Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ CỦA BỆNH TIÊN MAO TRÙNG DOTRYPANOSOMA EVANSI Ở TRÂU, BÒ TẠI LẠNG SƠN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.46 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HOC NÔNG NGHIỆP HÀ
NỘI

HOÀNG QUY

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ CỦA BỆNH TIÊN MAO TRÙNG DO
TRYPANOSOMA EVANSIỞ TRÂU, BÒ TẠI LẠNG SƠN VÀ BIỆN PHÁP
PHÒNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP • • •

Chuyên ngành : THÚ Y Mã số
: 60.62.50

Người hướng dẫn khoa học:TS. NGUYỄN VĂN THỌ

HÀ NỘI - 2008


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kế t quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và hoàn toàn chư a h ề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn này đã được cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Hoàng Quy

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp



i


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo Bộ môn Ký
sinh trùng - Kiểm nghiệm thú sản - Vệ sinh thú y; các thầy, cô giáo Khoa Sau đại học
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội cũng như các thầy cô giáo đã giảng dạy tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn TS Nguyễn Văn Thọ - người Thầy đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và hoàn thành Luận văn này.
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Ban Lãnh đạo Sở Nông nghiệp & PTNT, Chi
Cục Thú y Lạng Sơn, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn
thành chương trình học tập.
Tác giả luận văn

Hoàng Quy

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn


ii

Mục lục

iii

Danh mục các bảng

v

Danh mục biểu đồ

vi

1. Mở đầu

1

1. 1 Đặt vấn đề

1

1.2

Mục tiêu của đề tài

2

1.3


ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

2

2.

Tổng quan tài liệu

3

2.1

Sơ lược lịch sử nghiên cứu Tiên mao trùng, bệnh Tiên mao trùng 3

2.2

Đặc điểm hình thái và phân loại Tiên mao trùng

5

2.3

Một số đặc điểm sinh học của Tiên mao trùng

8

2.4

Những nghiên cứu về dịch tễ học bệnh Tiên mao trùng


9

2.5

Những nghiên cứu về bệnh lý học Tiên mao trùng

18

2.6

Những nghiên cứu về miễn dịch Tiên mao trùng

20

2.7

Các nghiên cứu về phòng trị bệnh Tiên mao trùng

27

2.8

Xây dựng và thực hiện quy trình phòng bệnh Tiên mao trùng cho trâu, bò

3

TV •_ -»*Ả

il ^


T\ Ấ • 1

A • 1



1 • A

29

V

. Địa điêm, thời gian, Đôi tượng, nội dung, nguyên liệu và
phương pháp nghiên cứu
3.1

Địa điểm nghiên cứu

3.2

Thời gian nghiên cứu

3.3

Đối tượng nghiên cứu

3.4

Nội dung nghiên cứu


Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

31
31
31
31
32
iii


3.5

Vật liệu nghiên cứu

3.6

Phương pháp nghiên cứu

32
32

4. Kết quả và thảo luận
4.1

41

Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Lạng Sơn ảnh hưởng đến
bệnh Tiên mao trùng trâu, bò


41

4.1.1

Đặc điểm tự nhiên

41

4.1.2

Tình hình kinh tế -xã hội

42

4.1.3

Đặc trưng khí hậu

43

4.1.4

Tình hình chăn nuôi trâu, bò tỉnh Lạng Sơn

45

4.1.5

Tình hình trâu bò bị chết trong vụ đông xuân 2007-2008


47

4.2

Tình hình nhiễm Trypanosoma evansi ở trâu bò nuôi tại Lạng Sơn

4.3

Tình hình nhiễm T. evansi ở trâu, bò các lứa tuổi nuôi tại Lạng Sơn

57

4.4

Tình hình nhiễm T. evansi ở các giống bò nuôi tại tỉnh Lạng Sơn.

62

4.5

Tình hình nhiễm T. evansi ở trâu, bò nuôi tại các vùng sinh thái

64

4.6

Tình hình nhiễm T. evansi ở trâu, bò nuôi tại tỉnh Lạng Sơn theo mùa

68


4.7

Đặc tính gây bệnh của T. evansi cho chuột bạch, chuột lang, thỏ

70

4.8

Thành phần loài và hoạt động của ruồi, mòng hút máu truyền bệnh Tiên mao
trùng trâu, bò.

52

72

4. 8 Hiệu lực của thuốc Azidin điều trị trâu, bò nhiễm T. evansi ở Lạng Sơn

75

4.8.1

Mức độ an toàn của thuốc Azidin

76

4.8.2

Hiệu lực của thuốc Azidin điều trị trâu, bò nhiễm T. evansi ở Lạng Sơn79

4.9


Xây dựng biện pháp phòng chống bệnh Tiên mao trùng trâu, bò nuôi tại tỉnh
Lạng Sơn.

5.

81

Kết luận

82

Tài liệu tham khảo

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

84

iv


Phụ lục

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

92

v



DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC VIẾT TẮT

STT

Tran
Tên bảng
g
BQMĐ
Bình quân mùa đông
4.1 BQMH
Sự biến động nhiệt độ, độ
ẩm,
lượng
mưa
Bình
quân
mùa
hè và giờ nắng Lạng Sơn

các tháng
DTCmùa đông
4.2

44

Sự biến động nhiệt độ, độ
ẩm,
lượng
mưa và giờ nắng ở Lạng Sơn

TMT
Tiên
mao
trùng

các tháng
TL mùa hè
4.3

Dài thân chéo

Trọng lượng

44
46

4.5

Tổng đàn trâu, bò của Lạng Sơn từ 2002 - 2007
T.EVANSI
Trypanosoma evansi
Tình hình trâu bò bị chết trong vụ rét đông xuân 2007-2008
VN
Vòng ngực
Tình hình nhiễm T. evansi ở trâu, bò ở các địa phương

4.6

Kiểm định sự sai khác tỷ lệ nhiễm T. evansi giữa trâu và bò


54

4.7

Biến động nhiễm T. evansi ở trâu các lứa tuổi

58

4.8

Biến động nhiễm T. evansi ở bò các lứa tuổi.

59

4.9

Tình hình nhiễm T. evansi ở các giống bò nuôi tại Lạng Sơn.

62

4.10

Kiểm định sự sai khác tỷ lệ nhiễm T. evansi giữa các giống bò.

