Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Ôn tập thi lớp TCCT phần Quản lý Nhà nước 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.21 KB, 29 trang )

Câu 1: So sánh sự khác nhau giữa quản lý hành chính nhà nước với các dạng quản
lý xã hội khác. Phân tích vai trò của quản lý hành chính nhà nước với sự phát triển của
kinh tế xã hội.
Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và
quản lý xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có
giai cấp đối kháng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Do đó quản lý nhà nước là khâu rất quan trọng trong
quá trình phát triển nhà nước. Để hiểu được quản lý nhà nước là gì, chúng ta lần lượt tìm hiểu
các khái niệm:
Quản lý: quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới những mục tiêu nhất định.
Quản lý nhà nước: là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước
tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục
vụ lợi ích chung của cả cộng đồng. duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển
theo một định hướng thống nhất của nhà nước. Ví dụ: Để nhằm đảm bảo an toàn cho những
người tham gia giao thông, chính phủ ra Nghị định bắt buộc mọi người ngồi trên xe gắn máy,
khi tham gia giao thông phải đội mũ bảo hiểm. Nếu ai không chấp hành sẽ bị cưỡng chế của nhà
nước, mà cụ thể sẽ bị xử phạt theo luật định.
Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân do các cơ quan trong hệ thống
hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của
Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội duy trì trật tự an ninh, thõa mãn các nhu cầu hợp
pháp của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Quản lý hành chính nhà nước là
một bộ phận của quản lý nhà nước
Sự khác nhau của quản lý hành chính và các dạng quản lý xã hội khác:
Về phạm vi quản lý: đối với quản lý hành chính nhà nước chỉ diễn ra trong lĩnh vực của
hành chính nhà nước, còn quản lý xã hội quản lý chung bao gồm tất cả các mặt, các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Về mặt chủ thể quản lý: đối với quản lý hành chính nhà nước, chủ thể quản lý là các cơ
quan từ trung ương đến địa phương, các cán bộ, công chức nhà nước được trao quyền chấp


hành nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Còn đối với quản lý xã hội, chủ thể quản lý bao
gồm mọi tổ chức, mọi cá nhân trong xã hội.
Về mặt đối tượng quản lý: quản lý hành chính nhà nước quản lý trên mọi lĩnh vực, mọi tổ
chức và toàn thể các công dân. Còn quản lý xã hội tùy vào mục đích, tôn chỉ của tổ chức mà
quản lý.
Về mục tiêu: mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước là dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Còn quản lý xã hội có mục tiêu phù hợp với tổ chức và chỉ phục vụ cho tổ
chức.
Về phương pháp quản lý: quản lý hành chính nhà nước quản lý bằng phương pháp thuyết
phục, giáo dục, cưỡng chế hành chính, mệnh lệnh đơn phương. Trong khi đó quản lý xã hội chỉ
sự dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục, vận động.
Về công cụ quản lý: quản lý hành chính nhà nước sử dụng các văn bản quy phạm pháp
luật để điều chỉnh còn quản lý xã hội dựa vào điều lệ hay quy ước.
1

1


Về nguồn lực: nguồn lực của quản lý nhà nước dựa vào nguồn thu của ngân sách nhà
nước, còn đối với quản lý xã hội, nguồn lực có được là nhờ vào sự tự đóng góp của cá nhân
trong tổ chức hoặc nhờ vào các nhà tài trợ.
* Ví dụ minh hoạ:
- Quản lý hành chính nhà nước:
+ Áp dụng những biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật (như kiểm tra
giấy phép lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng…)
+ Đăng ký những sự kiện nhất định như đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký
phương tiện giao thông…
+ Lập và cấp các giấy tờ nhất định như lập biên bản về vi phạm hành chính.
+ Hoạt động công chứng, chứng thực
- Các dạng quản lý xã hội khác: Hoạt động của đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội cựu

chiếnbinh…
Vai trò của quản lý hành chính nhà nước đối với sự phát triển của xã hội:
- Góp phần quan trọng trong việc hiện thực hóa chủ trương, đường lối chính trị. Đường
lối chính trị của đảng được thể chế hóa vào trong các văn bản pháp luật, chính sách của nhà
nước. Chính sách, pháp luật của nhà nước là các quy định cụ thể, thể hiệ và là cơ sở để triển
khai quan điểm, đường lối của đảng vào thực tiển cuộc sống. Thông qua việc sử dụng chính
sách pháp luật để tổ chức triển khai các hoạt động quản lý đối với xã hội, quản lý hành chính
nhà nước góp phần hiện thực hóa quan điểm, đường lối chính trị của đảng.
Ví dụ: mục tiêu của đảng và nhà nước ta đã nhất quán lựa chọn và luôn kiên định đi theo:
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu này, Đảng
phải đề ra được các chính sách, đường lối để tiến hành xóa đói giảm nghèo cho bà con nhân
dân, đặc biệt là đối với bà con ở các vùng sâu, vùng xa, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, đời
sống văn hóa còn nhiều hạn chế. Trên cơ sở các chủ trương, đương lối của đảng, chính phủ
phải đưa ra các chiến lược, các đề án, dự án như chương trình cho vay vốn, chương trình 135
cho bà con nhân dân ở vùng sâu, vùng xa vay vốn làm kinh tế thoát nghèo… cùng với đảng và
nhà nước, các cơ quan ở địa phương có trách nhiệm phối hợp để góp phần trong việc thực hiện
mục tiêu chung của đất nước.
- Định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế-xã hội thông qua hệ thống pháp luật và chính
sách của nhà nước. Để cho hoạt động kinh tế- xã hội phát triển theo đúng mục tiêu, các cơ quan
hành chính nhà nước quản lý vĩ mô đối với các đơn vị, tổ chức. Những định hướng lớn, mục
tiêu phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển sẽ được thể hiện trong các chính
sách, pháp luật của nhà nước. Thông qua sự tác động của các công cụ quản lý như pháp luật, kế
hoạch, chính sách lên các quan hệ xã hội, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước chủ động
dự kiến những mục tiêu và phương hướng thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước. Làm như
vậy sẽ hướng các hoạt động kinh tế- xã hội vận hành để đạt được những mục tiêu phát triển mà
Nhà nước đã đặt ra.
2

2



Ví dụ: nhà nước ban hành luật đầu tư, tạo cơ sở pháp lý có hiệu quả trong lĩnh vực đầu
tư. Từ đó kêu gọi các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài tiến hành đầu tư
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Hỗ trợ, duy trì và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong quá trình tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, các chủ thể có năng lực và điều kiện
khác nhau nên hoạt động thu dược cũng khác nhau. Thông qua các chính sách ưu tiên phát triển
trong một số lĩnh vực, đối với một số đối tượng, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước hỗ
trợ kinh tế -xã hội phát triển hài hòa.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước còn có vai trò duy trì sự phát triển của xã hội
thông qua việc tạo môi trường phát triển cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Môi trường chính
trị ổn định giúp các cá nhân, tổ chức trong xã hội có nhiều cơ hội tham gia vào các quan hệ kinh
tế-xã hội. môi trường pháp lý thuận lợi sẽ giúp cho các chủ thể kinh tế xã hội chủ động lựa chọn
công việc hợp pháp theo năng lực, sở trường của mình. Đồng thời nó cũng tạo nên sự minh
bạch, công khai giữa các chủ thể với nhau và với nhà nước. môi trường kinh tế thích ứng không
làm biến dạng các quy luật của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho các chủ thể trong xã hội
hoạt động. môi trường văn hóa lành mạnh sẽ tạo sự đồng thuận cao trong tư duy về những giá
trị chung của xã hội, từ đó giúp họ có hành động đúng để đạt được mục tiêu.
Thông qua hoạt động quản lý hành chính, nhà nước tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh
tế xã hội có hiệu quả của các chủ thể. Nhà nước khuyến khích các chủ thể bằng những lợi ích
vật chất và tinh thần thông qua các chính sách kinh tế - xã hội. Các chính sách kinh tế- xã hội
đó có thể là chính sách cho thuê mặt bằng với giá ưu đãi để khuyến khích phát triển kinh tế làng
nghề, biểu dương việc lữa chọn nguyên liệu sạch để sản xuất sản phẩm, ưu tiên ứng dụng rộng
rãi các thành tựu khoa học công nghệ mới vào quá trình chế tạo sản phẩm để đạt năng suất lao
động cao, khuyến khích mở rộng thị trường, điều tiết tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ một cách
hợp lý.
- Trọng tài, gải quyết các mâu thuẫn ở tầm vĩ mô: trong quá trình tham gia vào các hoạt
động kinh tế xã hội, các chủ thể có những mâu thuẫn không thể tự điều hòa, giải quyết đc.
Chẳng hạn, những tranh chấp trong việc thực hiện các hợp đồng kinh tế-xã hội; vì lợi nhuận vi
phạm các quy định trong các hợp đồng kinh tế - xã hội. Trong những trường hợp như vậy các

cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền sử dụng pháp luật để giải quyết các tranh
chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Ví dụ: trong lĩnh vực tranh chấp đất đai. Nhà nước cần phải sử dụng pháp luật để giải
quyết các vụ kiện, bồi thường xung quanh lĩnh vực này.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng quản lý HCNN có vai trò hết sức quan
trọng trong việc quản lý và phát triển xã hội ở các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
Làm tốt công tác QLHCNN sẽ góp phần quan trọng vào việc quản lý phát triển xã hội. Công tác
QLHCNN ở nước ta nói chung và Quảng Trị nói riêng đã được chú trọng, Nhà nước đã triển
khai nhiều chương trình CCHC ở nhiều lĩnh vực khác nhau đã mang lại nhiều kết quả nhất định.
3

