Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Hiện trạng công tác lập kế hoạch phát triển ngành viễn thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.13 KB, 59 trang )

Lời mở đầu
Kinh tế nước ta đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường, một thị trường
có sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Sự bùng nổ thông tin cùng với quá trình toàn
cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa- xã hội
và chính trị. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đặc biệt là công ngệ
thông tin tiếp tục phát triển nhảy vọt thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức toàn
cầu hoá nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế này càng sâu rộng trong đó công
nghệ thông tin là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Xu
hướng quốc tế hoá toàn cầu hoá nền kinh tế xã hội cũng như đời sống thông tin diễn
ra nhanh chóng, nhu cầu trao đổi thông tin trong quá trình phát triển kinh tế của đất
nước, hội nhập kinh tế là nguồn động lực quan trọng cho phát triển Viễn thông.
Viễn thông phải là ngành đi đầu trong sự nghiệp đổi mới trở thành môi trường quan
trọng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển và có như vậy thì mới thực
hiện được chủ chương của Đảng đưa đất nước trong tương lai trở thành một nước
công nghiệp hiện đại.
Nhưng bên cạnh đó công tác chỉ đạo xây dựng kế hoạch cho ngành viễn thông
chưa thực sự phù hợp với môi trường hiện nay việc xác định các chỉ tiêu, mục tiêu
của kỳ kế hoạch chỉ mang tính thống kê định hướng, cho nên việc sử dụng các
nguồn lực cho kỳ kế hoạch còn hạn chế. Dẫn đến công tác giám sát kiểm tra nhưng
kết quả chưa đạt hiệu quả cao. Do vậy việc sử lý các sai phạm của các doanh nghiệp
hoạt động trong ngành cần một cơ chế chặt chẽ hơn. Trong bối cảnh hội nhập như
hiện nay thì việc phải điều chỉnh công tác kế hoạch phát triển ngành viễn thông cho
phù hợp với yêu cầu của định hướng phát triển ngành là một yêu cầu cấp thiết.
Do vậy em chọn đề tài này nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch hiện nay
đồng thời như là một kiến nghị của riêng cá nhân em vào sự phát triển chung của
ngành viễn thông.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về lập kế hoạch ngành viễn thông.
Chương 2. Hiện trạng công tác lập kế hoạch phát triển ngành viễn thông
Chương 3. Đề xuất điều chỉnh trong công tác lập kế hoạch và định hướng
đến năm 2020.




Chương 1. Cơ sở lý luận về lập kế hoạch ngành viễn thông.
1.1. Lý luận chung về kế hoạch ngành viễn thông.
1.1.1. Kế hoạch ngành viễn thông trong bối cảnh hội nhập.
Một số khái niệm.
Kế hoạch phát triển ngành.
Hệ thống kế hoạch hóa bao gồm bốn bộ phận liên kết chặt chẽ, trong đó chiến
lược đóng vai trò định hướng xác định tầm nhìn dài hạn, quy hoạch đi sâu vào định
hướng về không gian và tổ chức kinh tế xã hội, chương trình dự án đóng vai trò
đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của một dự án cụ thể. Tuy nhiên để quản lý, điều
tiết các không gian và tổ chức kinh tế xã hội, diễn ra trong từng giai đoạn, từng thời
điểm cụ thể, chúng ta phỉ dựa trên những công cụ cụ thể hơn và kế hoạch phát triển
chính là một trong những công cụ ấy. Kế hoạch là công cụ quản lý và điều hành vĩ
mô nền kinh tế quốc dân, nó xác định một cách hệ thống những hoạt động nhằm
phát triển kinh tế xã hội theo những mục tiêu, chỉ tiêu và các cơ chế chính sách sử
dụng trong một thời kỳ nhất định.
Do vậy nghị quyết đại hội IX của Đảng cộng sản Việt nam đã xác định “ Xây
dựng kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hóa phát
triển”. Kế hoạch 5 năm được xác định là trung tâm trong hệ thống kế hoạch hóa
phát triển.
1.1.1.1.2. Viễn thông.
Để có thể có cái nhìn tổng quan về sự phát triển của Viễn thông và hiểu các chỉ
tiêu đánh giá chất lượng Viễn thông và từ đó phân tích các nhân tố tác động đến
hoạt động sản xuất kinh doanh và khai thác dịch vụ Viễn thông thì trước tiên phải
hiểu được các khái niệm sau:
Thiết bị Viễn thông: là các phương tiện kỹ thuật, bao gồm cả phần cứng và
phần mền được dùng để thiết lập mạng Viễn thông , cung cấp và sử dụng dịch vụ
Viễn thông.



Thiết bị mạng: là thiết bị Viễn thông được lắp đặt trên mạng Viễn thông, bao
gồm thiết bị truyền dẫn, thiết bị chuyển mạch và các thiết bị xử lý thông tin khác.
Thiết bị đầu cuối: là thiết bị Viễn thông được đấu nối trực tiếp hoặc gián tiếp
đến điểm kết cuối của mạng Viễn thông để gửi, xử lý và nhận các thông tin dưới
dạng ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh qua mạng Viễn thông.
Thiết bị đầu cuối thuê bao là thiết bị đầu cuối di động hoặc cố định của người
sử dụng được đấu nối hoà mạng vào mạng Viễn thông công cộng qua điểm kết nối
cua mạng Viễn thông công cộng.
Thiết bị đầu cuối thuê bao được phân thành:
+ Thiết bị đầu cuối thuê bao một đường là thiết bị đầu cuối không có chức
năng chuyển mạch hoặc kết nối các cuộc gọi bao gồm: Thiết bị điện thoại cố định,
thiết bị điện thoại di động, thiết bị fax, thiết bị nhắn tin, modem, thiết bị đầu cuối
truy cập Internet, máy tính,…
+ Thiết bị đầu cuối thuê bao nhiều đường là thiết bị đầu cuối có chức năng
chuyển mạch, kết nối các cuộc gọi bao gồm các tổng đài, thiết bị cổng truy nhập vô
tuyến Internet, thiết bị có tính năng kết nối các cuộc gọi.
Dịch vụ Viễn thông: là dịch vụ truyền kí hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm
thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết nối của mạng
Viễn thông.
Mạng Viễn thông bao gồm: Mạng Viễn thông công cộng, mạng Viễn thông
dùng riêng, mạng Viễn thông chuyên dùng là tập hợp các thiết bị Viễn thông được
liên kết với nhau bằng các đường truyền dẫn.
Mạng Viễn thông công cộng: là mạng Viễn thông do doanh nghiệp Viễn thông
thiết lập để cung cấp các dịch vụ Viễn thông.
Mạng Viễn thông dùng riêng: là mạng Viễn thông do cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp hoạt động tại Việt Nam thiết lập để bảo đảm thông tin cho các thành viên
của mạng, bao gồm các thiết bị Viễn thông được lắp đặt tại các địa điểm xác định
khác nhau và được kết nối với nhau bằng các đường truyền dẫn do cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp thuê hoặc tự xây dựng.