63

4.11

Tỷ lệ nhiễm T. evansi ở trâu, bò Lạng Sơn theo vùng sinh thái


65

4.4

48
52

4.12Kiểm định sự sai khác tỷ lệ nhiễm T. evansi ở trâu, bò theo vùng sinh thái
66
4.13

Tỷ lệ nhiễm T. evansi ở trâu, bò theo mùa.

69

4.14 Khả năng gây bệnh của T. evansi cho chuột bạch, chuột lang, thỏ

71

4.15

73

Thành phần ruồi, mòng môi giới trung gian truyền bệnh.

4.16Một số chỉ tiêu sinh lý trâu, bò trước và sau khi dùng thuốc Azidin điều trị
78
4.17

Kết quả điều trị T. evansi ở trâu, bò Lạng Sơn


Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

79

vi
vii


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT Tên biểu đồ

Trang

4.1

Tình hình nhiễm T. evansi ở trâu, bò các địa phương

53

4.2

Biến đông nhiễm T.evansi ở trâu các lứa tuổi.

58

4.3

Biến đông nhiễm T.evansi ở bò các lứa tuổi


59

4.4

Tỷ lê nhiễm T. evansi theo giống bò Lạng Sơn

62

4.5

Tỷ lê nhiễm T.evansi ở trâu, bò nuôi tại Lạng Sơn theo vùng

66

4.6

Tỷ lê nhiễm T. evansi ở trâu, bò Lạng Sơn theo mùa

69

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

.......................................viii


1. MỞ ĐẦU
1.1

Đặt vấn đề

Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới Đông bắc Việt Nam với diện tích tự

nhiên 8305,21 km2, có những đặc điểm riêng về vị trí địa lý, thời tiết khí hậu, đất đai,
điều kiện kinh tế xã hội, về phong tục tập quán. Đặc biệt là trình độ dân trí còn thấp vì
vậy việc tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều
hạn chế. Là một tỉnh có đồng cỏ rộng có nhiều tiềm năng để phát triển đàn trâu bò,
ngoài việc cung cấp lượng phân bón và sức cày kéo quan trọng trong nông nghiệp và
còn là nguồn thực phẩm chất lượng cao cung cấp cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Để ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trâu bò nói riêng đạt hiệu quả cao
tương xứng với tiềm năng sẵn có thì ngoài công tác giống, thức ăn, quản lý chăm sóc
nuôi dưỡng thì công tác phòng chống dịch bệnh là hết sức quan trọng.
Cùng với quá trình phát triển của ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trâu,
bò nói riêng, bên cạnh các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thì các bệnh ký sinh trùng vẫn
tồn tại gây tác động xấu tới súc vật nuôi. Chúng thường làm giảm khả năng sinh trưởng
và phát triển, giảm chất lượng thực phẩm, phẩm chất da lông, giảm sức cày kéo, giảm
sản lượng sữa ....
Tuy nhiên, do phần lớn các ký sinh trùng gây bệnh cho vật nuôi ở thể mạn tính,
tác hại của chúng là âm thầm và dai dẳng nên ở nhiều địa phương các cấp chính quyền
cũng như người chăn nuôi chưa quan tâm đúng mức tới việc phòng trị các bệnh ký sinh
trùng cho gia súc.
Một trong những bệnh ký sinh trùng gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi đó là bệnh
Tiên mao trùng trâu, bò (Trypanosomiasis). Đây là bệnh ký sinh trùng do loài
Trypanosoma evansi (T. evansi) gây ra.
Lạng Sơn có địa hình chủ yếu là đồi núi thấp với khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời
tiết nóng ẩm mưa nhiều là điều kiện thuận lợi cho ruồi trâu, mòng (vật

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

1



môi giới trung gian truyền bệnh Tiên mao trùng). Sự lan truyền căn bệnh phụ thuộc rất
lớn vào sự phát triển của ruồi, mòng. Chúng hút máu truyền mầm bệnh Tiên mao trùng
từ trâu bò bệnh sang trâu bò khoẻ làm cho bệnh phát tán, lây lan.
Theo số liệu báo cáo của Chi cục Thú y tỉnh Lạng Sơn, bệnh Tiên mao trùng trâu
bò năm nào cũng xảy ở hầu hết các huyện, thành phố và gây nhiều thiệt hại cho người
chăn nuôi. Song việc nghiên cứu, tìm hiểu tình hình dịch tễ của bệnh cho từng vùng
trong tỉnh vẫn chưa được tổ chức nghiên cứu một cách có hệ thống. Do đó việc nghiên
cứu về dịch tễ và đề ra biện pháp phòng chống bệnh Tiên mao trùng trâu bò ở Lạng Sơn
là một yêu cầu cấp thiết.
Để thấy rõ thực trạng tình hình bệnh Tiên mao trùng ở trâu bò nuôi tại tỉnh Lạng
Sơn, từ đó làm cơ sở để xây dựng biện pháp phòng trị có hiệu quả, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài ” Một số đặc điểm dịch tễ của bệnh Tiên mao trùng do
Trypanosoma evansi ở trâu, bò tại Lạng Sơn và biện pháp phòng trị
1.2

Mục tiêu của đề tài
-Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma

evansi ở trâu, bò nuôi tại tỉnh Lạng Sơn.
-Tìm hiểu thành phần loài và hoạt động của ruồi, mòng môi giới trung gian truyền
bệnh Tiên mao trùng trâu, bò tại các địa điểm nghiên cứu.
-Thử nghiệm thuốc Azidin điều trị trâu, bò nhiễm T. evansi.
-Xây dựng biện pháp phòng chống bệnh Tiên mao trùng trâu, bò tại tỉnh Lạng
Sơn.
1.3

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm bổ xung các cơ sở lý luận về tình hình bệnh


Tiên mao trùng do T. evansi ở trâu, bò tại tỉnh Lạng Sơn. Đồng thời góp phần ứng dụng
vào công tác chẩn đoán và xây dựng các biện pháp phòng chống bệnh Tiên mao trùng
trâu, bò đạt hiệu quả.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

