Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Thực trạng đội ngũ chức sắc một số tôn giáo lớn ở nước ta và những vấn đề đặt ra hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 131 trang )

LUẬN VĂN:
Thực trạng đội ngũ chức sắc một số
tôn giáo lớn ở nước ta và những vấn đề
đặt ra hiện nay


Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tính cách là một hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, tôn giáo tác động
mạnh mẽ, vừa tích cực, vừa tiêu cực đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó,
tôn giáo luôn được các quốc gia trên thế giới quan tâm, nhằm phát huy cao nhất mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
ở Việt Nam, khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có những
đổi mới căn bản về quan điểm, chính sách đối với tôn giáo, đánh dấu bằng việc, ngày
16/10/1990, Bộ chính trị, khoá VI, ban hành nghị quyết số 24, về tăng cường công tác
tôn giáo trong tình hình phát triển mới và sau này, tại Hội nghị Trung ương lần thứ
bảy, khóa IX, ngày 12/3/2003, Đảng ta lại ra nghị quyết Về công tác tôn giáo. Trong
các nghị quyết này, Đảng nhấn mạnh: Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Với quan điểm đổi mới như vậy về vấn đề tôn giáo, một mặt, đã tạo ra bầu
không khí phấn khởi của đồng bào các tôn giáo; mặt khác, công tác tôn giáo của hệ
thống chính trị cũng có hiệu lực và hiệu quả hơn.
Để các tôn giáo phát huy hơn nữa mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, theo
nguyên tắc mác - xít, phải coi trọng việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; phải
quan tâm thường xuyên đến đời sống mọi mặt của quần chúng tín đồ. Nhưng sẽ là
thiếu toàn diện nếu chỉ nhấn mạnh đến quần chúng tín đồ mà xem nhẹ vai trò của chức
sắc tôn giáo. Bởi vì, chức sắc tôn giáo là người có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối
với quần chúng tín đồ. Họ là lực lượng nòng cốt quyết định đường hướng hoạt động
của giáo hội tôn giáo, quyết định đến sự mạnh, yếu, thậm chí sống còn của tôn giáo
mình.


Trong hoạt động hành đạo, chức sắc tôn giáo là người “thay mặt đấng thiêng
liêng” chăm lo phần hồn các tín đồ; trong hoạt động quản đạo, là người điều hành nền
hành chính đạo; còn trong hoạt động truyền đạo, là trụ cột để phát triển tín đồ. Hơn
nữa, họ là người đại diện cho tổ chức tôn giáo ở các cấp, nên thường xuyên có mối
quan hệ với Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị – xã hội của nhân dân. Trong


đó, trên một số nội dung quan hệ cụ thể, họ có tư cách pháp nhân và gắn với trách
nhiệm pháp lý.
Với vai trò quan trọng như vậy nên chức sắc tôn giáo luôn có ảnh hưởng trực
tiếp, thậm chí quyết định, đến tính chất tích cực hay tiêu cực của mọi hoạt động tôn
giáo; đến sự đồng hành hay không đồng hành của tôn giáo với dân tộc, đất nước và với
chế độ XHCN.
Hiện nay ở nước ta, đội ngũ chức sắc các tôn giáo có hơn 10 vạn người; về chất
lượng, đội ngũ chức sắc tôn giáo ở nước ta, thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích
cực, số qua đào tạo ở trường lớp tăng lên đáng kể; có tác phong sâu sát với tín đồ,
hướng dẫn tín đồ sinh hoạt tôn giáo đúng với giáo luật và pháp luật; trách nhiệm đạo đời của họ ngày càng chu đáo hơn; công việc truyền đạo của họ thuận lợi và có hiệu
quả.
Tuy nhiên hiện nay, vẫn có một số chức sắc tôn giáo có hoạt động truyền đạo
trái pháp luật, vi phạm quy định của các địa phương, gây ra tình hình phức tạp ở một
số địa bàn. Một số khác có hành vi đấu tranh, khiếu kiện sai quy định của chính sách
và pháp luật. Tình trạng một số chức sắc né tránh sự phân công, bổ nhiệm của giáo hội
tôn giáo khi được điều động về trụ trì tại những vùng sâu, vùng xa, có nhiều khó khăn,
tín đồ còn nghèo túng ... là một thực tế không hiếm hiện nay. Mặt khác, tình trạng thấp
kém về đạo pháp và sa sút về đạo hạnh của một số chức sắc tôn giáo cũng đang làm
cho giáo hội cũng như xã hội phải quan ngại. Ngoài ra, một số chức sắc tôn giáo tỏ ra
quá đam mê giáo quyền mà đi ngược lại với những gì tốt đẹp của tôn giáo, nên bị các
thế lực xấu lợi dụng vào mục đích chống đối chế độ. Tình hình trên là một thực tế
đang có ở các tôn giáo, nhưng rõ nét hơn cả là đối với chức sắc Phật giáo và Công
giáo, vốn là hai tôn giáo lớn nhất ở nước ta.

Như vậy, vấn đề chức sắc tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra những yêu
cầu đòi hỏi phải được nghiên cứu làm rõ, trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, nhất
là đối với chức sắc Phật giáo và Công giáo. Vì thế, việc triển khai nghiên cứu đề tài
“Thực trạng đội ngũ chức sắc một số tôn giáo lớn ở nước ta và những vấn đề đặt ra
hiện nay” là nhằm đáp ứng cho những đòi hỏi đó.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Cho đến nay, hầu như chưa có một công trình khoa học nào tập trung nghiên
cứu về thực trạng đội ngũ chức sắc tôn giáo ở nước ta và những vấn đề đặt ra. Liên
quan tới đề tài này có một số công trình nghiên cứu của các cá nhân, đơn vị ở trong và
ngoài tôn giáo.
Các công trình của các tác giả ngoài tôn giáo đáng chú ý là: Vấn đề tôn giáo
trong cách mạng Việt Nam lí luận và thực tiễn của GS, TS Đỗ Quang Hưng (NXB
CTQG, HN 2005); Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát triển ở Việt Nam của
PGS, TS Nguyễn Hồng Dương (NXB KHXH, HN 2004); Lý luận về tôn giáo và chính
sách tôn giáo ở Việt Nam của Viện Nghiên cứu Tôn giáo và Tín ngưỡng (NXB Tôn
giáo, HN 2007); Một số tôn giáo ở Việt Nam của TS. Nguyễn Thanh Xuân (NXB Tôn
giáo, HN 2005); Tôn giáo thế giới và Việt Nam của Mai Thanh Hải (NXB Công an
nhân dân, HN 2000); Về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam hiện nay của GS.Đặng
Nghiêm Vạn (NXB KHXH, HN, 1998); Khái lược Phật giáo Việt Nam của Nguyễn
Cao Thanh (NXB Tôn giáo, HN, 2008); Đạo Tin lành ở Việt Nam của Ban Tôn giáo
Chính phủ (NXB Tôn giáo, HN, 2006); Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài của Viện
Nghiên cứu Tôn giáo (NXB KHXH, HN, 1996); Công tác giáo dục Tăng ni ở Hội
Phật giáo Bắc Kỳ của Lê Tâm Đắc (Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5 - 2006); Hàng
giáo phẩm Công giáo Việt Nam - vấn đề nhân sự và đào tạo của PGS, TS Nguyễn
Hồng Dương (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5 - 2005); Kết quả công tác tôn giáo
năm 2007 của Trần Xuân Hiền (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 3 - 2008).
Về đề tài nghiên cứu khoa học liên quan, có: Đề tài cấp bộ: Mối quan hệ giữa
chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế

thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, TS. Ngô Hữu Thảo chủ nhiệm
(HN, 1998); đề tài cấp nhà nước: Xu hướng phát triển tôn giáo hiện nay ở nước ta và
những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo, quản lý, GS.TS Lê Hữu Nghĩa chủ nhiệm
(HN, 2001); đề tài giáo trình Cử nhân chính trị chuyên ngành tôn giáo: Vấn đề đào
tạo chức sắc tôn giáo ở Việt Nam, PGS, TS. Ngô Hữu Thảo và ThS. Nguyễn Khắc
Đức thực hiện (Viện Nghiên cứu Tôn giáo và Tín ngưỡng, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2006).
Những công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập đến vấn đề chức sắc tôn giáo,
nhất là đối với chức sắc Phật giáo và Công giáo, trên các góc độ như: Khái niệm chức


