Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.53 MB, 134 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Tú Anh

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
KỸ NĂNG TỰ BẢO VỆ CHO TRẺ
MẪU GIÁO 5-6 TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Tú Anh

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
KỸ NĂNG TỰ BẢO VỆ CHO TRẺ
MẪU GIÁO 5-6 TUỔI

Chuyên ngành : Giáo dục học (Mầm non)
Mã số

: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ KIM ANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác.
HỌC VIÊN CAO HỌC
PHAN TÚ ANH

1


LỜI CÁM ƠN

Để có được kết quả này, tôi xin chân thành cám ơn sự giảng dạy tận tình, những kiến
thức quý báu của quý Thầy Cô trong Chương trình Đào tạo Sau Đại học Chuyên ngành Giáo
dục Mầm non. Tôi cũng xin cám ơn quý Thầy Cô khoa Giáo dục Mầm non và quý Thầy Cô
thuộc Phòng Sau Đại học trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM đã hỗ trợ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt khóa học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến Sĩ Nguyễn Thị Kim Anh đã tận
tâm hướng dẫn, chỉ bảo, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn sự hỗ trợ tối đa của Ban Giám Hiệu và Giáo viên các
trường Mầm non. Đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Giám Hiệu và tập thể Giáo viên
khối lớp Lá trường Mầm non 6, Quận 3 Tp.HCM.

Cám ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp xa gần đã luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ để
tôi đạt được những kết quả tốt nhất.
Xin chân thành cám ơn!
HỌC VIÊN CAO HỌC
PHAN TÚ ANH

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CÁM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 6
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 7
4. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................................... 8
6. Giới hạn đề tài ................................................................................................................ 8
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8
8. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 10

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ
BẢO VỆ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI .......................................................... 11
1.1. Lịch sử nghiên cứu về biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 56 tuổi .................................................................................................................................. 11
1.1.1. Một số nghiên cứu về biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi trên thế giới ............................................................................................................. 11
1.1.2. Một số nghiên cứu về biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6

tuổi ở Việt Nam .............................................................................................................. 16
1.2. Lý luận về biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ...... 19
1.2.1. Khái niệm kỹ năng, kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ ......................................... 19
1.2.2. Một số đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi liên quan đến việc giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ cho trẻ .................................................................................................... 27
1.2.3. Một số đặc điểm về kỹ năng tự bảo vệ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi........................ 30

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
KỸ NĂNG TỰ BẢO VỆ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI Ở MỘT SỐ
TRƯỜNG MẦM NON TẠI TPHCM ...................................................................... 43
2.1. Tổ chức nghiên cứu ................................................................................................... 43
2.1.1. Đôi nét về địa bàn nghiên cứu .............................................................................. 43
2.1.2. Khái quát về quá trình tổ chức nghiên cứu thực trạng ......................................... 45
2.2. Kết quả khảo sát thực trạng sử dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở một số trường mầm non, Tp.HCM .................................. 46
3


2.2.1. Thực trạng nhận thức của BGH, GVMN về kỹ năng tự bảo vệ với trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi ở một số trường mầm non, Tp.HCM ................................................................ 46
2.2.2. Thực trạng thực hiện các nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi ở một số trường Mầm non, Tp.HCM ................................................................ 48
2.2.3. Thực trạng sử dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi ở một số trường Mầm non, Tp.HCM ................................................................ 51
2.2.4. Thực trạng về hình thức giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi .. 62
2.2.5. Những khó khăn trong quá trình giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi của BGH và GV các trường Mầm non, Tp.HCM ................................................... 63

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
KỸ NĂNG TỰ BẢO VỆ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI ................................ 67

3.1. Đề xuất biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ........... 67
3.1.1. Cơ sở khoa học đề xuất các biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi .................................................................................................................... 67
3.1.2. Nguyên tắc xây dựng các biện pháp ..................................................................... 67
3.1.3. Đề xuất các biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ..... 68
3.2. Khảo sát tính hiệu quả của các biện pháp đề xuất trên BGH, giáo viên mầm non
............................................................................................................................................ 81
3.2.1. Quy ước tính hiệu quả của các biện pháp............................................................. 81
3.2.2. Kết quả khảo sát tính hiệu quả của các biện pháp ................................................ 82
3.3. Tổ chức thử nghiệm một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi ....................................................................................................................... 86
3.3.1. Mục đích thử nghiệm ........................................................................................... 86
3.3.2. Nội dung thử nghiệm ............................................................................................ 86
3.3.3. Nhiệm vụ thử nghiệm ........................................................................................... 86
3.3.4. Tổ chức thử nghiệm.............................................................................................. 86
3.3.5. Kết quả thử nghiệm .............................................................................................. 89

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 94
1. Kết luận ......................................................................................................................... 94
2. Kiến nghị ....................................................................................................................... 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98
DANH MỤC PHỤ LỤC .......................................................................................... 102

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BGH


:

Ban giám hiệu

GV

:

Giáo viên

GVMN

:

Giáo viên mầm non

ND

:

Nội dung

Tp.HCM

:

Thành phố Hồ Chí Minh

5



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Học để cùng chung sống là một trong những vấn đề then chốt hiện nay của giáo dục.
Xu hướng giáo dục thế giới đang quan tâm đến vấn đề giáo dục và trang bị cho thế hệ trẻ
các kỹ năng sống, các kỹ năng giao tiếp, ứng xử để giải quyết các vấn đề quan hệ xã hội, để
tự bảo vệ mình, đồng thời hướng đến môi trường giáo dục sự hòa hợp, hợp tác thân thiện
cho trẻ em trên cơ sở các giá trị sống.
Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEP) – là tổ chức có nhiều công trình nghiên cứu
sâu về kỹ năng sống dưới góc độ tồn tại và phát triển của cá nhân đã phân loại kỹ năng sống
thành ba nhóm cơ bản, và kỹ năng tự bảo vệ là một trong những kỹ năng thuộc nhóm một –
gồm các kỹ năng tự nhận thức và sống với chính mình. Vì vậy, nếu xét dưới góc độ tồn tại
và phát triển của cá nhân thì kỹ năng tự bảo vệ là kỹ năng rất cần thiết và quan trọng.
Theo Maslow, về căn bản, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính: nhu
cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs). Ông nghiên cứu cấu trúc của
Tháp nhu cầu có 5 tầng: Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý"
(physiological) - thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi thì Tầng
thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm,
gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo. Qua đó cho thấy nhu cầu tự vệ và giữ an toàn
cũng là một trong năm nhu cầu cơ bản nhất của tất cả mọi người đặc biệt là trẻ em [56].
Trong quá trình phát triển nhân cách, nếu trẻ sớm hình thành và tôn vinh các giá trị
đích thực của mình thì các em sẽ có nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng
thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống.
Mục tiêu của giáo dục Mầm non trong Chương trình Giáo dục mầm non ban hành kèm theo
Thông tư số: 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo (GD&ĐT) cũng đã xác định: “Giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một;
hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm lí, năng lực và phẩm chất mang tính
nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa

những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học
suốt đời”.
6


Đặc biệt Chương trình Giáo dục mầm non 2009 đã đưa ra nội dung giáo dục an toàn
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Năm 2010 Bộ Giáo dục – Đào tạo Việt Nam đã ban hành Bộ
Chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi. Trong đó, Chuẩn 6 đã đưa ra chỉ số đánh giá “Trẻ có hiểu
biết và thực hành an toàn cá nhân”.
Việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự bảo vệ nói riêng đòi hỏi một quá
trình rèn luyện, giáo dục lâu dài. Hơn nữa, lứa tuổi mầm non- đặc biệt là giai đoạn cuối tuổi
mẫu giáo (5-6 tuổi) là giai đoạn học hỏi, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển
nhân cách và chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa trường phổ thông, do đó cần sớm giáo dục các
kỹ năng sống đặc biệt là kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi
ứng xử phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non góp phần giúp trẻ tự chăm sóc và bảo vệ bản thân
tránh khỏi những nguy hiểm. Trẻ có thể hòa nhập nhanh với cuộc sống xung quanh, phát
triển các mối quan hệ với mọi người, với thiên nhiên từ đó học hỏi và làm giàu thêm vốn
kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng của bản thân. Khi được trang bị kỹ năng tự bảo vệ phù hợp
đứa trẻ được đảm bảo về nhu cầu an toàn, ổn định về mặt tâm lý có cơ hội để phát triển
nhân cách đầy đủ và đúng hướng.
Nhưng thực tế hiện nay tình trạng trẻ em thụ động, không biết ứng phó trong những
hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách bảo vệ bản thân trước các tình huống nguy hiểm, tìm
kiếm sự giúp đỡ... để lại những hậu quả thật thương tâm và đáng tiếc ngày càng nhiều trong
xã hội. Thực tế này khiến cho xã hội, các nhà tâm lý giáo dục, đặc biệt là bậc học giáo dục
mầm non phải suy nghĩ.
Bên cạnh đó, thực trạng giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở các
trường mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) chưa được khái quát thành bức
tranh toàn cảnh và chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống các biện pháp giáo dục
kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Xuất phát từ những lý do trên mà đề tài “Biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho

trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ” được xác lập.

2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng sử dụng biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 56 tuổi, từ đó đề xuất thử nghiệm một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
7


3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.

4. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu có những biện pháp giáo dục hiệu quả thì sẽ nâng cao kỹ năng tự bảo vệ của trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Xác định thực trạng sử dụng biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi ở một số trường mầm non tại TpHCM.
5.3. Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi.

6. Giới hạn đề tài
• Nội dung:
Đề tài nghiên cứu một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ theo nội dung Chương
trình giáo dục mầm non 2009, Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi.