2


2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1

Sơ lược lịch sử nghiên cứu Tiên mao trùng, bệnh Tiên mao trùng
Trypanosoma đã được các nhà khoa học phát hiện rất sớm: năm 1837, Donne

phát hiện một loài Trychomonas trong ruột người, năm 1841, Vanletin đã tìm ra
Trypanosoma đầu tiên trong máu một loài cá. Sau đó nhiều loài Tiên mao trùng khác
đã được phát hiện trong máu nhiều loài động vật, trong các loài được phát hiện thì loài
Trypanosoma evansi ký sinh, gây bệnh cho động vật đóng vai trò đặc biệt quan trọng
[14].
Gruby. (1843) đã phát hiện thấy Tiên mao trùng trong máu ếch, đặt tên là
Eryganosoma sanguinis. Tiếp sau đó nhiều loài Tiên mao trùng khác thuộc giống
Trypanosoma Gruby lần lượt được phát hiện ký sinh, gây bệnh cho động vật có vú và
người [14].
Evans. (1880), đã tìm thấy Tiên mao trùng gây bệnh trong máu la, ngựa, lạc đà ở
bang Punjab, Ản Độ. Nó được xác định là một thủ phạm gây bệnh chung cho ngựa, la,
lạc đà, trâu bò ở Ản Độ được gọi chung là bệnh “Surra” [14].
Steel. (1885), phát hiện Trypanosoma trong máu la Miến Điện, mô tả hình thái
ký sinh trùng, đặt tên Spirochaete evansi, sau đoi là Trypanosoma evansi [14].

Blanchard. (1886), cũng thông báo tìm thấy Trypanosoma evansi trong máu la
nhập nội vào Bắc Bộ, Việt Nam. Tác giả đã mô tả rất tỷ mỉ hình thái ký sinh trùng,
những biểu hiện lâm sàng ở vật bệnh do Trypanosoma evansi [14].
Laveran và Mesnil. (1906), trong tác phẩm kinh điển nói về Tiên mao trùng,
những bệnh do Tiên mao trùng đã trình bày về bệnh lý do

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

3


Trypanosoma evansi gây ra cho các loài động vật, vai trò ký chủ trung gian của một
loài ruồi hút máu họ Stomoxydinae, loài mòng họ Tabanidae [14].
Trong khoảng thời gian 1885 đến 1920, nhiều bệnh ở gia súc, dã thú tương tự
như bệnh “Surra” lưu hành ở nhiều nước trên thế giới: bệnh “m’bori” của lạc đà các
nước thuộc miền tây Châu Phi. Bệnh “eldebab”, bệnh “Tahaga” của lạc đà An-giê-ri và
Ni-gie-ria. Bệnh “Zousifana” của ngựa, chó các nước ở nam sa mạc Sahara. Bệnh “Susuru” của lạc đà ở tây nam Liên Xô cũ. Bệnh “murvina” của ngựa ở Trung Mỹ. Bệnh
đau mông “mal de cadera” ở ngựa, la các nước Nam Mỹ... đã được các nhà khoa học
nghiên cứu, tìm ra nguyên nhân. Đó là những Tiên mao trùng có hình thái, t ính chất
sinh học gần giống như Trypanosoma evansi, được đặt nhiều tên khác như:
Trypanosoma hippicum, Trypanosoma equinum, Trypanosoma vietnamense,
Trypanosoma soudanense, Trypanosoma ninae Kohl - Yakimovi, Trypanosoma
berberum, Trypanosoma venezuelense [14].
Hoare C.A, Sulsby E.J (1972) [53] nghiên cứu lịch sử phát triển, hình thái, tính
chất sinh vật học của Tiên mao trùng trên, đi đến kết luận: tất cả đều là những chủng
gốc châu Á, gốc châu Phi, gốc châu Mỹ và gốc châu Âu của một loài duy nhất là
Trypanosoma evansi
Tổ chức dịch tễ thế giới (OIE) đã thông báo hiện nay có 7 loài Tiên mao trùng
gây bệnh cho động vật có vú và người là Trypanosoma evansi, Trypanosoma vivax,
Trypanosoma


brucei,

Trypanosoma

congolence,

Trypanosoma

gambiense,

Trypanosoma simiae, Trypanosoma cruzi. Trong số các loài Tiên mao trùng kể trên
thì Trypanosoma evansi là loài phổ biến nhất, phân bố ở khắp nơi trên thế giới, gây
bệnh cho hầu hết các loài động vật có vú trừ người, chiếm ưu thế ở vùng cận đông, châu
Á và châu Mỹ la tinh.
Năm 1907 Schein.H, khi nghiên cứu bệnh Tiên mao trùng ở Đông Dương, cho
rằng đây là bệnh Surra. Ở nước ta 1906, Vassal, ở viện Pasteur

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

4


Nha Trang đã nghiên cứu khá đầy đủ về bệnh và gửi Tiên mao trùng về Viện Pasteur
Paris để xác định rõ thêm về chúng [14].
Tiếp đến các báo cáo về Tiên mao trùng của Lorh, K.F (1986) [58]. Đến nay ba
loài Tiên mao trùng ký sinh ở động vật có vú được tìm thấy ở nước ta là:
1. T. evansi, Steel 1885, ký sinh ở trâu, bò.
2. T. Theileri, Laveran 1902, ký sinh ở trâu, bò.
3. T.lewisi, Kent 1980, ký sinh ở chuột.

2.2 Đặc điểm hình thái và phân loại Tiên mao trùng
2.2.1 Đặc điểm hình thái Trypanosoma evansi
Chen Qijun (1992) [46] cho biết Trypanosoma evansi được xếp vào loại đơn
hình thái. Trypanosoma evansi hình suốt chỉ hay hình thoi, ở giữa có nhân, không có
Cytochrome. Cuối thân có Kinetoplast và Kinetosome, màng rung động rộng, gấp nếp
rõ. Trong nguyên sinh chất có những hạt nhỏ bắt màu.
Vickerman, K (1974) [70] cho biết: về cơ bản cấu tạo của các loài Tiên mao
trùng của họ Trypanosomatidae giống nhau. Tế bào có hình con suốt là nhờ các vi ống
xếp song song nằm dọc theo chiều dài dưới màng tế bào. Chuyển động liên tục của Tiên
mao trùng được hoạt hoá bởi một cái roi bắt nguồn từ thể cơ động. Ở chỗ cái roi nhập
vào thân tế bào có một chỗ lõm trên bề mặt tế bào gọi là túi roi. Chính phần này của
màng tế bào là nơi thực hiện chủ yếu các quá trình bài tiết, quá trình hấp thu các chất
dinh dưỡng của Tiên mao trùng.
Phạm Sỹ Lăng (1982) [14] cho biết: Trypanosoma evansi thuộc giống
Trypanosoma. Gruby. 1984, là những Tiên mao trùng có hình suốt chỉ thoi, mảnh, hai
đầu thót tròn hoặc nhọn. Thân là một khối nguyên sinh chất, giữa có một nhân, cuối
thân có một thể cơ động (kinetoblast), hay còn gọi là hạch cơ động. Từ thể cơ động hoặc
gần thể cơ động xuất hiện một roi đính vào