sắc tôn giáo; số lượng chức sắc tôn giáo ở Việt Nam trong từng thời kỳ lịch sử; vị trí,
vai trò của họ trong hoạt động tôn giáo và hoạt động xã hội; đặc điểm chức sắc tôn
giáo; hoạt động đào tạo chức sắc tôn giáo của Phật giáo và Công giáo ở nước ta; công
tác vận động chức sắc tôn giáo. Tuy nhiên, do giới hạn nghiên cứu nên vấn đề chức
sắc tôn giáo trong những công trình này nhìn chung còn sơ lược. Hơn nữa, có không ít
thông tin, những nhận xét, đánh giá đã tỏ ra không còn phù hợp. Như, chưa phân biệt
được các khái niệm “chức sắc tôn giáo” với “nhà tu hành” và với “chức việc tôn giáo”;
còn đơn giản và chưa khách quan khi đánh giá về chức sắc tôn giáo..., thể hiện thái độ
mặc cảm, có khi đến nặng nề đối với họ.
Trong các công trình nghiên cứu, tổng kết của các nhà tu hành, chức sắc tôn
giáo và giáo hội tôn giáo đã được công bố, đáng chú ý là: Báo cáo hoạt động Phật sự
nhiệm kỳ V (2002 - 2007) và Chương trình hoạt động nhiệm kỳ VI (2007 - 2012) của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, Hà
Nội 2007, Hội thảo khoa học 300 Phật giáo Gia Định - Sài Gòn TP Hồ Chí Minh
(NXB TP. Hồ Chí Minh 2002), Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam (Hòa thượng
Thích Trí Hải, NXB Tôn giáo, H 2004), Lược sử Phật giáo Việt Nam (Thượng tọa
Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh ấn hành - PL. 2536 - 1993),
Bến đỗ tâm linh (Nhất Hạnh, NXB Tôn giáo, HN, 2005), Đào tạo linh mục, nguồn
canh tân giáo hội (Tu hội Xuân Bích, Đại chủng viện Huế 1995), Thánh Công đồng

chung Vaticanô II (Phân khoa Thần học Giáo Hoàng học viện thánh Piô X, Đà LạtViệt Nam 1980), Báo cáo thành quả 25 năm hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam (Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tháng 11 - 2006) và Giáo hội Công giáo Việt Nam
Niên giám năm 2005 (NXB Tôn giáo, H 2005) của Văn phòng Tổng thư ký Hội đồng
Giám mục Việt Nam.
Những công trình loại này có rất nhiều giá trị, vì khi người tôn giáo nói và viết
về mình thì thường sát – thật hơn. Tuy nhiên, với nhiều lý do, các công trình này
thường mới dừng lại ở việc mô tả tình hình, còn nếu có nhận xét, đánh giá về đội ngũ
chức sắc tôn giáo thì cũng lại thể hiện sự chủ quan, một chiều, chỉ thấy tốt mà không
thấy xấu. Đối với những thực tế tiêu cực, hạn chế của chức sắc tôn giáo, đòi hỏi giáo
hội tôn giáo phải trăn trở tìm kiếm giải pháp, như Thiền sư Thích Nhất Hạnh có đề cập
nhưng chưa nhiều trong tác phẩm “Bến đỗ tâm linh”, chỉ là hãn hữu.


Những công trình nghiên cứu trên đây sẽ là những tư liệu bổ ích để những
người làm đề tài này tham khảo và kế thừa trong quá trình triển khai nghiên cứu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
- Đề tài có mục tiêu:
Làm rõ thực trạng tình hình chức sắc tôn giáo của một số tôn giáo lớn ở Việt
Nam hiện nay, đó là của Phật giáo và Công giáo, trên cả phương diện số lượng cũng
như chất lượng, từ đó rút ra những vấn đề đặt ra, đề xuất kiến nghị mang tính giải pháp
cho công tác tôn giáo của hệ thống chính trị và là cơ sở tham khảo cho công tác nhân
sự của các giáo hội Công giáo và Phật giáo ở Việt Nam, nhằm xây dựng đội ngũ chức
sắc tôn giáo có trình độ thần học cao, có đạo hạnh tốt, hoạt động tuân thủ pháp luật và
đồng hành cùng dân tộc.
- Đảm bảo mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
+ Làm rõ khái niệm chức sắc tôn giáo và vị trí, vai trò của họ trong hoạt động
tôn giáo và trong xã hội nước ta hiện nay.
+ Khảo sát, nghiên cứu thực trạng tình hình chức sắc của 2 tôn giáo lớn nhất ở
Việt Nam, là Phật giáo và Công giáo.
+ Rút ra những vấn đề đặt ra và kiến nghị từ góc độ công tác tôn giáo của hệ

thống chính trị và công tác nhân sự của giáo hội tôn giáo nhằm phát huy mặt tích cực
và hạn chế mặt tiêu cực của họ.
4. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu
chủ yếu là chức sắc của 2 tôn giáo: Phật giáo và Công giáo trên địa bàn cả nước. Giới
hạn thời gian từ năm 2003 (khi có Nghị quyết TW Bảy, khoá IX, số 25, ngày 12-32003, Về công tác tôn giáo) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là những quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, đồng thời có tham khảo lý
luận của các học thuyết thần học.
- Phương pháp nghiên cứu:


Đề tài vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng phương pháp
nghiên cứu của các khoa học cụ thể, như phương pháp logic và lịch sử, phân tích
và tổng hợp, hệ thống cấu trúc, so sánh, điều tra xã hội học, phỏng vấn chuyên gia
và xử lý tư liệu tổng kết thực tiễn,...
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. ý nghĩa lý luận
Đề tài đóng góp tích cực cho việc bổ sung, phát triển lý luận ngành tôn giáo học
ở nước ta hiện nay và là một cơ sở để nâng cao nhận thức của một số ngành khoa học
xã hội liên quan trực tiếp đến tôn giáo học, như triết học, xã hội học, văn hóa học ...
6.2. ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài đáp ứng cho công tác giảng dạy tại các hệ cao cấp, cử nhân chính trị; cử
nhân chính trị chuyên ngành công tác tôn giáo và hệ cao học chuyên ngành tôn giáo
học của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và của một số Học
viện, Viện nghiên cứu tôn giáo, một số trường đại học xã hội nhân văn khác ở nước ta
hiện nay.

- Là một cơ sở để các cơ quan chức năng của hệ thống chính trị tham khảo xây
dựng chính sách, chủ trương đối với tôn giáo nói chung và chức sắc tôn giáo nói riêng;
góp phần nâng cao hiệu quả của công tác vận động, cũng như quản lý nhà nước đối với
chức sắc tôn giáo ở nước ta hiện nay.
- Là một cơ sở để một số giáo hội tôn giáo tham khảo, xây dựng giải pháp phát
triển đội ngũ chức sắc tôn giáo của mình.
7. Nội dung
Chương 1: Khái niệm, vai trò và đặc điểm của Chức sắc tôn giáo ở nước ta
hiện nay
1.1.

Khái niệm chức sắc tôn giáo

1.2.

Vai trò của chức sắc tôn giáo

1.3. Đặc điểm của chức sắc tôn giáo Việt Nam
Chương 2: Thực trạng tình hình chức sắc một số tôn giáo lớn ở Việt Nam
hiện nay
2.1. Thực trạng tình hình chức sắc Phật giáo Việt Nam


2.2. Thực trạng tình hình chức sắc Công giáo
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và kiến nghị đối với Công tác chức sắc tôn
giáo của hệ thống chính trị
3.1.