• Địa bàn:
+ Khảo sát thực trạng sử dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi ở 10 trường mầm non thuộc các quận nội, ngoại thành Tp.HCM
Ban Giám Hiệu : 10 người
Giáo viên dạy lớp 5-6 tuổi: 70 người
+Thử nghiệm ở trường mầm non 6, Quận 3-Tp.HCM
Nhóm thử nghiệm: 25 trẻ
Nhóm đối chứng: 25 trẻ

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc phân tích, tổng hợp các nguồn tài
liệu khác nhau có liên quan đến đề tài: sách, báo, luận án, tạp chí, trang web…
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8


7.2.1. Phương pháp điều tra giáo dục
- Điều tra bằng Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho BGH, GVMN (phụ lục 5). Phiếu
trưng cầu gồm 8 câu hỏi, trong đó có 5 câu hỏi đóng và 3 câu hỏi mở, nhằm mục đích tìm
hiểu nhận thức; thực trạng biện pháp, nội dung, hình thức giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi; những khó khăn trong quá trình giáo dục kỹ năng tự bảo vệ; đề xuất của
BGH và GVMN. Đặc biệt với câu hỏi số 6 tập trung vào việc khảo sát mức độ sử dụng các
biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ hiện nay của GVMN ở các trường MN với 5
mức độ: không bao giờ, hiếm khi, thỉnh thoảng, thường xuyên, rất thường xuyên.
- Phỏng vấn sâu một số GV dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi, BGH ở một số trường mầm
non tại Tp.HCM bằng hệ thống gồm 6 câu hỏi (phụ lục 6) nhằm thu thập những thông tin
chính xác từ BGH và GVMN. Trong quá trình phỏng vấn, để thu thập thông tin có độ tin
cậy cao, chúng tôi tạo bầu không khí trò chuyện thân thiện, cởi mở. Nhờ vậy thu thập được
nhiều thông tin quý báu, có giá trị về thực trạng biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ, đặc
biệt những thuận lợi và khó khăn khi triển khai các biện pháp giáo dục kỹ năng này trên

thực tế.
- Điều tra tính hiệu quả của các biện pháp đề xuất thông qua phiếu khảo sát (phụ lục 7)
cho 10 người BGH và 70 GVMN. Phiếu khảo sát gồm 2 nhóm câu hỏi về tính cần thiết và
tính khả thi của các biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ do đề tài đề xuất.
7.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát một số hoạt động của cô và trẻ ở trường mầm non: giờ học, hoạt động vui
chơi trong lớp, ngoài trời để tìm hiểu rõ hơn thực trạng biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo
vệ cho trẻ.
7.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động trong kế hoạch năm, tháng, tuần
của GVMN ở các trường mầm non thuộc địa bàn khảo sát.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thử nghiệm một số biện pháp đã đề xuất trên trẻ nhằm hỗ trợ việc kiểm nghiệm tính
hiệu quả của các biện pháp đề xuất.
Chọn 2 nhóm: nhóm thử nghiệm (25 trẻ) và nhóm đối chứng (25 trẻ) của trường mầm
non 6, Quận 3- Tp.HCM.
7.3. Phương pháp thống kê toán học

9


Sử dụng phần mềm SPSS (Statistical Package for the Social Sciences) 13.0 để xử lý số
liệu nghiên cứu.
Sử dụng kiểm nghiệm T-test cho hai mẫu độc lập để so sánh sự khác biệt ý nghĩa giữa
tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
Sử dụng kiểm nghiệm chi bình phương để kiểm nghiệm sự khác biệt ý nghĩa giữa thời
gian trước và sau thử nghiệm một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ trong
nhóm thực nghiệm.
Trong những phương pháp trên, phương pháp nghiên cứu tài liệu, điều tra giáo dục là
phương pháp nghiên cứu chính, các phương pháp còn lại là phương pháp hỗ trợ.


8. Đóng góp của luận văn
- Khái quát được thực trạng sử dụng biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi tại một số trường mầm non ở Tp.HCM.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.