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

5


thân, chạy dọc lên phía trước tạo thành màng rung động nhiều nếp gấp do có một đoạn
tự do ở phía trước. Cũng có Tiên mao trùng trong giai đoạn phát triển không có roi.
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) [12]
Trypanosoma evansi là loại ký sinh trùng ký sinh ngoài hồng cầu, có hình thoi, dài 18
-34 ^ giữa thân có một roi bắt nguồn từ thể hình roi, cách đuôi Trypanosoma evansi
khoảng 1,5 Roi này chạy dọc thân, tạo thành nhiều màng ngăn rung động, cuối cùng roi

này lơ lửng ở phần đầu thành roi tự do dài 6 Nhờ có roi, màng rung động mà
Trypanosoma evansi chuyển động được trong máu động vật. Tiêu bản máu nhuộm
Giemsa, nguyên sinh chất của Trypanosoma evansi bắt màu xanh nhạt. Nhân bắt màu
hồng, Tiên mao trùng ký sinh trong máu hoặc ở một số tổ chức của động vật có xương
sống, được truyền từ động vật này sang động vật khác theo phương thức cơ giới nhờ
những côn trùng hút máu thuộc họ mòng Tabanidae, họ ruồi Stomoxydinae.
Trypanosoma evansi được xếp vào loại đơn hình thái (Monomorpha) Kilick Kendrick, R. [55] đã gặp những thể bị biến mất thể cơ động (diskinetoplas). Sau khi sử
dụng thuốc điều trị Berenil, Prothidium, Trypanosoma evansi khó nuôi cấy trong môi
trường, những thay đổi tính kháng nguyên mất độc lực, không gây bệnh cho cả những
động vật dị cảm. Một số loài Tiên mao trùng có thể quan sát thấy nhiều hình thái trong
quá trình phát triển ở ký chủ trung gian, ký chủ cuối cùng. Hình thái Tiên mao trùng
thường gặp là:
1. Thể Crithidia: thể cơ động ở trước, gần thân, từ thể cơ động xuất phát một
roi, giới hạn một màng rung động ngắn, roi tự do ở phía trước.
2. Thể Leptomonas: thể cơ động hoàn toàn ở phía trước, từ thể cơ động xuất
hiện một roi tự do, không có màng rung động.
3. Thể Leishmania: hình bầu dục hay hình cầu có một nhân to, một bào từ thể
hình gậy, từ đó xuất phát một cái roi chưa thành hình kết thúc ở giữa thân.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

6


4. Thể Trypanosoma: trong côn trùng có hình dạng bình thường, nhưng có roi
dính vào thân, chạy thẳng lên phía trước, không tạo thành màng rung.

2.2.2 Vị trí của Tiên mao trùng trong hệ thống phân loại động vật [36]
Ngành


: Protoza Phân ngành:

Sarcomastiphoza
Siêu lớp

: Mastigophoza

Lớp

: Zoomastigophoze

Bộ

: Kinetoplastid

Phân bộ
Họ
Giống
Loài

: Trypanosomatin
: Trypanozomatidae
: Trypanosoma
: Trypanosoma evansi

Giống Trypanosoma bao gồm rất nhiều loài đã được phát hiện ở động vật có
xương sống thuộc lớp cá, lớp bò sát, lớp ếch, lớp động vật có vú, lớp chim. Việc phân
biệt các loài Tiên mao trùng của các lớp động vật khác nhau thì tương đối dễ. Nhưng
việc phân biệt các loài tiên mao trùng trong lớp động vật có vú thì phức tạp hơn nhiều.
Phạm Sỹ Lăng (1982) [14], cho biết: 1943 Neveu - Lemarie, đã chia các loài

thuộc giống Trypanosoma ký sinh ở động vật có vú và người thành năm nhóm căn cứ
theo đặc tính hình thái học, sinh vật học của chúng. Các nhóm đó là nhóm Lewisi, nhóm
Evansi, nhóm Vivax, nhóm Congolense, nhóm Brucei.
Theo đề nghị của Lapage. [56], nhóm Evansi thuộc nhóm Brucei gồm bảy loài,
nhóm này lại chia làm ba nhóm phụ, nhóm phụ Suis có một loài
Trypanosoma suis, nhóm phụ Evansi có 4 loài Trypanosoma brucei, Trypanosoma
evansi, Trypanosoma gambiense, Trypanosoma rhodesiense.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

7


Trịnh Văn Thịnh (1982) [36], Trypanosoma evansi được truyền từ động vật này
sang động vật khác bằng phương thức cơ giới, chủ yếu nhờ các loài ruồi họ
Stomoxydinae, các loài mòng họ Tabanidae. Trong chu kỳ phát triển của
Trypanosoma evansi không có giai đoạn phát triển trong ký sinh trung gian như một số
Tiên mao trùng khác.
2.3

Một số đặc điểm sinh học của Tiên mao trùng
Theo Phan Địch Lân (1994) [18], Tiên mao trùng sống trong máu (huyết tương,

ngoài hồng cầu), nó có hình chỉ suốt thon và mảnh, hai đầu thót tròn hoặc nhọn. Thân
Tiên mao trùng là một khối nguyên sinh chất, giữa thân có nhân và cuối thân có một thể
cơ động, xuất phát một roi dính vào thân chạy dọc lên phía trước tạo ra một màng rung
động có nhiều nếp gấp. Roi có một đoạn tự do ở phía trước nhìn rất rõ khi tiên mao
trùng bơi lội trong máu.
Tiên mao trùng sống trong máu nhiều loài động vật như trâu bò, ngựa, chó, mèo,
lạc đà, voi, hươu, hoẵng, thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch.