3


Tuy nhiên, hiện nay trong lĩnh vực QLNN vẫn còn nhiều bất cập nhiều chính sách ban hành
chồng chéo khó thực thi, sự phân cấp giữa TW và địa phương chưa rõ ràng, bố máy HCNN còn
cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, chi phí cho bộ máy lớn. Tất cả những hạn chế này đã ảnh
hưởng lớn đến quá trình phát triển của xã hội.
Để khắc phục những mặt trên đây, chúng ta cần tiếp tục cải cách công tác quản lý hành
chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phân định trách nhiệm nghĩa vụ và quyền hạn rõ
ràng, cụ thể giữa TW và địa phương đồng thời quy định rõ chức trách của những người tham
gia vào việc quản lý HCNN. Thực hiện tốt những giải pháp trên đây sẽ góp phần nâng cao vai
trò quản lý HCNN đối với sự phát triển của xã hội.

4

4


Câu 2: Phân tích những nguyên tắc chung về lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ,

công chức ở nước ta. Liên hệ thực tế?
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức
danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ
chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí
thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam
được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Việc lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ, công chức là khâu rất quan trọng vì cán bộ quyết
định đến chất lượng và hiệu quả công tác, do vậy trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, Đảng ta đã hết sức chú trọng đến vấn đề này và coi đó là nhiệm vụ hang đầu
trong quá trình đổi mới công tác cán bộ hiện nay. Việc lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ không
được thực hiện một cách tùy tiện theo cảm tính, chủ quan mà phải dựa trên những căn cứ khoa
học như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII nêu rõ: “Khẩn trương xây dựng tiêu
chuẩn cụ thể cho từng loại, từng chức danh cán bộ ở các cấp, các ngành và căn cứ vào đó để
đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ, chấm dứt tình trạng bố trí theo kiểu thân quen, cảm tính, chủ
quan…”. Trong công tác cán bộ phải coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Nghị quyết Hội nghị
BCH TW Đảng khóa VIII cũng đã nhấn mạnh: “Việc bố trí và sử dụng cán bộ phải đảm bảo

đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường. Đề bạt cán bộ phải đúng lúc, đúng người, đúng việc”.
Những quan điểm của Đảng về công tác cán bộ là những định hướng hết sức quan trọng
cho việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức. Đây
cũng là cơ sở để xây dựng các nguyên tắc khoa học trong việc lựa chọn, bố trí và sử dụng cb,
cc. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản cần chú ý:
1. Nguyên tắc bảo đảm đúng tiêu chuẩn cán bộ, công chức được bố trí, sử dụng
Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương khóa X đã khẳng định tiếp
tục thực chiến lược cán bộ. Do đó, bố trí sử dụng cán bộ, công chức phải theo đúng các tiêu
chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn chung:
+ Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước.
5

5


+ Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật; trung thực không cơ hội, gắn bó mặt thiết với
nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
+ Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc
có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
+ Các tiêu chuẩn đó có quan hệ mặt thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
- Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân
dân còn phải:
+ Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đói
trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có
năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối,

chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. có ý thức và khả năng đấu
tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
+ Gương mẫu về đạo đức, lối sống. có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp
quần chúng, đoàn kết cán bộ.
+ Có kiến thức vời khoa học lãnh đạo, quản lý; đã học tập có hệ thống ở các trường của
Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động tiễn có hiệu quả.
- Cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang còn phải:
+ Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, đối với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa.
+ Có tinh thần cảnh giác cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí mặt quân sự, bí
mặt quốc gia.
+ Nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân. Nắm được những vấn đè cơ bản về quản lý kinh tế - xã hội.
- Cán bộ khoa học, chuyên gia còn phải:
+ Có tư duy độc lập sáng tạo, có ý hợp tác, say mê trong nghiên cứu và ứng dụng khoa
học, công nghệ.
+ Bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn.
+ Chuyên gia đầu ngành phải có khả năng tập hợp và đào tạo cán bộ khoa học.
Xuất phát từ thực trạng đội ngũ cán bộ và nhu cầu cán bộ, Đông Hà đã xây dựng và ban
hành nhiều chương trình, đề án, chính sách về cán bộ và công tác cán bộ, xem đây là yêu cầu
bức thiết, là đòi hỏi khách quan để có được một đội ngũ cán bộ xứng tầm, đáp ứng yêu cầu của
một thành phố phát triển, năng động và sáng tạo. Đông Hà mạnh dạn sử dụng cán bộ trẻ, có
triển vọng phát triển đạt chuẩn về trình độ học vấn, về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp
vụ giữ các chức vụ chủ chốt, nhằm trẻ hoá đội ngũ cán bộ chủ chốt của phường, kịp thời thay
thế những cán bộ yếu về năng lực, thiếu tinh thần trách nhiệm. Có thể nhận thấy, Đông Hà đang
từng bước quy hoạch, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ một cách hợp lý để “đầu tư” cho tương
lai.
Việc sắp xếp, bố trí cán bộ đảm bảo đúng tiêu chuẩn, năng lực của cán bộ và theo quy

hoạch, thể hiện được quan điểm trẻ hoá, quan tâm cán bộ nữ, đội ngũ kế cận.
6

6


Thực hiện luân chuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quy hoạch cấp
uỷ, cán bộ chủ chốt cấp thành phố về giữ chức vụ chủ chốt ở cấp phường. Trước hết, ưu tiên
cho những phường còn nhiều cán bộ chủ chốt chưa đạt chuẩn, nơi tình hình phức tạp, yếu kém,
nội bộ mất đoàn kết… vừa nhằm củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị ở cơ sở, vừa tạo điều kiện cho số cán bộ chưa đạt chuẩn đi đào tạo nâng cao
trình độ học vấn và lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ.
2. Nguyên tắc khách quan, công bằng
Nguyên tắc này đòi hỏi việc lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ công chức phải căn cứ
vào nhu cầu thực tế của công việc, căn cứ vào hệ thống văn bản của Nhà nước hoặc của cơ quan
có thẩm quyền ban hành. Tiêu chuẩn chức danh, năng lực thực tế và kết quả đánh giá được coi
là những căn cứ chính để bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức. Nguyên tắc khách quan, công bằng
giúp loại trừ yếu tố chủ quan, cảm tính hay thiên vị trong công tác bố trí và sử dụng cán bộ như
lựa chọn, sắp xếp cán bộ, công chức không đủ tiêu chuẩn vào các chức danh quản lý, ưu tiên
người nhà, người “ăn cánh” hoặc có hành vi “hối lộ”.
Đông Hà đã cụ thể hóa tiêu chuẩn đối với từng chức danh cán bộ, công chức để đánh giá
đúng cán bộ, công chức. Đây là căn cứ, là tiêu chí rất quan trọng để các cơ quan Nhà nước tiến
hành nhận xét, đánh giá cán bộ. Các cơ quan nhà nước ở Đông Hà đã tiến hành bàn bạc, thảo
luận, thống nhất đánh giá từng cán bộ, công chức trên cơ sở tiêu chuẩn được xây dựng, đặc biệt
phải lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân làm thước đo chủ
yếu. Trước khi thảo luận đánh giá cán bộ, cần tổ chức lấy ý kiến tín nhiệm của quần chúng, các
cơ quan, đoàn thể nơi cán bộ, công chức công tác để tham khảo. Tránh cách làm chủ quan,
phiến diện, duy ý chí, không có căn cứ tiêu chuẩn cụ thể của từng chức danh cán bộ, công chức.
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Trong lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ, công chức phải chú ý tới hai mặt tập trung và