Vài nét về công tác đối với chức sắc tôn giáo của hệ thống chính trị và


xu hướng biến đổi của chức sắc tôn giáo ở nước ta
3.2. Những vấn đề đặt ra cho công tác đối với chức sắc tôn giáo của hệ thống
chính trị
3.3. Kiến nghị


Chương 1
khái niệm, vai trò và đặc điểm
của Chức sắc tôn giáo ở nước ta hiện nay

1.1. Khái niệm chức sắc tôn giáo
1.1.1. Khái niệm
Chức sắc tôn giáo1 (clergy) là thuật ngữ để chỉ những người lãnh đạo các tôn
giáo nhất định. Thuật ngữ này bắt nguồn từ khái niệm hopapos êë̃ñï ̣ - klçros, có nghĩa
là “nhiều”, nói ẩn dụ là “di sản”. Tùy theo mỗi tôn giáo, chức sắc tôn giáo thường
quan tâm tới các nghi lễ của tôn giáo, hoạt động truyền đạo và hướng dẫn thực hành
tôn giáo. Họ đóng vai trò chủ chốt trong những hoạt động liên quan đến các sự kiện
tiêu biểu xảy ra trong vòng đời mỗi con người tín đồ, như những nghi lễ khi sinh, lão,
bệnh, tử, lễ rửa tội, lễ cắt bao qui đầu, lễ hôn phối...
Chức sắc tôn giáo giống và khác với “giới tu hành”. Giới tu hành (Priesthood):
là tập hợp những linh mục, thày Saman hay những người có uy tín. Những người này
có quyền năng tôn giáo đặc biệt. Thuật ngữ priest (thày tu) có nguồn gốc từ Hi Lạp,
chỉ những người cao tuổi hoặc có thứ bậc cao, thường được sử dụng để chỉ các chức
sắc cụ thể. Như vậy, trong giới tu hành không phải ai cũng là chức sắc, cho dù họ rất
có vai trò quan trọng, mà chỉ những ai có vị trí “lãnh đạo” trong các tôn giáo thì mới là
chức sắc. Vậy chức sắc chỉ là một bộ phận của giới tu hành. Có thể là hơi khập khiễng
trong so sánh, nhưng để dễ hình dung, phân biệt, thì cũng giống như trường hợp người
dân phân biệt về các đảng viên của Đảng ta, đó là “đảng viên thường” và “đảng viên
có chức quyền”. Ở đây, chức sắc tôn giáo giống như đảng viên có chức quyền vậy.
Chức sắc tôn giáo cũng khác với nhà thần học. Nhà thần học là những học giả

tôn giáo và thần học, họ không nhất thiết phải là chức sắc tôn giáo. Một người bình
thường (không là chức sắc tôn giáo) cũng có thể là một nhà thần học2.
ở nước ta, theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, trong mục giải thích các từ ngữ
(khái niệm) đã làm rõ khái niệm chức sắc tôn giáo và nhà tu hành tôn giáo từ phương
diện quản lý Nhà nước đối với tôn giáo.

1
2

Cũng để nói đến giới tăng lữ.
Xem: http: //www.wikipedia.org (Từ điển Bách khoa mở).


Theo đó:
Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.
Còn, Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng
theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo 3.
Trên thực tế, những người không có tôn giáo thường bị, hoặc là nhầm lẫn chức
sắc tôn giáo với nhà tu hành, hoặc với chức việc của tôn giáo (là những người hoạt
động tôn giáo không chuyên nghiệp trong các tôn giáo); hoặc là đồng nhất các khái
niệm đó vào một khái niệm chức sắc tôn giáo.
Vậy, nắm vững khái niệm chức sắc tôn giáo, theo tinh thần Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo cần chú ý đến việc hội đủ 3 dấu hiệu căn bản như sau:
Một, trước hết, chức sắc tôn giáo phải là tín đồ của một tôn giáo. Vì thế, có
người còn gọi chức sắc tôn giáo là “tín đồ đặc biệt”.
Hai, họ phải là người có chức vụ nhất định trong tổ chức giáo hội tôn giáo. Bởi
vì tổ chức tôn giáo chính là nền “hành chính đạo”, điều hành, quản lý toàn bộ hoạt
động tôn giáo và gắn với đó là những vị trí cao thấp khác nhau (chức vụ) do mỗi người
đảm trách. Theo đó, với những tôn giáo không có tổ chức thì sẽ không có chức vụ,
chức sắc.

Ba, họ còn phải có phẩm sắc (phẩm trật) tôn giáo, do công lao tu tập của họ và
được tổ chức tôn giáo suy tôn, thừa nhận và cho hưởng (tất nhiên là phải có và phải
theo quy định gắn với lễ nghi) chiểu theo công trạng, đạo hạnh, thời gian tu tập và
cống hiến của họ cho tôn giáo đó.
Theo đó, ở nước ta hiện nay, trong các tôn giáo lớn, có Phật giáo Hoà Hảo,
ngay từ khi ra đời đã chủ trương không có chức sắc và hàng giáo phẩm, nên tôn giáo
này chỉ có các chức việc chứ không có chức sắc.
Tuy nhiên, khái niệm chức sắc tôn giáo được định nghĩa như trên cũng chỉ mới
xuất phát từ phương diện quản lý Nhà nước đối với tôn giáo hiện nay ở nước ta và
cũng chưa phải đã đáp ứng đầy đủ cho công tác tôn giáo, càng chưa thể thoả mãn đối
với nhận thức về tôn giáo nói chung. Vì thế, khái niệm chức sắc tôn giáo sẽ còn có
những định nghĩa khác nữa của các ngành khoa học liên quan đến tôn giáo và việc này

3

Ban tôn giáo Chính phủ (2004), Tài liệu phổ biến Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo, NXB Tôn giáo, Hà nội, tr.3.


là tất nhiên, như một sự tìm tòi, phát triển nhận thức rất đáng được khuyến khích. Hơn
nữa, bản thân mỗi tôn giáo cũng lại có những quy định cụ thể về chức sắc của tôn giáo
mình.
Với tinh thần đó, chúng tôi xin nêu ra, như là sự bổ sung vào các định nghĩa đã
có về khái niệm chức sắc tôn giáo. Đó là: Chức sắc tôn giáo là tín đồ tôn giáo, có vai
trò lớn trong các hoạt động tôn giáo: Truyền đạo, hành đạo và quản đạo, được cộng
đồng, tổ chức tôn giáo suy tôn và thừa nhận.
Với định nghĩa này, tính chu diên của khái niệm chức sắc tôn giáo là rộng hơn
so với định nghĩa trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, vì chúng tôi không đưa vào nội
hàm khái niệm dấu hiệu “phẩm sắc tôn giáo”. Theo định nghĩa này, chức sắc tôn giáo
không chỉ bao gồm những người có chức vụ trong tôn giáo, mà còn có cả những ai có

trọng trách trong hành đạo và truyền đạo. Họ gồm những người tu hành và không tu
hành, như chức việc... Về truyền đạo, đây là bổn phận của mọi tín đồ, nhưng với tín đồ
không được đào tạo, không phải là nhà hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp và bán
chuyên thì những người tín đồ bình thường không thể có khả năng lớn như chức sắc
của họ. Theo định nghĩa này, chức sắc tôn giáo chính là những đối tượng đặc biệt quan
trọng mà công tác tôn giáo phải có sự quan tâm thường xuyên. Điều này lý giả tại sao
các cơ quan làm công tác tôn giáo ở nước ta khi nói đến chức sắc tôn giáo thường gọi
ra cả các nhà tu hành, chức việc tôn giáo... Trong đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử
dụng định nghĩa chức sắc tôn giáo ở Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo để đảm bảo mục
tiêu đề tài, nhưng trong một số trường hợp, sẽ sử dụng định nghĩa như đã đưa ra trên
đây.
1.1.2. Chức sắc một số tôn giáo lớn ở Việt Nam
1.1.2.1. Chức sắc Phật giáo
Chức sắc Phật giáo gồm có tăng và ni (Riêng hệ phái Nam tông không có ni và
không phải tăng ni nào cũng là chức sắc). Theo lời giáo huấn của Phật tổ Thích Ca
Mâu Ni, những tăng ni phải sống một cuộc sống thiền định khổ hạnh, như những
người hành khất suốt 9 tháng trong một năm. Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện đại, chức
sắc Phật giáo đã có những thay đổi rất lớn giữa các quốc gia. Ví dụ, đối với một số
tông phái Phật giáo ở Triều Tiên, Nhật Bản, các chức sắc Phật giáo có thể được lập gia
đình (ở miền Nam nước ta cũng có một số “kinh sư” có vợ con). Cũng như các nhà tu


hành Phật giáo ở Tây Tạng không nhận thụ phong mang tính (tôn giáo) Phật giáo là
phổ biến hiện nay. Còn ở các quốc gia khác theo Phật giáo Nam tông (Theravada), như
Thái Lan, Brunây, Srilanca, có khuynh hướng duy trì quan điểm bảo thủ về đời sống
tôn giáo và tiếp tục giữ ý kiến cấm các tăng không được đụng chạm vào phụ nữ và làm
những công việc thế tục.
Trong khi chức sắc Phật giáo, là nữ giới, đều có ở hầu hết các nước có Phật
giáo, thì từ thế kỷ XI – XV, tại các nước theo Phật giáo Nam tông ở Đông Nam á và
Srilanca không có chức sắc Phật giáo là nữ giới, và đây vẫn là chủ đề gây tranh luận