Tiên mao trùng sinh sản bằng cách trực phân theo chiều dọc. Đầu tiên, nó tăng
thể tích, thể cơ động phân chia, rồi nhân phân chia hình thành roi mới. Lúc này Tiên
mao trùng có thể tách ra thành 2 hoặc 4 con mới. Trong thời gian sống trong máu nó tiết
ra độc tố Trypanotoxin tác động vào các cơ quan nội tạng của con vật và gây những
biến đổi bệnh lý.
T. evansi được truyền từ động vật này sang động vật khác bằng phương thức cơ
giới chủ yếu nhờ các loài ruồi giống Stomoxys và các loài mòng họ Tabanidae. Trong
chu kỳ phát triển của T. evansi không có giai đoạn phát triển trong ký chủ trung gian
như một số Tiên mao trùng khác.
Về khả năng truyền bệnh Tiên mao trùng của côn trùng, tác giả đã kiểm tra ở
nhiều địa điểm cho thấy hai loài mòng T.rubidus và T.striatus có tỷ lệ mang Tiên mao
trùng là 15,2% và 14%; loài ruồi hút máu Stomoxys calcitrans có tỷ lệ mang Tiên mao
trùng 12,5%.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

8


Ở ruồi mòng, Tiên mao trùng sau khi theo máu vào cơ thể ruồi mòng, nó vẫn
sống và hoạt động đến giờ thứ 53, thời gian hoạt động mạnh nhất từ giờ thứ nhất đến
giờ thứ 34, trung bình là 24 giờ, sự hoạt động của Tiên mao trùng yếu và giảm dần từ
giờ thứ 35 đến giờ thứ 42. Từ 46 - 53 giờ sau thì tiên mao trùng ngừng hoạt động.
Ở bê, sau khi bị mòng đốt 24 ngày, do trong máu có Tiên mao trùng, bê phát
bệnh kéo dài 90 ngày với các triệu trứng: sốt cao gián đoạn, suy nhược cơ thể.
Ngoài ra Tiên mao trùng có thể nuôi cấy trong bào thai gà, môi trường dịch tổ
chức, T. evansi rất khó nuôi cấy trong môi trường, trong một số điều kiện đặc biệt
chúng có thể phát triển trong môi trường, nhưng nó thay đổi tính kháng nguyên, mất độc
lực, không gây bệnh cho các động vật dị cảm, đặc tính đã được dùng để phân biệt với
loài Trypannosoma bruicei, đây là loài rất khó phân biệt với T. evansi về hình thái và

khả năng gây bệnh.
2.4

Những nghiên cứu về dịch tễ học bệnh Tiên mao trùng

2.4.1 Nguyên nhân gây bệnh Tiên mao trùng ở trâu, bò
Theo Trịnh Văn Thịnh (1982) [36], hàng năm khi mùa đông tới, trâu, bò ở các
tỉnh miền Bắc nước ta thường bị đổ ngã. Đặc biệt ở Lạng Sơn theo dõi qua các năm
chúng tôi thấy hàng năm trâu, bò vẫn bị chết nhiều, tỷ lệ chết phụ thuộc vào thời tiết
năm đó, giá rét kéo dài trâu, bò chết càng nhiều. Như vụ rét Đông xuân 2007 - 2008, cả
tỉnh Lạng Sơn số trâu bò chết rét đã lên tới 25.758 con gây thiệt hại to lớn về kinh tế. Để
hạn chế, tiến tới ngăn chặn được bệnh Tiên mao trùng, các nhà nghiên cứu ký sinh trùng
phải tìm hiểu nguyên nhân gây chết ở trâu, bò. Đàn trâu ở miền núi có mang trùng,
trong điều kiện thức ăn đầy đủ chúng vẫn khoẻ mạnh. Khi chuyển về các tỉnh đồng bằng
do làm việc nặng nhọc, thức ăn quá thiếu thốn, gặp thời tiết giá rét, thể trạng suy yếu
dần, dẫn đến sức đề kháng kém, vì thế T. evansi có điều kiện phát triển,

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

9


làm cho trâu từ thời kỳ mang bệnh T. evansi đã trở thành thời kỳ phát bệnh, chết hàng
loạt.. với triệu chứng cước chân, có hiện tượng trâu ỉa chảy, trâu ngã nước có liên quan
đến bệnh Tiên mao trùng. Khi xét nghiệm bệnh Tiên mao trùng ở những hợp tác xã có
trâu, bò chết nhiều, thấy tỷ lệ nhiễm từ 3,5 đến 7%. Tác giả kết luận: nguyên nhân trâu
chết trong vụ đông xuân ở vùng đồng bằng sông Hồng là do thức ăn thiếu nghiêm trọng,
chế độ dinh dưỡng quá kém, làm việc nhiều, giá rét là điều kiện để Tiên mao trùng phát
triển gây tác hại cho trâu, bò.
Trịnh Văn Thịnh (1982) [36], Đoàn Văn Phúc (1985) [27], Phạm Sỹ Lăng

(1982) [14], nghiên cứu, kết luận: T. evansi tác nhân gây bệnh Tiên mao trùng, là một
trong những tác nhân gây thiệt hại cho đàn trâu, bò ở nước ta. T.evansi là nguyên nhân
chủ yếu gây bệnh, kết hợp với một số nguyên nhân khác như các bệnh truyền nhiễm,
sán lá gan, thức ăn thiếu nghiêm trọng, làm việc quá nặng nhọc, giá rét kéo dài đã làm
cho trâu bò đổ ngã hàng loạt trong vụ đông xuân.
2.4.2 Phân bố địa lý của Tiên mao trùng
Tiên mao trùng, nguyên trùng gây bệnh Surra có một phạm vi phân bố địa lý cực
kỳ rộng trước khi nó được phát hiện ở vật nuôi trong nhà và các động vật hoang dã. T.
evansi phân bố rộng nhất trong số các loài Tiên mao trùng, chúng đã gây bệnh ở Bắc
Phi, Trung Đông, dọc theo Ản Độ Dương tới gần đại lục Châu Âu tới châu Á; ở vùng
đất mới như Trung và Nam Mỹ cũng đã tìm thấy T. evansi.
Lorh, K.F (1986) [58], đã cho biết: T. evansi có sự phân bố sau: Châu Á, các
đảo phụ thuộc: Ản Độ, Srilanca, Mianma, Nam Trung Hoa, Inđônêxia, Malaixia,
Pakistan, Thái Lan, Lào, Cam pu chia, Việt Nam, Iran, Irắc, Ả rập (Arabic) Palestin,
Philippin.
Châu Phi: Marốc, Angieri, Tunisie, Ai Cập, Triponidat.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