Mạng Viễn thông chuyên dùng là mạng Viễn thông để phục vụ thông tin đặc
biệt của các cơ quan nước, phục vụ thông tin quốc phòng, an ninh. Chính phủ quy
định cụ thể về việc đảng, Nhà thiết lập và hoạt động của các mạng Viễn thông
chuyên dùng.
Mạng nội bộ là hệ thống thiết bị Viễn thông do một tổ chức hoặc cá nhân thiết
lập tại một địa chỉ và phạm vi xác định mà chủ mạng nội bộ đó có toàn quyền sử
dụng hợp pháp để đảm bảo liên lạc nội bộ cho các thành viên trong mạng.
Hệ thống đường trục Viễn thông quốc gia là một phần của mạng Viễn thông
công cộng, bao gồm các đường truyền dẫn đường dài trong nước và quốc tế, và các
cổng thông tin quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn bộ hoạt động của
mạng Viễn thông quốc gia và ảnh hưởng trực tiệp đến việc phát triển kinh tế xã hội,
đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước.
Truyền dẫn và phát sóng là việc truyền kí hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm
thanh hình ảnh và các giải pháp của thông tin bằng cáp, sóng vô tuyến điện các
phương tiện quang học và các phương tiện điện tử khác.
Quá trình truyền tin tức diễn ra giữa hai người sử dụng: Người gửi tin và người
nhận tin. Thông thường toàn bộ quá trình truyền đưa tin tức do nhiều đơn vị tham
gia ở những khoảng cách rất khác nhau thậm chí có những đơn vị trong hệ thống
nằm ngoài lãnh thổ một quốc gia. Mỗi đơn vị thực hiện một công đoạn, vai trò của
các đơn vị trong quá trình truyền tin tức quyết định đến chất lượng thông tin như
nhau (đơn vị đầu cuối, phát tin, nhận tin, truyền đưa tin).
Một quá trình truyền đưa tin tức bao gồm ba công việc chính:
+ Nhận tin từ người gửi tin tức là quá trình thu nhận tin tức;
+ Vận chuyển tin tức trong không gian đến nơi cần thiết tức là sử lý thông tin;
+ Trả tin tức cho người nhận tức là quá trình phát tin tức;
Việc chuyển đưa tin tức trong không gian cũng được thực hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau trong Viễn thông thì người ta truyền bằng đường cáp, sóng vô tuyến
điện, các phương tiện quang học và các phương tiện điện tử khác.

Viễn thông được hiểu như cách thức trao đổi dữ liệu thông qua kỹ thuật điện tử
và các công nghệ hiện đại khác. Các dịch vụ viễn thông đầu tiên theo nghĩa này là


điện báo và điện thoại. Ngày nay các thiết bị viễn thông là một thành phần cơ bản
của hệ thống hạ tầng.
Sự hội tụ trong lĩnh vực viễn thông cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu
sử dụng và truyền dẫn dữ liệu của con người cũng thăng lên theo cấp số nhân.
Ngành viễn thông đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển đưa tri thức của
loài người đến với mỗi người chúng ta, thúc đẩy quá trình sáng tạo đưa thông tin
khắp nơi về về các nghành lĩnh vực khoa học, các thông tin giải trí cũng như thời sự
khác. Viễn thông đem lại sự internet băng thông rộng thúc đẩy nghành công nghệ
thông tin phát triển lên một hội tụ, hay sự thống nhất về các loại hình truyền dẫn dữ
liệu dịch vụ như thư thoại, video, và dữ liệu mức cao hơn với đa dạng các loại hình
dịch vụ và chi phí rẻ hơn. Mạng viễn thông giúp người sử dụnh có thể gọi điện thoại
qua mạng Internet, có thể chia sẻ ngồn dữ liệu, có thể thực hiện những giao dịch
mọi nơi trên khắp thế giới một cách đơn giản. Viễn thông ngày càng tạo nên một
thế giới gần hơn hội tụ cho tất cả mọi người.
1.1.1.1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới,
một quốc gia nếu không bị tụt hậu và có sự phát triển bền vững thì không thể tham
gia vào quá trình quốc tế hóa hóa dời sống kinh tế, hội nhập nền kinh tế quốc tế,
tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Hội nhập (hay liên kết) kinh tế quốc tế được hiểu là các nền kinh tế thế giới
hợp tác lẫn nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau. Hội nhập kinh tế
quốc tế được coi là một khâu trong quá trình phát triển và là tiền đề cho quá trình
phát triển bền vững.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những lợi ích kinh tế mà không phải quốc
gia nào cũng có được. Hội nhập thực hiện tự do hóa thương mại tạo điều kiện thuận
lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý. Về lâu dài tự do hóa thương

mại sẽ góp phần tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế.
1.1.1.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển nghành Viễn
thông và ý nghĩa với kế hoạch phát triển nghành.
Tự do hóa thương mại sẽ tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có điều
kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý. Nghành viễn


thông không đứng ngoài xu thế đó, sự hội nhập sẽ giúp cho các nghành có được sự
thuận lợi trên. Không những thế sự cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập sẽ trở thành
động lực phát triển của nghành. Bên cạnh đó, sự hội nhập sẽ giúp cho Việt Nam
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước một cách có ý thức và theo lộ trình cụ thể thông
qua việc thực hiện các cam kết khi tham gia vào các tổ chức như WTO, AFTA…
Đây là những thuận lợi mà chúng ta không thể có được nếu đóng cửa nền kinh tế,
đứng ngoài cuộc chơi toàn cầu hóa đang lan tỏa đến từng quốc gia.
Tuy nhiên hội nhập không chỉ mang lại sự thuận lợi cho nghành mà nó cũng
đặy ra các vấn đề cạnh tranh. Trong khi năng lực của các doanh nghiệp trong nước
còn hạn chế thì sự gia nhập của các tập đoàn lớn sẽ là một thách thức không nhỏ
trong sân chơi bình đẳng. Việc mở cửa thị trường sẽ là cơ hội tốt cho các tập đoàn
lớn của nước ngoài vào Việt Nam điều đó sẽ làm mất thị trường của một số các
doanh nghiệp trong nước còn đang hoạt động một cách yếu kém, không những vậy
sẽ tạo ra một luuồng chảy chất sám ra nước ngoài nơi mà có điều kiện để phát triển
và là cơ hội của bất kỳ ai… Đó chỉ là một số khó khăn cơ bản mà nếu nghành Viễn
thông nói chung, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành nói riêng nếu không có
sự chuẩn bị tốt thì sẽ không thể nào hội nhập thành công.
Về phần Kế hoạch nghành viễn thông trong bối cảnh hội nhập cũng phải có sự
điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình chung của nền kinh tế để có thể không chỉ
khai thác được tiềm năng trong nước mà còn tận dụng được những nguồn lực đến từ
bên ngoài như vốn, khoa học kĩ thuật, trình độ quản lý… Bên cạnh đó kế hoạch
cũng là một bản cam kết của nhà nước về định hướng phát triển ngành trong tương
lai sao cho phù hợp vớ các thông lệ quốc tế, các thỏa thuận đã được kí kết trong quá

trình đàm phán. Từ đó mới có thể tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông. Và trên hết hội nhập đòi hỏi kế hoạch phát triển nghành
phải có sự điều chỉnh sao cho có thể tận dụng mọi lợi thế và khắc phục khó khăn để
có thể đưa ngành phát triển vững mạnh trong giai đoạn mới.
Với viễn thông thì khi có hội nhập các công nghệ mới sẽ du nhập vào Việt
Nam một cách thuận lợi và có hệ thống không chỉ do chúng ta tự đầu tư, đem về mà
còn do các quốc gia, các tập đoàn lớn mang đến thông qua việc đầu tư vào Việt
Nam một cách chủ động. Chính vì thế khi có sự hội nhập công nghệ của ngànhViễn
thông vốn đã thay đổi nhanh lại càng nhanh do phải theo kịp với các công nghệ tiên
tiển trên thế giới, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sự kết nối và tương thích với mạng


