Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tư tưởng Pháp trị Hàn Phi Tử vấn đề kết hợp Pháp trị Đức Trị công đổi Đất nước nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.18 KB, 20 trang )

Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

MỤC LỤC
1.VÀI NÉT VỀ HÀN PHI TỬ...................................................................................7
1.1.Sơ lược về cuộc đời, sự nghiệp:.............................................................................7
1.2.Tư tưởng:................................................................................................................ 8
1.3.Tác phẩm:............................................................................................................... 9
2.TƯ TƯỞNG “PHÁP TRỊ” CỦA HÀN PHI TỬ....................................................9
2.1.Bối cảnh ra đời tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử........................................9
2.2.Nội dung tư tưởng “Pháp Trị” của Hàn Phi Tử................................................10
2.3.Kết luận................................................................................................................ 12
3.TƯ TƯỞNG "ĐỨC TRỊ" CỦA NHO GIÁO.......................................................13
Đối với các xã hội phong kiến Á Đông, đường lối "Đức trị" luôn luôn là đường
lối trị nước duy nhất trong hơn hai nghìn năm lịch sử. Một đường lối trị nước
được độc tôn lâu dài như vậy trong lịch sử rất cần được đi sâu nghiên cứu. Hơn
nữa, đối với các xã hội Á Đông đương đại, Nho học trong đó có tư tưởng "Đức
trị" không phải là vấn đề cổ xưa, càng không phải là vấn đề đã hoàn toàn thuộc
về lịch sử. Trên thực tế sự hiện diện của Nho học với những mức độ khác nhau,
vẫn luôn luôn mang tính thời sự mới mẻ. Không nghi ngờ gì nữa ý nghĩa hiện đại
của nhiều yếu tố trong Nho học trong đó có tư tưởng "Đức trị" đang ngày càng
nổi lên. Một sự khảo cứu có hệ thống đường lối "Đức trị" của Nho học do đó lại
càng cần thiết.............................................................................................................. 13
3.1.Tư tưởng "Đức trị" của Khổng Tử....................................................................13
Với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói
đến đạo đức: "Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không
thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm
chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức
nhân...". Đức với Khổng Tử là lời nói đi đôi với việc làm trên cơ sở cái thiện:
"Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được".........13


Trang 1


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức trị" - đường lối
trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Khổng Tử quan niệm:
"Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở
một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)". .....................13
Trước sau Khổng Tử vẫn tin rằng: "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình
phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn.
Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết
hổ thẹn mà lại theo đường chính" ...........................................................................13
Khổng Tử coi "nhân" là đức căn bản nhất của con người cả về xử thế lẫn tu
thân, và bao gồm gần đủ các đức khác. Thật vậy "Nhân" vừa là tu thân, vừa là
ái nhân, lại vừa là xử kỷ vừa là tiếp vật. Nhân còn là Trung (yêu người, hết lòng
với người) và thứ (làm cho người những cái mình muốn và đừng làm cho người
những cái mình không muốn). Điều quan trọng nhất trong tư tưởng về "nhân"
là biểu hiện về mặt chính trị của nó. Có lẽ với Khổng Tử thái độ đối với dân là
tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá đức nhân của người cầm quyền: "Sai
khiến dân thì phải thận trọng như trong một cuộc tế lớn, cái gì mình không
muốn thì đừng làm cho người". ...............................................................................14
Sau Nhân, Khổng tử quan tâm nhiều đến "Lễ", bởi “Lễ” cần thiết để duy trì trật
tự xã hội, và có trật tự xã hội thì vua mới được tôn, nước mới được trị. Mặt khác,
lễ có nội dung luân lý của nó, trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời với
nhân. Khổng Tử xem điều lễ là hình thức của nhân, là chính đạo mà mọi người
nên thi hành, còn nếu con người chạy theo dục vọng của mình mà trái ngược với
chính đạo tức là trái ngược với điều nhân. Vì vậy, người cầm quyền phải giữ lễ:
"Vua khiến bề tôi phải giữ lễ, bề tôi thờ vua phải trung (hết lòng)". Đáng chú ý

là, trong quan niệm của Khổng Tử lễ chỉ quan trọng khi gắn bó với điều nhân, là
biểu hiện của nhân. Nếu tách rời nhân thì lễ chỉ là vô nghĩa. "Người không có
đức nhân thì lễ mà làm gì?". Thật vậy không có lòng nhân thì lễ mà làm gì? Nhà
cầm quyền không có đức nhân thì lễ chỉ càng làm thủ cựu, càng làm nghiệt ngã
và tàn khốc. Khổng Tử đề xướng "Lễ trị" nhằm ổn định xã hội. Thực hành đúng
Lễ vừa là biểu hiện của Nhân, đồng thời cũng thể hiện con người phải làm đúng
bổn phẩn, thân phận của mình, tức là phải Chính danh. Trong công việc chính
Trang 2


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

trị, theo Khổng Tử Chính danh phải đặt lên trước nhất, bởi "Nếu danh (hiệu)
không chính (xác) thì lời nói không thuận lý (vì danh hiệu không hợp với thực
tế), lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc
chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ không kiến lập được thì hình phạt
không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu
(không biết làm thế nào cho phải)". ........................................................................14
Tư tưởng “Đức trị” của Khổng tử còn thể hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình
và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng Tử quan niệm:
"Không giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược". Khổng Tử
chủ trương giảm hình, coi nhẹ hình còn vì ông thật sự không bao giờ tin vào bá
đạo: "có thể (dùng sức mạnh) bắt được một vị nguyên soái, chứ chí hướng của
một thường dân thì không (dùng sức mạnh mà) đoạt nổi. Khổng Tử cho việc thi
ân rộng rãi cứu giúp dân chúng là sự nghiệp của thánh vương mà Nghiêu, Thuấn
chưa chắc đã làm được như vậy. .............................................................................15
Dưỡng dân, theo Khổng Tử trước hết phải làm cho dân no đủ, giàu. Ông coi
trọng việc dưỡng dân hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hoá dân nữa.
Dưỡng dân còn phải biết "sử dân dĩ thời" nghĩa là khiến dân làm việc phải hợp