hiện nay.
Sự đa dạng hoá của các tông phái Phật giáo gây khó khăn cho việc xác định
chức sắc Phật giáo. Các tăng sỹ Phật giáo Nam tông ở Thái lan sống ẩn dật trong rừng,
cuộc đời tận hiến cho thiền định, thực hành sự khổ hạnh, họ sống thành những cộng
đồng nhỏ ở các vùng nông thôn, cuộc sống khác xa so với các tu sỹ ở thành phố. Trong
tông phái Thiền, chức sắc lao động chân tay là một phần quan trọng của đời sống tôn
giáo; trong khi đó đối với Phật giáo Nam tông vẫn cấm các tăng sỹ làm việc như
những người lao động bình thường và nông dân.
ở nước ta, chức sắc, phẩm trật của Phật giáo bao gồm: Đối với nam (tăng), từ
thấp đến cao là Đại đức, Thượng tọa và Hòa thượng; tương đương như vậy đối với nữ
(ni) là Ni sư và Ni trưởng (Phật giáo Nam tông không có ni). Họ là những người xuất
gia tu hành, theo quy định, phải được phép của cha mẹ, không bị tàn tật, đui què,
không nói ngọng, không phải là tội phạm hay kẻ trốn nợ... và họ phải được tăng chúng
trong chùa hay tự viện đồng ý. Người mới xuất gia tu hành gọi là “tiểu” hay “điều”.
Sau một thời gian tập sự, được tăng chúng đồng ý, họ được thụ giới Sa-di
(Sranmanera), người nước ta quen gọi là “sư bác”. Tiếp sau 10 năm hoặc lâu hơn, sa di, nếu được tăng chúng nhận xét là có đủ tư cách và trình độ thì được thụ giới “tỷ
kheo” (Bihkkhu), qua một giới đàn được tổ chức trọng thể và họ được gọi là “đại đức”
hay “sư ông”4. Tiếp nữa, những tỷ kheo có nhiều tuổi hạ5, có đạo hạnh và trình độ Phật
4

Chú thích: Vì khiêm tốn, nên nhiều vị muốn được gọi là “sư ông”.
Chú thích: Một năm các vị tăng ni có 3 tháng, vào hè, hay có mưa, tại một
ngôi chùa, hay tự viện để tu học (goi là Hạ an cư hay Vũ an cư). Đó là mùa
An cư kiết hạ của Phật giáo. Tăng ni được tính thời gian tu hành theo tuổi
hạ: Mỗi tuổi hạ là một tuổi tu. ở Việt nam, thời gian An cư kiết hạ là từ
rằm tháng Tư (Phật Thích Ca đản sinh) đến rằm tháng bảy (Lễ Vu Lan) theo âm
lịch.
5



học cao thì được suy tôn là Thượng toạ, cao hơn là Hoà thượng. Ở Việt Nam, theo quy
định, tỷ kheo để đạt phẩm Thượng toạ phải có 25 tuổi hạ và 45 tuổi đời, còn Hoà
thượng, phải có 40 tuổi hạ và ít nhất là 60 tuổi đời. Đối với Ni sư và Ni trưởng cũng
tương tự như vậy
1.1.2.2. Chức sắc Công giáo
Hàng giáo phẩm Công giáo bao gồm: phó tế, linh mục, giám mục. Trong số các
giám mục, một số người là tổng giám mục, đó người đứng đầu giáo tỉnh. Giáo hoàng
là giám mục của toà thánh Rôma. Các hồng y có thể là giám mục hoặc không. Đã có
một số hồng y xuất phát là những người bình thường, không thuộc hàng giáo phẩm
công giáo. Khác với nhiều tôn giáo khác, đối với giáo hội Công giáo, chỉ có nam giới
mới có thể trở thành giáo sỹ. Hầu hết các hàng giáo phẩm trên đều là chức sắc tôn
giáo, theo quan niệm của chúng ta.
Về bản chất, tổ chức chức sắc, giáo sỹ Công giáo có tính chất thứ bậc. Trước
Công đồng Vatican II, một người muốn trở thành giáo sỹ sẽ nhận 4 chức nhỏ và các
chức lớn (trước phó tế, phó tế, linh mục và giám mục). Hiện nay, các chức vụ nhỏ và
chức trước phó tế được thay thế bởi các lớp học thế tục và giáo sỹ Công giáo không
phải cạo đầu. Đối với các giáo hội phương Đông, những phó tế, linh mục, giám
mục,v.v. đều được gọi là “cha”. Trong khi đó, các giáo hội Công giáo các nước La tinh
và phương Tây, chỉ có linh mục được gọi là “Cha”, phó tế vẫn gọi là phó tế, còn giám
mục được gọi với nhiều danh xưng khác nhau. Sự phân biệt này dẫn đến một số vấn đề
trong nghi thức Công giáo, như việc mặc trang phục chức sắc, ký tên, đặc biệt khi
tham gia sinh hoạt trong những thiết chế Công giáo La Mã. Để trở thành một linh mục,
Giáo luật Công giáo nêu rõ, quá trình đào tạo gồm 2 năm nghiên cứu triết học, 4 năm
học thần học. Điều này phản ánh truyền thống giáo dục của giáo hội Công giáo và hiện
nay cũng là như vậy.
Cần chú ý là, những thày tu và người tu hành không phải là chức sắc nếu họ
không nhận chức thánh qua một bí tích là Truyền chức thánh6.
Theo nghi thức Công giáo, cuộc sống độc thân và vâng phục là những điều kiện cần
và đủ để được phong chức phó tế và linh mục. Cuộc sống độc thân diễn ra dưới nhiều hình
6


Truyền chức thánh, đó là một trong 7 phép bí tích của Công giáo, được thực
hiện đối với các tín đồ có ơn riêng của Thiên chúa trở thành thừa tác viên
(giám mục, linh mục, phó tế, thay mặt Thiên chúa chăn dắt tín đồ.


thức, ở những thời gian và không gian khác nhau. Công đồng Trullo (năm 692) cấm các
giám mục kết hôn, nhưng không ngăn cấm nam giới đã kết hôn trở thành linh mục, và
những phó tế đã bị rút phép thông công có thể được thụ phong. Nguyên tắc này vẫn được áp
dụng đối với các phó tế của Giáo hội Công giáo La tinh và cho các linh mục của Giáo hội
Công giáo phương Đông.
Chức sắc Công giáo có 4 quyền (cổ điển) sau:
- Quyền giáo sỹ: cấm bất kỳ ai có hành động bạo lực hay hành động khiếm nhã
đối với chức sắc Công giáo.
- Quyền toà án: Chức sắc Công giáo chỉ bị xét xử bởi toàn án thuộc giáo hội.
Đế chế Constantine đã đưa ra quyền này chỉ cho các giám mục, nhưng sau đó, Nghị
định Đế chế (Imperial Decree) đã mở rộng quyền này cho tất cả các chức sắc.
- Quyền miễn thực hiện: chức sắc Công giáo được miễn nghĩa vụ quân sự hoặc
những nhiệm vụ không phù hợp với vai trò của họ.
- Quyền về thu nhập: chức sắc có một phần nhất định trong thu nhập để đảm
bảo cuộc sống.
Việc công nhận những quyền này theo luật dân sự là cả một sự khác nhau rất
lớn giữa các quốc gia. Dưới góc độ truyền thống, hiện nay các quốc gia Công giáo có
xu hướng tôn trọng những quyền này.
Về cách gọi, ở Việt Nam, tín đồ gọi linh mục là Cha, giám mục là Đức cha và
giáo hoàng là Đức thánh cha7.
1.1.2.3. Chức sắc Đạo Tin lành
Chức sắc đạo Tin lành thực hiện nhiều vai trò và chức năng khác nhau. Nhiều
hệ phái Tin lành, như Methodism, Trưởng lão, Lu thơ, vai trò của chức sắc giống với
chức sắc của Anh giáo và Công giáo La mã. Họ tổ chức các giáo hội, thực hiện các bí

tích, giảng kinh thánh, lãnh đạo giáo hội địa phương, v.v. Hệ phái Bắp tít chỉ công
nhận hai loại chức sắc, là Mục sư và Phó tế được nêu ra ở chương 3 phần I Timonthy
trong Kinh thánh. Giáo hội Trưởng lão xem Mục sư như là người nói trước công

