Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.4 KB, 79 trang )

LUẬN VĂN:

Tăng cường quản lý thu ngân sách địa
phương ở Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn)


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào), Luật Ngân sách Nhà
nước Lào ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 14/4/1995 đã quy định thu ngân sách Nhà
nước (NSNN) là một hệ thống thống nhất bao gồm thu ngân sách Trung ương (NSTW) và thu
ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Ngân sách tỉnh là một cấp trong ngân sách các cấp chính quyền địa phương được Nhà
nước phân cấp nguồn thu theo chức năng quyền hạn cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế quản lý
thu ngân sách cấp tỉnh ở Lào còn nhiều bất cập.
Để thu ngân sách cấp tỉnh trở thành một cấp thu ngân sách theo đúng nghĩa, cần
phải tìm những giải pháp hữu hiệu trong công tác tăng cường quản lý nhằm hoàn thiện việc
thu ngân sách cấp tỉnh, đó là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Vì vậy, tôi đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài: "Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn)" cho bản luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu hoạt động của thu ngân sách cấp tỉnh trong mối quan hệ
với hệ thống thu NSNN nhằm tìm ra những giải pháp thích hợp hướng cho ngân sách tỉnh phát
huy được vai trò tích cực của mình, góp phần tăng cường công tác quản lý thu ngân sách ở
Lào ngày một tốt hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chung về quản lý thu ngân sách cấp tỉnh trong toàn quốc và quản lý
thu Ngân sách cấp tỉnh của tỉnh Viêng Chăn trong thời gian 5 năm từ năm 2000 đến kế


hoạch dự đoán năm 2005.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu việc quản lý thu ngân sách cấp tỉnh.


- Nghiên cứu mối quan hệ thu ngân sách cấp tỉnh với thu ngân sách các cấp trong
hệ thống.
- Nghiên cứu quy trình lập, chấp hành và quyết toán trong việc tăng cường quản lý
thu ngân sách cấp tỉnh.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể khái quát trên các khía cạnh:
- Về mặt lý thuyết: Luận văn đã hệ thống hóa và khái quát về mặt lý luận một số
vấn đề cơ bản quản lý thu NSNN.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn đã đưa ra những nhận xét khách quan về thực trạng
quản lý thu NSNN ở CHDCND Lào trong những năm qua.
- Về các đề xuất kiến nghị: Luận văn đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường quản lý thu NSNN ở CHDCND Lào trong những năm tới.
Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách tài chính công ở
CHDCND Lào hiện nay, những kết quả nghiên cứu trên đây của luận văn là có ý nghĩa
thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Vai trò của thu NSNN và tổ chức hệ thống quản lý thu ngân sách cấp
tỉnh.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu ngân sách Nhà nước ở cộng hòa dân
chủ nhân dân lào (Ví dụ ở Tỉnh Viêng Chăn).
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý thu ngân sách Nhà nước ở CHDCND
Lào (ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn).



Chương 1
Vai trò của thu ngân sách nhà nước và tổ chức
hệ thống quản lý thu ngân sách cấp tỉnh

1.1. Những vấn đề chung về thu ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thu ngân sách nhà nước
Khi Nhà nước ra đời, để đảm bảo sự tồn tại và hoạt động của mình, Nhà nước đã
đặt ra chế độ thuế khóa nhằm huy động sự đóng góp của dân cư để hình thành nên quỹ tiền
tệ tập trung của Nhà nước. Lúc đầu, Nhà nước sử dụng nó để nuôi bộ máy nhà nước; sau
đó phạm vi sử dụng được mở rộng dần theo sự phát triển của các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước. Ngày nay, Nhà nước còn sử dụng NSNN để chi tiêu cho các khoản phúc lợi xã
hội và phát triển kinh tế. Do vậy, hệ thống thu NSNN ngày càng được hoàn thiện.
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà
nước.
Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN là những khoản thu nhập của Nhà nước
được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình
thức giá trị. Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân phối
các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội. Sự phân phối đó
là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước
cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Về mặt nội
dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh trong
quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình
thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá
trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực trừng trị để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.



Một đặc điểm nữa của thu NSNN là gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động
của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập… Sự vận động của các phạm trù đó
vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của
các công cụ thu NSNN.
1.1.2 Nội dung thu ngân sách nhà nước và phân loại thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước bao gồm:
- Thuế, lệ phí, phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước như:
+ Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế.
+ Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế.
+ Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp.
- Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
- Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn trả lại của Chính phủ các nước, các tổ
chức, cá nhân nước ngoài, từ đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước.
- Thu khác: như thu từ phạt, tịch thu, tịch biên lai tài sản…
Trong hệ thống thu NSNN, thu từ thuế, lệ phí, phí chiếm tỷ trọng chủ yếu. Vì vậy
để tăng thu NSNN cần có biện pháp ngăn ngừa hạn chế thất thu thuế giữ vai trò quan
trọng.
Để quản lý tốt nguồn thu việc phân loại các khoản thu có ý nghĩa quan trọng qua
đó có thể phân tích, đánh giá và quản lý các nguồn thu NSNN. Có hai cách phân loại phổ
biến là:
- Phân loại theo nội dung kinh tế:


Phân loại các khoản thu NSNN theo nội dung kinh tế là cần thiết để thấy rõ sự
phát triển của nền kinh tế, tính hiệu quả của nền kinh tế. Theo cách phân loại này, có thể
chia các khoản thu NSNN thành hai nhóm:
+ Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc gồm thuế, phí, lệ phí với nhiều

hình thức cụ thể do luật định.
+ Nhóm thu không thường xuyên bao gồm các khoản thu từ hoạt động kinh tế của
Nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước và các khoản thu khác đã kể ở trên.
- Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN:
Có thể chia các khoản thu NSNN thành:
+ Thu trong cân đối NSNN: bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu không
thường xuyên.
+ Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi
tiêu và Nhà nước phải đi vay, bao gồm vay trong nước từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức
kinh tế - xã hội, vay từ nước ngoài.
Cách phân loại này cho phép đánh giá sự lành mạnh của NSNN và có ý nghĩa
trong tổ chức điều hành NSNN.
1.1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức động viên và
lĩnh vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến số thu
NSNN, mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Mức động viên
và lĩnh vực động viên lại chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của
quốc gia. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN cần phải kể đến là:
Thu nhập GDP bình quân đầu người.
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia,
phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập GDP bình quân
đầu người là nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN. Nếu không tính đến chỉ


tiêu này khi xác định mức động viên của ngân sách sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề
tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của các tổ chức kinh tế, của các tầng lớp dân cư.
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế:
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh
tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn, nguồn tài chính càng lớn. Đây là nhân tố quyết định đến

việc nâng cao tỷ suất thu NSNN.
Dựa vào tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu NSNN sẽ tránh
được việc động viên quá cao vào NSNN gây khó khăn về tài chính cho hoạt động kinh tế.
Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên:
Đối với các nước đang phát triển và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú thì
nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến thu NSNN. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nếu tỷ
trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm trên 20% kim ngạch xuất khẩu thì tỷ suất thu
NSNN sẽ cao và có khả năng tăng nhanh. ở Việt Nam trong tương lai, việc xuất khẩu dầu
mỏ và khoáng sản chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Đó là nhân tố rất quan
trọng ảnh hưởng to lớn đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước:
Nhân tố này phụ thuộc vào:
+ Quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó.
+ Những nhiệm vụ kinh tế – xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ.
+ Chính sách sử dụng kinh phí của Nhà nước.
Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí Nhà nước không có khả năng
tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước sẽ dẫn đến tỷ suất thu NSNN tăng lên.
ở hầu hết các nước đang phát triển, Nhà nước đều có tham vọng đẩy nhanh sự tăng
trưởng kinh tế bằng việc đầu tư vào các công trình lớn. Để có nguồn vốn đầu tư phải tăng thu.
Nhưng trong thực tế tăng thu quá mức lại làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại. Để giải quyết
vấn đề nan giải đó, Nhà nước phải có một chương trình phát triển kinh tế, xã hội thận trọng
trên cơ sở khoa học và thực tiễn để đạt hiệu quả cao, từ đó xác lập một chính sách chi có hiệu


quả và tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa thu và chi của
NSNN.
Tổ chức bộ máy thu nộp.
Tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống được thất thu do trốn,
lậu thuế sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỷ suất thu NSNN mà vẫn đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của NSNN.

Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, để xác định mức thu NSNN đúng đắn cần
phải có sự phân tích, đánh giá cụ thể các nhân tố tác động đến nó trong những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ. Tỷ suất thu NSNN được xem
là hạt nhân cơ bản của chính sách thu nên cần phải được nghiên cứu, xem xét trên
nhiều khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội.
1.2 Tổ chức quản lý thu ngân sách cấp tỉnh
Căn cứ chức năng quyền hạn của chính quyền địa phương, Nhà nước phân cấp cho
địa phương được hưởng các nguồn thu tương ứng theo phương pháp phân định như sau:
Quá trình hình thành nguồn thu ngân sách ở Lào bắt đầu và phân cấp quản lý sau
Cách mạng Tháng 8. Lúc đó Lào hầu như chỉ có một cấp ngân sách là NSTW. Do cấp tỉnh
chưa đảm đương được đầy đủ chức năng là một cấp thu ngân sách hoàn chỉnh, nên chủ yếu
thực hiện theo chỉ định từ Trung ương. Đến khi luật Ngân sách ngày 18/7/1944, số
0594/QH Lào và Luật Thuế ra đời mới ổn định nguồn thu và đảm bảo nhiệm vụ chi cho
địa phương, từ đó hình thành nguồn thu của ngân sách địa phương (NSĐP).
1.2.1. Các khoản thu cố định
Đây là các khoản thu phát sinh bao nhiêu thì ngân sách tỉnh được hưởng trọn vẹn bấy
nhiêu (100%). Theo kinh nghiệm Việt Nam trong Luật NSNN hiện hành quy định thì các
khoản thu cố định của ngân sách tỉnh gồm có:
- Tiền cho thuê đất
- Tiền thuê và bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước
- Lệ phí trước bạ


- Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức cá nhân cho cấp tỉnh
- Phí, lệ phí và thu khác ngân sách tỉnh
- Các khoản đóng góp vào ngân sách cấp tỉnh
- Thu kết dư ngân sách cấp tỉnh
1.2.2. Các khoản thu phân định giữa các cấp ngân sách
Đối với các khoản thu này, hiện nay trên thế giới phổ biến có 2 mô hình:

Mô hình 1: Các khoản thu được tập trung vào NSNN thông qua Kho bạc Nhà nước
(KBNN), sau đó phân chia cho các cấp theo những tỷ lệ phần trăm nhất định, được gọi là
thu điều tiết. Các nước theo mô hình này là Trung Quốc, Việt Nam…
Luật Ngân sách hiện hành của Việt Nam quy định các khoản thu điều tiết giữa
NSTW và ngân sách cấp tỉnh là:
- Thuế giá trị gia tăng (không kể thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu).
- Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập doanh nghiệp các đơn vị
hạch toán toàn ngành).
- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Tỷ lệ điều tiết ở đây, theo Luật NSNN do Trung ương quy định cụ thể cho từng
tỉnh và được ổn định từ 3 – 5 năm.
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh, ngân sách
cấp huyện, ngân sách xã phường, thị trấn:
- Thuế chuyển quyền áp dụng đất.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước của một số mặt hàng phân chia
cho địa phương.