toàn cầu, đồng thời làm chậm bước tiến của chúng ta trong việc đi thẳng vào công
nghệ cao. Chính vì thế, hao mòn vô hình của nghành khi công nghệ thay đổi sẽ có
tốc độ nhanh hơn sau khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Điều này
đòi hỏi kế hoạch ngành viễn thông không được cứng nhắc mà phải luôn có sự điều
chỉnh sao thích hợp với điều kiện mới, nhanh chóng thay đổi thích nghi với ngoại
cảnh để có thể dẫn dắt ngành phát triển.
Bên cạnh các công nghệ các nguồn vốn cả trực tiếp và gián tiếp sẽ liên tục đổ
vào Việt Nam trong lĩnh vực Viễn thông đây là lĩnh vực công nghệ co, các nhà đầu
tư trên thế giới có xu hướng đầu tư ra các nước của họ có xu hướng bão hòa điều
này đặt ra cho Kế hoạch nghành trong điều kiện mới làm sao có thể đưa ra các
phương án để thu hút và tận dụng tốt nhất nguồn vốn nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam
sau hội nhập.
Ngoài công nghệ và vốn, một yếu tố cũng vô cùng quan trọng đó là trình độ
quản lí và nền tảng kiến thức hiện đại sẽ du nhập theo nguồn vốn đầu tư vào Việt
Nam, đây là yếu tố mà Việt Nam nói chung và các nước đang phát triển nói riêng
đang vừa thiếu lại vừa yếu, do tư duy kinh tế chưa phát triển nền kinh tế thị trường
chưa thực sự hoàn thiện. Tự do hóa thương mại chúng ta sẽ có những bài học kinh
nghiệm quý báu về công tác quản lý, về cách điều hành mà các nước tiên tiến đang

áp dụng, để từ đó có thể linh hoạt áp dụng một cách hợp lý vào Việt Nam. Điều này
không thể ncó được nếu chúng ta đóng cửa nền kinh tế và nó đặt ra kế hoạch ngành
viễn thông trong giai đoạn mới phải có sự điều chỉnh để có thể phát triển một đội
ngũ nhân lực có đủ trình độ và năng lực để có thể tiếp thu được toàn bộ các kiến
thức, kinh nghiệm quản lý phục vụ cho sự phát triển ngành.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là một thách thức lớn đòi hỏi Kế hoạch phát
triển ngành Viễn thônng phải có sự điều chỉnh linh hoạt sao cho phù hợp với điều
kiện mới tránh sự cứng nhắc trong Kế hoạch sẽ khiến cho nghành không bắt kịp
theo các xu hướng thời đại, bỏ lỡ các thời cơ đang mở rộng. Điều chỉnh công tác lập
kế hoạch trong giai đoạn mới là phải làm rõ được các yếu tố ảnh hưởng gồm cả
thuận lợi, khó khăn của hội nhập đến Viễn thông của Việt Nam để từ đó có thể có
các chỉ tiêu, mục tiêu, giải pháp điều chỉnh bổ sung sao cho ngành có thể nắm bắt
các cơ hội, vượt lên khó khăn để không ngừng phát triển.
1.1.2. Sự cần thiết phải lập kế hoạch ngành viễn thông.


Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế Văn kiện đại hội Đảng IX đã khẳng
định mục tiêu phát triển của chiến lược 10 năm 2001 – 2010: “Đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của
nhân dân; Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ,
kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, an ninh quôc phòng được tăng cường; Thể chế
kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế
của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Xuất phát từ mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng,
chiến lược phát Bưu chính Viễn thông đến năm 2010 và định hướng phát triển đến
năm 2020 và chỉ số 58- CT/TW của Bộ Chính trị sẽ xem xét lý do cần phải xây
dựng kế hoạch 5 năm phát triển Viễn thông ở ba khía cạnh sau:

Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế

Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng thì phải phát triển cơ
sở hạ tầng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển. Viễn thông và
Internet lại là một phần quan trọng của cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia do đó phải
được ưu tiên phát triển. Những ứng dụng công nghệ thông tin vào trong vào trong
các ngành kinh tế khác góp phần làm tăng năng xuất của những ngành này từ đó
thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước. Do đó phát triển
Viễn thông là cần thiết vì nó là yếu tố khách quan cho quá trình sản xuất. Mục tiêu
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện đại hoá là xây dựng nước ta là thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.
Mặt khác, trong Chỉ thị 58/CT-TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh ứng dụng
và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của đất nước”. Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất cảu
sự phát triển, ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin nước ta nhằm góp phần
giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ, tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc
đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả quá trình chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
Muốn thực hiện được điều đó thì phải ưu tiên phát triển mạng thông tin quốc
gia liên kết với mạng thông tin quốc tế. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng mạng thông tin


quốc gia, bao gồm hệ thống Viễn thông và Internet Việt Nam. Phát triển mạng
thông tin quốc gia đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của toàn xã hội.
Có thể nói thế kỷ XXI là thể kỷ của sự bùng nổ công nghệ thông tin, thế kỷ mà
các công nghệ Viễn thông, Internet trở thành công nghệ gốc, quyết định phát triển
các loại công nghệ khác. Nếu không phát triển công nghệ thông tin thì mọi công
nghệ khác sẽ trở nên lạc hâu, kém hiệu quả và bị loại trừ.
Trong cuộc sống ngày nay, đời sống xã hội đang có bước thay đổi lớn nhờ sự
phát triển không ngừng của cách mạng công nghệ, tình hình kinh tế, chính trị thế
giới đang có nhiều thay đổi, cả thế giới đang trở thành một thị trường thống nhất thì

sự phát triển phồn thịnh của đất nước không chỉ phụ thuộc vào yếu tố bên trong
quốc gia mà còn phụ thuộc rất nhiều vào vận hội và khả năng khai thác, học hỏi ở
thế giới bên ngoài.
Các nguồn thông tin từ thế giới bên ngoài có thể qua nhiều con đường và
phương tiện khác nhau về nước ta như: báo chí, phát thanh, truyền hình…Tuy nhiên
các phương tiên này chỉ cho nguồn thông tin một chiều. Để có thể giải quyết hàng
loạt các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế cần phải có các phương tiện
giúp cho việc trao đổi thông tin hai chiều và nhiều chiều phương tiện đó chính là
Viễn thông và Internet.
Thực tế trong tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay, công nghệ
thông tin là môi trường quan trọng tạo ra các điều kiện ban đầu cho việc hội nhập.
Công nghệ thông tin là động lực chủ yếu phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Như vậy công nghệ thông tin nói chung và viễn thông nói riêng phải đi trước một
bước trong quá trình hội nhập. Công nghệ thông tin là cơ sở phát triển công nghệ của
mọi ngành kinh tế – xã hội hiện đại . Muốn như vậy phải có kế hoạch phát triển Viễn
thông cũng như Internet một cách hợp lý để đạt được sự phát triển kinh tế của đất nước.