dân chủ của nguyên tắc này. Tính tập trung thể hiện ở việc cấp trên có quyền hạn và trách
nhiệm tham gia vào việc lựa chọn, phê chuẩn, bổ nhiệm, quản lý, điều động cán bộ, công chức
trong phạm vi thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật. Tính dân chủ thể hiện ở tính
công khai, tính tập thể như: tổ chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá của nhiều người nhiều bộ
phận đối với các cán bộ, công chức hay ở việc tiến hành bầu cử người lãnh đạo, quản lý.
Thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ góp phần đẩy lùi bệnh thành tích, quan liêu cũng như
nguy cơ chuyên quyền, độc đoán trong công tác cán bộ, tạo điều kiện lựa chọn được cán bộ
đúng tiêu chuẩn, có phẩm chất và năng lực hoàn thành tốt công tác được giao.
Tại Đông Hà, lãnh đạo cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ thực hiện theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức
trong hệ thống chính trị. Từ đó thực hiện cho được mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ có bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thành phố Đông Hà
trong thời kỳ mới. Đồng thời, tạo điều kiện để đảng viên và nhân dân tham gia theo dõi, phản
biện, giám sát kết quả phấn đấu, rèn luyện của cán bộ, làm cơ sở để điều chỉnh, bổ sung kế
hoạch, quy hoạch, đồng thời góp phần ngăn ngừa những sai phạm, tiêu cực trong công tác cán
bộ. Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong việc lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức,
Đông Hà đã thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
4. Nguyên tắc tương xứng yêu cầu công việc
7

7


Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi khi lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ, công chức phải
xem xét phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm hiện có của người cán bộ, công chức có đáp
ứng được yêu cầu công việc sẽ giao cho họ không. Chỉ khi có sự tương xứng với yêu cầu công
việc, cán bộ, công chức mới thực thi công vụ có hiệu quả
Đông Hà đã tiến hành rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của UBND các phường, của từng
CBCC, đánh giá tình hình thực hiện công việc, mức độ hoàn thành nhiệm vụ so với yêu cầu

công việc và trình độ, khả năng thực hiện công việc được giao của CBCC để điều chỉnh, bổ
sung cho phù hợp. Kết quả khảo sát, điều tra cho thấy trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đã và
đang từng bước được nâng lên, cùng với điều kiện, phương tiện làm việc, thông tin liên lạc
ngày càng phát triển, góp phần nâng cao năng lực thực hiện công việc của CBCC.
5. Nguyên tắc đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các nhóm cán bộ, công chức
Nguyên tắc này đòi hỏi trong lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ cần kết hợp tốt để có cơ
cấu hợp lý giữa người già với người trẻ, người tại địa phương và người nơi khác tới, cán bộ
công chức nam với cán bộ công chức nữ và giữa các ngạch bậc khác nhau.
Nguyên tắc này có vai trò rất lớn trong việc phát huy sức mạnh của tập thể, của tổ chức
nhờ việc bổ sung cho nhau về kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, chuyên môn nghiệp vụ … của
các nhóm cán bộ, công chức khác nhau.
Các cơ quan quản lý của Đông Hà thường xuyên xem xét bổ sung, điều chỉnh công việc
một cách hợp lý; tiến hành phân công, bố trí lại, luân chuyển giữa các bộ phận, các phường để
tránh sự nhàm chán, tăng sự hứng thú, phát huy hết khả năng, tạo động lực làm việc cao nhất
cho từng CBCC thực hiện tốt công việc được giao. Đội ngũ cán bộ công chức tại UBND các
phường có cơ cấu hợp lý, đảm bảo gọn nhẹ, hoạt động có chất lượng, số lượng công chức
không quá đông cũng không quá ít. Đông Hà đã tạo ra cơ cấu hợp lý về giới tính, độ tuổi, trình
độ đào tạo, điều kiện công tác để tạo nên sức mạnh tổng hợp, tính năng động, phối hợp nhịp
nhàng, hài hòa và sự kế thừa, phát triển trong đội ngũ cán bộ, công chức.
6. Nguyên tắc đảm bảo quyền việc lựa chọn và sử dụng cán bộ, công chức phải dựa
trên quy hoạch cán bộ, công chức
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan tổ chức phải xây dựng các chính sách và biện pháp để
tạo nguồn cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ, công chức lãnh đạo. Làm tốt công tác này sẽ
đảm bảo tính chủ động và ổn định trong hoạt động của cơ quan, tổ chức nói chung và trong
công tác cán bộ nói riêng. Đây cũng là cơ sở để thực hiện các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng dựa
vào nhu cầu công việc.
Đông Hà đã xây dựng quy chế đào tạo và chính sách hỗ trợ kinh phí cho từng loại cán bộ
được cử đi học, hàng năm đã bố trí hơn 200 triệu đồng để cho công tác đào tạo cán bộ. Đồng
thời có chính sách khuyến khích cán bộ đi học và sinh viên học giỏi về công tác tại thành phố,
như hỗ trợ hàng tháng cho học sinh học đại học ở các ngành nghề mà thành phố đang cần, các

phường cũng đã dành khoản ngân sách khá lớn cho công tác đào tạo cán bộ tại địa phương.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và chất lượng, từng
bước giải quyết được tình trạng hẫng hụt về trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận
chính trị của cán bộ. Việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức
đang dần trở thành nền nếp. Trước hết, tập trung nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên đương chức, cán bộ chủ chốt đương nhiệm và kế cận, dự nguồn các cấp.
Nhờ làm tốt công tác tuyển chọn, bố trí sử dụng, đội ngũ cán bộ, công chức tại các
phường trong thành phố Đông Hà ngày càng phát triển về số lượng, chất lượng và trở thành
8

8


nguồn lực quan trọng của Đảng qua các thời kỳ và trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, qua thực tiễn
cũng cho thấy nổi lên nhiều bất cập, yếu kém trong công tác lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ.
Không chỉ là những tồn tại trong việc xem nhẹ nguyên tắc, bỏ qua một số quy trình xem xét
đánh giá, bổ nhiệm và sử dụng, ở nhiều nơi còn xuất hiện tình trạng tiêu cực trong lựa chọn, bố
trí, sử dụng cán bộ, công chức. Những bất cập, yếu kém ấy là một trong những nguyên nhân
làm sụt giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, làm chậm tiến trình cải cách và đổi mới đất nước. Nguy
hiểm hơn, đó là kẽ hở để những kẻ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, là tiền đề cho nạn tham
nhũng phát triển gây bất bình trong xã hội. Vì vậy, cần phải tiếp tục đổi mới công tác cán bộ,
thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài; đổi mới cơ chế,
phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Đấu tranh
quyết liệt với nạn chạy chức, chạy quyền và các biểu hiện tiêu cực trong bố trí, sử dụng cán bộ.

9

9



Câu 3: Phân tích các nguyên tắc QLHCNN về đất đai. Liên hệ thực tế tại địa
phương.
Đât đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là điều kiện tồn tại và phát triển
của con người và các sinh vật khác ở trên trái đất. Dưới gốc độ chính trị pháp lý, đất đai là một
bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia gắn liền với chủ quyền quốc gia; Không thể
quan niệm về một quốc gia không có đất đai. Tôn trọng chủ quyền quốc gia trước hết là tôn
trọng lãnh thổ quốc gia.
QLNN về đất đai là một lĩnh vực của QLNN, là hoạt động của CQQLNN có thẩm
quyền, người có thẩm quyền trong việc sử dụng các phương pháp, các công cụ quản lý thích
hợp tác động đến hành vi, hoạt động của người sử dụng đất nhằm đạt mục tiêu sử dụng đất tiết
kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương.
* Nguyên tắc quản lý HCNN về đất đai:
Nguyên tắc quản lý NN về đất đai là những tư tưởng chủ đạo có tính chất bắt buộc
mà các cơ quan quản lý NN và các chủ thể sử dụng đất phải tuân theo trong quá trình quản lý và
sủ dụng đất. NN quản lý đất đai theo các nguyên tắc sau:
1/ Bảo đảm quản lý đúng thẩm quyền pháp lý:
Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu
tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý.”
Do tính chất đặc biệt của đất đai nên NN cũng quy định rất rõ về thẩm quyền của
các CQNN trong công tác quản lý, cụ thể: QH có thẩm quyền ban hành pháp luật về đất đai,
quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với việc quản lý và sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước.
CPhủ quyết định quy hoạch, kế hoach sử dụngug đất của tỉnh, thành phố trực thuộc
TW và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, thống nhất QLNN
về đất đai trong pham vi cả nước.
Bộ TN và MT chịu trách nhiệm trước CP trong việc QLNN về đất đai
HĐND các cấp thực hiện quyền giám sát việc thi hành PL về đất đai tại địa phương
UBND các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và QLNN về đất đai

tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật Đất đai.
Các cơ quan NN không được ủy quyền những việc thuộc thẩm quyền của mình cho
cấp dưới.
2/ Bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất của NN về đất đai:
Điều 4 Luật đất đai 2013 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo
quy định của Luật này.”