thời cụ thể là vào lúc dân rảnh việc nhà nông. Như vậy "sử dân dĩ thời" vừa thể
hiện sự nhân đạo trong chính sách trị dân, vừa là bổn phận của người cầm
quyền, người được tôn là cha mẹ dân. ....................................................................15
Để thực thi đường lối đức trị, đương nhiên cần phải có một mẫu người cầm
quyền thích hợp. Đó là mẫu người quân tử với những tiêu chuẩn về tài đức nhất
xứng đáng được nắm quyền trị dân. Đức của người quân tử là "lấy nghĩa làm
gốc, theo lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc", "sửa mình
để cho trăm họ yên trị". Tư cách người quân tử là "lo không đạt đạo chứ không
lo nghèo", "hòa hợp nhưng không a dua", "thư thái mà không kiêu căng". Tài
năng kiến thức của người quân tử "không phải như một đồ dùng", tức là phải
hiểu rộng, biết nhiều làm được nhiều việc và nhất là phải có "tài trí đủ để trị
dân". Người quân tử còn phải là "thận trọng về lời nói, mau mắn về việc làm",

Trang 3


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

thờ vua phải trung nhưng là trung một cách sáng suốt "không nên lừa gạt vua,
nhưng không ngại xúc phạm vua (mà phải dám can gián)"..................................15
Có thể khẳng định đường lối đức trị của Khổng Tử "lấy đạo nhân làm gốc, lấy
"hiếu - đễ, lễ - nhạc" làm cơ bản cho sự giáo hoá, lấy việc thực hiện chính sách
"thân dân" làm cơ sở; lấy tư cách phẩm chất mẫu mực của người cầm quyền
làm gương để thực hiện "Đức trị", "Lễ trị", "Nhân trị" nhằm tạo lập một xã hội
phong kiến theo điển chế có trật tự, tôn ti...............................................................15
3.2.Tư tưởng "Đường lối nhân chính" của Mạnh Tử.............................................15
Thời đại của Mạnh Tử là thời đại Chiến quốc, một thời đại mà mọi tư tưởng
được giải phóng mạnh mẽ, cho nên, ông phải đảm đương sứ mệnh người thừa kế,
bảo vệ và phát triển tư tưởng của Khổng Tử trong thời đại mới. Có thể khẳng

định với Mạnh Tử, học thuyết của Nho gia do Khổng Tử sáng lập đã được phát
triển nâng lên một tầm mức mới trở thành Nho giáo Khổng Mạnh. Đó là đường
lối "Nhân chính" của Mạnh Tử với những nội dung chủ yếu sẽ lần lượt được
trình bày dưới đây..................................................................................................... 15
3.3.Kết luận................................................................................................................ 17
Đường lối đức trị của Nho giáo từ Khổng Tử tới Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm
gốc, coi trọng vai trò của dân tuy đã thể hiện được những quan điểm nhân bản
khá sâu sắc. Đường lối đó nặng "đức" "nhẹ hình", khuyến khích người đời từ
thường dân đến bậc vua chúa đều phải tu thân rèn đức theo mẫu người quân tử.
Học thuyết “Đức trị” của Khổng, Mạnh chứa đựng hầu hết các giá trị tinh hoa
của Nho giáo tiên Tần và ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu
sâu thêm nữa và chắc chắn sẽ còn tìm được trong đó nhiều bài học bổ ích.........18
4.VẤN ĐỀ KẾT HỢP GIỮA “PHÁP TRỊ” VÀ “ĐỨC TRỊ” TRONG CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY............................................................18
4.1.Trong phạm vi xã hội...........................................................................................18
4.2.Trong phạm vi nhà trường..................................................................................18
4.3.Trong phạm vi gia đình .....................................................................................19
5.KẾT LUẬN............................................................................................................. 19

Trang 4


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

LỜI NÓI ĐẦU

Trang 5



Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

1. VÀI NÉT VỀ HÀN PHI TỬ
Hàn Phi còn được gọi là Hàn Phi Tử (tiếng Hán: 韓 非 ; Pinyin: Hán Fēi)
(khoảng 280 - 233 TCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo
trường phái pháp gia, tác giả sách Hàn Phi Tử.
1.1. Sơ lược về cuộc đời, sự nghiệp:
Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống
nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn (được gọi là "công tử"), thích
cái học "hình danh." Gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Hàn Phi có tật
nói ngọng, không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách.
Hàn Phi và Lý Tư đều học với Tuân Khanh (còn gọi là Tuân Tử). Lý Tư tự cho mình
kém Hàn Phi, nhưng Hàn Phi và Lý Tư đều đóng vai trò trong việc giúp Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Quốc. Cả hai đều theo pháp gia (hoặc pháp trị), chịu ảnh
hưởng của Mặc Tử1
Theo Sử ký ghi nhận, suốt đời Hàn Phi chỉ được có một dịp duy nhất, để thi thố
tài nghệ, là đi sứ sang Tần. Nguyên do là vì Tần vây đánh nước Hàn, vua Hàn cả kinh,
liền cử Hàn Phi làm sứ giả, sang gặp vua Tần xin hòa giải. Kịp đến Tần, Hàn Phi đệ
quốc thư lên Tần Thủy Hoàng, đại ý nói rằng: "Nước bất kính phục vua Tần là Triệu,
vậy Tần chớ nên đánh Hàn, đáng lý nên liên minh với Hàn, cùng nhau phạt Triệu mới
đúng". Đương thời, Lý Tư, bạn học của Hàn Phi là tể tướng của nước Tần, không
đồng ý với quan điểm đó, cho rằng mục đích chân chính của Phi, chẳng qua là nhằm
bảo tồn nước Hàn đó thôi, nào có chủ ý làm lợi cho Tần. Chẳng hiểu vì lẽ nào, đã
không thuyết phục được vua Tần thì thôi, Hàn Phi lại cứ nấn ná mãi bên Tần, không
về nước ngay. Có lẽ bởi cử chỉ quái gở đó, khiến cho Lý Tư nghi, e Hàn Phi ở lâu, rồi
sẽ được vua Tần trọng dụng, thay cho địa vị của mình, nên đã bất chấp tín nghĩa bạn
học với nhau, ngầm thông đồng với Diêu Giả hãm hại Hàn Phi, kết thúc cuộc đời bi
thống vào năm 233 tr. CN. chưa đầy năm mươi tuổi. Trớ trêu thay, những bậc tiền bối
của Pháp gia, là Ngô Khởi và Thương Quân, đều có công lớn với triều đình, thế mà