Xuất phát từ yêu cầu đời sống xã hội
Để thực hiện mục tiêu chiến lược 2001 – 2010 là nâng cao đời sống vật chất,
văn hoá, tinh thần của người dân. Thì Viễn thông cần phải phát triển mạnh hơn nữa,
các phương tiện dịch vụ truyền thông tin ngày càng phải đa dạng hơn nữa dễ dàng
tiện lợi cho người sử dụng. Nếu như trước đây chỉ có dịch vụ truyền thông tin như
điện thoại gọi số, điện thoại công cộng, điện báo trong nước và quốc tế…thì nay đã


phát triển các dịch vụ Viễn thông mới như điện thoại dùng thẻ, điện thoại di động,
điện thoại hình, dịch vụ nhắn tin, dịch vụ Internet, dịch vụ tư vấn…Yêu cầu tăng lên
thường xuyên là nhân tố thúc đẩy Viễn thông phát triển và không ngừng cải tiến,
nâng cao chất lượng dịch vụ.
Mặt khác xét về khía cạnh xã hội thì sự phát triển của Viễn thông sẽ kéo theo

các ngành mới ra đời như lắp ráp điện tử, sản xuất điện thoại… tạo thêm được nhiều
việc làm mới làm tăng thu nhập của người dân từ đó cải thiện được đời sống vật
chất tinh thần của người dân cũng như đóng góp vào việc làm giảm gánh nặng thất
nghiệp cho toàn xã hội.

Xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của công nghệ thông tin nói chung
và Viễn thông nói riêng
Trong điều kiện nước ta hiện nay là nên kinh tế thị trường vấn đề nâng cao
chất lượng sản phẩm dịch vụ được coi là nhân tố hàng đầu giúp doanh nghiệp chiến
thắng và đạt được mục tiêu kinh doanh của mình như doanh thu, lợi nhuận, uy tín…
Sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt thì thông tin ngày càng
nhanh nhạy và chính xác. Chính vì vậy mà không ai có thể đảm bảo chắc rằng
những dịch vụ Viễn thông hiện có sẽ tiếp tục thành công trong tương lai nếu không
được cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Phương hướng, nhiệm vụ đại hội IX của Đảng đặt ra đối với Bưu chính Viễn
thông trong chương trình kết cấu hạ tầng là phát triển mạng lưới Bưu chính Viễn
thông hiện đại đồng bộ, thống nhất, và đa dạng đáp ứng tối đa nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng với chất lượng cao nhất, điều chỉnh giá cước để
khích người dân sử dụng rộng rãi. Đến năm 2010, số máy điện thoại, số người sử
dụng Internet trên 100 dân đạt mức trung bình của khu vực.
Chính vì vậy phải có kế hoạch phát triển Viễn thông, nâng cao chất lượng dịch vụ
là giải pháp cứu cánh trong chương trình phát triển cơ sở hạ tầng của nước ta.
Trên đây là ba lý do cần phải xây dựng kế hoạch phát triển Viễn thông vậy
vấn đề đặt ra là xây dựng kế hoạch trong khoảng thời gian nào thì sẽ phù hợp
1năm, 3 năm, 5 năm. Vấn đề này sẽ được giải quyết như sau:


+ Xây dựng kế hoạch phát triển Viễn thông trong khoảng 5 năm bởi vì thời
gian 5 năm là thời gian đủ ngắn để đảm bảo việc định lương có cơ sở vững chắc
hơn (xác định các chỉ tiêu thực thi được chính xác hơn).

+ Thời gian 5 năm đủ dài so với một năm và 3 năm để đảm bảo cho sự đánh
giá hiệu quả các chính sách phát triển Viễn thông, đảm bảo cho các chính sách và
giải pháp này bộc lộ được mặt nhược điểm, ưu điểm.
+ 5 năm là khoảng thời gian trùng khớp với một nhiệm kỳ lãnh đạo chính trị
đảm bảo sự thống nhất giữa lãnh đạo kinh tế và lãnh đạo chính trị đảm bảo tổ chức
triển khai quy trách nhiệm cho các cấp.
Do việc xây dựng kế hoạch việc xây dựng kế hoạch cho phù hợp với tình hình
trên và sự chỉ đạo của chính phủ nhằm đạt được sự thay đổi của đời sống văn hóa xã
hội của đất nước, thì việc sửa đổi bổ xung là điều vô cùng cần thiết .
1.1.2.1. Sơ lược về lịch sử ngành Viễn thông
Ngành Bưu chính Viễn thông trước đây được gọi là ngành Bưu điện, lịch sử
hình thành và phát triển của ngành gắn với lịch sử dân tộc trong sự nghiệp giải
phóng, bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Theo nguồn từ Bộ Bưu chính Viễn thông thì
lịch sử hình thành và hoạt động của ngành Bưu chính Viễn thông có thể tóm tắt như
sau
Bưu chính Viễn thông trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và miền Nam sau giải phóng, là
thực hiện nhiệm vụ thông tin liên lạc của Đảng và Nhà nước, cho các cơ quan, đơn
vị và nhân dân. Thời kỳ này là thời kỳ có nhiều khó khăn đối với ngành, Ngân sách
Nhà nước rất eo hẹp, còn ưu tiên phục vụ cho chiến đấu, bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, phục vụ trước hết
là cho các nhu cầu cấp bách nhất, nên đã thiếu lại càng thêm thiếu. Dù vậy, phát
huy truyền thống cách mạng “Trung thành, Dũng cảm, Tận tuỵ, Sáng tạo, Nghĩa
tình”, các bộ công nhân viên toàn ngành Bưu điện đã không ngại hy sinh, gian khổ,
phấn đấu hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ, được Đảng, Nhà nước và nhân dân
đánh giá cao, tặng phần thưởng cao quý: Huân chương độc lập, Huân chương Sao
vàng…


Giai đoạn từ năm 1975 đến nay: Sau khi hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải

phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước
tiến vào giai đoạn cách mạng mới – giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc. Cán bộ công nhân viên ngành BĐVN cùng với nhân dân bước vào cuộc
chiến đấu mới, đó là cuộc chiến đấu với nghèo nàn, lạc hậu và chiến đấu bảo vệ
biên giới phía Bắc, biên giới phía Nam của Tổ quốc. Tiếp nối truyền thống vẻ vang
trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc, ngành Bưu điện đã viết tiếp những
trang sử mới, lập thêm nhiều kỳ tích mới trong thời kỳ xây dựng XHCN và góp
phần đưa đất nước tiến con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Năm 1976, Tổng cục Bưu điện đã chính thức tham gia 2 tổ chức quốc tế là:
Liên minh Bưu chính thế giới (UPU) và Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) và
tăng cường mở rộng quan hệ quốc với nhiều nước trên thế giới.
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, non sông trở về một mối, ngày
02/08/1976, Hội nghị thống nhất toàn ngành Bưu điện được tổ chức tại thành phố
Hồ Chí Minh. Từ đây, ngành Bưu điện Việt Nam thống nhất dưới sự chỉ đạo chung
vào một đầu mối, một đơn vị kế hoạch với Nhà nước. Ngành là đơn vị trực thuộc
Hội đồng Chính phủ vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về thông tin liên lạc,
vừa làm nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và phục vụ các yêu cầu của Đảng và Nhà
nước.
Ngày 02/11/1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết 390/CP xác định “Ngành
Bưu điện là cơ quan thông tin liên lạc của Đảng và chính quyền các cấp, đồng thời
là một ngành kinh tế – kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, hoạt động theo phương
thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa và chế độ hạch toán kinh tế”. Hệ thống tổ chức
ngành Bưu điện gồm:
- Tổng cục Bưu điện
- Bưu điện tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Bưu điện
tỉnh)
- Bưu điện huyện và tương đương
- Trạm Bưu điện xã và tương đương
Tổng cục Bưu điện quản lý toàn bộ tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn, tổ chức,
cán bộ của các Bưu điện tỉnh, các xí nghiệp , các đơn vị sự nghiệp trong Ngành,