7

Chú thích: Tín đồ gọi linh mục là cha còn tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, như có
thể gọi: cha già (nếu muốn nhấn mạnh vào tuổi tác), cha giáo (nếu linh mục
đã qua giảng dạy ở chủng viện), cha linh hồn (nếu muốn nhấn mạnh phận vụ về
linh hồn), cha bề trên (nếu linh mục là bề trên một dòng tu), cha linh hướng
(nếu ở tu viện hoặc tu hội), cha tuyên uý (nếu linh mục trong quân đội), cha
xứ (nếu linh mục được giao cai quản giáo xứ)…


chúng hơn là thực hiện nghi lễ. Danh xưng Mục sư vẫn thường được sử dụng, nhưng
vị trí chính thức phải gọi là Trưởng lão. Có hai loại Trưởng lão, là người giảng dạy
(mục sư) và người lãnh đạo (những người lãnh đạo tổ chức Tin lành).
Quá trình trở thành chức sắc đạo Tin lành, cũng giống như tổ chức giáo hội
khác nhau giữa các hệ phái và nhóm Tin lành. Một số hệ phái Tin lành, như phái
Methodism, Trưởng lão, Lu thơ tổ chức theo thứ bậc; việc phong chức sắc do hệ phái
“cha mẹ” (hệ phái gốc) thực hiện. Trong các hệ phái khác, chẳng hạn như Bắp tít và
các nhóm Tin lành khác, các giáo hội địa phương thường tự phong chức cho đội ngũ
chức sắc của chính họ, mặc dù các mẫu hội (hệ phái gốc) vẫn giới thiệu các ứng viên
cho các giáo hội địa phương và khuyến khích các giáo hội địa phương xem xét lựa
chọn những ứng viên này khi bầu cử8.
Một số hệ phái Tin lành đòi hỏi các ứng viên chức sắc phải được thử thách
trong đoàn mục sư trong một khoảng thời gian nhất định (thường từ 1 đến 3 năm)
trước khi được thụ phong. Thời gian này dùng để thực hiện những nhiệm vụ của đoàn
mục sư dưới sự hướng dẫn, chỉ dẫn và đánh giá của một mục sư có kinh nghiệm hơn.
Đáng chú ý là, tất cả các giáo hội Tin lành đều bác bỏ ý tưởng (sau Luther) cho

rằng chức sắc là một tầng lớp riêng biệt. Trên cơ sở cách tiếp cận thần học này, các tín
đồ Tin lành không có lễ thụ phong giống như các Giáo hội tiền cải cách. Vì vậy, việc
thụ chức trong đạo Tin lành được hiểu như một tuyên bố công chúng của người đang
thụ chức, cho rằng mỗi cá nhân đang sở hữu vốn tri thức thần học, những phẩm chất
đạo đức và các kỹ năng thực tiễn để đáp ứng cho việc phục vụ trong đoàn mục sư của
nhóm tôn giáo.
Ngoài ra còn lưu ý, một số hệ phái Tin lành không thích dùng từ chức sắc và
không sử dụng nó cho những người lãnh đạo của chính họ. Họ thường chỉ gọi là mục
sư hay người đứng đầu và danh xưng này đôi khi được sử dụng cho những người nắm
giữ chức vụ nhất định trong giáo hội Tin lành.
ở nước ta, chức sắc đạo Tin lành gồm có: Mục sư và truyền đạo (giảng sư). Ở
nước ta, có chức sắc Tin lành được gọi là “mục sư nhiệm chức”, thì nhiều trường hợp,

8

Có thể so sánh, như việc cấp Trung ương của Đảng và nhà nước giới thiệu
người của cấp mình về cho các địa phương bầu.


họ chỉ là chức truyền đạo, nhưng do họ đảm trách mục vụ tại một nhà thờ cụ thể (giáo
hội cơ sở) nên được gọi như vậy.
1.1.2.4. Chức sắc Hồi giáo
ở Việt Nam, người theo Hồi giáo chủ yếu là đồng bào dân tộc Chăm (người dân
tộc Kinh chỉ có vài trăm người, ở Tân Bửu, Long An và Hà Nội, còn người dân tộc
thiểu số, ngoài người Chăm, không có). Khác với Hồi giáo trên thế giới, ở nước ta,
chức sắc Hồi giáo gồm có 2 loại: Chức sắc Islam và chức sắc Bà ni. Chức sắc Islam
gồm:
Giáo trưởng, Ommal: người đứng đầu Hồi giáo tỉnh;
Ha kem (Giáo cả): Người cai quản thánh đường;
Nai Ha kem (phó giáo cả);

Ahly: Người đứng đầu thôn ấp Hồi giáo;
Imâm: Người hướng dẫn tín đồ cầu nguyện tại thánh đường…
Đối với Hồi giáo (Islam giáo), thuật ngữ “imam” nói chung được sử dụng để
nói tới những người lãnh đạo tôn giáo này, từ những người đứng đầu một nhóm tín đồ
đến những học giả nghiên cứu tôn giáo, mà không liên quan đến việc thụ chức tôn
giáo.
Riêng đối với Hồi giáo cũ, là đạo Bà ni, thì tên gọi các chức sắc có khác hơn.
Chức sắc Bàni có 4 cấp, cao nhất là Sư cả (Thày Gru), người quyết định hầu hết mọi
vấn đề đời sống tôn giáo của tín đồ; cấp thứ hai là Mum, người điều khiển các buổi lễ
tại chùa Bàni; cấp thứ 3 là Khotip hay Tip, chỉ đảm nhận một số nghi lễ tại chùa, hay
tư gia mà không đảm nhận việc giảng giáo lý; cấp thấp nhất là thày Chang gồm những
người mới nhập tầng lớp tu sĩ. Chức sắc Bàni duy trì theo chế độ cha truyền con nối.
1.1.2.5. Chức sắc Đạo Cao đài
Đạo Cao đài, do có nhiều hệ phái và chức sắc lại vừa có sự hạn định và không
hạn định về số lượng cụ thể cho những cấp bậc nhất định nên có số lượng rất đông.
Chức sắc của đạo ở cơ quan Hiệp thiên đài là Hộ pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh và
các Thời quân (12 người). Còn của cơ quan Cửu Trùng đài có 9 bậc (cửu phẩm), là:
Giáo tông, Chưởng pháp (3 người), Đầu sư (3 người), Phối sư (36 người), Giáo sư (72
người), Giáo hữu (3000 người), Lễ sanh (không hạn định), Chánh trị sự, Phó trị sự và
Thông sự (có nơi không coi Chánh trị sự, Phó trị sự và Thông sự là chức sắc).


Riêng đối với phái nữ, chức sắc của đạo Cao đài chỉ có từ phẩm Đầu sư trở
xuống.
1.1.2.6. Chức việc của Phật giáo Hoà Hảo
Phật giáo Hoà Hảo ngay từ khi mới ra đời đã có chủ trương không thành lập
hàng giáo phẩm, không có chức sắc, thậm chí, không có cả cơ sở thờ tự và mọi tín đồ
chỉ tu tại gia. Vậy nên theo định nghĩa chức sắc tôn giáo của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo thì Phật giáo Hoà Hảo không có chức sắc (do không có phẩm tôn giáo), mà chỉ có
chức việc; còn theo quan niệm của chúng tôi thì có. Đó chính là những người trong

Ban trị sự Phật giáo Hoà Hảo ở cấp Trung ương và cấp cơ sở (tổ chức có 2 cấp).
Theo số liệu thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2005 và của một số
tôn giáo ở nước ta, hiện nay tổng số đội ngũ chức sắc, tu sỹ và chức việc của 12 tôn
giáo đã có tư cách pháp nhân, là: 102.387 người [Xin xem cụ thể ở phần phụ lục].
Theo đó, bình quân cứ 2.000 tín đồ tôn giáo thì có 9 người là chức sắc, tu sỹ và chức
việc. Đây là đội ngũ khá đông đảo, nhưng nếu xét về yêu cầu của mỗi tôn giáo cụ thể
thì số lượng đó chưa đáp ứng, còn về chất lượng của họ, nhìn chung giáo hội các tôn
giáo đều nhận thấy vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển của từng tôn giáo.
Điều này sẽ được phân tích tiếp theo ở các chương sau.
Như vậy, việc làm rõ về khái niệm chức sắc tôn giáo là rất cần thiết và cho đến
nay, nhận thức xã hội về vấn đề này đã có nhiều bước tiến. Tuy nhiên, cũng như các khái
niệm khác, từ phương diện nhận thức khoa học, thì không có và cũng không nên, chỉ có
một vài cách hiểu (định nghĩa). Vậy sự phát triển của khái niệm này là tất nhiên và cần
thiết không chỉ đối với nhận thức, mà quan trọng hơn là đối với thực tiễn công tác tôn
giáo của HTCT nước ta hiện nay.
1.2. Vai trò của chức sắc tôn giáo
1.2.1. Vai trò của chức sắc tôn giáo nói chung trong các hoạt động tôn giáo
Chức sắc tôn giáo có vị trí, vai trò rất quan trọng trong cộng đồng tín ngưỡng,
tôn giáo, họ là nòng cốt của các giáo hội, quyết định đường hướng hoạt động của các
giáo hội, giữ vị trí chủ chốt, đến quyết định, trong các hoạt động "Hành đạo", "Quản
đạo" và "Truyền đạo".