cũng chết bất đác kỳ tử. Ngô Khởi bị phân thây, Thương Quân bị xe cán xác, Hàn Phi
thì bị bạn học bức tử nơi xứ người.
Theo lịch sử Trung Quốc, Hàn Phi là một triết gia bị ngộ nhận nhiều nhất, bởi tư
tưởng của Người, chỗ nào cũng trái ngược với đạo Nho, một học phái đã giành được
địa vị chính thống, kể từ đời Đường, Tống trở đi. Do đó, học thuyết của Hàn Phi,
thậm chí bị coi như tà thuyết, dị đoan.

Mặc Tử trước kia đã chủ trương "thượng đồng", nghĩa là bắt dân phải tán đồng lẽ phải với
người trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên. Không ai được có chủ trương riêng
khác với chính sách của triều đình.
1

Trang 6


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

1.2. Tư tưởng:
Tư tưởng chủ yếu của Hàn Phi là thuyết Pháp Trị. Không phải ông là người đầu
tiên nêu lên học thuyết này mà trước đó Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại đã
khởi xướng học thuyết này. Tư tưởng của Hàn Phi Tử đối nghịch lại với tư tưởng
của Nho giáo (vốn cho rằng để quản lý xã hội thì dùng Nhân trị và Đức trị), ông cho
rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật 2.
Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để3. Hàn phi tử đưa
ra quan điểm; bản chất con người là ác, muốn quản lý xã hội phải khởi xướng ra lễ
nghĩa và chế định ra pháp luật để uốn nắn tính xấu của con người. Trong cai trị - quản
lý thì "tiên phú, hậu giáo" trước hết là làm cho dân giàu sang sau đó thì giáo dục họ,
trong giáo dục thì" tiên học lễ - hậu học văn"
Trong tư tưởng của Hàn Phi, quyền lực là tất cả, như đã viết trong thiên "Hiển

học", "Thị cố lực đa tắc nhân triều, lực quả tắc triều ư nhân, cố minh quân vụ lực" 4.
và "Quyền thế bất khả dĩ tá nhân, thượng thất kỳ nhất, hạ dĩ vi bách" 5.
Hàn Phi không những coi trọng quyền lực, còn là kẻ sùng bái quyền lực. Đó là ý
nghĩ chung của kẻ chủ trương độc tài, chuyên chế từ cổ chí kim, từ đông chí tây, họ
coi quyền lực như là chân lý, có quyền lực là có tất cả.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Đây là một tư tưởng hết sức
tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa
so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương
thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh
phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là cái
bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ không
phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một
công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có thể quy về 2 khái
niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
Dùng Pháp trị nhưng lại trọng dân, trước khi đặt ra luật lệ mới, ông để cho dân tự
phê bình. Còn lập pháp thuộc về nhà vua: quy tắc lập pháp phải lấy tính người và
phép trời làm tiêu chuẩn. Hành pháp thì phải công bố luật cho rõ ràng, thi hành cho
nghiêm chỉnh, tránh thay đổi, phải "chí công vô tư vua tôi sang hèn đều phải theo
pháp luật " thưởng phạt phải nghiêm minh "danh chính pháp hoàn bị thì bậc minh
quân chẳng có việc gì phải làm nữa, vô vi mà được trị".
2

"Pháp luật không hùa theo người sang...Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng cũng không
dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu".
3

Bảo không gì thân bằng tình cha con, vậy mà có nhiều người cha sinh con trai thì nuôi, sinh con gái thì giết đi, coi
cái lợi của mình nặng hơn tình ruột thịt như vậy là con người bẩm sinh vốn đại ác.

4
Bởi vậy cho nên, quyền lực nhiều thì người ta đến chầu mình, quyền lực kém thì phải đi chầu người ta. Do đó,
minh chúa phải nắm lấy quyền lực
5
Quyền thế chớ có chia sẻ cho người ta, khi bề trên chia mất một quyền, thì kẻ dưới sẽ lạm dụng thành trăm

Trang 7


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn gì thì phải cấp cho cái đó, không
muốn cái gì thì trừ cho cái đó. Đây là tư tưởng tiến bộ của Hàn Phi Tử về chính trị xã
hội. Mặc dù còn bị hạn chế dưới góc độ tư tưởng quản lý nhưng đã tạo lập nhiều quan
điểm quản lý quan trọng thuộc phạm vi quản lý vĩ mô, đã vạch ra được lôgích của quá
trình quản lý xã hội bao gồm các mức từ thấp đến cao: “Chính tâm, tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”, đã đưa ra được trình tự tiến hành các hoạt động quản lý: “trị đạo,
trị học, trị thể, trị tài, trị phong, trị thuật” mà chúng ta vẫn có thể áp dụng được trong
công tác quản lý xã hội, xây dựng đất nước hiện nay.
1.3. Tác phẩm:
Hàn Phi thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian
tà dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa, viết Cô
Phẫn (sự phẫn nộ của con người cô độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt), Nội Ngoại Trữ
Thuyết (sưu tập những lời bàn về việc trong và việc ngoài), Thuyết Làm, Thuyết
Nan (cái khó trong việc du thuyết), tất cả hơn mười vạn chữ. Ông cũng tổng hợp tư
tưởng của các pháp gia trước ông, các nhà nghị luận thời Chiến Quốc, mà viết bộ
sách Hàn Phi Tử. Nguyễn Hiến Lê đánh giá bộ Hàn Phi Tử có giá trị hơn bộ Quân
vương (Le Prince) của Niccolò Machiavelli (1469-1527) cả về tư tưởng lẫn bút pháp.
2. TƯ TƯỞNG “PHÁP TRỊ” CỦA HÀN PHI TỬ