10


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ
NĂNG TỰ BẢO VỆ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI
1.1. Lịch sử nghiên cứu về biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi
1.1.1. Một số nghiên cứu về biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trên thế giới
1.1.1.1. Các chương trình giáo dục kỹ năng tự bảo vệ của các nước trên thế giới
Các nghiên cứu về kỹ năng tự bảo vệ nói chung và kỹ năng tự bảo vệ của trẻ nói riêng
đã được nhiều tổ chức cũng như cá nhân trên thế giới thực hiện như Qũy Nhi đồng Liên
Hiệp Quốc (UNICEF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn
hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)…. Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em khẳng
định: “Vì chưa đạt đến sự trưởng thành về mặt thể chất và trí tuệ, trẻ em cần phải được bảo
vệ và chăm sóc đặc biệt, trước cũng như sau chào đời. Các bậc cha mẹ là người chịu trách
nhiệm chính trong việc nuôi nấng và giáo dục con cái của mình”. “Không ai được phép làm
tổn hại đến trẻ em. Nghĩa vụ của chúng ta là tôn trọng và bảo vệ các em. Không ai được
ngược đãi trẻ em trai và gái về mặt thể chất, bằng ngôn ngữ hoặc tình cảm, kể cả cha mẹ,
thầy cô giáo hay những người chăm sóc trẻ” [13]. “Các bậc cha mẹ có nghĩa vụ bảo vệ con
cái của mình tránh mọi nguy cơ xâm hại tình dục dưới mọi hình thức khác nhau. Không một
ai, kể cả cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, anh em, họ hàng, thầy cô, hàng xóm hay những người xa
lạ, có thể lạm dụng và xâm hại trẻ em về mặt tình dục. Lạm dụng tình dục trẻ em là một tội
ác. Nếu cha mẹ hay những người có trách nhiệm chăm sóc các em nhận thấy những điều đó
mà không báo cho các nhà chức trách thì bị con là kẻ đồng phạm” [13].

Trong dự án về “Trẻ em và môi trường gia đình” (1990-1995) của UNESCO phối hợp
cùng với UNICEF và WHO tập trung công sức vào những lĩnh vực có ý nghĩa sống còn như
dinh dưỡng, kích thích trẻ phát triển toàn diện, cách nuôi dạy trẻ an toàn trong hoàn cảnh
loạn lạc, về trẻ khuyết tật, về giáo dục tiền học đường bằng cách huy động mọi lực lượng và
tài nguyên cả hiện đại lẫn cổ truyền để cải thiện những năng lực và tiện nghi cho trẻ.
UNESCO tìm cách góp phần mình một cách lâu dài và có hiệu quả để giúp trẻ phát triển và
tự tin vào đời.
11


Tại nhiều nước phương Tây, thanh thiếu niên đã được học những kỹ năng về những
tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối diện và đương đầu với những khó khăn, cách
vượt qua những khó khăn đó cũng như cách tránh những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực giữa
người và người. Đó là những kỹ năng quan trọng để con người làm việc hiệu quả và có thể
thành công trong cuộc sống.
Ngoài ra, ở nước Cộng hoà Liên bang Nga đã có một số chương trình giáo dục kỹ
năng xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân trước
những tình huống khó khăn trong cuộc sống dành cho trẻ em và phụ huynh. Luật bảo vệ an
toàn cho trẻ em được ban hành rộng rãi trên cả nước Cộng hoà Liên bang Nga. Các địa
phương cũng tuyên bố cam kết bảo vệ an toàn cho trẻ em dưới mọi hình thức [45].
Ở các nước trong khu vực Châu Á nói chung và những nước trong khu vực Đông Nam
Á, gần với Việt Nam thì việc nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm giáo dục các kỹ năng sống
cơ bản, trong đó có kỹ năng an toàn và tự bảo vệ cũng rất được quan tâm.
Tại Nhật một quốc gia thường xuyên xảy ra động đất và các thảm họa thiên nhiên, nên
việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ được tiến hành từ bậc học mầm non với những bài
học tình huống mô phỏng như thực tế giúp trẻ biết cách tự bảo vệ mình. Tại Hàn Quốc, học
sinh tiểu học được học cách đối phó, thích ứng với các tai nạn như cháy, động đất, thiên tai.
Như vậy, một số quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống,
đặc biệt kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ em từ lứa tuổi mầm non. Những chương trình này nhằm
hình thành cho trẻ em những kỹ năng cơ bản giúp chúng thích ứng và thành công trong cuộc

sống tương lai.
1.1.1.2. Những tác phẩm về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ
Bên cạnh các chương trình giáo dục kỹ năng tự bảo vệ, cũng có nhiều tác phẩm hữu
ích hỗ trợ sự hoàn thiện kỹ năng này cho người học. Chẳng hạn: Tuyển tập “Những câu
chuyện vàng về khả năng tự bảo vệ mình” của tác giả Bạch Băng cùng các đồng tác giả giúp
trẻ nhận thức được tầm quan trọng của việc tự bảo vệ bản thân thông qua các câu chuyện
diễn ra trong chính cuộc sống của trẻ nhỏ [3]. Hay trong tác phẩm: “45 cách dạy trẻ tự bảo
vệ mình” của tác giả Yoon Yeo Hong được nhà xuất bản Thông tin và truyền thông dịch và
xuất bản năm 2011 đã trình bày đan xen giữa lý thuyết và thực hành, giúp trẻ nhận biết các
mối nguy hiểm, nâng cao cảnh giác và bảo vệ an toàn cho chính mình cũng như hướng dẫn
trẻ cách đối phó hoặc thoát khỏi nguy hiểm tạm thời. Những tình huống trong sách rất gần
12


gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ. Ngôn từ của sách dễ hiểu, cụ thể, không giáo điều,
nhiều hình ảnh minh họa, rất phù hợp với trẻ em [13].
Trong cuốn sách: “Protecting the Gift – Keeping Children and Teenagers Safe (and
Parents Sane)” (Giúp trẻ em và thiếu niên an toàn) của tác giả Gavin De Becker thuộc bản
quyền của nhà xuất bản Dell, New York. Cuốn sách chia sẻ cái nhìn sâu sắc, những giải
pháp thiết thực giúp phụ huynh hướng dẫn trẻ biết tự bảo vệ mình trước những tình huống
nguy hiểm: Cha mẹ sẽ làm gì nếu con mình bị lạc nơi công cộng; làm thế nào để nhận diện
một kẻ lạm dụng tình dục; làm thế nào để nhận biết con của mình bị lạm dụng tình dục; làm
thế nào để cải thiện sự an toàn cho trẻ... [53].
Trong cuốn sách: “Raising the kids who can protect them self” (Nuôi dạy những đứa
trẻ có thể tự bảo vệ mình) của tác giả Debbie và Mike Gardnert thuộc bản quyền của công ty
McGraw Hill, Mỹ. Hai tác giả đã chia sẻ cho chúng ta phương pháp dạy trẻ xác định và
thoát khỏi những tình huống nguy hiểm; cách nhận dạng những đặc điểm vị trí thoát hiểm
cụ thể từ sân chơi đến những nơi mua sắm; và trẻ làm thế nào có được những quyết định
thông minh về sự bảo vệ an toàn cho bản thân khi không có người lớn bên cạnh [52].
1.1.1.3. Một số công trình nghiên cứu khoa học về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ:

Từ những thập niên 80 của thế kỷ XX những nghiên cứu về giáo dục kỹ năng tự bảo
vệ bắt đầu được quan tâm. Người đầu tiên nghiên cứu vấn đề này là Giáo sư Tiến sĩ Gilbert
J. Botvin là Giáo sư về sức khỏe cộng đồng, Chuyên gia cao cấp về Tâm lý học, Trưởng
khoa Phát triển kỹ năng sống thuộc trường Đại học Cornell, Mỹ. Từ năm 1979, ông và cộng
sự đã lập nên một chương trình giáo dục kỹ năng sống cho giới trẻ từ 17-19 tuổi. Lúc đó, kỹ
năng tự bảo vệ cho người học cũng được quan tâm. Một chương trình được lập ra nhằm
giúp người học có khả năng từ chối những lời rủ rê sử dụng chất gây nghiện, nâng cao sự tự
khẳng định bản thân, kỹ năng ra quyết định và tư duy phê phán [11].
Năm 2002, nhóm tác giả người Mỹ: Ellen J.Hahn, Urelody Power Noland, MaryKay
Rayens, Dawn Myers Christie đã công bố kết quả nghiên cứu của mình về kỹ năng sống và
chỉ ra hiệu quả của giáo dục và độ tin cậy của việc thực hiện những chương trình giáo dục
kỹ năng sống. Tuy nhiên, chương trình mới chỉ dừng lại ở góc độ giáo dục và đánh giá
chương trình giáo dục kỹ năng sống chứ chưa có những đánh giá về mức độ của từng kỹ
năng cụ thể.

13


Năm 2003, tác giả Elizabeth Dunn và J.Gordo Arbuckle của trường Đại học Missouri
thuộc Colombia đã công bố kết quả nghiên cứu về kỹ năng sống của trẻ có cha mẹ phạm tội
và chỉ ra những thiếu hụt về kỹ năng tự bảo vệ của chúng trước các tình huống nguy hiểm.
Năm 2005, tác giả Barry L.Boyd trong đề tài: “Developing life skills in youth” (Phát
triển kỹ năng sống trong giới trẻ) đã nghiên cứu các kỹ năng sống cần thiết cho thanh thiếu
niên hiện nay là: kỹ năng tự ứng phó, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng tìm kiếm sự giúp đỡ…
Như vậy, đề tài cũng đã đề ra những biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ thông qua kỹ
năng tự ứng phó và kỹ năng tìm kiếm sự giúp đỡ trong giới trẻ.
Trong đề tài: “Teaching personal safety skills to young children” (Phương pháp dạy kỹ
năng an toàn cho trẻ nhỏ) của tác giả Sandy K. Wurtele và Julie Sarno Owens thuộc khoa
Tâm lý, Đại học Colorado tại Colorado Springs, CO, Mỹ. Công trình đã nghiên cứu trên 406
trẻ mẫu giáo nhằm xác định mức độ kỹ năng an toàn cá nhân, phòng chống lạm dụng tình