không ngừng cải tiến hệ thống quản lý Bưu điện để đáp ứng yêu cầu phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Từ đó trải qua nhiều lần thay đổi và cải cách lại bộ máy quản
lý hành chính của Ngành đến 26/ 10/1992, Chính phủ ra nghị định số 03/CP về việc
thành lập Tổng cục Bưu điện là cơ quan của Chính phủ có chức năng quản lý Nhà
nước về Bưu chính Viễn thông, kỹ thuật truyền tín hiệu Phát thanh Truyền hình và
công nghiệp Bưu điện trong cả nước. Ngày 07/05/1994, Thủ tướng chính phủ ra
quyết định số 91/TTg chuyển Tổng công ty Bưu chính Viễn thông thành đoàn kinh
doanh của Nhà nước. Từ năm 1995 đến nay Ngành Bưu chính Viễn thông chuyển
từ độc quyền sang cạnh tranh, đã có nhiều doanh nghiệp mới tham gia cạnh tranh và
chiếm thị phần của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Ngành Bưu điện là một trong những Ngành đi đầu trong công cuộc đổi mới và
là ngành kinh tế đầu tiên được thưởng Huân chương Sao Vàng. Ngành phát huy
truyền thống đó và tiếp tục để phát triển ứng dụng khoa học công nghệ mới vào
trong các lính vực sản xuất, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội.
1.1.2.2. Vai trò của kế hoạch phát triển ngành đối với sự phát triển của viễn
thông.
Ngành viễn thông trong xu thế hội nhập đóng vai trò là ngành tiên phong đi
đầu phát triển để làm tiền đề cho các ngành khác phát triển và góp phần quan trọng
giúp kinh tế Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới nền kinh tế tri thức và thông
tin. Trong điều kiện đó thì Kế hoạch phát triển ngành là vô cùng cần thiết với vai trò
là:
Là cơ sở để nhà nước chỉ đạo phát triển viễn thông thống nhất, đồng bộ với các
bản kế hoạch khác của nhà nước, đảm bảo đầu tư xây dựng mạng lưới viễn thông
đạt hiệu quả kinh tế.
Là cơ sở để nhà nước ban hành các chính sách và huy động các nguồn vốn
trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm cơ sở cho kế hoạch hàng năm và 5
năm của ngành, đồng thời còn là cơ sở để các địa phương xây dựng kế hoạch viễn
thông trên địa bàn phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương.

Định hướng cho các doanh nghiệp viễn thông xây dựng các các kế hoạch phát
triển phù hợp với kế hoạch quốc gia.


Bên cạnh đó viễn thông là ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng vì thế bản thân
ngành cũng có các tính chất hàng hóa công cộng, bởi vậy cần phải có sự can thiệp
nhà nước để có thể thực hiện các nhiệm vụ viễn thông công ích tránh tình trạng các
doanh nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận mà quên mất nhiệm vụ xã hội khác, điều này
rất dễ sảy ra trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cạnh tranh khốc liệt và
chạy theo lợi nhuận là trên hết. Vì thế cần có một công cụ nhà nước để điều tiết hoạt
động của các doanh nghiệp sao cho đảm bảo sự phát triển của ngành, lại vừa có thể
thực hiện tốt các mục tiêu xã hội đã đề ra cho Viễn thông.
Trong bối cảnh hiện nay khi mà Việt Nam tham gia vào WTO một loạt các
cam kết của chúng ta chuẩn bị và đang bắt đầu thực hiện. các khó khăn như môi
trường cạnh tranh nâng cao, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ ồ ạt tham gia vào thị
trường Việt Nam sẽ rất khó khăn với các doanh nghiệp trong nước… Bên cạnh
những thuận lợi như tiếp thu vốn công nghệ, trình độ tổ chức quản lý… của nền
kinh tế tiên tiến trên thế giới. Chính vì thế Kế hoạch phát triển ngành là vô cùng
quan trọng trong điều kiện như hiện nay.
Các yêu cầu đối với một bản kế hoạch phát triển ngành.
1.2.1. Kế hoạch phát triển là một trạng thái động, là một quá trình cho từng
thời kì.
Hệ thống kinh tế xã hội là một hệ thống động không ngừng do nhu cầu của con
người không ngừng tăng lên và không có giới hạn. Mặc dù nhu cầu của con người
là vô hạn nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu đó là có giới hạn, dẫn đến sự cạnh tranh,
giành giật và gây ra những mâu thuẫn, là tiền đề nảy sinh sự không bền vững trong
hệ thống. do vậy kế hoạch phát triển phải tạo ra được một cơ cấu sản xuất hợp lí và
nhu cầu, giữa nhu cầu và khả năng đạt được cân đối trên cơ sở tính toán hợp lí theo
quan điểm sinh thái để có thể đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và phát triển bền
vững.

Có rất nhiều các yếu tố không thể dự báo thì cũng rất khó cho được kết quả
một cách chính sác. Đặc biệt hiện nay khi mà quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh
mẽ khiến cho cơ cấu kinh tế của quốc gia thay đổi một cách đáng kể; dòng hành;
nguồn vốn; công nghệ… giữa các quốc gia có sự lưu chuyển không ngừng. Những
yế tố đó đặt ra vấn đề cần sử lí xem xét luận chứng các điều kiện, xác định các dự
án kế hoạch một cách kĩ lưỡng, đảm bảo tính linh hoạt. Do vậy kế hoạch phát triển


phải đề cập được nhiều phương àn, thườn xuyên cập nhật, bổ xung tư liệu cần thiết
để có giải pháp điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế.
1.2.2. Kế hoạch phát triển phải đạt được mục tiêu phát triển trong thế vận
động tiến bộ và bền vững.
Chúng ta đều biết hệ thống lãnh thổ kinh tế bao gồm rất nhiều các bộ phận cấu
thành nên, mà các phân hệ này thì lợi ích không giống nhau nên rất dễ xảy ra các
mâu thuẫn. Có thể nói lợi ích của mỗi cá nhân trong xã hội là rất khác nhau, lợi ích
mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi vùng lãnh thổ có tính cục bộ và thường vận động
không cùng chiều. Do vậy vấn đề rất quan trọng là kế hoạch phát triển phải làm thế
nào để hệ thống phát triển không ngừng và đạt được hiệu qủa không ngừng và sự
phát triển của các đối tượng phải nhất quán theo đúng một hướng nhất định.
Trong hki xây dựng kế hoạch phát triển cần phải tính tới việc có nhiều đối
tượng hoạt động khác nhau trong tư thế cạnh tranh trên cùng một lãnh thổ nhằm
giành lợi ích riêng về mình. Có thể kế hoạch phát triển phải xác định được mục tiêu
phát triển và các giải pháp kiến thiết trên lãnh thổ tạo được sự phát triển hài hòa,
nhịp nhàng cho toàn bộ hệ thống.
1.2.3. Kế hoạch phát triển phải thể hiện đa dạng phân công lao động theo lãnh
thổ một cách đa dạng và linh hoạt.
Hoạt động kinh tế của con người ở mỗi lãnh thổ khác nhau lại có sự khác biệt
vô cùng đa dạng. Phân công lao động theo lãnh thổ lôi cuốn được các đối tượng tự
nhiên, kinh tế, xã hội vào quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa dịch vụ mang lại lợi
ích cho các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội khác nhau cùng tham gia vào quá

trình phức tạp đó. Khi thực hiện phân công lao động theo lãnh thổ phải cụ thể hóa
được định hướng, thậm chí cả những diến biến trong tương lai của phân công lao
động theo ngành.
Phân công xã hội theo lãnh thổ phản ánh sự lựa chọn địa diểm cho các nhà đầu
tư, của dân cư. Do vậy cần bố trí hợp lí từ nguồn vốn, nguồn lực cho kế hoạch cần
đạt được các chỉ tiêu mà bản kế hoạch đưa ra trong thời hạn của kế hoạch cũng như
trong công tác xây dựng kế hoạch của cá năm tiếp theo. Do vậy kế hoạch phát triển
bản thân nó phải thẻ hiện sự đa dạng phân công lao động theo lãnh thổ nhưng phải
thể hiện lợi ích sao cho phân công lao động đó diễn ra một cách tự nguyện.


