƣ “khăn – thương nhớ, em – lo phiền”. Có thể nói
đây là cái khăn đã để lại dấu ấn rõ rệt nhất trong văn hóa và thơ ca Việt Nam với
những khả năng đặc biệt có thể biến hóa nhƣ niềm vui, nỗi buồn của con ngƣời.

18


Khăn trong ngữ cảnh này vốn cũng là cái khăn có sở chỉ, nhƣng không còn là một
yếu tố của hiện thực “là thứ hàng dệt, thƣờng có hình dài hoặc hình vuông, dùng để
lau chùi, chít đầu, quàng cổ, trải bàn…”[44; 636], khăn ở đây đã đƣợc nhân hóa, có
hồn, có tâm thức và biết “thƣơng nhớ”. Nỗi nhớ thƣơng bồi hồi, da diết, đằm sâu
đến mức đứng ngồi không yên, “vắt lên vai” lại “rơi xuống đất” và rồi phải “chùi
nƣớc mắt”. Đây là một nỗi nhớ “có không gian” [37; 182], khiến ngƣời con gái ôm
nỗi nhớ âm thầm trong câu ca dao phải trăn trở nhiều chiều. Không gian thì trải ra
nhiều chiều, nhiều hƣớng còn nỗi nhớ thì lại quanh quất ở một hƣớng khiến cho con
ngƣời cứ rối bời trong những nỗi niềm không yên. Hình ảnh khăn có giá trị nhƣ một
biểu tƣợng cảm tính trĩu nặng tâm tình của ngƣời con gái đang yêu.
Tóm lại, THTM cần đƣợc đặt trong một hệ thống nhất định chịu sự chi phối
của những yếu tố khác trong hệ thống đó. Xem xét THTM trong hệ thống một câu
ca dao hay một bài ca dao cũng chính là xem xét nó trong ngữ cảnh tu từ. Khi giải

mã một THTM nhất thiết cần phải tìm ra ngữ cảnh tu từ của THTM đó. Chỉ trong
ngữ cảnh tu từ, giá trị của THTM mới đƣợc khám phá một cách đầy đủ, sâu sắc.
1.2.4. Tính biểu hiện
Một trong những chức năng quan trọng của nghệ thuật là phản ánh hiện thực
gắnvới thuộc tính biểu hiện. Sự biểu hiện trong ngôn ngữ văn chƣơng cũng có nhiều
cấp độ. Cái cốt yếu mà ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện không chỉ là đặc điểm, thuộc
tính, trạng thái của hiện thực đời sống mà còn là toàn bộ thế giới cảm xúc và sự tri
nhận về đặc điểm, thuộc tính, trạng thái ấy của một chủ thể nhất định. Tuy nhiên,
ngôn ngữ thông thƣờng nhiều khi không thể chuyển tải hết đƣợc những điều đó, vì
vậy đòi hỏi phải có một phƣơng tiện nghệ thuật đặc biệt, chính là THTM.
Sự biểu hiện hiện thực của THTM nói chung đều dựa trên khả năng miêu tả,
thay thế, dẫn nhập các sự vật, hiện tƣợng, các phạm vi khác nhau của đời sống vào
tác phẩm. Trong văn học, đó là những từ ngữ, kết cấu mang nội dung biểu vật, biểu
niệm gắn với hiện thực, phản ánh trình độ nhận thức, năng lực cảm xúc của con
ngƣời. Mặt khác, nhận thức, cảm xúc của con ngƣời lại là thứ luôn vận động và biến
đổi không ngừng, bởi vậy lƣợng thông tin biểu hiện trong THTM cũng không phải
nhất thành bất biến.

19


Ví dụ: Trong thơ Hàn Mặc Tử, tín hiệu áo đƣợc đồng nhất với chủ thể,
nhƣng trong những ngữ cảnh gắn liền với vẻ đẹp của thiên tính nữ, áo trở thành
một chất liệu phong phú để nhà thơ thể hiện khát vọng hƣớng tới cái đẹp:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”.
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
Áo trắng là biểu hiện cho giấc mơ hóa vô vọng của thi nhân. Câu thơ nhẹ
nhƣ cánh hạc về trời nhƣng nỗi đau làm tê dại cả tâm trí. Cái thanh nhẹ xa vời ấy
tìm về một đƣờng nét nhòe mờ của chi tiết trang phục “áo em trắng quá”. Ánh sáng

buông tỏa nhƣ một dải lụa bạch quấn riết lấy nỗi cô đơn. Trong văn hóa phƣơng
Đông, màu trắng là màu của hƣ vô, nhƣng trong thơ Hàn nó cũng là màu áo em của
anh, màu của giấc mơ, màu bạc mệnh. Nhƣ vậy, trong giấc mơ mang màu sắc trang
phục của thi nhân, ánh sáng thăng hoa nhƣng hóa sƣơng khói. Khát khao đã hóa vô
vọng. Chính vì thế, nó đã tiềm ẩn một dự cảm thắc thỏm về đau thƣơng.
Cũng là áo trắng trong thơ Hàn nhƣng ở hai câu thơ sau áo trắng tinh lại là
một vẻ đẹp lý tƣởng:
“Thinh sắc cơ hồ lưu luyến mãi
Chết rồi – xiêm áo trắng như tinh”.
(Cô gái đồng trinh – Hàn Mặc Tử)
Màu xiêm áo trắng tinh chính là biểu tƣợng của khát khao đƣợc đến với
nƣớc Chúa của nhà thơ. Áo ở đây là vẻ đẹp của một bản thể tính nữ đậm ý vị tôn
giáo của cá nhân Hàn Mặc Tử. Nhà thơ hƣớng về Thánh nữ đồng trinh để ngƣỡng
vọng nhƣ là một biểu tƣợng sáng láng và mong cầu đƣợc gội rửa vết thƣơng tâm
trong nguồn ánh sáng kỳ diệu đó.
Qua đó có thể thấy, trong mỗi ngữ cảnh cụ thể, tính biểu hiện của THTM
cũng không đồng nhất. Ngữ cảnh chính là yếu tố khơi gợi liên tƣởng của ngƣời đọc
về ý nghĩa của THTM, giúp ngƣời đọc đi đến tận cùng của sự giải mã THTM trong
văn chƣơng.
1.2.5. Tính biểu trưng
Tính biểu trƣng là đặc tính đáng chú ý nhất của THTM xét trong mối quan
hệ hai mặt: cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện. Đó là mối quan hệ “có lý do”, liên
quan đến năng lực biểu trƣng hóa, đến khả năng của THTM vừa có tính chất biểu

20


×