Tỷ lệ điều tiết cho mỗi cấp ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, theo
Luật NSNN hiện hành do tỉnh quy định. Riêng tỷ lệ điều tiết thuế sử dụng đất nông nghiệp
để lại cho xã, phường, thị trấn tối thiểu là 20%.
Mô hình 2: Mỗi khoản thu phát sinh thì NSTW thu một phần và NSĐP thu một
phần. Phổ biến nhất là các khoản thuế giá trị gia tăng (GTGT), Thu nhập doanh nghiệp
(TNDN), thu nhập cá nhân… (Thường luật Thuế do Nhà nước Trung ương ban hành và quy
định biểu thuế cho NSTW, sau đó cho phép các địa phương có biểu thuế riêng tương ứng.
Thông thường Chính phủ Trung ương quy định khung thuế suất với mức thấp nhất và mức
cao nhất). Các địa phương vận dụng trong khung đó. Biểu thuế địa phương này có 2 dạng
phổ biến:
Thứ nhất, là biểu thuế địa phương lũy tiến theo mức cố lũy tiến của biểu thuế

Trung ương.
Thứ hai, là biểu thuế địa phương chỉ áp dụng một mức cố định cho mọi thu nhập
chịu thuế. Trên biên lai thuế có những tiêu thức sau:
Thu nhập chịu thuế: Được xác định theo quy định của Luật Thuế.
Thuế NSTW: x% x Thu nhập chịu thuế.
Thuế NSĐP: y% x Thu nhập chịu thuế.
Tổng số thuế phải nộp: Gồm cả thuế của NSTW và NSĐP.
Ví dụ: ở Nhật Bản, khung thuế suất do Quốc hội quy định từ 12 – 15% thì Hội
đồng nhân dân địa phương có thể quy định cụ thể một mức nào đó trong khung nhưng tối
đa không quá 15%. Căn cứ vào quyết định của Hội đồng nhân dân (HĐND), từng địa
phương tiến hành thu thuế về cho cấp mình.
ở Canađa, thuế GTGT thu cho NSTW là 8%, còn thu cho NSĐP được phép không
quá 7%.
Nhận xét:
Hai mô hình đều có những ưu điểm nhất định. ở mô hình thứ nhất các khoản thu
được tập trung vào ngân sách, sau đó điều tiết cho các cấp sẽ tạo ra biểu thuế thống nhất
trong toàn quốc, từ đó nghĩa vụ nộp thuế cũng thống nhất trong toàn quốc, không phân biệt


giá cả giữa các vùng, miền. Việc điều tiết chỉ là phân chia trong nội bộ ngân sách, vì vậy
Chính phủ Trung ương có thể chủ động quy định tỷ lệ điều tiết khác nhau cho các địa
phương.
ở mô hình thứ hai có ưu điểm là địa phương có thể chủ động quy định một thuế
suất trong khung phù hợp với địa phương mình. Cùng xuất phát từ điều đó làm cho mỗi
địa phương có thể có một tỷ lệ thuế khác nhau, dẫn đến mỗi vùng miền, địa phương có
nghĩa vụ nộp thuế khác nhau và giá cả hàng hóa cũng khác nhau. Đây chính là điểm linh
hoạt trong chính sách thuế, thuế có thể trở thành công cụ điều tiết phân bổ dân cư, kinh tế.
Cụ thể là để giảm bớt thuế thu nhập cá nhân, người dân có thể chuyển đến sinh sống ở địa
phương có biểu thuế địa phương thấp. Tương tự như vậy, các cá nhân và tổ chức muốn
giảm thuế thu nhập, thuế GTGT để nhằm mục đích tăng lợi nhuận có thể tổ chức kinh

doanh hoặc di chuyển địa điểm kinh doanh và vốn tới địa phương có biểu thuế địa phương
thấp…
Các mô hình thuế nêu trên có thể được lựa chọn áp dụng ở các quốc gia khác nhau
phụ thuộc vào phân cấp kinh tế xã hội và hành chính của từng quốc gia, các yếu tố chính
trị và đặc điểm của hệ thống thuế.
Với mô hình thứ nhất thì đòi hỏi sự chia xẻ trách nhiệm của cả các cấp chính quyền
từ Trung ương đến địa phương. Bởi vì nguồn thu được điều tiết cho các cấp, nên việc tổ
chức bộ máy thu thống nhất do Trung ương quản lý để phối hợp với chính quyền địa phương
trong công tác thu sẽ phát huy được hiệu quả.
Với mô hình thứ hai cho phép địa phương tự quyết định mức trong khung thuế địa
phương, tạo động lực cho địa phương tự tìm kiếm nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi tăng
thêm ở địa phương thích hợp với cách tổ chức bộ máy thu riêng cho từng cấp.
1.2.3. Các khoản thu bổ sung từ ngân sách Trung ương
Ngoài các khoản thu cố định và điều tiết, một khoản thu rất quan trọng đối với
ngân sách tỉnh là thu bổ sung từ ngân sách cấp trên. Đây là một biện pháp điều hòa ngân
sách nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, đồng đều của tất cả các vùng, miền.
Căn nguyên thứ nhất của biện pháp này xuất phát từ sự tách rời giữa nơi sáng tạo
GDP và nơi thực hiện GDP. Chúng ta đều biết rằng nguồn thu từ thuế do GDP tạo ra ở một


địa phương nào đó, nhưng bằng biện pháp bổ sung NSĐP có thể thụ hưởng từ một địa
phương khác. Ví dụ: Một doanh nghiệp thu mua hàng nông sản xuất khẩu đăng ký hoạt
động ở địa phương A. Khi thu mua hàng thì doanh nghiệp phải nộp thuế GTGT với thuế
suất 2% mặc dù nơi sản xuất ra hàng nông sản đó có thể là ở một địa phương B.
Như vậy, điều bất hợp lý có thể xảy ra, đó là nơi sáng tạo ra nhiều GDP lại có thể
có nguồn thu nhỏ, trong khi nơi không tạo ra nhiều GDP nhưng vẫn có nguồn thu lớn.
Ví dụ: Theo thống kê chưa chính thức, năm 2001, Thành phố Hồ Chí Minh chỉ tạo ra
khoảng 9% GDP của cả nước nhưng đã có số thu ngân sách trên địa bàn chiếm gần 40% tổng
thu NSNN trong nước. Nguyên nhân chính là GDP được tạo ra từ đồng bằng sông Cửu Long,
Tây