Trong hoạt động hành đạo: Họ là người “thay mặt đáng thiêng liêng” chăn dắt,
chăm lo phần hồn cho các tín đồ. Tuy nhiên đối với chức sắc của đạo Tin lành thì họ
chỉ là người hướng dẫn tín đồ sinh hoạt tôn giáo, chứ không phải “thay mặt đáng
thiêng liêng”.
Trong hoạt động quản đạo: Họ là người quản lý, tổ chức giáo hội.
Còn trong hoạt động truyền đạo: Họ tham gia như là trụ cột trong công tác
truyền đạo, phát triển tín đồ các tôn giáo.

Chức sắc tôn giáo có vai trò, vị trí rất quan trọng như vậy và các giáo hội tôn
giáo đều nhận ra rằng, sự mạnh, yếu, sống còn của tôn giáo mình là ở chất lượng cao
hay thấp của đội ngũ chức sắc. Đặc biệt, hiện nay nhiều giáo hội đang hoài vọng nhiều
ở đội ngũ chức sắc trẻ trung của mình. Về tình hình này, Thượng tọa Thích Thiện Bảo
(Ban Hoằng pháp Trung ương - Giáo hội Phật giáo Việt Nam) ấp ủ: Phật giáo Việt
Nam muốn phát triển, không có con đường nào khác là phải đầu tư cho tăng ni trẻ. Đối
với Phật giáo Việt Nam, đây là một suy nghĩ hợp lý.
Chức sắc tôn giáo còn có vị trí, vai trò là người đại diện cho tôn giáo của mình
ở các cơ sở thờ tự, hoặc ở các cấp khác nhau của giáo hội trong mối quan hệ với chính
quyền, cũng như với các tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị. Đây là mối quan hệ
thường xuyên, trong đó, nhiều nội dung quan hệ cụ thể với chính quyền các cấp, chức
sắc tôn giáo còn phải gắn trực tiếp trách nhiệm pháp lý đối với Nhà nước.
Chức sắc tôn giáo còn có vị trí, tư cách nhất định trong quan hệ của tôn giáo
mình với các tôn giáo khác. Đây cũng là mối quan hệ thường xuyên và rất quan trọng
trong việc đảm bảo sự đoàn kết giữa các tôn giáo. Quan hệ này, một mặt được quy
định bởi pháp luật và mặt khác, bởi luật lệ, lễ nghi của tôn giáo, cũng như còn theo
phong tục truyền thống của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và cả tình cảm cá nhân và
xã hội nữa.
Trong hoạt động tôn giáo, không thể thiếu các mối quan hệ quốc tế. Đó là mối
quan hệ đồng đạo, hoặc khác đạo mang tính quốc tế. Quan hệ quốc tế của các tôn giáo
được các giáo hội tôn giáo đặc biệt quan tâm. Với mối quan hệ quốc tế này, chức sắc
các tôn giáo luôn tỏ ra có vai trò to lớn, nhất là trong tình hình mở rộng giao lưu quốc
tế và toàn cầu hoá hiện nay. Các giáo hội tôn giáo rất coi trọng mối quan hệ này và
luôn nhận thấy chức sắc của họ là người trực tiếp thực hiện, mà qua đó, có thể làm


nâng cao, hay hạ thấp uy tín, ảnh hưởng của mỗi tôn giáo, thậm chí của quốc gia, trên
trường quốc tế.
1.2.2. Vai trò của chức sắc Phật giáo và Công giáo trong đời sống xã hội
Việt Nam

1.2.2.1. Vai trò của chức sắc Phật giáo trong đời sống xã hội nước ta
Trong lịch sử dân tộc, tăng ni Phật giáo có những đóng góp nhất định trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ thế kỷ thứ X, sau khi đất nước ta dành
được độc lập từ trong tay các thế lực phong kiến phương Bắc, vai trò của các tăng sĩ
Phật giáo đã là rất lớn, bằng việc tham gia vào các công việc triều chính. Thời nhà
Đinh, thiền sư Ngô Chân Lưu (thuộc phái Vô Ngôn Thông), do có nhiều công lao, đã
được phong chức Tăng thống và ban hiệu, năm 971, là “Khuông Việt Đại sư” (Khuông
Việt: người giúp, phò nước Việt). Sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, ông đã cùng thiền sư
Đỗ Pháp Thuận tiếp tục có những đóng góp cho đất nước và được vua Lê Đại Hành
đánh giá cao. Sách Thiền Uyển Tập Anh viết: “Vua Lê Đại Hành rất kính trọng, phàm
những việc quân quốc trong triều đình đều đưa cho ngài cả”.
Thời Tiền Lê, các thiền sư như Pháp Thuận (mất năm 991), Vạn Hạnh (mất
năm 1016) thuộc thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi có một vai trò đặc biệt. Pháp Thuận
giúp Lê Đại Hành lên ngôi vua. Thiền Uyển Tập Anh viết về ông như sau: “Trong
buổi đầu sáng nghiệp của triều Lê, ông có công trù tính, và quyết định kế hoạch cùng
chính sách; nhưng khi thiên hạ đã thái bình rồi thì không chịu nhận phong thưởng. Vua
Lê Đại Hành rất kính trọng, không gọi tên, chỉ xưng hô là Đỗ Pháp sư mà thôi”. Khi
sứ giả nhà Tống đến kinh thành Hoa Lư bang giao, vua Lê Đại Hành cử ông cải trang
là người lái đò đón tiếp. Viên sứ giả Thiên triều rất thán phục ông và câu chuyện này
đã được Nguyễn Lang kể lại trong “Việt Nam Phật giáo sử luận”.
Khi đó, nhờ có Thiền sư Đỗ Pháp Thuận và Thiền sư Khuông Việt phò tá mà
nhà Tiền Lê củng cố xã tắc. Vua Lê Đại Hành coi trọng và cử Ông đảm trách công
việc ngoại giao, đã mở ra mối quan hệ hoà hảo giữa nước ta với Trung Hoa. Còn Thiền
sư Vạn Hạnh là người họ Nguyễn ở Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay), vốn có tư
chất thông tuệ, thấu hiểu cả tam giáo (Nho, Đạo, Phật). Ông được vua Lê Đại Hành
tôn kính bởi những dự báo thiên tài về thất bại của quân Tống do Hầu Nhân Bảo cầm
đầu sang xâm lược nước ta và sẽ thắng khi đem quân sang Chiêm Thành cứu sứ giả.