10

10


Ở Việt Nam, đất đai là tài sản của toàn dân, đồng thời là tài sản của quốc gia, lãnh thổ bất
khả xâm phạm của dân tộc, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào được tự ý chiếm giữ, sử dụng
đất đai của quốc gia. NN thống nhất quản lý NN về đất đai theo quy định của pháp luật.
VBQPPL của cơ quan cấp dưới phải phù hợp và ko đc mâu thuẫn với cơ quan NN cấp trên.
3/ Bảo đảm quản lý NN về đất đai đúng quy hoạch kế hoạch đã được phê duyệt:
Điều 4 Luật đất đai 2013 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo
quy định của Luật này.” Theo đó Nhà nước có quyền:
+ Lập quy hoạch sử dụng đất từ tổng thể đến chi tiết, quy hoạch, kế hoạc sử dụng đất của
cấp dưới phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp trên.
+ Quyết định mục đích sử dụng của từng loại đất thông qua việc quyết định, xét duyệt
quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
+ Quyết định giao đất, cho thuê đẩt, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
cho phép chuyển mục đích quyền sử dụng đất phải theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt. NN
nghiêm cấm mọi hành vi sử dụng đất trái với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê
duyệt.
4/ Nguyên tắc bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các lợi ích:

Trong QLNN về ktế nói chung và về đất đai nói riêng cần chú trọng kết hợp hài hòa giữa
lợi ích của NN, lợi ích cộng đồng với lợi ích của người sử dụng đất, bởi vì đất đai không chỉ là
tài sản của quốc gia, mà còn là tư liệu sx của người sử dụng đất, nhất là đối với nông dân VN.
Nếu chỉ coi trọng lợi ích của NN, xem nhẹ lợi ích của người sử dụng đất thì không động viên
được người sử dụng đất phát huy tính tích cực, sáng tạo trong sự ptriển ktế của đất nước. Ngược
lại, nếu chỉ chú ý đến lợi ích của người sử dụng đất thì sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của quốc
gia.
Với tình hình hiện nay, khi tốc độ đô thị hóa ngày càng cao diễn ra trên địa bàn cả
nước đang ngày càng làm cho quỹ đất nông nghiệp bị thu hẹp dần. Trước tình hình đó, NN ta đã
ra nhiều văn bản để hạn chế tình hình đó:
- NN có chính sách bải vệ đất trồng lúa nước, hạn chế chuyển đất chuyên trồng lúa nước
sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp.
- Người sử dụng đất chuyên trồng lúa có trách nhiệm cải tạo, bồi bổ, làm tăng độ
màu mỡ của đất.
5/ Ng tắc sử dụng đất tiết kiệm và hiệu quả, bv môi trường và không làm tổn
hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất:
Khoản 1 và 2 Điều 6 Luật đất đai 2013 quy định:
“1. Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất.
11

11


2. Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng
của người sử dụng đất xung quanh.”
Sử dụng đất đai tiết kiệm, hiêu quả và bv môi trường vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu
của QLNN về đất đai, bởi vì đất đai là nguồn tài nguyên quý giá có giới hạn về mặt số lượng
(S), trong khi đó sức ép về mặt dân số và nhu cầu sử dụng đát ngày càng tăng.
Nhà nước k.khích các hành vi cải tạo, bồi bổ, đầu tư công của, làm tăng khả năng
sinh lợi cho đất. Các chủ thể sử dụng đất có nghĩa vụ băt buộc phải cải tạo, bồi bổ, làm tăng độ

màu mỡ của đất, hạn chế khả năng đất bị rửa trôi, bạc màu do thiên tai gây ra ở mức thấp nhất.
Nghiêm cấm các hành vi hủy hoại đất đai, làm đất bạc màu...
Liên hệ:
Từ khi quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu
(2011-2015) của tỉnh Quảng Trị vừa được Chính phủ phê duyệt, HĐND tỉnh Quảng trị đã kịp
thời ban hành chủ trương, cơ chế chính sách để triển khai tổ chức thực hiện. UBND tỉnh ban
hành các quyết định điều hành thực hiện việc thực hiện theo đúng quy hoạch đã được thông qua
một cách đầy đủ và đúng quy định. Các công tác thống kê, kiểm kê đất, giao đất cấp giấy chứng
nhận sử dụng đất , giải quyết tố cáo khiếu nại... cũng thực hiện có hiệu quả. Tỉnh đã thực hiện
quy hoạch sử dụng đất và lập kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011-2015 và hoàn thành công tác
lập Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020. Có 10/10 huyện, thành phố, thị xã đã
xây dựng hoàn thành quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2015. Cấp xã có 111/141 đơn vị có
quy hoạch sử dung đất đến năm 2010, có 28 đơn vị đã có kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 20112015.
Ưu điểm
Công tác điều hành thực hiện kế hoạch sử dụng đất của tỉnh QTri đã triển khai khá
tích cực, tạo được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghê, cơ cấu lao động đúng
hướng và thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Công tác kiểm kê đất đai, xây dựng bản đồ hiện
trạng sử dụng đất đã được thực hiện đúng quy định, công tác cải cách hành chính trong việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao đất, thuê đất được đẩy mạnh đã tạo thuận lợi cho các
tổ chức các nhà đầu tư triển khai dự án. Công tác giao đất cho thuê đất được thực hiện theo cơ
chế một cửa, một cửa liên thông.
Việc thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách của địa phương về sử dụng quỷ đất tạo vốn
xây dựng cơ sở hạ tầng và chính sách ưu đãi đầu tư trên địa bàn để khai thác có hiệu quả tiềm
năng đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp, dịch vụ du lịch , phát triển đô thị đến nay cả
tỉnh đã có 2 Khu công nghiệp, 9 cụm công nghiệp, 5 khu đô thị, 6 khu du lịch và dịch vụ du
lịch, khu kinh tế- thương mại đặc biệt là lao bảo. Tỉnh đã thu hút được 83 dự án vào các khu
công nghiệp, khu kinh tế, 19 dự án vào khu du lịch, tiến hành thanh tra, kiểm tra một số tổ chức
sử dụng đất không đúng nơi quy định, thu hồi 93 khu đất sử dụng không đúng quy định.
Khuyết điểm, hạn chế
12


12


Công tác tuyên truyền, phổ biến về các quy định của luật đất đai chưa được thường
xuyên liên tục, việc áp dụng vào thực tế còn lúng túng, sai phạm. Khiếu nại tố cáo tranh chấp
đất đai còn nhiều chiếm phần lớn
Công tác lập quy hoạch, kế hoạch điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất thiếu kịp thời, quy
hoạch tổng thể chi tiết phân khu thiếu đồng bộ. Việc quy hoạch phát triển như khoáng sản, du
lịch còn có sự chồng chéo, vấn đề cấp nhận chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, nhiều địa
phương, đơn vị chưa bố trí quỹ đất để thực hiện xã hội hóa giáo dục, đào tạo y tế, văn hóa, du
lịch...
Vấn đề rà soát, thu hồi đất của một số tổ chức, doanh nghiệp được nhà nước giao đất sử
dụng sai mục đích, chuyển nhượng trái phép, trong khi nhu cầu sử dụng đất của người dân
không được đáp ứng
Công tác thanh tra kiểm tra thiếu sự phân công phân cấp và phối hợp gữa các chính
quyền cấp huyện với các cơ quan quản lý nhà nước. Đối với nhưng nơi không có HĐND không
có cơ quan nào đảm nhiệm nên xảy ra vi phạm chậm được phát hiện và xử lý
Giải pháp: để sử dụng đất đai có hiệu quả hơn, đồng thời sớm phát hiện những vi phạm
để khác phục, nhất là các huyện đang thí điểm không tổ chức HĐND ở tỉnh Quang trị nói riêng
và cả nước nói chung cần phải:
Thứ nhất, cần phải chấn chỉnh công tác quản lý đất đai ở cơ sở. Đây là vấn đề then chốt
trong việc thực hiện luật đất đai. Chính sách tốt đến đâu vẫn có sơ hở để kẻ xấu trục lợi. Vấn đề
dân chủ luôn nóng bỏng ở địa phương, ở đâu quy chế dân chủ phát huy tốt thì ở đấy ít có các
vấn đề bức xúc, không chỉ riêng ở lĩnh vực đất đai. Giải pháp cơ bản và lâu dài là phát huy dân
chủ trong quản lý đất đai, có cơ chế phản hồi ý kiến, bịt dần các kẽ hở trong luật pháp, lành
mạnh hoá thị truờng, những tiêu cực sẽ không còn đất sống. Thiết thực nhất là có một đường
dây nóng, cập nhật tất cả những phát sinh, xử lý từ lúc còn chưa phức tạp, lan rộng và ảnh
hưởng lớn đến quản lý và sử dụng đất.
Thứ hai, cần có sự chấn chỉnh, đổi mới việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về