10


Nam Phi: Soudan, Xomali, Madagasca, Ethiopa, Yemen, Moritani, Zaia,
Nigeria.
Châu Âu: Tây Nam Liên Xô.
Bắc Mỹ: nước Mỹ
Trung Mỹ: Panama
Nam Mỹ: Venezuela, Brazin, Bolivia, Paraguay, Uruguay, Achentina..
Châu Đại Dương: Oxtralia.
Phạm Sỹ Lăng (1982) [14] cho biết: 1949, Brumpt đã tìm thấy T.evansi ký sinh,

gây bệnh cho nhiều loài động vật, trừ người. Trâu, bò, ngựa, chó, dê, mèo, ở các nước
châu Á đều cảm nhiễm T. evansi tự nhiên. Nhưng bò ít mẫn cảm, thường ở thể mãn
tính, mang trùng. Trâu, bò truyền bệnh thực nghiệm đều thể hiện trạng thái bệnh lý rõ
ràng, chết trong khoảng thời gian từ 22 đến ngày thứ 96. Tuy nhiên tác giả cũng cho
biết có thể gặp một số trường hợp trâu, bò ngoài tự nhiên tự khỏi bệnh, trở thành vật
mang trùng. Lạc đà thường bị nhiễm T.evansi, bị chết khá nhiều ở một số nước châu Á,
châu Phi. Lạc đà ở Tasken, Samarkan, Boukhara Turkestan bị bệnh Tiên mao trùng do
T.evansi, thường bị chết nếu như không điều trị kịp thời.
Nishikawa, H, Tunlasuvan. (1990) [61], điều tra tình hình dịch tễ bệnh Tiên mao
trùng do T. evansi phân bố ở hầu khắp các tỉnh của Thái Lan, tỷ lệ nhiễm bệnh ở trâu
thường cao hơn bò.
Theo Chen Qijun. (1992) [47], Trung Quốc đã xét nghiệm được năm loài Tiên
mao trùng Trypanosoma evansi, Trypanosoma equiperdum, Trypanosoma theileri,
Trypanosoma gallinarum, Trypanosoma brucei, đặc biệt T.evansi đã gây bệnh cho
hầu hết các loài động vật như trâu, bò, ngựa, la, chó.
Phạm Sỹ Lăng (1982) [14], cho biết: các nhà khoa học sau đây đã tìm

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

11


thấy Trypanosoma evansi trong máu ngựa ở Nha Trang, Blin. (1903), ngựa Hà Tiên
(Kermorgant, 1903).
Yersin (1904), thấy ở ngựa Vinh bị mắc bệnh T. evansi.
Montel (1904), thấy ngựa ở Hà Tiên bị mắc bệnh T. evansi.
Bodin (1905), thấy ngựa Nam Định bị mắc bệnh T. evansi
Brau (1906), nghiên cứu triệu chứng bệnh ở bò, ngựa vùng Sài Gòn.
Năm 1906, Viện Pasteur Nha Trang nghiên cứu khá đầy đủ về bệnh, gửi ký sinh
trùng về Viện Pasteur Paris, Laveran, Mesnil. (1906), làm miễn dịch chéo với chủng

Maurice và chủng Ản Độ kết luận: không hoàn toàn giống T.evansi, đặt tên là
Trypanosoma annamense (Vietnamese).
Năm 1911, một ổ dịch làm chết nhiều ngựa ở hang Hít (Thái Nguyên), nhiều
trường hợp chết tại chuồng ngựa của Công ty Khai thác rừng Hà Nội. Năm 1922 -1926
ở Nam Bộ, ngựa, chó mắc bệnh Tiên mao trùng đã chết hàng trăm con, Phạm Sỹ
Lăng(1982) [14].
Trịnh Văn Thịnh (1967) [35], cho biết: năm 1925, bệnh Tiên mao trùng xảy ra ở
hầu hết các tỉnh Bắc Bộ như Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phú Thọ, Quảng Yên, Yên Bái,
Hà Đông, Nam Định, Ninh Bình, Sơn Tây, Vĩnh Yên làm chết 148 ngựa, bò. Trước năm
1945 ngựa nước ta chủ yếu phục vụ cho mục đích của thực dân Pháp như vận chuyển, đi
lại, chiến đấu. Vì thế lúc đó con ngựa được quan tâm bảo vệ sức khoẻ, bệnh tật của ngựa
được phát hiện, điều trị trong đó có bệnh Tiên mao trùng. Những gia súc khác như trâu,
bò rất quan trọng đối với người nông dân thì không được chú ý tới. Năm 1945 sau khi
đất nước được giải phóng, đàn trâu, bò mới được quan tâm tới, bệnh tật của nó mới
được tập trung nghiên cứu phòng trị. Những năm sau này Tiên mao trùng và bệnh Tiên
mao trùng đã được các nhà khoa học quan tâm

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

12


nghiên cứu nhiều.
Phạm Sỹ Lăng (1982) [14], khi nghiên cứu về tình hình dịch tễ của bệnh Tiên
mao trùng đã thấy có ở các vùng: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Tỷ lệ nhiễm
T. evansi ở các gia súc, ở các vùng cũng khác nhau, tỷ lệ nhiễm bệnh ở trâu cao hơn ở
bò. Tác giả đã khảo sát 2.457 trâu, 364 bò trên 71 cơ sở cho biết, tỷ lệ nhiễm chung của
trâu, bò là 8,8%. Trâu đồng bằng nhiễm T. evansi từ 3- 20% cao hơn vùng núi 2,5 6,3%. Trâu, bò nhiễm T. evansi ở tất cả các lứa tuổi, nhưng nhiễm cao chủ yếu ở lứa
tuổi 5 - 8 năm là 16, - 18%.