1.2.4. Kế hoạch phát triển phải đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, tiến bộ
của khoa học công nghệ và phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Phát triển để có thể thỏa mãn các nhu cầu hôm nay mà không tổn hại đến sự
phát triển tương lai là một cau hỏi lớn trước bất kì con đường phát triển nào nhằm
đạt được cả ba mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Các tính toán của kế hoach
phát triển phải dựa trên các yêu cầu bền vững của các yếu tố phát triển.
Tránh phát triển nóng, tôn trọng phát triển hài hòa nhịp nhàng của toàn hệ
thống cũng như từng phần tử của nó. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay khi mà
cơ hội đến rất nhanh và ai cũng muốn chớp lấy để theo đuổi mục tieu lợi ích thì điều
này tưởng chừng như rất dễ mà rất khó thực hiện Tình trạng đó sẽ dẫn đến phát
triển nhanh mà gây phá vỡ hệ thống chung của xã hội, gây ra các hậu quả khó
lường. Ngoài ra kế hoạch phát triển phải đảm bảo một trật tự trong ngắn hạn cũng
như đảm bảo yêu cầu phát triển trong dài hạn.
1.3.

Phương pháp xây dựng kế hoạch ngành viễn thông.

1.3.1. Đặc điểm của nghành viễn thông.
1.3.1.1. Viễn thông là ngành công nghệ thay đổi nhanh chóng.

Với tiến bộ vệ mọi phương diện, công nghệ thông tin/Internet và Viễn thông
không tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ, công nghệ mới mà còn “thu nhỏ” quá đất xoá
đi cách biệt về biên giới và thay đổi nếp sống, cách suy nghĩ cũng như cách làm
việc và giải trí của xã hội nó làm tăng tính cạnh trang và sự minh bạch của nền kinh
tế giúp cho quá trình trao đổi hàng hoá dịch vụ diễn ra một cách nhanh chóng, thuận
lợi và hiệu quả hơn.
Những thay đổi của công nghệ Viễn thông thế giới: Công nghệ Viễn thông
hiện nay đã tiến bộ vượt bậc trong hai lĩnh vực là công nghệ băng rộng (ADSL) và
Viễn thông di động và một số công nghệ khác nữa. So với trước đây chưa có công
nghệ băng rộng việc truy cập Internet mất rất nhiều thời gian muốn liên lạc bằng
điện thoại cố định không liên được, hiện nay việc truy cập Internet đã tiết kiệm thời
gian rất nhiều so với trước đây.
Các công nghệ Viễn thông kết nối Internet trong thời gian qua trên thế giới
triển khai công nghệ mới WAP giúp máy điện thoại và vô tuyến có thể truy cập
Internet làm thay đổi các công nghệ cũ trước đây.


Điện thoại di động: Số lượng điện thoại di động áp dụng công nghệ mới trên
thế giới có xu hướng sử dụng rất nhiêu. Điện thoại mới đó là điện thoại di động vô
tuyến, theo dự báo của các nhà nghiên cứu thì trong tương lai nó sẽ trở thành
phương tiện quan trọng để truy cập Internet và thực hiện các dịch vụ thương mại
điện tử cho người sử dụng.
Đó là một số xu hướng phát triển của thế giới, còn ở Việt Nam thì Viễn thông
thay đổi một cách nhanh chóng bắt đầu từ năm 1994 khi mạng điện thoại di động
đầu tiên bắt đầu đi vào hoạt động và khai thác cho đến nay thì thị trường điện thoại
di động đã phát triển một cách nhanh chóng. Năm 2004 được coi là năm bùng nổ
của thị trường điện thoại di động.
1.3.1.2. Môi trường kinh doanh của ngành Viễn thông đang chuyển dần từ độc
quyền sang cạnh tranh.
Cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh nó bao gồm cạnh trong nội bộ ngành

và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản
xuất một loại hàng hoá dịch vụ nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch cạnh tranh trong nội
bộ ngành chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của tiến bộ kỹ thuật, không có
cạnh trong nội bộ ngành thì sẽ không có sáng kiến, cải tiến thì bản thân ngành đó sẽ
bị trì trệ. Nói cách khác muốn có sự phát triển thì phải ra cạnh tranh trong nội bộ
ngành.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất ở
những ngành khác nhau nhằm mục tiêu tìm nguồn đầu tư có lợi. Cạnh tranh giữa
các ngành được thể hiện bằng sự dịch chuyển nguồn lực từ ngành này sang ngành
khác dẫn đến sự cân bằng về cung cầu sản phẩm giữa các ngành và bình quân tỉ
xuất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc đầu tư vốn giữa các ngành khác
nhau. Điều đó tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
Viễn thông cũng như các ngành kinh tế khác đều phải tuân theo quy luật của
nền kinh tế thị trường đó là quy luật cạnh tranh. Môi trường kinh doanh của ngành
Viễn thông đang chuyển dần từ độc quyền sang cạnh tranh. Trước đây trên thị
trường dịch vụ Viễn thông chỉ có một nhà cung cấp duy nhất đó là Tổng công ty
Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) hiện nay đứng trên góc độ nhà cung cấp


dịch vụ thì VNPT không còn là nhà cung cấp độc quyền nữa. Trên thị trường đã
xuất hiện thêm 5 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Viễn thông đó là:
+ Công ty Viễn thông quân đội (Viettel);
+ Công ty Viễn thông điện lực (ETC);
+ Công ty cổ phần Bưu chính Viễn thông Sài gòn (SPT);
+ Công ty cổ phần Viễn thông hàng hải (Vishipel);
+ Công ty cổ phần Viễn thông Hà nội (Hanoi Telecom);
Với sự tham gia vào thị trường của năm Công ty này đã làm cho làm cho cạnh
tranh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ Viễn thông ngày càng gay gắt hơn.
Đặc điểm của thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam: trên thị trường các

khách hàng nhận biệt được chất lượng của dịch vụ Viễn thông thông qua dấu hiệu
biểu hiện như mức độ hiện đại của trang thiết bị, thái độ phục vụ, giá cả. Thị trường
dịch vụ Viễn thông bố trí chủ yếu ở các trung tâm thành phố lớn còn ở các vùng
nông thông còn hạn chế. Trong tương lai thị trường dịch vụ Viễn thông sẽ phát triển
rộng khắp các vùng nông thôn trong cả nước.
Đặc điểm riêng của thị trường dịch vụ Viễn thông là: Thị trường dịch vụ Viễn
thông xuất hiện cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý và xu hướng toàn cầu hoá
hội nhập vào thị trường và nền kinh tế thế giới. Các đặc điểm riêng thể hiện trên các
khía cạnh sau:
+ Quy mô thị trường mở rộng nhanh chóng, đặc biệt là vùng thành phố, vùng
nông thôn, vùng sâu vùng xa đang có xu hướng phát tiển.
+ Cơ cấu khách hàng trên thị trường dịch vụ Viễn thông có sự thay đổi theo
hướng chuyển sang đối tượng tư nhân, doanh nghiệp.
1.3.2. Phương pháp đánh giá thực trạng phát triển ngành.
Dựa vào thực tế phát triển của ngành trong từng năm và trong cả giai đoạn 5
năm, 10 năm khi đánh giá ngành phải thể hiện được các nội dung cơ bản sau:
Đánh giá về quy mô và mức độ phát triển ngành thông qua các chỉ tiêu phát
triển của ngành trong 5- 10 năm qua: Các chỉ tiêu cần xét đến như mật độ điện
thoại/ 100 dân; mật độ sử dụng thuê bao di động/ 100 dân; quy mô phát triển của