đất đai và tiến hành ngay việc rà soát, tập hợp văn bản pháp quy của Nhà nước
Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đất đai cho các chủ
thể sử dụng đất với những hình thức biện pháp phù hợp với từng đối tượng khác nhau.
Thứ tư, đẩy mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thực hiện tốt thủ tục
hành chính trong công tác giao đất, thu hồi đất, chuyển nhượng, cho thuê đất, chuyển đổi mục
đích sử dụng đất,... theo đúng quy hoach sử dụng đất.
Thứ năm, tăng cường hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai,
xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật. Chỉ đạo xử lý kiên quyết, dứt điểm các hành vi vi
phạm pháp luật đất đai, đặc biệt là những vi phạm của cán bộ, đảng viên để làm gương cho
quần chúng, giữ vững niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng, với Nhà nước, tính nghiêm
minh của pháp luật./.
13

13


Câu 4. Nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế ở Việt Nam? Liên hệ thực tiễn?
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những phương
hướng cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn khẳng
định vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế.
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vào
hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế là những tư tưởng chủ đạo, các tiêu chuẩn hành
vi mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tuân thủ trong quá trình quản lý kinh tế.
Bốn nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay đó là:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ:
Khoản 1, Điều 8 Hiến pháp 2013 khẳng định: "Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ".

Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa hai mặt cơ bản "tập
trung" và "dân chủ" trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng chứ không phải chỉ là tập trung hoặc
chỉ là dân chủ. "Dân chủ" là điều kiện, là tiền đề của tập trung; cũng như "tập trung" là cái bảo
đảm cho dân chủ được thực hiện. Hay nói cách khác, tập trung phải trên cơ sở dân chủ; dân chủ
phải trong khuôn khổ tập trung.
Hướng vận dụng của nguyên tắc tập trung dân chủ:
- Bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành tập trung của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế ở
Trung ương đối với cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế ở địa phương, của cấp trên với cấp
dưới, của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh; đồng thời vẫn bảo đảm quyền độc lập, chủ động, sáng tạo nhất định trong quá trình thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các địa phương, cơ sở, của cấp dưới và
quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Quyền của mỗi bên (Nhà nước và công dân; cấp trên và cấp dưới) phải được xác lập
một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn. Có nghĩa là, phải xuất phát từ yêu cầu và khả năng
làm chủ của mỗi chủ thể: Nhà nước và công dân, cấp trên và cấp dưới.
- Trong mỗi cấp của hệ thống quản lý nhiều cấp của Nhà nước phải bảo đảm vừa có cơ
quan thẩm quyền chung, vừa có cơ quan thẩm quyền riêng. Mỗi cơ quan phải có thẩm quyền rõ
ràng, phạm vi thẩm quyền của cơ quan thẩm quyền riêng phải trong khuôn khổ thẩm quyền
chung.
Thực tế hiện nay, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước về kinh
tế vẫn còn xảy ra tình trạng đó là:
Thứ nhất, quá nhấn mạnh đến tập trung mà hạn chế quyền dân chủ: Các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh còn quá dựa vào các chủ trương, đường lối của Nhà nước, thụ động trước
các chính sách, chỉ tiêu của Nhà nước nên đã hạn chế đến quyền tự chủ, sáng tạo trong sản xuất,
kinh doanh của địa phương, làm cho năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả thấp.
Thứ hai, tuyệt đối hóa quyền tự chủ của địa phương, cấp dưới và các tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh mà hạ thấp vai trò chỉ đạo tập trung thống nhất cần thiết của Trung ương, của
cấp trên dẫn đến dân chủ quá trớn, vô tổ chức, phân tán, tùy tiện, ỷ lại trong hoạt động kinh tế.
Hai là, nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ:
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc

14

14


lần thứ VI khẳng định: "Tăng cường bộ máy của nhà nước từ Trung ương đến địa phương và cơ
sở thành một hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm từng cấp theo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt chức năng quản lý hành chính
– kinh tế với quản lý sản xuất – kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội”.
Thứ nhất, quản lý theo ngành:
Quản lý theo ngành là việc quản lý về mặt kỹ thuật, về nghiệp vụ chuyên môn của Bộ
quản lý ngành ở Trung ương đối với tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc ngành trong
phạm vi cả nước.
Thứ hai, quản lý theo lãnh thổ:
Quản lý Nhà nước về kinh tế theo lãnh thổ là việc tổ chức, điều hòa, phối hợp hoạt động
của tất cả các đơn vị kinh tế phân bổ trên địa bàn lãnh thổ (ở nước ta, chủ yếu là theo lãnh thổ
của các đơn vị hành chính).
Thứ ba, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ:
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt
chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế. Cả hai
chiều quản lý đều phải có trách nhiệm chung trong việc thực hiện mục tiêu của ngành cũng như
của lãnh thổ. Sự kết hợp này sẽ tránh được tư tưởng bản vị của bộ, ngành, trung ương và tư
tưởng cục bộ địa phương của chính quyền địa phương. Nếu như Bộ chỉ quan tâm đến lợi ích của
các đơn vị kinh tế do mình thành lập và Ủy ban nhân dân địa phương chỉ quan tâm đến lợi ích
của các đơn vị kinh tế của địa phương. Từ đó, dẫn đến tình trạng tranh chấp, không có sự liên
kết giữa các đơn vị kinh tế trên cùng một địa bàn lãnh thổ, do đó hiệu quả thấp.
Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ được thực hiện như sau:
- Các đơn vị kinh tế phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ) đồng thời cũng phải chịu sự
quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số nội dung theo quy định của

pháp luật.
- Có sự phân công, quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và theo lãnh
thổ, không trùng lặp, không bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
- Các cơ quan quản lý nhà nước theo mỗi chiều thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quản, hiệp quản, tham quản với cơ quan nhà nước
thuộc chiều kia, theo quy định cụ thể của Nhà nước.
Đồng quản là cùng có quyền và cùng nhau ra quyết định quản lý theo thể thức liên tịch.
Hiệp quản là cùng nhau ra quyết định quản lý theo thẩm quyền, theo vấn đề thuộc tuyến của
mình nhưng có sự thương lượng, trao đổi, bàn bạc để hai loại quyết định của mỗi bên phù hợp,
không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Tham quản là việc quản lý, ra quyết định của mỗi bên
phải trên cơ sở được lấy ý kiến của bên kia.
Thực tế hiện nay, việc kết hợp quản lý ngành với quản lý lãnh thổ có vai trò rất lớn đối
với việc phát triển đất nước về mọi lĩnh vực. Chính vì vậy Nhà nước ta đã có chủ trương, chính
sách áp dụng biện pháp kết hợp này trên phạm vi cả nước, với nhiều địa phương và các doanh
nghiệp, các nhà máy, khu công nghiệp… Theo đó quy định các cơ sở, doanh nghiệp nào thành
lập ở địa phương nào phải chịu sự quản lý về hành chính, về mặt pháp luật, xã hội, kinh tế, kỹ
thuật… của cơ quan quản lý ngành và địa phương. Áp dụng quy định của Nhà nước thì hiện nay
đã có nhiều cơ quan ngành và cơ quan chính quyền địa phương thực hiện nghiêm chỉnh, nhằm
đạt được hiệu quả tốt nhất, có lợi cho cả 2 bên: Quản lý ngành sẽ hoạch định sự phát triển cho
15