2.1. Bối cảnh ra đời tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử
Lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳđược nói đến nhiều nhất: Xuân thu và
Chiến quốc. Thời Xuân thu (770-403 TCN) là thời kỳ suy tàn của nhà Chu, đây chính
là thời kỳ sinh sống của Lão Tử, Khổng Tử (551-479 TCN).
Thời Chiến quốc (403-221 TCN) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương, tới khi nhà Tần
diệt nhà Tề thống nhất đất nước, đó là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử (280-233
TCN).
So với thời Xuân Thu thì Chiến Quốc loạn lạc và bất ổn định hơn về chính trị,
nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Trong thời Xuân Thu, công cụ sản xuất và khí giới
chủ yếu là bằng đồng. Sắt bắt đầu được dùng cuối thời kỳ này và trở nên thông dụng
vào thời Chiến Quốc, do đó, thúc đẩy việc mở rộng đất đai nông nghiệp, tăng năng
suất lao động. Đây là thời kỳ đạo đức suy đồi, người ta chỉ tìm mọi cách để tranh lợi.
Quan lại tham nhũng, ăn chơi xa hoa truỵ lạc; chiến tranh kéo dài liên miên khiến cho
đời sống của nhân dân càng thêm đói khổ cùng cực. Trước tình cảnh xã hội như vậy,
tầng lớp quý tộc và tầng lớp trí thức có sự chia rẽ về tư tưởng.
Thời Chiến Quốc chính là thời kỳ lịch sử phát triển rực rỡ về tư tưởng “trăm hoa
đua nở”, “bách gia chư tử”.
Ở thời kỳ này có 3 dòng tư tưởng lớn nhất cùng tồn tại đó là:
1. Phái thứ nhất: có Nho gia và Mặc Tử, Khổng Tử muốn khôi phục nhà Chu. Mặc
Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử thấy nhà Chu suy quá, không cứu được, lại mong có vị minh
quân thay Chu thống nhất Trung Hoa bằng chính sách Đức trị có sửa đổi ít nhiều.
Trang 8


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

2. Phái thứ hai: phái Đạo gia muốn giảm thiểu, thậm chí giải tán chính quyền, sống
tự nhiên như thuở sơ khai, từ bỏ xã hội phong kiến để trở về xã hội cộng sản nguyên
thuỷ.

3. Phái thứ ba: phái pháp gia muốn dùng vũ lực lật đổ chếđộ phong kiến phân tán và
lập ra chếđộ phong kiến quân chủ chuyên chế, thay “vương đạo” của Khổng Mạnh
bằng chính sách “Bá đạo”.
2.2. Nội dung tư tưởng “Pháp Trị” của Hàn Phi Tử
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi phê phán mạnh mẽ lý
thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên nhân đức của
nhà cầm quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”), lý tưởng chính
trị Nghiêu Thuấn là trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất
nước.
Nho gia chủ trương cai trị bằng đạo đức, bằng văn và đã phát triển học thuyếtphương pháp đức trị. Ngược lại, pháp gia đã đưa ra một học thuyết và phương pháp
cai trị mới - pháp trị " pháp bất vị thân", pháp phải hợp thời, pháp luật phải soạn sao
cho dân dễ biết dễ thi hành; pháp luật phải công bằng bênh vực kẻ thiểu số; thường
phải có trọng hậu, phạt phải nặng.Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không
trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của
pháp gia để trị nước.
Triết lý chính trị của Hàn Phi, bắt nguồn từ tư tưởng "Phú quốc cường binh" của
Ngô Khởi cùng Thương Quân, hình thành một hệ thống gồm ba chủ điểm là: Pháp,
Thuật và Thế. Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế
để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về
kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị.
Chủ trương "vô vi nhi trị" đó thực trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang Tử; chính ra
nó là một thứ cực hữu vi.
1. "Pháp"
Là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Trong tư tưởng
Trung Quốc cổ đại, "Pháp" là phạm trù triết học được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa
rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; theo nghĩa hẹp
"Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu.
Kế thừa và phát triển lý luận pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng:
"Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là
thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ

theo Pháp"6.
Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt và ông gọi đó là
hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Ông chê Thương Ưởng chỉ biết
phạt tội mà không thưởng công và cho rằng cần phải thực hiện toàn diện cả hai mặt
khuyến khích và răn đe thông qua thưởng và phạt. Bởi vì "thưởng mà hậu thì điều
6

Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 346.

Trang 9


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

mình muốn cho dân làm, dân mới mau mắn mà làm, phạt mà nặng thì điều mình ghét
và cấm đoán, dân mới mau mắn mà tránh... thưởng hậu không phải chỉ để thưởng
công, mà còn để khuyến khích dân chúng nữa, phạt mà nặng không phải chỉ là phạt
một kẻ gian mà còn để ngăn kẻ bậy trong nước " 7. Điều đáng chú ý là song song với
việc "thưởng hậu, phạt nặng" Hàn Phi còn đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới quý
tộc vì luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực
hiện "Pháp" "để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh
không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi đời,
bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha
con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù"8.
Với nội dung và mục đích như trên "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để
phân định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự
đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của
thiên hạ.