dục ở trẻ từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao kỹ năng an toàn cho trẻ [19].
Vượt qua biên giới các nước phương Tây, chúng ta có thể điểm qua một số công trình
nghiên cứu về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo ở Cộng hoà Liên bang Nga. Các
tác giả Н. Авдеева, О. Князева, Р. Стеркина đã nghiên cứu đề tài khoa học “Cơ sở lý luận
về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo lớn” với lập luận rằng, việc giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo là rất quan trọng đến sự phát triển của trẻ trong xã hội,
nhưng người lớn cần quan tâm, hỗ trợ, giáo dục trẻ đạt được những kỹ năng này trong điều
kiện xã hội hiện đại.
Đề tài “Cơ sở lý luận về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo lớn” được
nghiên cứu trên cơ sở đề án Chuẩn quốc gia về Giáo dục mầm non của Cộng hoà Liên bang
Nga năm 2010. Dựa trên những thành tựu giáo dục mầm non truyền thống của Nga, đề tài
nghiên cứu đưa thêm vào những nội dung mới phản ánh những thay đổi trong đời sống xã
hội hiện đại (ví dụ: mục «Trẻ em và những người xung quanh»). Trong đề tài đã thể hiện
những giờ học mẫu và những biện pháp tổ chức các giờ học nhằm hỗ trợ trẻ em lĩnh hội
kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ cá nhân phù hợp với cách tiếp cận tâm lý- giáo dục học hiện
đại [46].
Bằng việc xác định các nội dung cơ bản và định hướng phát triển của trẻ em, các tác
giả của chương trình đã nghiên cứu nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo lớn ở tất cả các cơ sở giáo dục mầm non sao cho phù hợp với đặc
14


điểm cá nhân và độ tuổi của trẻ em, sự khác biệt văn hóa xã hội, bản sắc và điều kiện sống
của gia đình, cũng như tình hình kinh tế - xã hội của từng địa phương. Phương châm giáo
dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo lớn dựa trên những vốn kinh nghiệm sống, sở thích
và đặc điểm hành vi của từng trẻ.
Phần cuối cùng của đề tài nghiên cứu bao gồm các nguyên tắc cơ bản giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ cho trẻ, những kiến nghị đối với các giảng viên, cán bộ quản lý và giáo viên mầm
non, cũng như các đề xuất hợp tác với phụ huynh học sinh.
Các tác giả phân loại chương trình thành sáu chủ đề chính:

- Trẻ em và những người xung quanh.
- Trẻ em và thiên nhiên.
- Đứa trẻ ở nhà.
- Sức khỏe của trẻ em.
- Những cảm xúc tích cực ở trẻ.
- Trẻ em trên các đường phố của thành phố.

Mỗi chủ đề bao gồm nhiều đề tài nhỏ. Ví dụ: trong chủ đề "Đứa trẻ ở nhà", bao gồm
các đề tài sau đây:
- Nhận diện người lạ, người quen;
- Tình huống nguy hiểm trong cuộc sống hàng ngày...

Sau khi phân tích một số chủ đề, các tác giả đã đưa những kinh nghiệm thực tiễn làm
nền tảng cho Chương trình của Н.Н. Авдеевой, О.Л. Князевой, Р.Б. Стеркиной "Cơ sở lý
luận về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ của trẻ mầm non”. Kết quả của đề tài nghiên cứu được
xem như một tài liệu hỗ trợ giáo viên mầm non trong giáo dục trẻ em thể hiện nhu cầu và
cách xử lý trong các tình huống nguy hiểm [46].
Vào năm 2012, đề tài “Giáo dục các kỹ năng an toàn cho trẻ mẫu giáo” của các tác giả
là giảng viên trường Đại học Sư phạm Ulianov đã đưa ra những nhận định: báo cáo đáng sợ
của tội phạm đối với trẻ em đã chứng minh về sự thụ động của trẻ khi đối mặt với sự nguy
hiểm. Nhiệm vụ chính của giáo viên và phụ huynh là lựa chọn các hình thức, nội dung, biện
pháp giáo dục phù hợp với sự phát triển của trẻ. Qua đó, dạy cho trẻ cách phòng tránh
những mối đe doạ, sự nguy hiểm trong thực tế, nếu gặp phải thì trẻ có thể biết cách xử lý và
tự bảo vệ mình.
Biện pháp trò chơi được lựa chọn đầu tiên để tiến hành giáo dục hình thành các kỹ
năng an toàn của trẻ. An toàn cho trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo có thể là một chủ đề chơi
15


trong các trường mầm non ở Cộng hòa Liên Bang Nga. Trong trò chơi, trẻ em sẽ được học