nghành (tổng doanh thu, tổng số máy, tổng số thuê bao…), phát triển mạng lưới của
nghành.
Đánh giá các yếu tố nguồn lực tác động đến phát triển của ngành như là nguồn
lực, vốn đầu tư, khoa học công nghệ… Đây là những yếu tố đóng vai trò then chốt
trong việc vạch ra các giải pháp và hoạch định các chính sách nhằm đạt được mục
tiêu phát triển trong tương lai.
Đánh giá môi trường phát triển ngành: Môi trường pháp lý, hệ thống luật pháp,
điều hành quản lý nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động thế nào. Điều quan trọng
là sau khi đánh giá thực trạng chúng ta có thể rút ra được các mặt mạnh, mạt yếu

kém của ngành trên tất cả các khía cạnh , rút ra được xu hướng phát triển của
ngành.
1.3.3. Các phương pháp thực hiện dự báo trong kế hoạch ngành viễn thông.
1.3.3.1. Một số đặc điểm đặc thù khi dự báo nghành viễn thông.
Trong ngành viễn thông chỉ tiêu đánh giá phát triển của ngành thể hiện ở
mật độ điện thoại/ 100 dân, chính vì thế đây là chỉ tiêu chủ chốt đánh giá mức độ
phổ cập cũng như tôc độ phát triển ngành.
Về dự báo điện thoại di động cần chú ý đến các yếu tố sau:
+ Giá thiết bị đầu cuối: đây là yếu tố quan trọng tác động đến quyết định của
khách hàng đặc biệt là khách hàng có thu nhập thấp.
+ Cạnh tranh: thị trường dịch vụ di động có sự cạnh tranh ở mức rất cao, dẫn
đến giá dịch vụ giảm nhanh.
+ Các dịch vụ giá trị gia tăng và ứng dụng: do phát triển công nghệ và cạnh
tranh các nhf cung cấp dịch vụ rất chú trọng cung cấp các ứng qua mạng.
+ Các yếu tố đột biến: bao gồm các yếu tố công nghệ, dịch vụ, kĩ thuật, kinh
tế- xã hội. Những yếu tố này có khả năng bùng phát nhu cầu.
1.3.3.2. Một số phương pháp thường dùng trong dự báo phát triển viễn thông.
1.3.3.2.1. Dự báo theo phương pháp hồi quy tương quan.
Phương pháp này dự báo mật độ điện thoại dựa trên mối quan hệ giữa
GDP/người và số máy điện thoại phát triển hàng năm.


Theo khuyến cáo của ITU và các nhà khoa học thì mối liên hệ tương quan giữa
mật độ điện thoại và GDP bình quân trên đầu người được biểu diễn dưới dạng hàm
số sau:
Y = ec(1)*xc(2)
Với x là thu nhập bình quân trên đầu người và Y là mật độ điện thoại trên/ 100
dân.
1.3.3.2.2. Dự báo theo phương pháp san bằng hàm số mũ có điều chỉnh xu
hướng.

Phương pháp dự báo dựa trên cơ sở số liệu của những năm trước để dự báo cho
các năm tiếp theo. Công thức:
Y(t+1) = a0(t) + a1(t)
Trong đó:
a0(t) = αy(t) + (1-α)[a0(t-1) + a1(t-1)]
a1(t) = [a0(t) - a0(t-1)] + (1-γ) a1(t-1)
α: Hệ số san bằng mũ.
γ : Hệ số san bằng xu hướng.
y(t): Số máy điện thoại của năm t.
Nhìn chung các hàm dự báo trên đây chỉ sử dụng trong một khoảng thời gian
dài và ổn định, nếu chúng ta áp dụng các phương pháp dự báo trên trong một vài
năm thì sẽ không cho kết quả chính sác cao. Do vậy chúng ta cũng có thể dự báo
theo phương pháp chuyên gia.
1.3.3.4. Phương pháp đánh giá các xu hướng phát triển của ngành.
Dựa vào đặc điểm ngành viễn thông ở trên có thể thấy xu hướng của ngành
là luôn có sự biến động vì đây là ngành có công nghệ thay dổi nhanh và mang tính
kết nối toàn cầu. Chính bởi lý do đó khi đánh giá xu hướng phát triển của của ngành
cần phải đánh giá được xu hướng công nghệ mới trên thế giới, xem công nghệ nào
khả thi có khả năng phổ biến trong tương lai, khả năng áp dụng ở Việt nam ra sao
trên cơ sở đó sẽ đánh giá xu hướng của ngành.


Xu hướng phát triển phải mang tính thực tiễn cao không xa vời thực tế sẽ
gâpy ảnh hưởng đến định hướng phát triển của ngành. Ngoài ra sự phát triển của
ngành phải mang tinh linh động đi trước đón đầu phù hợp với lộ trình của nước ta.
1.3.3.5.

Phương pháp xây dựng quan điểm, mục tiêu cho phát triển ngành.

Chính từ đánh giá thực trạng kết hợp với dự báo, các đánh giá xu hướng ở trên

lấy đó làm cơ sở để đưa ra các quan điểm, mục tiêu phát triển cho ngành.
Về quan điểm để thực hiện được phải dựa trên quan điểm phát triển của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, kết hợp với quan điểm đã có của chiến lược phát triển
ngành từ đó sẽ cân đối dựa trên đặc điểm, tình hình, các dự đoán tương lai của
ngành rồi sẽ đưa ra quan điểm phát triển của kế hoạch phát triển Viễn thông.
Quan điểm cạnh sự phát triển về lợi ích kinh tế phải đảm bảo sự phát triển các
dịch vụ công ích xóa bbỏ khoảng cách chênh lệch về mức độ tiếp súc với các phải
lựa chọn những mũi nhọn phát triển và vấn đề ưu tiên của nghành đó tập trung đi
thẳng vào công nghệ cao, bên dịch vụ của vùng sâu, vùng xa…
Quan điểm phát triển ngành phải thể hiện xu thế hội nhập trong cơ chế thị
trường, nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết, tham gia vào các công việc mang tính
chất hướng doanh nghiệp vào lợi ích cộng đồng, phát triển thị trường một cách lành
mạnh… còn lại thúc đẩy cạnh tranh để ngành có thể phát triển một cách bền vững
và thu hút mọi nguồn lực phát triển ngành.
Về xây dựng mục tiêu, chỉ tiêu ngành viễn thông phải dựa trên đánh giá về xu
hướng, các dự báo về phát triển của ngành dể từ đó xây dựng các mục tiêu một cách
hợp lý vừa đảm bảo tính thực tiễn, vừa không bị chậm so với nhịp độ phát triển.
Mục tiêu, chỉ tiêu phải thể hiện đáp ứng các nhu cầu xã hội như đáp ứng việc
sử dụng dịch vụ của các tầng lớp dân cư và phải thể hiện rõ ràng như: mật độ điện
thoại/ 100 dân. Mục tiêu của ngành được đưa ra dựa trên nhiều yếu tố như thực
trạng, xu hướng nhưng quan trọng nhất vẫn là dự báo về nhu cầu của ngành trong
tương lai, đây là những chỉ tiêu định lượng chủ yếu.