Ngoài ra, còn bởi ông có những tham mưu chính sự vô cùng hữu ích giúp cho triều

Tiền Lê.
Thời Lý, Trần là các thời đại hoàng kim của Phật giáo, là thời kỳ Phật giáo có
nhiều đóng góp quan trọng cho dân tộc trên lĩnh vực điều hành chính sự qua các vị
thiền sư nổi tiếng. Thiền sư Vạn Hạnh khuông phò nhà Tiền Lê, song khi nhận ra triều
đại đó đang đi vào ngõ cụt, tỏ ra lỗi thời, lạc hậu, không còn đủ năng lực lãnh đạo dân
tộc, bằng tuệ giác của mình, ông không nhầm lẫn khi tìm ra một nhân vật có đủ tài,
đức để thống lĩnh Đại Việt, đó là Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn. Ông nói với Lý
Công Uẩn: “Mới rồi tôi trông thấy lời sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh, tất dấy
nên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng
ông là người khoan từ, nhân thứ, mà lại được lòng dân chúng mà binh quyền nắm
trong tay, người đứng đầu muôn dân, chẳng phải ông thì còn ai đương nổi nữa”9.
Quốc sư Vạn Hạnh cũng là người có đóng góp không nhỏ trong việc thuyết
phục Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long để thuận lợi cho việc xây dựng và
bảo vệ đất nước lâu dài. Trong Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ có ghi: Thăng Long ở
giữa khu vực trời đất, ở giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất
rộng, bằng phẳng, muôn vật phồn vinh,… Đã có ý kiến cho rằng, đồ án kinh thành
Thăng Long chính là công trình tư duy của Thiền Sư Vạn Hạnh. Vậy sắp tới rồi, Hà
Nội kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, để tri ân công trạng của nhà Lý, có lẽ
bên cạnh Lý Thái tổ, chắc rằng cũng sẽ có những nội dung nói về vai trò, công lao của
vị Quốc sư Vạn Hạnh.
Triều Lý đã tồn tại 215 năm, được xem là một triều đại thái bình nhất trong lịch
sử các triều đại phong kiến nước ta, đó chính là nhờ ảnh hưởng của đạo Phật. Về vai
trò và những tố chất ấy, ta có thể nghe Thiền sư Viên Thông nói với vua Lý Thần
Tông, rằng: “Thiên hạ cũng như bất cứ cái gì, hễ đặt nó vào chỗ an thì an, đặt nó vào
chỗ nguy thì nguy: điều này trông vào hành động của bậc nhân chủ (vua). Nếu đức tôn
trọng sự sống của vua mà hợp với lòng dân khiến cho dân yêu mến vua như cha như
mẹ, ngưỡng mộ vua như mặt trời, mặt trăng, như thế là đặt thiên hạ vào đúng chỗ an
đó. Trị và loạn cũng do ở sự dùng người, nếu có người tốt giúp rập thì trị, mà không có
thì loạn. Tôi thấy các bậc đế vương đời trước không ai không vì dùng bậc quân tử mà
9


Đại Việt sử ký toàn thư, T 1, NXB KHXH, H 1985, tr 185, 186.


hưng, không ai không vì dùng bậc tiểu nhân mà vong. Tình trạng không phải chuyện
một sáng một chiều mà từ từ xảy ra vậy. Trời đất không phải từ lạnh đổi sang nóng
ngay tức khắc, mà phải đi dần dần từ xuân sang thu, bậc vua chúa không hưng hay
vong đột ngột mà hưng vong từ từ tùy theo tính cách thiện hay ác của họ. Bậc thánh
vương đời xưa biết thế nên mới bắt chước đức của trời mà tu thân không ngừng, noi
theo phép của đất mà an dân không nghỉ. Tu thân là thận trọng ở bề trong, giun sợ như
giẫm trên băng mỏng. An dân là kính trọng kẻ dưới, hãi hùng như cưỡi ngựa nắm dây
cương mục. Theo đó thì hưng mà không theo thì vong. Sự hưng vong chỉ từ từ mà xảy
đến”.10
Thời Trần, năm 1236, khi vua Trần Thái Tông bỏ lên núi Yên Tử toan đi tu,
Đạo Viên (Trúc Lâm Quốc sư) khuyên vua trở về với cương vị đế vương: “Trong núi
vốn không có Phật. Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng, tuệ hiện, đó chính là Phật. Nếu
bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì thành Phật ngay tại chỗ, không phải đi tìm Phật cực
khổ ở bên ngoài. Phàm làm đấng nhân quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý
muốn của mình, và tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn bệ hạ về,
bệ hạ không về sao được? Chỉ mong bệ hạ đừng xao lãng việc nghiên cứu Phật học"11.
Rồi Trần Thái Tông học Phật theo lời khuyên nhủ của Trúc Lâm quốc sư, ông
làm vua nhưng không tham quyền hành, cố vị, không tham phú quý, xem việc đứng
trên muôn người chỉ là sự “miễn cưỡng”. “Ròng rã trong mười năm trời, mỗi khi có cơ
hội việc nước nhàn rỗi, trẫm lại tụ họp các bậc kỳ đức để học hỏi đạo thiền. Các kinh
điển của hệ thống giáo lý chính, không kinh nào là trẫm không nghiên cứu” (Bài tựa
Thiền Tông chỉ nam).
Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ, hiệu là Hưng Ninh Vương, anh cả của Trần Hưng
Đạo, tên gọi Trần Quốc Tung, có công trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược
Mông – Nguyên, có trình độ uyên thâm về Phật học. Khâm phục học lực của ông nên
Trần Thái Tông gọi ông là Thượng Sĩ (cũng có nghĩa tương đương như Bồ Tát). Còn

Trần Thánh Tông đã giao con là Trần Nhân Tông cho ông dạy dỗ. Là người tu học
uyên bác nhưng Tuệ Trung không nệ luật. Ông sẵn sàng ăn mặn. Ông không chỉ phá
10

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học 1994, T 1, tr 216217.
11
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học 1994, T 1, tr 221222.


đổ khái niệm mà còn tháo dỡ mọi bức tường mê ngộ và phàm thánh. “Đây quả là
phương pháp đốn ngộ của đại thừa: nó hiến dâng cho con người có thiện căn, thiện trí
cơ hội giác ngộ đột ngột khỏi cần trải qua trung gian và hàng chục năm tham khảo”12.
Cách sống, thái độ của Tuệ Trung, giống như các vị bồ tát, là dấn thân và hoà mình
vào cuộc đời để phụng sự chúng sinh. Trần Nhân Tông viết về người thày khai sáng
tâm linh cho mình như sau: “Thượng Sĩ sống giữa lòng thế tục, hoà ánh sáng mình
trong cuộc đời bụi bặm; trong mọi cuộc tiếp xúc Thượng Sĩ luôn giữ thái độ hoà ái nên
chưa bao giờ gặp phải những trường hợp phiền nghịch. Do đó, ngài có thể làm tiếp nối
được hạt giống chính pháp, dìu dắt những kẻ mới học. Ai đến tham cứu tìm học với
ngài cũng được ngài chỉ dẫn sơ lược cho thấy phần cương yếu của đạo pháp khiến cho
tâm họ có chỗ nương tựa. Thượng Sĩ không bị dàng buộc bởi hình thức; khi thì ẩn
tàng, khi thì lộ diện, ngài không chấp vào hình thức và danh từ”13.
Thời Lý, Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển rực rỡ, các thiền sư Việt Nam
không chỉ là nhà giáo dục, cố vấn về chính trị, mà còn có vai trò đặc biệt trong việc
phát triển văn hoá dân tộc. Bởi vì, họ là những người có học thức uyên bác trong xã
hội đương thời, lại có trách nhiệm chính trị cao cả với quốc gia, dân tộc, có đạo hạnh
sáng ngời và có cuộc sống rất gần gũi với quần chúng nhân dân. Song từ cuối đời Trần
trở đi, đến các triều đại Hậu Lê và Nguyễn, Phật giáo bị rơi vào tình trạng suy thoái.
Theo đó, vai trò của đội ngũ chức sắc Phật giáo trong đời sống xã hội xuống thấp đến
đáy điểm, nhất là trong lĩnh vực chính trị.
Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta, rất nhiều nhà sư đã trực tiếp tham gia

cách mạng. Họ là những người yêu nước, đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống chính
quyền thực dân phong kiến và đế quốc Pháp. Nhiều người bị giặc bắt, tra tấn, cầm tù
và bị chém giết như những chiến sĩ yêu nước khác. Nhà sư Thiện Chiếu khi thực dân
Pháp chất vấn: “Ai xui thày chùa đi biểu tình”, đã khẳng khái trả lời: Thuyết từ bi cứu
khổ của Phật tổ xui Phật tử tham gia những cuộc yêu nước thương dân chứ không ai
xui cả14.

12

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học 1994, T 1, tr 318 –
399.
13
Nguyễn Hồng Dương, Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát triển ở
Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, H 2004, tr 55 - 70.
14
Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB KHXH, H 1998.