2. "Thế"
Là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh. "Thế" là yếu tố không thể thiếu được
trong pháp trị.
Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn
trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy
của người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến mức
có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền
thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy... Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ
không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không
phải vì hiền mà vì địa vị thấp"9.
"Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của
đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được
mũi tên lên cao là nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần
chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”. Để nâng cao thế của nhà vua,
pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của
vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng "Nước của bậc minh chủ thì lệnh là cái quý
nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm. Lời nói không có hai cách đều
quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp cho nên lời nói và việc làm mà không
đúng với pháp lệnh thì cấm"10.
3. "Thuật"
Là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là
công cụ của bậc đế vương. Sau "Pháp" và "Thế", pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong
7

Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 346.
Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 347
9
Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 348
10
Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương Đông, Tập I, NXB TPHCM,1991 tr. 105.

8

Trang 10


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

đường lối pháp trị. "Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ
đoạn... trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ
nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ
yếu của
"Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và những
quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm
của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ
chuyên chế"11.
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản
của thuật dùng người là: "Chính danh", "Hình danh", "Thực danh". Chẳng hạn một
người hứa đến thăm ta thì lời hứa đó là "Danh" còn hành động tới thăm là "Hình" hay
"Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ "danh", "hình" (hay "danh" và
"thực") hợp nhau, "danh" và "thực" hợp nhau là "chính danh", còn "danh" và "thực"
không hợp nhau là trái, là không "chính danh" từ đó sẽ có căn cứ mà thưởng phạt một
cách nghiêm minh. "Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh
chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi làm ra hình.
Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người trong xã hội
đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai dám làm trái
hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết
dùng "Thuật".
"Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà trao việc, cứ theo việc mà trách
công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không xứng việc thì phạt" 12

2.3. Kết luận
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung
Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và phát triển
đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một
trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn
thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp gia là muốn trị nước, yên
dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao
nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học thuyết
chính trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần ra sức vận dụng và kết cục đã đưa
nước Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán cát cứ, thống nhất
được đất nước Trung Hoa sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự phát
triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất đất nước
Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội Trung Hoa
cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử
11
12

Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 349
Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 350

Trang 11


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng pháp
gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp

quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3. TƯ TƯỞNG "ĐỨC TRỊ" CỦA NHO GIÁO
Đối với các xã hội phong kiến Á Đông, đường lối "Đức trị" luôn luôn là đường lối
trị nước duy nhất trong hơn hai nghìn năm lịch sử. Một đường lối trị nước được độc
tôn lâu dài như vậy trong lịch sử rất cần được đi sâu nghiên cứu. Hơn nữa, đối với các
xã hội Á Đông đương đại, Nho học trong đó có tư tưởng "Đức trị" không phải là vấn
đề cổ xưa, càng không phải là vấn đề đã hoàn toàn thuộc về lịch sử. Trên thực tế sự
hiện diện của Nho học với những mức độ khác nhau, vẫn luôn luôn mang tính thời sự
mới mẻ. Không nghi ngờ gì nữa ý nghĩa hiện đại của nhiều yếu tố trong Nho học
trong đó có tư tưởng "Đức trị" đang ngày càng nổi lên. Một sự khảo cứu có hệ thống
đường lối "Đức trị" của Nho học do đó lại càng cần thiết.
3.1. Tư tưởng "Đức trị" của Khổng Tử

Trang 12


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

Với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói
đến đạo đức: "Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích
xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào
việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân..." 13. Đức
với Khổng Tử là lời nói đi đôi với việc làm trên cơ sở cái thiện: "Người xưa thận
trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được" 14.
Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức trị" - đường lối
trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Khổng Tử quan niệm:
"Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi
mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)" 15.
Trước sau Khổng Tử vẫn tin rằng: "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình

phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng
đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà
lại theo đường chính"16 .

13

Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.26
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.81
15
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.37
16
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.39
14

Trang 13


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

Khổng Tử coi "nhân" là đức căn bản nhất của con người cả về xử thế lẫn tu thân,
và bao gồm gần đủ các đức khác. Thật vậy "Nhân" vừa là tu thân, vừa là ái nhân, lại
vừa là xử kỷ vừa là tiếp vật. Nhân còn là Trung (yêu người, hết lòng với người) và thứ
(làm cho người những cái mình muốn và đừng làm cho người những cái mình không
muốn). Điều quan trọng nhất trong tư tưởng về "nhân" là biểu hiện về mặt chính trị
của nó. Có lẽ với Khổng Tử thái độ đối với dân là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh
giá đức nhân của người cầm quyền: "Sai khiến dân thì phải thận trọng như trong một
cuộc tế lớn, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người".
Sau Nhân, Khổng tử quan tâm nhiều đến "Lễ", bởi “Lễ” cần thiết để duy trì trật tự
xã hội, và có trật tự xã hội thì vua mới được tôn, nước mới được trị. Mặt khác, lễ có

nội dung luân lý của nó, trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời với nhân. Khổng
Tử xem điều lễ là hình thức của nhân, là chính đạo mà mọi người nên thi hành, còn
nếu con người chạy theo dục vọng của mình mà trái ngược với chính đạo tức là trái
ngược với điều nhân. Vì vậy, người cầm quyền phải giữ lễ: "Vua khiến bề tôi phải giữ
lễ, bề tôi thờ vua phải trung (hết lòng)"17. Đáng chú ý là, trong quan niệm của Khổng
Tử lễ chỉ quan trọng khi gắn bó với điều nhân, là biểu hiện của nhân. Nếu tách rời
nhân thì lễ chỉ là vô nghĩa. "Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì?" 18. Thật vậy
không có lòng nhân thì lễ mà làm gì? Nhà cầm quyền không có đức nhân thì lễ chỉ
càng làm thủ cựu, càng làm nghiệt ngã và tàn khốc. Khổng Tử đề xướng "Lễ trị"
nhằm ổn định xã hội. Thực hành đúng Lễ vừa là biểu hiện của Nhân, đồng thời cũng
thể hiện con người phải làm đúng bổn phẩn, thân phận của mình, tức là phải Chính
danh. Trong công việc chính trị, theo Khổng Tử Chính danh phải đặt lên trước nhất,
bởi "Nếu danh (hiệu) không chính (xác) thì lời nói không thuận lý (vì danh hiệu
không hợp với thực tế), lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không
thành thì lễ nhạc chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ không kiến lập được thì
hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu
(không biết làm thế nào cho phải)"19.