15


doanh nghiệp, nhà máy, xí nghiệp đó còn quản lý lãnh thổ tạo điều kiện pháp lý, được pháp luật
bảo vệ, cung cấp nguồn nhân lực, nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp kinh tế.
Từ đó ta có thể nhận thấy sự tác động qua lại, hỗ trợ nhau giữa quản lý ngành và quản lý
lãnh thổ. Cho thấy sự kết hợp này làm tăng tính hiệu quả, đạt mức phát triển tối đa tránh những
khó khăn, rủi ro. Các doanh nghiệp kinh doanh cùng với cơ quan địa phương hiện nay ngày
càng có sự phổi hợp quản lý rất chặt chẽ, ví dụ như:

Khu công nghiệp Bình Dương thuộc tỉnh Bình Dương của vùng Đông Nam Bộ có các
ban quản lý do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh
Bình Dương, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế, chương trình kế hoạch công tác và
kinh phí hoạt động của UBND tỉnh. Chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn
nghiệp vụ của các Bộ, Ngành, lĩnh vực có liên quan, có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh trong công tác quản lý khu công nghiệp.
Khu công nghiệp Bình Dương đã thể hiện rất rõ sự kết hợp giữa quản lý ngành với quản
lý lãnh thổ, thể hiện được sự hỗ trợ, phối hợp, đem lại sự phát triển không chỉ đối với khu công
nghiệp mà còn đưa tỉnh Bình Dương trở thành một trong những tỉnh phát triển hàng đầu của
Đông Nam Bộ.
Tuy nhiên việc thực hiện nguyên tắc vẫn còn nhiều thiếu sót và hạn chế:
Thứ nhất: đó là việc "xé rào” trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm của địa
phương trái với quy định của cơ quan quản lý ngành, chức năng. Có một số cơ quan địa phương
vì lợi ích nhất thời mà bỏ qua văn bản thủ tục hành chính mà pháp luật đã quy định, để cấp giấy
phép hoạt động đó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của đất nước.
Thứ hai: là sự phối hợp không chặt chẽ trong việc tổ chức, thực hiện các quy định của
ngành ở địa phương.
Thứ ba: đó là việc bất cập trong hoạt động kiểm tra giám sát thực hiện các quy định của
ngành tại địa phương.
Điều đó đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các ban ngành phải không ngừng nâng cao việc
kết hợp chặt chẽ giữa quản lý ngành với quản lý lãnh thổ, để khắc phục những hạn chế nhằm
phát triển kinh tế địa phương và phát triển kinh tế đất nước.
Ba là, phân định quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh:
Quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh là hai phạm trù, hai mặt
khác nhau của quá trình quản lý, có sự phân biệt này vì:
Thứ nhất, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp không tồn tại sự phân
biệt giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước can thiệp sâu
rộng, triệt để và toàn diện vào mọi hoạt động SX-KD của các doanh nghiệp, đồng thời, các
doanh nghiệp lại được giao thực hiện một số chức năng vượt quá khả năng, tầm kiểm soát.
Thứ hai, việc phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh sẽ

góp phần phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước và trách nhiệm của đơn vị
SX-KD. Từ đó, vừa hạn chế khả năng cơ quan quản lý nhà nước can thiệp quá sâu vào quá trình
sản xuất, kinh doanh, vừa nâng cao tính chịu trách nhiệm của các đơn vị kinh tế trong nền kinh
tế thị trường. Chỉ khi đó, mọi sai lầm trong quản lý dẫn đến tổn thất tài sản quốc gia, lợi ích
nhân dân sẽ được truy tìm nguyên nhân, thủ phạm, không ai có thể trốn tránh trách nhiệm.
Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu, việc không phân biệt
quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh là vi phạm tính tự do cạnh tranh và
sự chịu trách nhiệm của các đơn vị kinh tế, làm thui chột khả năng năng động, sáng tạo của giới
16

16


kinh doanh và hạn chế hiệu quả SX-KD.
Việc phân định quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh thể hiện ở các
mặt cơ bản sau:
Tiêu chí




lực

QLNN về kinh tế
Cơ quan NN các cấp (Quốc
Chủ thể quản
hội, Chính phủ, HĐND, UBND các
cấp…)

QL SX kinh doanh

Bộ máy quản lý doanh nghiệp

Quản lý một đơn vị sản xuất,
kinh doanh cụ thể (quản lý vi mô).
Phạm vi quản
Toàn bộ ngành, lĩnh vực nền
Các yếu tố sản xuất – kinh
kinh tế quốc dân (quản lý vĩ mô). doanh của doanh nghiệp.
Vd: SX cái gì, SX cho ai? SX
như thế nào?
Tạo môi trường thuận lợi cho
sx kinh doanh, điều tiết các mối
quan hệ trong kinh tế phát triển ổn
Mục tiêu
Mục tiêu chính là vì lợi nhuận
định theo định hướng và có trật tự vì
mục têu "Dân giàu, nước mạnh,
DC, CB, VM"
Nguồn
nhân
CB, CC nhà nước
Thuê mướn lao động
Nguồn lực

NSNN

Doanh thu của doanh nghiệp
trả lương cho người làm

Tạo hành lang pháp lý cho

Chiến lược phát triển sản xuất
Hoạt động
các chủ thể bình đẳng phát triển
cho hoạt động của công ty đó
kinh tế
Ngành
luật
Ngành luật Hành chính, luật
Luật KT, Luật dân sự
điều chỉnh
NN
Theo Tổng cục thống kê, tổng số doanh nghiệp tính đến thời điểm 01/01/2012 trên phạm
vi cả nước tồn tại về mặt pháp lý là 541.103 doanh nghiệp, nếu loại trừ 92.710 doanh nghiệp
không thể xác minh được, thì tổng số doanh nghiệp của toàn bộ nền kinh tế là 448.393 doanh
nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước là 4505 doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài nhà nước
là 432559 doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 113229 doanh nghiệp.
Tất cả đều hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà
nước. Các doanh nghiệp có thể tự do kinh doanh trên những lĩnh vực khác nhau mà pháp luật
cho phép. Họ phải tiến hành mọi hoạt động kinh doanh từ khâu đầu đến khâu cuối, từ sản xuất
sản phẩm đến tiêu thụ sản phẩm và thu lợi nhuận. Giám đốc (Tổng giám đốc) là người chịu
trách nhiệm tổ chức và điều hành bộ máy kinh doanh của doanh nghiệp, là người vạch hướng đi
cho doanh nghiệp. Nhưng dù kinh doanh sản phẩm nào, phát triển theo hướng nào đều phải đều
phải được sự cho phép của nhà nước. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý đã có những tác
động đến công việc kinh doanh, có thể ngăn cản hoặc hạn chế nếu việc kinh doanh của doanh
17

17


nghiệp không theo định hướng hoặc làm tổn hại đến môi trường, có thể khuyến khích, giúp đỡ

việc kinh doanh phát triển nếu đem lại lợi nhuận cho đất nước. Doanh nghiệp phát triển theo
mệnh lệnh của nhà nước ban ra, phải chịu sự quản lý của nhà nước.
Bốn là, nguyên tắc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước về kinh
tế:
Một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay là một nền kinh tế đa sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Chính sự
xuất hiện của nhiều loại hình kinh tế thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau như: Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản, kinh tế tư nhân,... đòi hỏi nhà nước phải quản lý
đối với nền kinh tế bằng những biện pháp, trong đó đặc biệt phải coi trọng phương pháp quản lý
bằng pháp luật, trên cơ sở pháp luật. Thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động quản lý nhà nước về kinh tế đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân, kể cả các cơ quan nhà nước và
các cán bộ, công chức, viên chức đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ pháp luật khi thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Để thực hiện nguyên tắc trên, cần thực hiện các hoạt động sau:
- Phải từng bước đưa mọi quan hệ kinh tế vào khuôn khổ pháp luật. Nhà nước phải xây
dựng được hệ thống pháp luật về kinh tế đầy đủ, đồng bộ, có chế tài rõ ràng, chính xác và đúng
mực.
- Xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế.
Ngay từ khi công cuộc cải cách kinh tế mới bắt đầu, Việt Nam đã xây dựng và ban hành
nhiều văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế thị trường và khuyến khích
kinh doanh. Nội dung pháp luật kinh tế đã phù hợp hơn với cơ chế thị trường, đáp ứng được hầu
hết những đòi hỏi từ công cuộc cải cách kinh tế.
Tuy nhiên, thực tiễn quản lý nhà nước đối với nền kinh tế ở nước ta trong những năm qua
cho thấy, tình trạng buông lỏng kỷ luật, kỷ cương, sự hữu khuynh trong việc thực hiện chức
năng tổ chức, giáo dục, xem nhẹ pháp chế trong hoạt động kinh tế của nhiều doanh nghiệp,... đã
làm cho trật tự kinh tế ở nước ta có nhiều rối loạn, gây ra những tổn thất không nhỏ cho đất
nước, đồng thời làm giảm sút nghiêm trọng uy tín và hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước.
Nhìn chung hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam vẫn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập
và vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Điều này thể hiện rõ nhất qua các thực
tiễn như:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu
cầu quản lý đất nước bằng pháp luật. Nhiều nội dung quan trọng liên quan tới vấn đề đổi mới
kinh tế - xã hội chậm được thể chế hóa như: vấn đề quản lý nhà nước đối với tài sản thuộc sở
hữu nhà nước; về đăng ký kinh doanh bất động sản; cạnh tranh trung thực; kiểm soát độc
quyền,...
18