Lê Ngọc Mỹ, Lương Tố Thu, Vũ Đình Hưng (1994) [19], điều tra tình hình
nhiễm T.evansi ở trâu, bò cho thấy, ở miền núi, trung du, đồng bằng, trâu, bò vẫn còn bị
nhiễm T. evansi với tỷ lệ tương đối cao. Tỷ lệ nhiễm T. evansi ở các tỉnh miền núi,
trung du cao hơn trâu ở đồng bằng.
Phan Địch Lân (1983) [18], trong đợt điều tra cơ bản về côn trùng thú y tại các
vùng địa lý khác nhau ở miền Bắc cho biết: trâu, bò ở miền núi, trung du nhiễm ký sinh
trùng máu nói chung cao hơn trâu, bò ở vùng đồng bằng ven biển. Các giống bò ngoại
có tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng máu nói chung cao hơn các giống bò lai, bò nội. Bò nhiễm
ghép 2 loài ký sinh trùng máu là phổ biến, ít gặp nhiễm ghép 3 loài. Tỷ lệ bò nhiễm T.
evansi chung toàn đàn là 0,29%.
Phan Lục, Trần Văn Quyên, Nguyễn Văn Thọ (1996) [11], điều tra tình hình bò
nhiễm T. evansi ở các tỉnh phía Bắc cho biết: bò vùng trung du, miền núi, đồng bằng
Bắc Bộ nhiễm T. evansi với tỷ lệ 9,9%. Bò ở vùng trung du nhiễm T. evansi 11,2% cao
hơn tỷ lệ nhiễm T. evansi ở vùng đồng bằng, ven biển 8,7%. Bò từ 2 - 8 năm tuổi nhiễm
T. evansi với tỷ lệ 11,5% cao hơn tỷ lệ nhiễm T. evansi ở bò dưới 2 năm tuổi 2,8%.
Hồ Thị Thuận và cộng sự [33], [34], Hoàng Thạch, Phan Hoàng Dũng, Hồ Thị
Thuận [32], điều tra tình hình nhiễm ký sinh trùng máu trên đàn bò ở

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

13


các tỉnh phía Nam cho biết: tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng máu nói chung từ 20 - 60%, trong
đó đàn bò sữa ở trại thực nghiệm Đà Lạt nhiễm ký sinh trùng máu với tỷ lệ 22,7%, đàn
bò sữa ở Xí nghiệp bò sữa An Phước, Đồng Nai nhiễm T. evansi với tỷ lệ 12,6%.
Lê Đức Quyết, Hà Viết Lượng, Nguyễn Đức Tân, Bùi Lập [28], Nguyễn Đức
Tân, Lê Đức Quyết, Phạm Chiên [29], điều tra tình hình nhiễm T. evansi ở một số tỉnh
duyên hải nam Trung Bộ cho biết: bò nhiễm chung toàn đàn 6,0%; trong đó đàn bò ở
Phú Yên nhiễm cao nhất 31,6%; đàn bò tỉnh Khánh Hoà nhiễm 7,6%; bò ở Đắk lắk

nhiễm thấp nhất 3,0%.
2.4.3 Những nghiên cứu về loài động vật mắc bệnh Tiên mao trùng
Theo Trịnh Văn Thịnh (1982) [36], Trypanosoma evansi là loài gây bệnh phổ
biến nhất trong các loài Tiên mao trùng, chúng gây bệnh cho hầu hết các loài gia súc
trên thế giới: trâu, bò, ngựa, chó, mèo. Ở các nước trâu, bò đều nhiễm T.evansi tự
nhiên, nhưng bò ít mẫn cảm thường ở thể mãn tính, mang trùng. Lạc đà thường nhiễm
T. evansi ở thể cấp tính, chết khá nhiều ở một số nước Châu Phi, Châu Á.
Theo Chen qijun (1992) [47], ở Trung Quốc, T. evansi đã gây bệnh cho các gia
súc như trâu, bò, ngựa, la, chó...
Gill, B.S. Singh, J (1987) [52], cho biết ở Ấn độ đã thấy 13 lợn chết ở trại Khara
(Punab), sau khi tiêm truyền qua chuột bạch, có 7 lợn nhiễm T.evansi.
Tperrone, M.C, Leseur and L., Renveom. [74], kiểm tra bò ở Venezuela, thấy bò
dưới 3 tháng nhiễm T. evansi 13%, bò trên 36 tháng nhiễm 50%. Nishikawa, H,
Tunlasuvan, D.N. [61] cho biết ở Thái Lan, trâu, bò của hầu khắp các tỉnh trong cả nước
đều nhiễm T. evansi, nhưng tỷ lệ nhiễm bệnh ở bò cao hơn trâu.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

14


Trịnh Văn Thịnh (1967) [35], cho biết: Launoy. (1943), cũng đã phát hiện thấy
mèo nhiễm T. evansi.
Hoare, C.A., Sulsby E.J (1972) [53], đã kiểm tra phát hiện các thú hoang Châu Á
nhiễm T.evansi tự nhiên: hươu sao, (cervus unicolor) ở đảo Maurice, nai (cervus
timdressis) ở Indonesia, cừu hoang (ovis amnion), hoẵng (careolus), linh dương ở
Kazachtan (Liên Xô), tinh tinh (orang outang) ở đảo Soumatra, chuột hamster ở Ấn Độ,
khỉ (kacacun rhegus) ở một số nước. Ở Nam Mỹ, Trung Mỹ một số loài thú cũng mắc
bệnh Tiên mao trùng do T.evansi gây ra ở thể cấp tính, chết, chó rừng (canis azarae),
khỉ (mucelles ursimus) ở Vernezuela, con Carpinxo (hyderochoerus hyderochoeris), nai