17

Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.65
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.56
19
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.213
18

Trang 14


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp

trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

Tư tưởng “Đức trị” của Khổng tử còn thể hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình và
giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng Tử quan niệm: "Không giáo
hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược" 20. Khổng Tử chủ trương giảm
hình, coi nhẹ hình còn vì ông thật sự không bao giờ tin vào bá đạo: "có thể (dùng sức
mạnh) bắt được một vị nguyên soái, chứ chí hướng của một thường dân thì không
(dùng sức mạnh mà) đoạt nổi21. Khổng Tử cho việc thi ân rộng rãi cứu giúp dân chúng
là sự nghiệp của thánh vương mà Nghiêu, Thuấn chưa chắc đã làm được như vậy.
Dưỡng dân, theo Khổng Tử trước hết phải làm cho dân no đủ, giàu. Ông coi trọng
việc dưỡng dân hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hoá dân nữa. Dưỡng dân
còn phải biết "sử dân dĩ thời" nghĩa là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể là vào
lúc dân rảnh việc nhà nông. Như vậy "sử dân dĩ thời" vừa thể hiện sự nhân đạo trong
chính sách trị dân, vừa là bổn phận của người cầm quyền, người được tôn là cha mẹ
dân.
Để thực thi đường lối đức trị, đương nhiên cần phải có một mẫu người cầm quyền
thích hợp. Đó là mẫu người quân tử với những tiêu chuẩn về tài đức nhất xứng đáng
được nắm quyền trị dân. Đức của người quân tử là "lấy nghĩa làm gốc, theo lễ mà
làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc" 22, "sửa mình để cho trăm họ yên
trị". Tư cách người quân tử là "lo không đạt đạo chứ không lo nghèo", "hòa hợp
nhưng không a dua", "thư thái mà không kiêu căng". Tài năng kiến thức của người
quân tử "không phải như một đồ dùng", tức là phải hiểu rộng, biết nhiều làm được
nhiều việc và nhất là phải có "tài trí đủ để trị dân". Người quân tử còn phải là "thận
trọng về lời nói, mau mắn về việc làm", thờ vua phải trung nhưng là trung một cách
sáng suốt "không nên lừa gạt vua, nhưng không ngại xúc phạm vua (mà phải dám can
gián)"23.
Có thể khẳng định đường lối đức trị của Khổng Tử "lấy đạo nhân làm gốc, lấy
"hiếu - đễ, lễ - nhạc" làm cơ bản cho sự giáo hoá, lấy việc thực hiện chính sách
"thân dân" làm cơ sở; lấy tư cách phẩm chất mẫu mực của người cầm quyền làm
gương để thực hiện "Đức trị", "Lễ trị", "Nhân trị" nhằm tạo lập một xã hội phong

kiến theo điển chế có trật tự, tôn ti.
3.2. Tư tưởng "Đường lối nhân chính" của Mạnh Tử
Thời đại của Mạnh Tử là thời đại Chiến quốc, một thời đại mà mọi tư tưởng được
giải phóng mạnh mẽ, cho nên, ông phải đảm đương sứ mệnh người thừa kế, bảo vệ và
phát triển tư tưởng của Khổng Tử trong thời đại mới. Có thể khẳng định với Mạnh Tử,
học thuyết của Nho gia do Khổng Tử sáng lập đã được phát triển nâng lên một tầm
mức mới trở thành Nho giáo Khổng Mạnh. Đó là đường lối "Nhân chính" của Mạnh
Tử với những nội dung chủ yếu sẽ lần lượt được trình bày dưới đây.
3.2.1. Đề cao sức mạnh nhân nghĩa
20

Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.325
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.164
22
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.260
23
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995, tr.24
21

Trang 15


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

Mạnh Tử cũng đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử về "tính tương
cận, tập tương viễn" và đi đến luận điểm nổi tiếng: "Nhân tính chi thiện giã" (cái bản
tính của người ta vốn thiện). Từ đó ông khẳng định sức mạnh vô địch của nhân nghĩa:
"Đối với người nhân dẫu kẻ địch có đông cũng chẳng làm gì được mình" 24. Không ai
địch nổi người nhân đức là ý niệm chính trị mà Mạnh Tử suốt đời tin tưởng theo đuổi.

Quả thật là Mạnh Tử rất nhất quán trong quan niệm lấy nhân đức làm nguyên tắc chỉ
đạo chính trị của mình. Trước sau như một ông luôn luôn chỉ nói đến nhân nghĩa, chỉ
đề cao nhân nghĩa.
Quan điểm của ông thật rõ ràng: "Người ưa điều thiện thì dư sức cai trị thiên hạ...
nếu nhà cầm quyền ưa điều thiện, ắt người trong bốn biển sẽ khinh thường đường xa
muôn dặm mà đến với mình, để mách bảo điều thiện với mình" 25. Người nhân là
người vô địch trong thiên hạ, bởi vì "điều nhân thắng điều bất nhân, cũng như nước
thắng lửa".
3.2.2. Coi trọng dân
Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng "dân tín", coi đó là điều quan trọng nhất không
thể bỏ được trong phép trị nước, thì Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: "Kiệt
và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất dân chúng... hễ được dân chúng tự
nhiên sẽ được thiên hạ... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng" 26. Ông nói:
"Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là trong nước nhân dân là quan
trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn
là gốc nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. Từ đó Mạnh Tử
chủ trương thi hành một chế độ "báo dân" và khuyến cáo các bậc vua chúa: "Nếu
người bực trên mà vui với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu
mình buồn với sự buồn của dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bực quốc
trưởng mà chia vui với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của
mình cũng có bề hưng vượng đó"27.
Với các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân
muốn việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền
đừng thi thố cho họ"28. Phân chia ruộng đất hợp lý và khuyến khích làm giàu cho dân.
Nếu Khổng Tử coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc, nhưng mới dừng
lại ở những nguyên tắc có tính đường lối, thì Mạnh Tử quan tâm nhiều hơn đến các
biện pháp kinh tế cụ thể nhằm tạo ra cho dân số một sản nghiệp no đủ. Mạnh Tử đòi
hỏi bậc minh quân phải "chế định điền sản mà chia cho dân cày cấy, cốt khiến cho họ
trên đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới đủ nuôi sống vợ con, nhằm năm trúng mùa thì mãi
mãi no đủ, phải năm thắt ngặt thì khỏi nạn chết đói" 29, và "Thánh nhân cai trị thiên hạ,