Nguyên…

nhưng

phần

lớn

đổ

dồn về thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. ở Hà Nội tình hình cũng tương tự như vậy.
Thứ hai là xuất phát từ vị trí địa lý kinh tế xã hội không đồng đều giữa các địa
phương: Các vùng núi cao, Biên giới, Hải đảo, kinh tế không phát triển nhưng lại có vị trí
đặc biệt quan trọng, đó là vùng phên dậu của đất nước, nếu không được bảo vệ chắc chắn
sẽ ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định của cả Quốc gia. Vì vậy, mặc dù có thể không sáng
tạo và thực hiện nhiều GDP nhưng phải điều hòa nguồn lực tài chính đến những vùng như
vậy.
Thứ ba là trong cơ chế chính sách của Trung ương về phân định nguồn thu và
nhiệm vụ chi của NSTW có phần muốn tạo ra sự mất cân đối của NSĐP (thu không đủ chi)
nhằm kiểm soát và chi phối các hoạt động của địa phương. Điều đó giải thích tại sao ngay
cả các địa phương có thể tự cân đối được thu chi cũng được phân cấp sao cho Trung ương
vẫn phải bổ sung một số chương trình mục tiêu. Ví dụ: ở Trung Quốc, số bổ sung từ
NSTW cho địa phương thường chiếm 20% tổng số thu; ở Nhật Bản, việc trợ cấp từ Trung
ương cho các tỉnh cũng nhằm hỗ trợ các dự án cụ thể…
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngân sách cấp tỉnh với các cấp ngân sách khác
Trước hết, cần phải khẳng định ngân sách tỉnh là một cấp ngân sách trong hệ
thống NSNN thống nhất, nên nó có mối quan hệ hữu cơ với các cấp ngân sách khác.
1.2.4.1. Mối quan hệ giữa ngân sách tỉnh với ngân sách trung ương



Chế độ thu ngân sách được quy định thống nhất trong toàn quốc, mọi nguồn thu
đều được tập trung vào NSNN sau đó điều tiết theo tỷ lệ quy định cho từng tỉnh.
Sau khi dự toán thu ngân sách tỉnh được xây dựng và giao chính thức, Trung ương
sẽ căn cứ vào đó để xác định số bổ sung ngân sách tỉnh hàng năm và từng quý chuyển đến
cho NSĐP.
Ngoài những nội dung trên, Trung ương còn cấp cho địa phương kinh phí để thực
hiện các chương trình mục tiêu. Phần này nằm ngoài cân đối NSĐP và tùy thuộc vào nội
dung chương trình mục tiêu ở từng năm.
Như vậy có thể nói NSĐP phụ thuộc chặt chẽ vào Trung ương từ khâu hoạch định
chính sách, chế độ thu chi, đến khâu xây dựng dự toán và cuối cùng nhưng cũng trực tiếp
nhất là thông qua số hỗ trợ bổ sung.
1.2.4.2. Mối quan hệ giữa ngân sách tỉnh với ngân sách huyện
Tương tự như vậy, ngân sách tỉnh quan hệ với ngân sách huyện cũng như quan hệ
giữa Trung ương với tỉnh. Tỉnh giao dự toán thu ngân sách huyện trên cơ sở chính sách
chế độ chi tiêu của Trung ương có tính đến đặc thù của từng huyện và xác định số bổ sung
cho huyện, thông qua đó nắm được tình hình thực hiện nhiệm vụ thu Trung ương của từng
huyện.
Tóm lại, mối quan hệ giữa thu ngân sách tỉnh với thu các cấp ngân sách khác là
quan hệ giữa các cấp ngân sách, thông qua trực tiếp nhất là số bổ sung để điều hòa thu
ngân sách, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền và tăng cường quản lý của
cấp trên đối với cấp dưới.
1.3. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế
Thuế là một hình thức huy động nguồn tài chính cho Nhà nước đã có từ lâu đời.
Khi Nhà nước ra đời, thuế trở thành công cụ để Nhà nước có được nguồn thu nhằm trang
trải các chi tiêu của Nhà nước. Trải qua quá trình phát triển lâu dài và cho đến nay, các
Nhà nước đều sử dụng thuế để phân phối các khoản thu nhập và huy động nguồn thu cho
Nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực của mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân cư



và các tổ chức kinh tế đóng góp cho Nhà nước. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã
khẳng định, một trong những quyền lực công của Nhà nước là thu thuế.
Từ sự phân tích khái quát đó có thể cho thấy, thuế là hình thức đóng góp nghĩa vụ
theo luật định của các pháp nhân và thể nhân cho Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước.
Như vậy việc nộp thuế vào NSNN là nghĩa vụ, là sự đóng góp bắt buộc của các
chủ thể (các doanh nghiệp và dân cư cho Nhà nước). Nguồn của thuế là một phần thu
nhập do lao động, do kinh doanh, do đầu tư tài chính, do chuyển dịch tài sản… mang lại.
Thuế mang sẵn trong nó các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thuế là hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên tắc luật định. Đóng
thuế là nghĩa vụ bắt buộc không được từ chối. Phân phối các khoản thu nhập qua thuế gắn
với quyền lực, sức mạnh của Nhà nước. Nhà nước dựa vào quyền lực to lớn của mình để ấn
định các thứ thuế, bắt buộc người nộp thuế phải thực hiện để Nhà nước có nguồn thu ổn
định, thường xuyên, đảm bảo trang trải các nhu cầu trên của Nhà nước.
1.3.2. Hệ thống thuế ở Việt Nam và phân loại thuế
Hệ thống thuế bao gồm nhiều sắc thuế mà Nhà nước sử dụng, nó tạo lập nguồn thu
cho NSNN và thực hiện những mục tiêu nhất định trong quản lý kinh tế – xã hội.
Thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ kinh tế hoạch hóa tập trung sang kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XNCH, hệ thống thuế ở Việt
Nam đã được cải cách căn bản bằng việc ban hành luật, pháp lệnh thuế áp dụng chung cho
mọi thành viên trong cả nước.
Đến nay hệ thống thuế hiện hành ở Việt Nam bao gồm:
- Thuế giá trị gia tăng
- Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Thuế nhà đất