Nhà sư Võ Trí, quê Bình Định, đã tổ chức cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp ở
Phú Yên năm 1898, bị bắt và xử tử hình; nhà sư Vương Quốc Chính, quê Cổ Am, Hải
Dương, trụ trì chùa Ngọc Long Động (Chương Mỹ, Hà Tây), đã tổ chức cuộc nổi dậy
đánh thành Hà Nội năm 1898. Nhà sư Cao Văn Long, quê Bến Tre, trụ trì chùa Núi
Cấm – Thất Sơn (An Giang) đã giữ vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa đánh vào
Sài Gòn năm 1916. Viên chưởng lý toà án binh Pháp khi buộc tội ông cũng phải nhận
xét: Một nhà sư có uy tín, khôn khéo, sáng suốt, kiên quyết, nơi nơi đều quen, người
người đều mến. Còn nhà sư Thông Hoà ở chùa Đồng Kỵ (Từ Sơn, Bắc Ninh) đã nhiệt
tình giúp đỡ các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta trong thời kỳ trước cách mạng tháng
Tám. Có thể nói trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều chức sắc Phật
giáo không sợ gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì cách mạng. Thượng toạ Thích Mật Thể
còn tham gia ứng cử và được bầu làm đại biểu quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cũng như vậy, đến thời kỳ chống Mỹ, nhiều chức sắc Phật giáo miền Nam lại
một lòng đi theo cách mạng, dốc sức cùng toàn dân tộc trong sự nghiệp giành độc lập,
thống nhất đất nước. Tiêu biểu đó là các vị như hoà thượng Thích Quảng Đức đã tự
thiêu chống lại chế độ Ngô Đình Diệm; hoà thượng Phó Pháp chủ Thích Minh Nguyệt
bất khuất, kiên cường trước sự tra tấn dã man của Mỹ - Nguỵ, cam chịu tù đày ngoài
Côn Đảo suốt 16 năm; cố hoà thượng Thích Thiện Hoa đã từng thề nguyện: Chúng tôi
cam chịu tù để quốc gia được độc lập…và tất cả công lao của chức sắc Phật giáo Việt
Nam cho công cuộc kháng chiến đã được Đảng và Nhà nước cũng như dân tộc ghi
nhận.
Khi đất nước thống nhất, năm 1981, Phật giáo Việt nam thống nhất vào một tổ
chức, là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Các vị chức sắc Phật giáo tiếp tục phát huy
vai trò của các bậc tiền bối trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Họ chính là những
người đi đầu và trực tiếp hiện thực hoá đường hướng hành đạo của giáo hội Phật giáo
Việt Nam “Đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội”. Nhiều người tham gia vào các cơ
quan dân cử, từ Quốc hội đến Hội đồng nhân dân các cấp và các tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội của nhân dân. Cố hoà thượng Thích Thế Long là chức sắc cao cấp
của giáo hội Phật giáo, giữ chức phó chủ tịch Quốc hội khoá VII. Hoà thượng Thích


Thanh Tứ, phó Ban trị sự thường trực TW GHPGVN đã tham gia đại biểu Quốc hội và
đoàn Chủ tịch TW MTTQ Việt Nam từ nhiều khoá cho đến nay.
Như vậy, chức sắc Phật giáo Việt Nam từ khi dân tộc ta giành được độc lập từ
trong tay các thế lực phương Bắc, đã có vai trò vô cùng to lớn cho sự phát triển của đất
nước và dân tộc. Sau này, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của
dân tộc, nhiều tăng ni đã nghe theo tiếng gọi của Đảng, cởi áo cà sa đi đánh giặc, nuôi
dấu cán bộ, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nhiều ngôi chùa Phật giáo trở thành nơi nuôi
dấu, che chở cho cán bộ cách mạng. Đến ngày nay, chức sắc Phật giáo Việt Nam vẫn
phát huy truyền thống gắn bó với dân tộc, luôn đồng hành với dân tộc. Ngày nay có
thể tăng ni Việt Nam không còn giữ vai trò đặc biệt quan trọng về chính trị, xã hội,

ngoại giao như thời kỳ Lý, Trần… nhưng họ vẫn có vai trò to lớn, trước hết trong đời
sống tâm linh của Phật tử, được tín đồ tôn trọng, mến mộ, nhất là những người đạo cao
đức trọng. Đối với Phật giáo Việt Nam, họ đóng vai trò như là quyết định đến sự phát
triển của cả nền đạo, là những tấm gương về đạo đức, lối sống; đối với xã hội, họ sẵn
sàng tham gia tích cực vào mọi hoạt động xã hội chung. Về thực trạng hoạt động của
họ, chúng tôi sẽ trình bày ở những chương tiếp sau.
1.2.2.2. Vai trò chức sắc Công giáo trong đời sống xã hội nước ta
Nếu như đạo Phật ở Việt Nam có rất nhiều thuận lợi trong vấn đề đồng hành
cùng dân tộc, thì đối với đạo Công giáo, cũng là một tôn giáo ngoại sinh như Phật
giáo, thì vấn đề đó lại khác hẳn. Vấn đề lịch sử chính trị của đạo Công giáo ở Việt
Nam, do gắn quá sâu với âm mưu, hành động xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp,
nên cho tới nay vẫn là điều nhức nhối, tạo ra sự mặc cảm cho cả hai phía: Người Công
giáo và người không Công giáo. Đối với người Công giáo, sự mặc cảm ấy thể hiện rõ
nhất và nặng nề nhất, trước hết là ở đội ngũ chức sắc. Những năm vừa qua, với tư cách
là người nghiên cứu tôn giáo học, tác giả đã nhiều lần tiếp xúc, làm việc với các linh
mục, giám mục Công giáo. Qua đó đã được nghe trực tiếp một số linh mục, có khi
ngay tại Hà Nội, thổ lộ rằng, họ cảm nhận thấy bản thân họ chỉ như là công dân loại 2,
thậm chí, loại 3 của xã hội. Thậm chí, có người còn nói: Chúng tôi như là người không
đáng có ở xã hội này. Đây là tâm tư có thật hiện nay của đội ngũ chức sắc Công giáo,
tất nhiên tính khách quan, mức độ và tính phổ biến đến đâu thì còn phải đi sâu tìm hiểu
hơn nữa.


Tuy nhiên, ở thời nào, hoàn cảnh nào cũng vẫn có không ít chức sắc Công giáo
là người yêu nước, luôn đồng hành cùng dân tộc, sẵn sàng dấn thân vì Tổ quốc. Dưới
triều đại phong kiến nhà Nguyễn, vẫn có những người Công giáo, như linh mục Đặng
Đức Tuấn, Nguyễn Trường Tộ... thể hiện tinh thần yêu nước hết mình, lại có trách
nhiệm rất cao đối với quốc gia, dân tộc, mà đến nay vẫn được người đời nhớ đến với
lòng trân trọng và khâm phục.
Thời kỳ Đảng ta lãnh đạo cách mạng, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp

và chống Mỹ đã không hiếm thấy những tình bạn, tình đồng chí chân thành giữa
những người cộng sản và những nhân vật Công giáo, vốn kiên trì lựa chọn sống Phúc
âm trong lòng dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến gian khổ ấy, ở miền Nam có không
ít vị chức sắc, nhân sĩ Công giáo như luật sư Thái Văn Lung, luật gia Nguyễn Thành
Vĩnh, luật sư Phạm Ngọc Thuần, Kỹ sư Phạm Ngọc Thảo, linh mục Võ Thành Trinh,
Hồ Thành Biên, Hồ Huệ Bá... đã là những người kháng chiến kiên cường và kiên định.
Linh mục Phạm Bá Luật khi đó đã công bố bản tuyên ngôn của người Công giáo Nam
Bộ, trong đó nêu rõ: “Xét rằng người Pháp đã xâm chiếm đất nước Việt Nam chúng ta
và tín đồ các tôn giáo khác đều là anh em, đồng bào phải đoàn kết với nhau để phục vụ
Tổ Quốc”15.
Trên các địa bàn khác của đất nước, nhiều vị chức sắc, trí thức Công giáo cũng
tích cực tham gia kháng chiến. Ở miền Bắc, những tên tuổi như Giám mục Vũ Xuân
Kỷ, Nguyễn Mạnh Hà là những tấm gương mộ đạo và đoàn kết, động viên bà con
Công giáo đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chính quyền cách mạng. Linh
mục Phạm Bá Trực (1898-1954) là một chức sắc Công giáo tiêu biểu. Là người con
của một gia đình Công giáo ở tỉnh Ninh Bình, đồng thời là người con của một dân tộc
có ý chí và khát vọng độc lập, tự do và với đạo đức, tài năng của mình, Linh mục
Phạm Bá Trực được nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội và được Quốc hội bầu vào
Ban Thường trực Quốc hội. Cả cuộc đời, Linh mục Phạm Bá Trực đã gắn bó với lời
dạy của Chúa Giê-su, một lòng tận tụy với vận mệnh dân tộc và luôn cố gắng để cộng
đồng Thiên chúa ở Việt Nam: "Sống phúc âm trong lòng dân tộc". Hoặc như, khi nước

15

Xem: Đại tá, PGS, TS, Trần Minh Thư, Tạp chí CAND, Mối quan hệ giữa Nhà
nước và giáo hội Công giáo Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Xu hướng
phát triển của giáo hội Công giáo Việt Nam và những vấn đề đặt ra…, HN,
tháng 7/2008, tr. 91.



×