18


Thứ hai, một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa
cao. Ví dụ: Luật Cạnh tranh tuy được ban hành từ năm 2004 song hiệu lực thực thi còn thấp,
vẫn còn nhiều khe hở để một số doanh nghiệp lạm dụng vị thế khống chế thị trường - điều đó đã
làm tổn hại lợi ích của xã hội nói chung và những doanh nghiệp nhỏ nói riêng.
Thứ ba, tính cụ thể, minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp: Những sai phạm về hình
thức văn bản còn xảy ra. Việc công bố, đăng tải, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật
chưa được các cơ quan nhà nước chấp hành kịp thời và nghiêm chỉnh.
Thứ tư, quy trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính dân chủ, tính đại chúng, còn nhiều
cứng nhắc và bất cập, cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng
bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương; chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi của
người dân.

19

19


Câu 5: Khiếu nại là gì? Hãy phân tích các đặc điểm của khiếu nại và vai trò của giải
quyết khiếu nại? Liên hệ thực tế địa phương.
Quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản, quyền tự do dân chủ quan trọng của

công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Quyền khiếu nại của công dân không
tồn tại độc lập mà liên quan chặt chẽ với các quyền tự do khác của công dân trong mối quan hệ
tổng hòa của sự thống nhất các quyền và nghĩa vụ của công dân. Thực hiện và bảo đảm quyền
khiếu nại thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, thể hiện sự phát triển của chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa và là biểu hiện của chế độ chính trị của mỗi Nhà nước. Khiếu nại
không những là công cụ, phương tiện pháp lí hữu hiệu để công dân, cơ quan, tổ chức bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích của Nhà nước khi bị xâm phạm, mà còn là một
trong những phương thức quan trọng để công dân tham gia quản lý nhà nước, phát huy một
cách có hiệu quả quyền làm chủ của mình, xây dựng nền công vụ minh bạch, đóng vai trò phục
vụ, phù hợp với xu thế phát triển nền hành chính hiện đại trong giai đoạn hiện nay.
Quyền khiếu nại của công dân là một trong các quyền hiến định và đã được cụ thể hoá
trong các văn bản luật trong đó hiện nay chủ yếu được quy định trong Luật Khiếu nại (2011) và
Luật Tiếp công dân (2013).
[1] Vậy, khiếu nại là gì?
Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại quy định: Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức
hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán
bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
[2] Từ khái niệm như trên, ta thấy khiếu nại có một số đặc điểm như sau:
- Thứ nhất, khiếu nại là hoạt động của cơ quan, tổ chức hoặc công dân nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại từ phía cơ quan hành chính nhà nước hoặc
CB,CC trong cơ quan hành chính nhà nước.
Quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong
Hiến pháp, một quyền có tính chất chính trị, pháp lý của công dân, là một hinh thức biểu hiện
của dân chủ xã hội chủ nghĩa, liên quan chặt chẽ và chiếm vai trò quan trọng trong hệ thống các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Việc thực hiện quyền khiếu nại là cơ sở để thực hiện
các quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Khiếu nại quy định trong Luật này được hiểu là
khiếu nại hành chính, đó là khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ

quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước và
quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; khái niệm này chỉ giới hạn đối với những khiếu nại phát
sinh trong lĩnh vực quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước.
20

20


- Thứ hai, chủ thể của khiếu nại (hay còn gọi là người khiếu nại) được xác định là công
dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại.
Các chủ thể này được thực hiện quyền khiếu nại với điều kiện họ là đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, hay nói cách khác, quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại phải xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của
người khiếu nại.
- Thứ ba, chủ thể bị khiếu nại (hay còn gọi là người bị khiếu nại) là cơ quan hành chính
nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quyết định
kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại.
- Thứ tư, đối tượng của khiếu nại đó là các quyết định hành chính, hành vi hành chính,
hoặc là quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức bị coi là trái pháp luật xâm phạm đến
quyền và lợi ích trực tiếp của người khiếu nại.
Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể. Như vậy một quyết định hành chính có thể bị khiếu nại khi có đủ 03 yếu tố sau:
bằng văn bản, là văn bản cá biệt do nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước ban hành, là văn bản được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng
cụ thể. (ví dụ: Chủ tịch UBND ra quyết định cưỡng chế thi hành, nếu không đồng ý với quyết
định này thì người bị xử lý có quyền khiếu nại đến cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền)

Hành vi hành chính được hiểu là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công
vụ theo quy định của pháp luật. Ví dụ: hành vi quá thời hạn do pháp luật quy định nhưng cơ
quan có thẩm quyền chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công dân; hành vi sách
nhiễu trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức... đều là những hành vi hành
chính có thể bị khiếu nại.
- Thứ năm, việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo những nguyên
tắc nhất định bao gồm: đúng quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ
và kịp thời. (Điều 4 Luật khiếu nại 2011)
[3] Vai trò của giải quyết khiếu nại
Theo quy định tại Khoản 11 Điều 2 Luật Khiếu nại, giải quyết khiếu nại là việc thụ lý,
xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại. Giải quyết khiếu nại là hoạt động có
vai trò hết sức quan trọng trong bảo đảm pháp chế xã hội, quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Vai trò đó thể hiện trên những phương diện cơ bản sau:
21

21


Thứ nhất, giải quyết khiếu nại có vai trò đảm bảo thực hiện và phát huy quyền dân chủ
của công dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, góp phần quan trọng đối với việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi các quyền và lợi ích hợp pháp đó bị
xâm phạm từ phía các cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực thi công
vụ.
Thứ hai, thông qua việc giải quyết khiếu nại khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của
người khiếu nại. Đồng thời thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước người dân.
Thứ ba, qua việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại nhằm góp phần hoàn thiện, chấn chỉnh
trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Giúp cơ quan nhà nước nhìn nhận lại những yếu kém,
bất cập trong hoạt động của mình, đồng thời là cơ sở để đánh giá năng lực, phẩm chất đạo đức
của đội ngũ công chức hành chính nhà nước.