đuôi trắng (odoeciluns chiriquenst), hươu (mazuma hutavi), dơi hút máu (demodue
rotundus) ở Panama, Colombia. Ngoài ra các tác giả còn phát hiện một số ổ dịch ở hổ,
báo nuôi ở vườn bách thú Ấn Độ.
Ngoài những động vật nhiễm T. evansi tự nhiên, trong phòng thí nghiệm có thể
truyền bệnh cho các loài động vật nhỏ: chuột nhắt trắng, chuột cống, thỏ, chuột lang,
chồn, cầy hương, chó mèo trong đó chuột nhắt trắng và chuột cống đặc biệt mẫn cảm
với T.evansi (Lemaire, 1943; Lapage, 1968). [56].
2.4.4 Các nghiên cứu về côn trùng môi giới truyền bệnh Tiên mao trùng Theo
Trịnh Văn Thịnh (1967) [35], cho biết: năm 1949, Brumpt E. đã tìm ra những loài ruồi
hút máu họ Stomoxydinae, loài mòng họ Tabanidae đóng vai trò môi giới truyền bệnh
chủ yếu của T. evansi. T. evansi không có chu kỳ phát triển trong ký chủ trung gian,
mà chỉ được truyền theo phương thức cơ giới.
Theo Phạm Sỹ Lăng (1982) [14], ở Nam Mỹ, Ligniere, Elmasson, đã truyền
bệnh thực nghiệm thành công bằng ruồi Stomoxys calcitrans, Snobolosa. Ở Angêri
cũng truyền T.evansi cho động vật bằng ruồi Stomoxys calcitrans và xác định khoảng
cách ruồi đốt vật ốm sang vật khoẻ không quá 24 giờ. Crosse H.E (1932) đã thành công
trong thí nghiệm truyền T.evansi

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

15


cho chó bằng ve mềm Ornithodorus roasi ở Ản Độ. Một loài dơi hút máu ở Nam Mỹ
cũng đóng vai trò truyền T. evansi cho ngựa (Desmodus rotundus). Kasansky, I.I.
(1957). Kênh đào Panama, một số nước ở Nam Mỹ, T.evansi cũng có thể truyền bệnh
bằng thịt tươi của súc vật bị bệnh.
Phan Địch Lân (1983) [18], cho biết: ở nước ta có khí hậu, điều kiện sinh thái
thích hợp cho những ký chủ trung gian thuộc họ mòng Tabanidae, họ ruồi
Stomoxydinae, chúng cần có thảm thực vật để cư trú, đẻ trứng, cần khí hậu nóng (16 0C

- 300C), độ ẩm (50 - 100%), mặt đất ướt để trứng nở, các giai đoạn ấu trùng phát triển,
cuối cùng cần có trâu, bò động vật thích hợp để hút máu, duy trì sự sống đồng thời
truyền bệnh T. evansi cho những động vật này. Ở miền bắc Việt Nam mòng hoạt động
tới 9 tháng, ruồi hút máu hoạt động quanh năm. Nhưng tập trung vào những tháng nóng
nực. Điều kiện này giải thích tại sao bệnh Tiên mao trùng phân bố rộng rãi, mang tính
chất mùa vụ.
Theo Phạm Sỹ Lăng(1982) [14], từ những nghiên cứu về ký chủ trung gian đều
khẳng định mùa phát triển, lây lan của bệnh xảy ra vào những tháng thời tiết ấm áp ruồi,
mòng xuất hiện hoạt động mạnh. Ở Liên Xô mùa bệnh khoảng 3,5 tháng, từ tháng 5 đến
tháng 8. Ở các nước nhiệt đới thì mùa lây lan bệnh có thể xảy ra quanh năm.
Touratier, L, Aims (1979) [67], cho biết: đặc tính này đã được dùng để phân biệt
với T.evansi về hình thái, đặc tính gây bệnh.
Ở nước ta họ mòng môi giới trung gian truyền T. evansi đã được các nhà khoa
học nghiên cứu về thành phần, khả năng truyền bệnh của chúng. Thành phần họ mòng
Tabanidae ở miền Bắc đã được Trịnh Văn Thịnh (1967) [35], cùng Ban điều tra Côn
trùng thú y công bố 77 loài như sau:
Họ mòng Tabanidae.
Họ phụ Tabaninae.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

16


Giống Tabanus:

55 loài

Giống phụ Ochrops: 1 loài Giống
Chrysops:


9 loài

Giống Chrysozona: 12 loài
Trong số những loài đã phát hiện có 47 loài được xác định tên chính thức. Loài
mòng pho biến ở các vùng là Tabanus rubidus, Chrysops dispar, một số loài có tính
chất khu vực như Chrysops vandervulpi chỉ thấy ở miền núi, trung du. Hoạt động của
mòng theo giờ trong ngày ảnh hưởng đến vai trò truyền bệnh của chúng. Trong một
ngày, sự hoạt động của Tabanus ở vùng trung du, đồng bằng giống nhau xuất hiện lúc 6
- 8 giờ, nhiều nhất 12 - 14 giờ, ít nhất và không xuất hiện từ 16 - 18 giờ. Ở miền núi
Tabanus xuất hiện nhiều vào 9 - 10 giờ, 17 - 18 giờ và 10 - 14 giờ xuất hiện ít.
Phan Địch Lân ( 1983) [18], cho biết: thành phần họ mòng Tabanidae ở miền
Bắc gồm có 65 loài thuộc 3 giống và những đặc điểm sinh học của từng loài.
Phạm Sỹ Lăng, Chu Huy Bào (1971) [17], đã xác định vai trò của họ mòng
Tabanidae truyền bệnh T. evansi cho bê bằng cách cho mòng Tabanus rubidus đốt và
kết luận Tabanus rubidus đã truyền được mầm bệnh cho bê. Khoảng cách mòng đốt bê
ốm và bê khoẻ là 43 phút, đã gây cho bê một thể bệnh Tiên mao trùng mãn tính.
T.evansi sống tới giờ thứ 53 sau khi xâm nhập vào ruột mòng nhưng chỉ có khả năng
gây bệnh đến giờ thứ 7. Cũng năm 1971, tác giả đã thông báo về tỷ lệ mang mầm bệnh
T.evansi của một số loài ruồi, mòng như sau: ở Hà Nội mòng Tabanus rubidus mang
mầm bệnh 26,58%; mòng Tabanus striatus 25,8%; mòng Chrysops dispar 7,55%; ở
Lục Bình mòng Tabanus rubidus 25,1%; Tabanus striatus 24,7%. Tabanus
kiangsuensia 19,5%, ruồi Stomoxys calcitrans 20,4%.
Theo Nguyễn Minh Châu (1991) [3], bệnh ký sinh trùng đường máu nói chung
trong đó có bệnh Tiên mao trùng trong quá trình phát sinh và phát

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp

17



×