- Thuế tài nguyên
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
- Thuế môn bài.
Ngoài ra còn có một số loại thu khác có tính chất thuế như lệ phí trước bạ, lệ phí
chứng thư, lệ phí hải quan, phí giao thông, cầu phí cầu phà, phí đường, phí bay qua bầu
trời…
Bất cứ hệ thống thuế của quốc gia nào cũng đều được phân loại để quản lý. Có
nhiều cách phân loại khác nhau, nhưng thông thường có các cách phân loại phổ biến sau:
- Phân loại theo tính chất chuyển giao của thuế:
Chuyển giao thuế là việc xác định ai là người nộp thuế, ai là người thực sự phải
gánh chịu thuế. Theo tiêu thức này thuế được chia thành hai loại là thuế trực thu và thuế
gián thu.
+ Thuế trực thu: là các thứ thuế trực tiếp huy động một phần thu nhập của người làm
nghĩa vụ. Đặc điểm cơ bản của thuế trực thu là người nộp thuế và người chịu thuế là một. Nó
đánh trực tiếp vào người nộp thuế, tức là người có thu nhập chịu thuế làm giảm phần thu nhập
của họ. ở đây không có hiện tượng chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác chịu. ở nước
ta, đó là các thứ thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng
đất nông nghiệp.
+ Thuế gián thu: là các thứ thuế mà người nộp thuế gián tiếp nộp thuế cho người
tiêu dùng, họ không phải là người chịu thuế. Đặc điểm cơ bản của thuế gián thu là được
cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ để bán ra. ở đây có sự chuyển giao gánh nặng
thuế từ người nộp thuế theo lượng định sang người tiêu dùng qua cơ chế giá cả. ở nước ta,
đó là các thứ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu…
Thuế trực thu có thể trực tiếp điều tiết bớt thu nhập của các doanh nghiệp và cá nhân
nên người ta thường sử dụng thuế suất lũy tiến để điều tiết những thu nhập cao. Thuế gián thu
lại có tầm quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu hàng hóa, mở rộng hoặc thu hẹp sự lưu
thông hàng hóa nên người ta thường sử dụng thuế suất tỷ lệ cao thấp khác nhau nhằm khuyến
khích hay hạn chế chúng.



- Phân loại theo đối tượng đánh thuế.
Dựa vào đối tượng đánh thuế, nghĩa là thuế đánh trên cái gì, thuế được chia thành:
+ Thuế thu nhập như thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp…
+ Thuế tài sản như thuế sử dụng tài sản Nhà nước (thuế sử dụng đất nông nghiệp,
thuế tài nguyên…), thuế chuyển nhượng tài sản (thuế chuyển giao quyền sử dụng đất, thuế
mua, bán các tài sản như nhà, xe cộ…).
+ Thuế tiêu dùng đánh vào hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên thị trường trong nước
và xuất nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu…
Cách phân loại này giúp cho việc tìm các giải pháp để quản lý, khai thác, bồi
dưỡng từng nguồn thuế, đồng thời còn giúp cho việc xem xét thuế với việc đảm bảo quản
lý được các hoạt động khác nhau, các nguồn thu nhập khác nhau để có thể mở rộng và phát
triển hệ thống thuế.
1.3.3 Tổ chức bộ máy thu thuế
Tổ chức bộ máy thu thuế. là một trong những nội dung công tác quản lý thu
NSNN có vị trí cực kỳ quan trọng, là điều kiện tiên quyết để đưa các luật thu thuế. vào đời
sống kinh tế xã hội một cách có hiệu quả.
Việc tổ chức bộ máy thu thuế. sao cho gọn nhẹ lại đạt hiệu suất công tác cao trong
bối cảnh phải triển khai một hệ thống thu thuế. đa dạng liên quan đến nhiều đối tượng
trong xã hội là cả một vấn đề hàm chứa nhiều nội dung phức tạp. Nội dung tổ chức bộ máy
thu thuế bao gồm:
* Lựa chọn mô hình bộ máy
Trên phương diện lý thuyết mô hình bộ máy thu thuế phải đạt được hai tiêu chuẩn
quan trọng.
- Gọn nhẹ, tiết kiệm.
- Có khả năng thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các luật về thu thuế.


Trong việc lựa chọn mô hình tổ chức bộ máy thu thuế. Cần phải xem xét mô hình
đó trong mối quan hệ với các cơ quan chức năng khác trong bộ máy công quyền.

Về vấn đề này, trên thế giới thường có hai mô hình:
- Mô hình thu thuế trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tài chính bao
gồm quản lý cả thu và chi.
Mô hình này có ưu điểm là với chức năng quản lý và chịu trách nhiệm toàn bộ các
vấn đề tài chính Nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ tạo điều kiện cho việc điều hành
các vấn đề TCNN của Bộ trưởng thuận lợi. Công tác chỉ đạo thu thuế của Bộ trưởng sẽ sâu
sát hơn. Tuy nhiên, dù sao đi nữa đứng về mặt tâm lý người ta vẫn thấy vai trò quản lý thu
thuế còn có mặt hạn chế.
- Mô hình ngành thuế đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ thu. ở đây không có khái niệm
Bộ Tài chính, mà nhiệm vụ thu chi của NSNN được đặt dưới sự chỉ đạo của hai bộ: Bộ thu
và Bộ chi.
Ưu điểm của mô hình này là sự chỉ đạo về công tác thuế sẽ sâu sát hơn, song việc
quản lý thực thu – chi NSNN trong thực tiễn thiếu sự gắn kết, làm cho sự điều hành TCNN
sẽ gặp khó khăn.
Có thể diễn tả một cách ngắn gọn hai mô hình trên bằng hai sơ đồ 1.1 và sơ đồ 1.2:

Chính phủ

Bộ Tài chính
Tổng cục Hải
quan
Tổng cục thuế

Sơ đồ 1.1: Mô hình ngành thuế trực thuộc Bộ Tài chính

Thủ tướng

Bộ Trưởng

Hội đồng

Bộ trưởng

Bộ trưởng


Sơ đồ 1.2: Mô hình ngành thuế trực thuộc Bộ Thu
Từ thực tế trên đây cho thấy rằng ngành thuế không nên là tổ chức độc lập với Bộ
Tài chính. Chính sách tài khóa là một công cụ quan trọng trong điều hành vĩ mô nền kinh
tế, hơn thế nữa chính sách tài khóa lại vô cùng nhạy cảm do vậy Bộ Tài chính phải là cơ
quan điều hành toàn bộ các nguồn thu tài chính trong đó có thuế. Do đó mô hình 1 là phù
hợp với nền kinh tế của Lào hiện nay.
Tuy nhiên, mặc dù ngành thuế trực thuộc Bộ Tài chính song các nước nói chung
và Lào nói riêng ngành thuế vẫn có tính độc lập tương đối. Nó thể hiện ở chỗ về vấn đề tổ
chức ngành thuế hiện hành hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương trực tiếp
tiến hành mọi công việc liên quan trong lĩnh vực thuế. Tổng cục trưởng Tổng cục thuế
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính về cơ chế hành thu, tổ chức về
số thu và các vấn đề khác có liên quan. Về vấn đề ngân sách ngành thuế được phép xây
dựng quỹ ngân sách ngành riêng theo quy định. Quỹ này được hình thành từ nguồn chi
thường xuyên do NSNN cấp cùng với nguồn trích thưởng trên tổng số thu, tổng số truy thu
hay các nguồn hỗ trợ từ các địa phương. Các nguồn khác đó là nguồn để đầu tư trang bị,
hiện đại hóa ngành thuế.


Ngoài ra trong việc lựa chọn mô hình tổ chức ngành thuế cũng cần xem xét đến
mối quan hệ khác như: Mối quan hệ giữa ngành thuế với Hải quan, quan hệ chỉ đạo ngay
trong ngành thuế.
Về mối quan hệ ngành thuế và chính quyền địa phương.
Trước thời kỳ cải cách, hầu hết tại các nước, cơ quan thuế là một bộ phận trong bộ
máy chính quyền các cấp, chịu sự quản lý và điều hành chung của chính quyền địa
phương. Theo mô hình này ngành thuế sẽ được sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền các

cấp, việc triển khai thực hiện chính sách thuế và thực hiện tính nghiêm minh của luật được
tiến hành thuận lợi hơn. Tuy nhiên do trực thuộc chính quyền địa phương nên viện triển
khai thực hiện đồng bộ chính sách thuế trên toàn quốc sẽ gặp khó khăn hơn, thiếu sự chỉ
đạo thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Việc chỉ đạo thu của địa phương nhiều khi mang
tính cục bộ địa phương, mang nặng tính địa phương chủ nghĩa do vậy nó sẽ thiếu tính
thống nhất linh hoạt khi cần thiết nhằm điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống
chính sách thuế. Chính vì vậy khi tiến hành cải cách đối với đa số quốc gia, việc đầu tiên là
tổ chức thống nhất ngành thuế thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương nhằm tập
trung nguồn thu vào NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình thống nhất tổ chức theo ngành dọc
từ Trung ương đến cơ sở, do tính chất phức tạp của công tác hành thu và thực chi luật thuế
cần thiết có sự phối hợp của chính quyền địa phương, do đó chính quyền địa phương vẫn
có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hiệu quả công tác thuế và tổ chức chỉ đạo cơ quan
thuế địa phương.
Việc tập trung tổ chức từ Trung ương đến cơ sở theo ngành dọc độc lập với chính
quyền địa phương là cần thiết nhằm tập trung quyền lực điều tiết kinh tế vĩ mô vào trong tay
chính quyền Trung ương. Tuy nhiên, mức độ độc lập đến đâu còn tùy thuộc vào mô hình tổ
chức bộ máy nhà nước của mỗi quốc gia.
Ví dụ:
- Đối với các nước có mô hình tổ chức Nhà nước liên bang (Đức, Thụy Sĩ…) thì
chính quyền địa phương như các bang cũng có quyền lực rất lớn về tài chính. Chính do sự
phân quyền độc lập tương đối như vậy nên giữa các bang cũng có các tổ chức thuế tương đối
độc lập với nhau trên cơ sở một pháp luật Thuế chung cho quốc gia. Căn cứ vào Luật Ngân


sách cơ quan thuế các bang có thể tổ chức quản lý thu thuế riêng của bang như thuế đất, thuế
tài sản…
- Đối với các nước có mô hình tổ chức Nhà nước Trung ương tập quyền (như Lào…)
thì hầu hết quyền lực về thuế tập trung vào trong tay chính quyền Trung ương đặc biệt là
quyền tài phán và kiểm soát hành thu thuế. Cơ quan thuế Trung ương phải kiểm soát được
toàn bộ cơ cấu tổ chức, quy trình quản lý thuế trên toàn quốc, việc bổ nhiệm cán bộ thuế