những mẫu hành vi tự tin để xử lý tình huống nguy hiểm. Trước khi chơi, trẻ em cần phải
nói về tình huống nguy hiểm với những đứa trẻ khác, phân tích lựa chọn hành vi đúng để
không dẫn đến một hậu quả đáng tiếc. Do đó, việc giáo dục các kỹ năng an toàn cho trẻ mẫu
giáo là rất cần thiết nhằm giúp trẻ ứng phó với những tình huống xảy ra trong thực tế cuộc
sống hôm nay và trong tương lai [50].
Nhìn chung, phần lớn các công trình nghiên cứu trên thế giới về giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ cho trẻ mầm non còn hạn chế cả về số lượng, nội dung nghiên cứu chủ yếu về giáo
dục kỹ năng sống dành cho trẻ tiểu học và vị thành niên.
1.1.2. Một số nghiên cứu về biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi ở Việt Nam
1.1.2.1. Các chương trình giáo dục kỹ năng tự bảo vệ tại Việt Nam
Những năm gần đây, kỹ năng tự bảo vệ là một trong những thuật ngữ được nhắc đến
nhiều trong các câu chuyện giáo dục. Với ý nghĩa quan trọng và cần thiết cho mọi người đặc
biệt là trẻ em, nó trở thành vấn đề được cả ngành giáo dục và xã hội quan tâm.
Nhiều chương trình, dự án giáo dục kỹ năng tự bảo vệ do các Tổ chức phi chính phủ
phối hợp với Chính phủ Việt Nam đã được thực hiện. Dự án: “Giáo dục phòng tránh tai nạn
bom mìn cho học sinh tiểu học” được tiến hành với sự phối hợp giữa Sở giáo dục và đào tạo
tỉnh Quảng Trị với Tổ chức Cứu trợ - Phát triển Mỹ Cathilic Relief Services. Dự án giúp các
trường tiểu học trong khu vực tiếp nhận kỹ năng để thực hành và tuyên truyền các thông
điệp giáo dục phòng tránh bom mìn và đối xử thân ái với người khuyết tật đến cộng đồng
[9].
Chương trình “Phòng tránh tai nạn thương tích” do Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em
phối hợp với Tổ chức UNICEF triển khai. Chương trình nhằm giúp giảm thiểu tỉ lệ trẻ em bị
chết và tàn tật do tai nạn thương tích ở Việt Nam.
Chương trình “Bạn hữu trẻ em” được thực hiện trong khuôn khổ Chương trình hợp tác
quốc gia giữa Chính phủ Việt Nam và UNICEF giai đoạn 2010-2016. Đây là chương trình
kết hợp các chương trình giáo dục, phát triển và sống còn của trẻ em, bảo vệ trẻ em và chính
sách xã hội của UNICEF hỗ trợ cung cấp các dịch vụ lồng ghép cho trẻ em ở Đồng Tháp,
Kon Tum, Ninh Thuận, Điện Biên, An Giang và Thành phố Hồ Chí Minh, giáo dục kỹ năng
phòng chống xâm hại trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ, “Kỹ năng từ chối –

16


nói không” với những cám dỗ của cuộc sống; trang bị cho trẻ những kỹ năng tự bảo vệ mình
trước những nguy cơ như ma túy, lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động, biết làm chủ
chính mình, kỹ năng nhận thức và quản lý cảm xúc, kỹ năng điều hành sinh hoạt nhóm…
[44].
Bộ Giáo dục đã phối hợp với Ngành Công An, Ủy ban An toàn giao thông quốc gia
đưa ra “Chương trình giảng dạy thí điểm và tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu luật an toàn giao
thông” cho trẻ em các trường từ mẫu giáo đến phổ thông trung học để trang bị những kiến
thức ban đầu về luật giao thông. Tuy nhiên, chương trình này mới chủ yếu đưa ra các thông
điệp về an toàn mà chưa chú trọng sử dụng các phương pháp giáo dục làm thay đổi hành vi
người học [9].
Nhìn chung, các chương trình trên đã giúp trẻ em, thanh thiếu niên nhận thức kỹ năng
tự bảo vệ là cần thiết đối với bản thân và bước đầu giáo dục hình thành kỹ năng này cho bản
thân. Đồng thời nâng cao nhận thức của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc thực hiện
quyền trẻ em. Tuy nhiên, các chương trình này phạm vi triển khai còn cục bộ, thời gian thực
hiện ngắn, không thường xuyên vì vậy đối tượng thụ hưởng lợi ích của chương trình còn
hạn chế. Hơn nữa, khi các dự án kết thúc thì chưa có các biện pháp để duy trì các nội dung
của dự án cũng như chưa có những khảo sát đánh giá sự kết nối các nội dung của dự án,
chương trình. Mặt khác, đối tượng chủ yếu của các chương trình, dự án là học sinh tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông và chưa thật sự có nhiều chương trình, dự án dành cho
trẻ mẫu giáo.
1.1.2.2. Những tác phẩm về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ
Tác giả Huyền Linh trong cuốn sách: “Cẩm nang tự vệ an toàn trong nhà” và “Cẩm
nang tự vệ an toàn ra ngoài” của nhà xuất bản Thanh niên, năm 2011 đã hướng dẫn trẻ rất
chi tiết cách xử lý các tình huống thiếu an toàn với bản thân. Với những tình huống rất đa
dạng và gần gũi với cuộc sống của trẻ nhỏ [22], [23]. Trong tác phẩm: “Cẩm nang tự vệ cho
con bạn” và “Cẩm nang an toàn cho con bạn” của tác giả Lâm Trinh do nhà xuất bản Văn
Hóa Thông Tin phát hành năm 2011 đã đưa ra những cách giúp trẻ biết ứng phó trong

những tình huống nguy hiểm, những hoàn cảnh thiếu an toàn [37], [38].
Từ năm học 2011- 2012 khi Bộ giáo dục và Đào tạo chính thức đưa nội dung giáo dục
kỹ năng sống vào chương trình chính khóa cho học sinh tiểu học thì cũng đã có nhiều tài
liệu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học được biên soạn chẳng hạn tài liệu: “Hoạt
17