1.3.3.6.

Các yêu cầu cơ bản của giải pháp trong bản kế hoạch phát triển
ngành viễn thông.

Giải pháp bám sát vào thực trạng, các mục tiêu và chỉ tiêu trên nền tảng cân

đối nhu cầu khả năng, chính vì thế giải pháp là một hệ quả tất yếu cần phải có trong
bản kế hoạch phát triển.
Giải pháp thể hiện được việc tổ chức thực hiện kế hoạch một cách đồng bộ,
nhịp nhàng giữa các ban ngành, các tổ chức, các doanh nghiệp…
Giải pháp phải thể hiện cơ chế giám sát thực hiện kế hoạch một cách chặt chẽ.
Bên cạnh đó giải pháp còn phải có các hướng giải quyết các vấn đề về pháp lý, nâng
cao năng lực cạnh tranh.
Trên đây là các lý thuyết cơ bản về các kế hoạch phát triển nói chung và về
ngành Viễn thông nói riêng cũng như tác động hai chiều của kế hoạch đối với
ngành sau hội nhập và tác động hội nhập đến kế hoạch phát triển ngành, cũng như
sự khác biệt trong kế hoạch phát triển ngành Viễn thông so với ngành kết cấu hạ
tầng khác đó là sự đòi hỏi phải có sự điều chỉnh trong tình hình mới. Nắm rõ được
các yêu cầu đó mới có thể giúp cho chúng ta có sự điều chỉnh hợp lý kế hoạch phát
triển ngành Viễn thông trong bối cảnh hội nhập.


Chương II. Hiện trạng công tác lập kế hoạch phát triển ngành
viễn thông
2.1. Thực trạng kế hoạch viễn thông phát triển ngành giai đoạn 2006- 2010.
2.1.1. Thị trường viễn thông.
2.1.1.1.

Về phát triển dịch vụ.

Đánh giá sự phát triển dịch vụ Viễn thông thông qua một số chỉ tiêu như: Tổng doanh
thu Viễn thông; Mật độ điện thoại trên 100 dân; Thuê bao điện thoại cố định; Thuê bao
điện thoại di động; Thuê bao Internet; Mức tăng, tốc độ tăng của các chỉ tiêu trên.
a. Thứ nhất đánh giá về doanh thu Viễn thông
Tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm
Năm


Doanh thu Viễn thông (tỷ)

Tốc tộ tăng trưởng (%)

2006

20.187

-

2007

23.541

16,61

2008

28.125

19,4

2009

38.272

36,0

2010


42.865

11,9
Nguồn Bộ Bưu chính Viễn thông

Doanh thu Viễn thông thông liên tục tăng đều qua các năm, doanh thu Viễn
thông năm 2009 tăng 36,0 % so với năm 2006, năm 2010 tăng hơn năm 2006 là
11,9 % sở dĩ có được điều đó là do trong khoảng thời gian này có nhiều doanh
nghiệp tham gia vào thị trường Viễn thông làm số thuê bao điện thoai, thuê bao
Internet tăng lên và bổ sung vào thị trương những loại hình dịch vụ mới cho sản
lượng điện thoại của toàn ngành tăng lên. sự tăng lên của thuê bao điện thoại và
thuê bao Internet sẽ lần lượt được xem xét sau đây.
b. Thứ hai đánh giá về thuê bao điện thoại, Mật độ điện thoại.Trong thời gian
vừa qua thì tổng số thuê bao điện thoại trong cả nước liên tục tăng từ năm 1997 đến
năm 2009 và được dự báo đến 2010.


Tổng số thuê bao điện thoại và Mật độ điện thoại từ Năm1997– 2010
Năm

Tổng số thuê bao
(nghìn)

Số máy điện thoại bình
quân trên 100 dân (máy)

Mức tăng thêm thuê
bao hàng năm (nghìn)


1997

1.593.90

2,14

-

1998

2.031,60

2,69

437,70

1999

2.401,40

3,14

369,80

2000

3.279

4,20


877,60

2001

4300

5,45

1.021,00

2002

5.567,14

6,9

1.267,14

2003

7.330

9,0

1.762,86

2004

10.300


12,56

2.970

2005

18.470

22,38

8.170

2006

28.530

34,4

10.060

2007

35.970

42,8

7.440

2008


50.272

59,1

14.302

2009

61.530

71,9

11.258

2010

67.780

78,8

6.250
Nguồn: Bộ Bưu chính Viễn thông

Từ bảng cho thấy số máy điện thoại tăng lên hàng năm và máy trên 100 dân
cũng liên tục tăng từ năm 1997 đến nay liên tục tăng cao một phần do sự góp mặt
của mạng điện thoại di động Viettiel, MobiFone và mạng VinaPhone. Mạng điện
thoại di động MobiFone là mạng điện thoại di động đầu tiên của Việt Nam từ đây
bắt đầu bước vào thời kỳ kinh doanh của điện thoại di động.
Điều đó góp phần nâng cao tổng số thuê bao trong cả nước và mật độ điện
thoại trong khoảng thời gian này tăng lên với tốc độ rất nhanh. Năm 2000 mật độ

điện thoại đạt mức 4,2 máy/ 100 dân cho đến năm 2009 là 71,9/100 dân.
Mục


tiêu của Ngành trong thời kỳ kế hoạch này là tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát
triển cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia hiện đại, đồng bộ và ổn định lâu dài, phù hợp
với xu hướng phát triển của quốc tế, đáp ứng mọi như cầu về thông tin của xã hội
và an ninh, quốc phòng, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trên đây là đánh giá tổng quát về điện thoại và mật độ điện thoại, vậy cụ thể
về mức tăng của điện thoại cố định và di động đóng góp vào mức tăng chung của
điện thoại hàng năm như thế nào điều này sẽ được lý giải trong phần phân tích về
cơ cấu điện thoại cố định và di động trong khoảng thời gian 2006– 2009 sẽ được
trình bày sau đây.
Cơ cấu điện thoại cố đinh và di động trong thời kỳ 2006 – 2009

Năm

Tổng số thuê
bao điện thoại
(nghìn)

Thuê bao
ĐTCĐ
(nghìn)

Thuê bao
ĐTDĐ
(nghìn)


Cơ cấu
ĐTCĐ
(%)

Cơ cấu
ĐTDĐ
(%)

2006

28.530

5.705

22.825

20

80

2007

35.970

6.855

29.115

19,05


80,95

2008

50.272

8.548

41.724

17

83

2009

61.530

11.105

50.425

18

82

Nguồn: Bộ Bưu chính Viễn thông
Nhìn chung trong khoảng thời gian từ năm 2006 và 2009 tổng số thuê bao
điện thoại cố định và di động trong cả nước đều tăng, Cơ cấu điện thoại cố định
trong tổng số chiếm một tỷ lệ nhỏ và ổn định còn cơ cấu điện thoại di động tăng đây

là một điều hợp với xu thế phát triển chung.
Tuy cơ cấu điện thoại cố đinh trong tổng số nhưng hàng năm có giảm nhưng
nếu xét về góc độ tăng trưởng thì thuê bao điện thoại cố định vẫn tăng đều đặn bởi
vì trong khoảng thời gian 2006- 2010 có sự ra nhập thị trường kinh doanh điện
thoại cố định của hai doanh nghiệp đó là Viettel EVN và SPT ngoài ra còn một số
công ty khác nữa… Tuy nhiên việc cạnh tranh trong thị trường điện thoại cố định
không gay gắt như trong thị trường điện thoại di động.


×