24

Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ, Thượng Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950, tr.17
Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ, Thượng Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950, tr.209
26
Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ, Thượng Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950, tr.19
27
Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ, Hạ Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950. tr.51
28
Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ, Thượng Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950, tr.19
29
Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ, Hạ Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950. tr51, tr.38
25

Trang 16


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

phải làm cho dân có đậu thóc nhiều như nước lửa, khi đậu thóc nhiều như nước lửa thì
dân chẳng còn ai bất nghĩa nữa"30.
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng "sử dân dĩ thời" của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề xuất
một đường hướng kinh tế khá hoàn chỉnh nhằm hướng đến cải thiện đời sống của dân,
"nếu bậc quốc trưởng làm cho việc ruộng nương được dễ dàng (đừng bắt họ làm xâu
lúc cày cấy gặt hái) và bớt thuế má cho dân, thì dân trở nên phú túc... bực thánh nhân
cai trị thiên hạ, khiến ai nấy đều có đủ ruộng và lúa, cũng như họ có đủ nước và lửa
vậy. Nếu dân chúng có bề phú túc về đậu và lúa cũng như họ có đủ về nước và lửa thì
họ còn ăn ở bất nhân làm chi" 31. Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm
có ý nghĩa đối với dân chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân

theo đường lối nhân chính.
3.2.3. Nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân
Trong đường lối nhân chính ngoài việc lấy nhân nghĩa làm gốc, coi "dân là quý”,
thi hành chế độ điền địa và thuế khoá công bằng, Mạnh Tử còn chủ trương phải giảm
nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử trước sau
tôn sùng "Vương đạo" phản đối "Bá đạo". Mạnh Tử coi việc giảm hình phạt phải là
một chính sách của đức trị. Ông nói: Vua cần phải thi hành phép cai trị nhân - đức
đối với dân: Giảm hình phạt, bớt thuế - liễm, khiến dân siêng lo việc cày sâu cuốc
bẫm, làm vườn làm tược". Theo Mạnh Tử cần phải nhẹ hình phạt bởi nếu "dân khờ
khạo mà phạm luật nước, đó không phải là tội của họ, mà chính là tội của nhà cầm
quyền chẳng biết giữ gìn, giáo hoá họ" 32. Có một điều nhất quán giữa Khổng - Mạnh
trong chủ trương nhẹ hình là cả hai ông đều xem chính hình và thưởng phạt khéo có
thể giúp cho sự giáo hoá dân chúng. Mạnh Tử, cũng xem trọng giáo hoá như Khổng
Tử, nhưng cái mới ở ông là rất quan tâm đến việc quảng bá giáo dục, thông qua việc
xây dựng hệ thống trường học rộng khắp. Ông chủ trương hình thành một mạng lưới
trường học đa dạng từ làng xã đến kinh đô, từ trường hương học đến trường quốc học;
đó là những tường, tự, học, hiệu, để giáo hoá dân chúng. Như vậy, so với Khổng Tử
chủ trương giáo hoá của Mạnh Tử có tính quảng bá và phổ cập hơn. Ngoài việc chú ý
đề cao giáo dục đạo đức nhân luân như Khổng Tử, Mạnh Tử còn thấy được trách
nhiệm của người trị dân là phải dạy dân cấy gặt, chăn nuôi, trồng dâu nuôi tằm, dệt
vải nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất hơn. Ông chỉ rõ: "Vua Thuấn đã cho ông hậu
tắc việc dạy dân cấy gặt và gieo trồng năm giống lúa chín, nhân dân nhờ đó mà
sống"33. Có thể thấy rõ quan điểm giáo dục và giáo hóa dân của Mạnh Tử thể hiện một
bước tiến mới so với Khổng Tử trước đó và là một nội dung quan trọng hợp thành
đường lối chính trị nhân nghĩa mà Mạnh Tử đã suốt đời cổ vũ.
3.3. Kết luận

30

Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 246

Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ, Thượng Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950, tr.235
32
Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ, Hạ Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950, tr.179
33
Đoàn Trung Còn (dịch giả), Tứ Thơ,Thượng Mạnh Tử, in tại nhà in riêng Trí Đức Tòng Thơ, SG 1950, tr.169
31

Trang 17


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

Đường lối đức trị của Nho giáo từ Khổng Tử tới Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm
gốc, coi trọng vai trò của dân tuy đã thể hiện được những quan điểm nhân bản khá sâu
sắc. Đường lối đó nặng "đức" "nhẹ hình", khuyến khích người đời từ thường dân
đến bậc vua chúa đều phải tu thân rèn đức theo mẫu người quân tử. Học thuyết “Đức
trị” của Khổng, Mạnh chứa đựng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho giáo tiên Tần và
ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu sâu thêm nữa và chắc chắn sẽ
còn tìm được trong đó nhiều bài học bổ ích.
4. VẤN ĐỀ KẾT HỢP GIỮA “PHÁP TRỊ” VÀ “ĐỨC TRỊ” TRONG CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
Con đường đi lên CNXH của đất nước ta ở thời đại ngày nay có một đặc điểm lớn
là không qua giai đoạn phát triển TBCN. Hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã thu được những thành tựu lớn, bên cạnh đó, nó cũng đang làm thay đổi nhiều
chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị. Vì thế, trong giáo dục và đào tạo con người
Việt Nam hiện nay, phải biết dùng quan điểm hiện đại để soi rọi vào truyền thống. Nếu
chúng ta biết tiếp thu quan điểm tiến bộ, loại trừ những hạn chế trong học thuyết của
Khổng Tử đồng thời áp dụng những đường lối mới phù hợp với hoàn cảnh hiện nay thì
chúng ta sẽ xây dựng thành công con người mới XHCN.