địa phương, tổ chức thuế địa phương kể cả toàn bộ ngân sách chi cho bộ máy thuế ở từng
địa phương.
Về mối quan hệ giữa ngành thuế và Hải quan đối với các nước có mô hình nền
kinh tế kế hoạch tập trung, ngành thuế và Hải quan luôn là hai tổ chức riêng biệt độc lập.
Mô hình này xuất phát từ cơ chế quản lý của các nước này. Do nền kinh tế vận hành theo
kế hoạch đã định, do đó Hải quan chủ yếu đảm nhiệm vai trò kiểm soát hoạt động ngoại
thương (xuất nhập khẩu) hơn thế nữa quan hệ ngoại thương lại chủ yếu tập trung vào một
số nước nhất định (chỉ định sẵn) có quan hệ ngoại giao. Do vậy, hoạt động ngoại thương
mang tính chất hạn hẹp, đơn thuần. Hoạt động kiểm soát, quản lý ngoại thương của Hải
quan chủ yếu thông qua các chính sách ngoại thương phi thuế quan như hạn ngạch trao đổi
hàng hóa và các quy định phi thuế quan khác.
Trong thời kỳ nền kinh tế phát triển, các nước đang chuyển dần từ cơ chế quản lý
chỉ huy, mệnh lệnh, kế hoạch cứng nhắc sang một nền kinh tế được điều tiết bằng các
chính sách kinh tế vĩ mô. Từ chỗ quan hệ hạn hẹp với một số nước chỉ định trong khối
sang thực hiện đa phương hóa quan hệ ngoại thương theo nguyên tắc hoạt động của cơ chế
thị trường. Chính vì vậy, các chính sách quản lý ngoại thương thông qua hạn ngạch phi
thuế quan được chuyển sang quản lý xuất nhập khẩu thông qua chính sách điều tiết bằng
thuế quan (thuế xuất nhập khẩu).
Với chức năng quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu ngành Hải quan lúc này đảm
nhận thêm chức năng thu thuế xuất nhập khẩu, số thu về thuế xuất nhập khẩu của các nước
này thường chiếm khoảng 25 – 30% tổng số thu ngân sách quốc gia. Ngoài chức năng trên
Hải quan còn với tư cách là hàng rào biên giới về kinh tế, nó còn nhiều chức năng khác


như chống buôn lậu, bảo vệ hàng hóa trong nước, bảo vệ và quản lý tài sản quý hiếm của
quốc gia… Lúc này Hải quan trở thành một ngành quan trọng, có quyền lực rất lớn.
Trong thời đại ngày nay, trong xu hướng tự do hóa thương mại thế giới, mở cửa
quan hệ với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Các nước dần dần buộc phải cắt
giảm hàng rào thuế quan. Thu về thuế XNK do ngành Hải quan đảm nhiệm ngày càng suy
giảm và mất dần vai trò trong cơ cấu thu ngân sách. Tuy nhiên, do chức năng cụ thể của

hai ngành có khác nhau, quy trình quản lý Hải quan và quy trình quản lý thuế cũng có sự
khác nhau, do vậy việc thống nhất giữa hai ngành là một tất yếu khách quan.
Về quan hệ trong nội bộ ngành thuế.
Trong quá trình thống nhất tổ chức ngành thuế, vai trò quyền lực và vấn đề tổ chức
cơ quan Thuế Trung ương là một vấn đề vô cùng quan trọng. Mục đích tối ưu là nhằm tập
trung quyền lực thống nhất trong công tác quản lý thuế theo pháp luật. Trên thế giới hiện
nay có hai mô hình tổ chức ở hai mức độ khác nhau sau:
Hình thức thứ nhất là, hình thức tổ chức cơ quan thuế Trung ương theo nguyên tắc
tập thể lãnh đạo. ở hình thức này, cơ quan thuế Trung ương hình thành nên một hội đồng
các Tổng cục trưởng, trong đó có một Chủ tịch hội đồng và nhiều thành viên trong Hội
đồng phụ trách các khu vực, địa phương khác nhau. Hội đồng hoạt động theo nguyên tắc
đa số phiếu thuận, nó hình thành phù hợp với cơ chế Nhà nước Liên bang, nơi chính quyền
các bang, các địa phương có quyền lực lớn. Tuy nhiên, đây cũng có thể là một mô hình
trung gian trước khi đạt được một sự thống nhất quyền lực tập trung đối với các nước đang
chuyển đổi.
Hình thức thứ hai, được đa số các nước có mô hình quản lý Nhà nước Trung ương
tập quyền áp dụng, đó là mô hình tổ chức cơ quan thuế Trung ương theo nguyên tắc cá
nhân lãnh đạo. Trong mô hình này cơ quan thuế có một định thế Tổng cục trưởng chịu
trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính và Chính phủ về công tác quản lý và tổ chức
hành thu.
Trên cơ sở nhìn nhận các mối quan hệ trong mô hình lựa chọn, từ đó các nước xây
dựng mô hình tổ chức cụ thể ngành thuế theo những cách thức khác nhau phù hợp với đặc
điểm từng quốc gia.


Tổ chức bộ máy ngành thuế là nội dung quan trọng trong quá trình cải cách hành
chính thuế, qua việc xây dựng bộ máy ngành thuế phù hợp đảm bảo việc tổ chức quản lý
thuế một cách chặt chẽ, có hiệu quả nhất, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị
trường, hòa nhập với tiến trình hiện đại hóa toàn xã hội. Mô hình tổ chức bộ máy phù hợp
sẽ cho phép áp dụng một cách tốt nhất các trang thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại hóa

ngành thuế.
Một số nước đang phát triển như các nước: Đông Âu, Việt Nam, Lào ngành thuế
có một số đặc điểm nổi bật về vấn đề tổ chức như sau:
Thứ nhất: Ngành thuế thường được tổ chức theo loại hình đối tượng nộp thuế hay
theo sắc thuế.
Thứ hai: Ngành thuế thường tổ chức gắn với các cấp chính quyền hành chính địa
phương theo địa giới hành chính theo 3 cấp: Trung ương, tỉnh, thành phố, quận, huyện.
Thứ ba: Ngành thuế ngoài chức năng quản lý thuế còn phải giữ các chức năng phụ
khác như: quản lý chặt chẽ hệ thống đối tượng nộp thuế, kiểm soát hoạt động nền kinh tế
quốc dân theo các chính sách vĩ mô, việc quản lý theo đối tượng nộp thuế mà trực tiếp là
cán bộ thuế chuyên quản đơn vị chịu trách nhiệm từ việc kê khai, nộp thuế, thanh quyết
toán tiền thuế đã tạo điều kiện cho cán bộ thuế tiếp xúc quá sâu với đơn vị, có quá nhiều
quyền tự quyết, tùy tiện trong việc tính thuế, thu thuế và xử lý các vấn đề liên quan đến
lĩnh vực thuế. Chính việc tổ chức theo mô hình như vậy là cơ sở để phát sinh những tiêu
cực trong lĩnh vực thuế, thiếu sự chỉ đạo thống nhất theo nguyên tắc nhất định, thiếu sự
giám sát, kiểm tra kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận trong cơ quan thuế. Hơn nữa việc
tổ chức theo địa bàn hành chính dẫn đến sự can thiệp trực tiếp của chính quyền địa phương
vào công việc chuyên môn của ngành thuế theo lợi ích của cục bộ các địa phương.
Theo xu hướng cải cách hiện đại ngành thuế, quy trình quản lý thuế phải thay đổi
cho phù hợp với điều kiện kinh tế hiện đại, phù hợp với việc hiện đại hóa tối ưu ngành
thuế đòi hỏi ngành thuế phải xây dựng một mô hình mới hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Trên
thực tế hiện nay các nước tiên tiến đang áp dụng mô hình tổ chức ngành thuế, theo mô
hình chức năng…