[4] Liên hệ thực tế địa phương:
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại là một lĩnh vực độc lập, song có mối liên hệ chặt chẽ
với vấn đề tiếp công dân, tố cáo và giải quyết tố cáo, thể hiện trách nhiệm, mối quan hệ hữu cơ
giữa nhà nước với công dân trong một thể thống nhất.
Thực hiện các quy định của pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
những năm qua, trên bình diện cả nước, các cơ quan, tổ chức đã tập trung giải quyết những vấn
đề thuộc thẩm quyền. Công tác giám sát, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được tăng
cường, đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài, góp phần giữ vững ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên tình hình khiếu nại, tố cáo còn diễn biến phức tạp, số vụ việc khiếu nại, tố cáo
đông người, kéo dài, vượt cấp có xu hướng gia tăng. Nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo về đất đai,
tranh chấp tài sản chưa được giải quyết dứt điểm, để kéo dài, gây bức xúc, tiềm ẩn nguy cơ phát
sinh “điểm nóng”. Một số vụ việc đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đúng chính sách,
pháp luật nhưng không được chấp hành nghiêm túc. Tình hình trên đã tác động tiêu cực đến
việc phát triển kinh tế, xã hội, tạo cớ để các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng, làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Ở tỉnh Quảng Trị, báo cáo của UBND tỉnh cho thấy tình hình khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh của công dân diễn ra khá phức tạp. Nội dung chủ yếu tập trung liên quan đến việc đền
bù, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án; việc đòi lại đất; tranh chấp đất; khiếu
nại về chế độ chính sách; tố cáo tham nhũng. Công tác tiếp công dân được thực hiện theo đúng
quy định.
6 tháng đầu năm 2014, các cấp hành chính đã tiếp 225 lượt/286 người/116 vụ. Trong đó
Phòng Tiếp công dân tỉnh đã trực tiếp tiếp công dân và phục vụ lãnh đạo tỉnh tiếp công dân định
kỳ 86 lượt/11 người/60 vụ việc, so với cùng kỳ năm trước giảm 16,5% số lượt, số người giảm
8,5%. Các cơ quan cấp huyện tiếp 139 lượt/169 người/56 vụ. Có 5 đoàn với 34 người.
Kết quả, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành 2 quyết định giải quyết khiếu nại, giao Thanh
tra tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường xác minh, tham mưu giải quyết 7 đơn (đã có báo cáo kết
quả xác minh 6 đơn, đang xác minh 1 đơn). Các sở, ngành và cấp huyện đã giải quyết 13 đơn.
Đối với tố cáo, cấp tỉnh có 2 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh, tuy
nhiên đơn nêu nội dung không có căn cứ nên Chủ tịch UBND tỉnh không tiến hành giải quyết.

22

22


Cấp huyện có 1 đơn thư tố cáo, 97 đơn kiến nghị phản ánh thuộc thẩm quyền; đã ban hành 20
văn bản trả lời cho công dân.
Nhìn chung, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ngày càng tích cực; các cơ quan, đơn vị đã có sự nỗ lực
trong giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Số vụ việc thuộc thẩm quyền được giải quyết dứt
điểm chiếm tỉ lệ khá cao, qua đó đã hạn chế, ngăn ngừa được khiếu nại vượt cấp.
Sau mỗi kỳ tiếp công dân, UBND tỉnh kịp thời chỉ đạo các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh
kiểm tra, xác minh về giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền, tích cực chỉ đạo giải quyết các
vụ việc tồn đọng, phức tạp kéo dài; đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành giải
quyết các vụ việc khiếu nại, kiến nghị theo thẩm quyền, kịp thời giải quyết các vụ việc ngay tại
cơ sở. Vấn đề hạn chế hiện nay là lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm đúng
mức công tác tiếp công dân; chưa gắn tiếp công dân với việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố
cáo; việc tiếp công dân ở một số nơi còn mang tính hình thức.
Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân và cơ sở vật chất cho các phòng
tiếp công dân của các huyện, thị xã, thành phố chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao; do
chưa được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ về tiếp công dân nên hiệu quả công việc
của một số cán bộ, công chức còn hạn chế; quá trình thực hiện kiểm tra, xác minh, tham mưu
giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo còn chậm, hiệu quả giải quyết vụ việc chưa kịp thời, còn
lúng túng; việc tổ chức thực hiện quyết định đã có hiệu lực pháp luật chưa nghiêm.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, trong thời gian tới cần tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo điều hành của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trong công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần ổn
định chính trị, phát triển kinh tế, xã hội. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến Luật Khiếu nại, Luật
Tố cáo năm 2011, Luật Tiếp công dân cho cán bộ, công chức và nhân dân; thực hiện Nghị định

số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Tiếp công dân để ổn định tổ chức, nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân. Tăng cường
sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết dứt
điểm khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài, vượt cấp.
Người đứng đầu cơ quan hành chính các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục kiểm tra, rà
soát giải quyết dứt điểm, kịp thời các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng và các vụ việc mới phát
sinh ngay từ cơ sở, tránh tình trạng né tránh, đùn đẩy; làm tốt công tác tiếp công dân, tiếp nhận,
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Thanh tra các cấp tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thủ trưởng trong việc chấp hành pháp luật về khiếu nại,
tố cáo để có những kiến nghị về cơ chế, chính sách, biện pháp giải quyết dứt điểm các vụ việc
khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức tạp, tồn đọng.
Thanh tra tỉnh, các sở, ngành có liên quan tham mưu UBND tỉnh tiếp tục rà soát, giải
quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng và các vụ việc mới phát sinh thuộc thẩm quyền của Chủ
tịch UBND tỉnh. Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, Chủ tịch UBND cấp huyện thực hiện chế độ
thông tin báo cáo về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời và đầy đủ nội dung theo
quy định của pháp luật. Phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân; chủ động đối thoại,
vận động, thuyết phục công dân để giải quyết, tháo gỡ triệt để khiếu kiện, bức xúc của nhân
dân. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân trong tiếp công dân, giải
23

23


quyết khiếu nại, tố cáo và tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, quyền khiếu nại, tố cáo để cố ý vi
phạm pháp luật.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, cần
nhận thức sâu sắc rằng đây là nhiệm vụ quan trọng, nếu làm tốt sẽ đem lại hiệu quả đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước
và xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; góp phần nâng cao chất
lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, giữ

vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, xã
hội của địa phương nói riêng và đất nước nói chung.
---

24

24


CÂU 6: Cải cách hành chính
Nền hành chính nhà nước là tập hợp tất cả các yếu tố: Hệ thống thể chế HCNN, hệ thống
tổ chức BMHCNN, đội ngũ CBCCVC làm việc trong các cơ quan HCNNvà các nguồn lực vật
chất cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý HCNN.
CCHCNN có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
CHCNN là quá trình cải biến có kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một
số nội dung của nền hành chính nhà nước (thể chế, tổ chức bm, đội ngũ cbcc, tài chính công…)
nhằm xây dựng nền hành chính công đáp ứng yêu cầu của một nề hành chính hiệu lực, hiệu quả,
hiện đại.
Đứng trên phương diện QLHCNN thì CCHCNN là cải cách cách thức quản lý, tức là cải
cách cách thức thực thi quyền hành pháp tác động đến đời sống CT-VH-XH và con người nhằm
đạt được mục tiêu phát triển một cách bền vững.
Những yếu tố thúc đẩy CCHC cơ sở đó là:
Thứ nhất, yêu cầu phát triển KT – XH cơ sở: hiện nay, ở cơ sở, hoạt động sản xuát kinh
doanh và cung cấp dịch vụ ngày càng phát triển đa dạng và ở nhiều cấp độ. Điều đó đặt ra chính
quyề cơ sở không chỉ quan tâm đảm bảo trật tự , an toàn xh, bảo đảm an sinh xã hội… mà còn
phải quan tâm quản lý về kinh tế, tổ chức, quản lý các dịch vụ công trên địa bàn. Vai trò của
chính quyề cơ sở ngày càng tăng trên các phương diện như tham gia thẩm định, đánh giá các dự
án đầu tư, đánh giá tác động môi trường , vấn đề quản lý đất đai… Để bảo đảm quản lý và tổ
chức đời sống xh ở cơ sở trong bối cảnh phát triển đa dạng các lĩnh vực như vậy đòi hỏi phải
cải cách tổ chức và phương thức hoạt động của chính quyền cơ sở.

Thứ hai, vai trò của chính quyền cơ sở trong bmnn ngày càng tăng. CQCS vốn là nơi tiếp
xúc trực tiếp với nhân dân, nơi triển khai chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và của NN,
CQCS có nhiệm vụ trực tiếp giải quyết các nhu cầu, các công việc có ý nghĩa thiết thực nhất
đến đời sống hằng ngày của người dân. Chính quyền cơ sở cũng chính là nơi gần dân nhất, hiểu
dân nhất, có thể tiếp xúc trực tiếp với nhân dân để huy động họ tham gia các công việc ở cơ sở.
thực hiện nguyên tắc nền hành chính gần dân, sát dân với dân, bảo đảm phục vụ nhân dân một
cách tốt nhất, xu hướng chung hiện nay là đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước xuống tận
chính quyền cơ sở. vì vậy, những công việc phù hợp với khả năng, nhiệm vụ của chính quyền
cơ sở, CQCS có thể làm tốt hơn thì phân cáp cho chính quyền cơ sở. với pham vi thẩm quyền
gia tăng như vậy, đòi hỏi chính quyền cơ sở phải cải cách toàn diện để hòa thành tốt nhiệm vụ
của mình.
Thứ ba, xu hướng tăng cường dân chủ trực tiếp cơ sở và phát huy vai trò công đồng trong
quản lý nhà nước.

25

25


×