Trong xã hội mới, con người là chủ thể của xã hội, có vai trò to lớn trong sự nghiệp
xây dựng đất nước. Để có con người mới đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò giáo dục
đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng.
Phương hướng chung của việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa của Đảng
là con người phát triển toàn diện cân đối, có trình độ năng lực. Đảng đã chủ trương xây
dựng con người mới từ con người “truyền thống”.
Nhìn vào thực tế xã hội Việt Nam ngày nay, chúng ta thấy rằng sự ảnh hưởng tư
tưởng triết học về đạo đức – chính trị của Khổng Tử đến sự nghiệp đào tạo con người
mới hiện nay thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị xã hội, kinh tế, văn hoá, gia
đình…
4.1. Trong phạm vi xã hội
Cho đến nay, trong “tam cương” và “ngũ luân”, chúng ta có thể coi như cuộc sống
chính trị – xã hội đã tự nó thanh toán cương và luân vua – tôi rồi. Đồng thời nó đưa ra
một quan hệ mới: Quan hệ giữa những người Cộng sản và nhân dân lao động. Để xây
dựng quan hệ tốt đẹp không chỉ giữa Đảng và nhân dân mà trong tất cả các mối quan hệ
của xã hội mới thì chữ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng, chính danh… vẫn có nhiều giá trị
quan trọng.
4.2. Trong phạm vi nhà trường
Hiện nay nội dung giáo dục đã được thay thế bằng những nội dung mới mang tính
khoa học nhằm phát triển nhân cách toàn diện; thực hiện mục đích rèn luyện nhân cách
cho con người. Đó là tinh thần say sưa giảng dạy của thầy; ham học hỏi, ham hiểu biết
của trò. Đó là tinh thần “Học, học nữa, học mãi” (Lênin); tinh thần “Tiên học lễ, hậu
học văn”…
Trang 18


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

4.3. Trong phạm vi gia đình

Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục con người trong gia đình đã đạt được
những kết quả đáng kể. Chúng ta chủ trương khôi phục gia đình truyền thống với những
nếp tốt mà Nho giáo đã làm được. Gia đình trong thời hiện nay cũng với mục đích xây
dựng nên những mối quan hệ bằng sự mềm dẻo, khéo léo. Mọi thành viên bình đẳng
trên cơ sở bình đẳng lẫn nhau.
Ngày nay, những ảnh hưởng tích cực về tư tưởng chính trị – đạo đức của Khổng Tử
được đưa thêm vào những nội dung mới cho phù hợp với yêu cầu xã hội. Đất nước ta
đang đi theo con đường XHCN nên càng cần dùng đức để trị dân. Việc kết hợp hài hoà
giữa “đức trị” và “pháp trị” của Đảng và Nhà nước ta là phương pháp có nhiều kết quả
trong giáo dục con người hiện nay.
Khi nghiên cứu vấn đề ảnh hưởng tư tưởng triết học của Khổng Tử về chính trị –
đạo đức với sự nghiệp giáo dục đào tạo con người hiện nay, chúng ta cũng không thể
không kể đến những mặt hạn chế của Nho giáo còn tồn tại trong xã hội. Việc thanh toán
những hậu quả xấu của Nho giáo một cách toàn diện và triệt để là cần thiết.
5. KẾT LUẬN
Khổng Tử , Mạnh Tử, Hàn Phi Tử là các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại có vai trò
lớn trong lịch sử giáo dục, triết học thế giới. Họ đã để lại cho nhân loại những lời dạy
bảo quý giá mà ở từng thời kì lịch sử khác nhau, khi vai trò nhân tố con người được đề
cao thì người ta lại càng phát hiện ở đó chứa đựng những yếu tố tích cực, tiến bộ vẫn
còn giá trị trong việc giáo dục, đào tạo con người, xây dựng quản lý xã hội…
Khổng Tử, với cả cuộc đời hoạt động chính trị – xã hội sôi nổi và sự nghiệp giáo
dục không mệt mỏi đã để lại nhiều tư tưởng và những kinh nghiệm về dạy và học hết
sức quý báu.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, chúng ta nghiên cứu tư tưởng triết học về đạo đức – chính trị của Khổng Tử để
thấy rõ mặt hạn chế và tích cực của nó đối với giáo dục con người Việt Nam. Học
thuyết chính trị của ông với “nhân, lễ, chính danh” và chính sách “đức trị” thể hiện rõ
tư tưởng nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Con người mới mà chúng ta đang xây dựng là những con người có những phẩm
chất tốt đẹp của con người truyền thống, đồng thời có khả năng nắm bắt và vận dụng

những tri thức hiện đại; tìm tòi, sáng tạo những cái mới. Do đó mà tư tưởng của Khổng
Tử về chính trị - đạo đức vẫn có ảnh hưởng đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người
ở nước ta hiện nay. Nếu vận dụng tư tưởng của Khổng Tử một cách linh hoạt thì chúng
ta sẽ có những lớp người vừa có nhân, đức, vừa có dũng, tài. Bên cạnh “đức trị”, chúng
ta vẫn sử dụng hệ thống pháp luật để hướng dẫn người dân điều chỉnh hành vi của mình
sao cho đúng đắn.
Thấu suốt những tư tưởng của Đảng, vận dụng đúng đắn nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam; những con người
mới vừa đảm bảo tính truyền thống vừa có phẩm chất năng lực làm chủ xã hội sẽ góp
Trang 19


Tiểu luận môn Triết Học: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và vấn đề kết hợp giữa Pháp
trị và Đức Trị trong công cuộc đổi mới Đất nước hiện nay”

phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hoá nước nhà, làm cho dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

Trang 20



×