- Mô hình quản lý theo chức năng cho phép chuyên môn hóa sâu cán bộ thuế, tăng
cường hiệu suất quản lý, cho phép cán bộ phát triển theo chuyên môn của người đó thực
hiện.
- Mô hình quản lý theo chức năng hình thành nên một hệ thống kiểm tra chéo
trong nội bộ ngành thuế.

- Mô hình mới đảm bảo cho việc thực hiện quản lý thuế hữu hiệu hơn tạo điều kiện
cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, ứng dụng máy tính vào việc quản lý thuế.

Cơ quan thuế

Đối tượng nộp thuế
là các pháp nhân

Đối tượng nộp thuế
là các cá nhân

Sơ đồ 1.3: Mô hình quản lý theo đối tượng nộp thuế
Ghi chú:
+ Theo mô hình này, cơ quan thuế hình thành các phòng quản lý theo đối tượng.
+ Cán bộ chuyên quản lý trong các phòng thực hiện tất cả các chức năng quản lý
tự kê khai, tính thuế, đốc thu và kiểm tra.
áp dụng đối với một số quốc gia đang trong quá trình quá độ của cải cách (mô hình
vừa theo đối tượng, vừa theo chức năng).

Cơ quan thuế

Các bộ phận khác
theo chức năng

Các phòng trực
tiếp quản lý
thu

Thanh tra
kiểm tra



Sơ đồ 1.4: Mô hình quản lý trung gian
Ghi chú:
+ Mô hình hỗn hợp vừa quản lý theo chức năng, vừa quản lý theo đối tượng.
+ Mô hình này chỉ áp dụng với các nước trong thời kỳ quá độ của cải cách

Cơ quan thuế

Bộ phận
tiếp nhận
và xử lý
tờ khai
công văn

Bộ phận
tính thuế
và thông
báo thuế

Đôn đốc
thu nộp
và quản
lý hướng
dẫn

Cưỡng
chế thanh
tra kiểm
tra


Dịch vụ
tư vấn
đối tượng
nộp thuế

Cơ sở
dữ liệu
phục vụ
thông tin

Cơ quan thuế

Sơ đồ 1.5: Mô hình quản lý hiện đại, phù hợp việc tin học hóa
+ Theo mô hình này mỗi bộ phận chỉ chịu trách nhiệm một công đoạn trong quá
trình quản lý.
+ Đối tượng nộp thuế chủ động tự kê khai, tự tính thuế và hoàn toàn chịu trách
nhiệm về số liệu kê khai.


Chương 2
thực trạng công tác quản lý thu ngân sách
địa phương ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào
(Ví dụ ở Tỉnh Viêng Chăn)

2.1. Những đặc điểm cơ bản về tình hình kinh tế – xã hội chi phối công tác
quản lý thu ngân sách nhà nước của Lào trong thời gian qua
2.1.1. Đặc điểm chung
Lào là một nước tương đối rộng, nằm sâu trong bán đảo Đông Dương, ở một vị trí
địa lý không thuận lợi cho giao lưu quốc tế, có lịch sử giành độc lập lâu dài. Diện tích tự

nhiên của Lào 236.800km2, có chung biên giới với 05 quốc gia có chế độ chính trị khác
nhau, phía Bắc có biên giới với nước CHND Trung Hoa dài 505km, phía Nam có biên giới
chung dài 435km với vương quốc Cămpuchia, phía tây bắc có biên giới chung dài 236km
với Miên Ma, phía Tây có biên giới dài 1.835km với vương quốc Thái Lan, phía Đông giáp
biên giới với CHXHCN Việt Nam dọc theo dãy núi Trường Sơn dài khoảng 2.069km đây
là nước mà CHDCND Lào có mối quan hệ đặc biệt, hữu nghị toàn diện.
Lào là một đất nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên, rừng núi trùng điệp, có 03
đồng bằng lớn nằm ở các vùng khác nhau của đất nước và không có đường ra biển là một
khó khăn lớn, đặt Lào vào một vị trí bất lợi về mặt giao lưu quốc tế. Nhân dân Lào hiện
nay khoảng 70 – 80% dân số sống bằng nghề nông. Theo thống kê mới nhất dân số cả
nước Lào hiện nay khoảng 5,2 triệu người. Lào hiện nay có khoảng 68 dân tộc, mỗi dân
tộc có phong tục tập quán khác nhau và sống ở các vùng lãnh thổ khác nhau. Lào có 17
tỉnh và một đặc khu, có mật độ dân số 20 người/km2. Tiếng Lào là ngôn ngữ phổ thông và
cũng là ngôn ngữ chính thức của CHDCND Lào.
Sau khi đất nước hòa bình, độc lập Đảng NDCM Lào đã bắt tay ngay vào việc xây
dựng bảo vệ đất nước và phát triển kinh tế.
Đảng đã đề ra kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế lần thứ nhất (1976 - 1981). Đây là
giai đoạn đầu trong phát triển kinh tế và được coi là giai đoạn khó khăn nhất, chính quyền


×