động thực tiễn tìm hiểu kỹ năng sống dành cho học sinh” của nhóm tác giả Trần Thời Kiến
(Chủ biên), Đường Lệ, Đường Phương của nhà xuất bản Giáo dục đã trình bày những cách
xác lập chủ đề hoạt động, lập kế hoạch hoạt động, kế hoạch hoạt động cụ thể nhằm hình
thành kỹ năng sống phù hợp với học sinh tiểu học, trong đó có kỹ năng an toàn, giúp trẻ học
được cách tự bảo vệ và tự cứu lấy mình.
Tác giả Vũ Thị Ngọc Minh và Nguyễn Thị Nga trong cuốn sách: “Giúp bé có kỹ năng
nhận biết và phòng tránh một số nguy cơ không an toàn” của nhà xuất bản Dân trí, năm
2012 cũng đã đưa ra 9 tình huống phổ biến trong cuộc sống mà trẻ có thể gặp nguy hiểm
cùng với những biện pháp giúp phụ huynh và giáo viên hướng dẫn, giáo dục cho trẻ [24].
Trong bộ sách: “Tủ sách trường học an toàn” của nhóm tác giả Nam Hồng, Dương
Phong, Ngọc Lan của nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Bộ sách gồm 4 cuốn: Ngôi nhà an
toàn cho trẻ, An toàn cho trẻ trên đường phố và nơi thiên nhiên, An toàn cho trẻ trong cộng
đồng xã hội, Sơ cấp cứu các loại tổn thương do tai nạn ở trẻ em. Bộ sách giúp trẻ đối mặt có
hiệu quả trước những nguy hiểm có thể xảy ra khi tự mình tiếp xúc với môi trường thiên
nhiên và bên ngoài xã hội cũng như giúp trẻ biết rõ nguyên nhân của các tai nạn có thể xảy
ra đối với trẻ ở nơi công cộng.
1.1.2.3. Một số công trình nghiên cứu khoa học về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ ở Việt
Nam
Hiện nay, tại Việt Nam những công trình nghiên cứu khoa học độc lập về kỹ năng tự
bảo vệ và giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ còn hạn chế về số lượng. Tuy nhiên, kỹ năng
tự bảo vệ cũng được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học về kỹ năng
sống của trẻ. Chẳng hạn, trong đề tài nghiên cứu về: “Giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam”
của nhóm tác giả Nguyễn Thanh Bình, Lưu Thu Thủy, Nguyễn Kim Dung, Vũ Thị Sơn đã

khái quát những kỹ năng sống đặc thù với từng lứa tuổi trong đó với trẻ mầm non có kỹ
năng phòng tránh tai nạn, thương tích. Đề tài đã khái quát được những nội dung giáo dục kỹ
năng sống đã được triển khai tại Việt Nam bao gồm nội dung giáo dục kỹ năng phòng chống
tai nạn, thương tích cho trẻ em, các kỹ năng thực hiện quyền trẻ em [7]. Tuy nhiên, đề tài
chưa có những đánh giá cụ thể biểu hiện thực trạng kỹ năng tự bảo vệ của trẻ mầm non.
Tác giả Mai Hiền Lê trong đề tài: “Kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo lớn trường mầm
non Thực hành Thành Phố Hồ Chí Minh” năm 2010 cho thấy kỹ năng giữ an toàn cá nhân
của trẻ còn ở mức độ thấp [18].
18


Tác giả Lê Thị Thanh Thúy trong đề tài nghiên cứu: “Biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động vui chơi” đề tài được triển khai nghiên cứu tại một số
trường mầm non tại Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ
mình… đạt ở mức độ thành thạo chiếm tỉ lệ thấp [35].
Năm 2012, trong đề tài nghiên cứu cấp cơ sở: “Kỹ năng tự vệ cho trẻ 5-6 tuổi trong
trường mầm non tại Thành Phố Hồ Chí Minh” của tác giả Mai Hiền Lê cho thấy mức độ
hình thành kỹ năng tự bảo vệ của trẻ còn thấp [19].
Hiện nay, các công trình nghiên cứu một cách hệ thống, dựa vào những cơ sở giáo dục
học để tìm hiểu thực trạng giáo dục cũng như đề ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi hầu như chưa có. Vì vậy, việc xác định
các nội dung, biện pháp giáo dục kỹ năng này là việc làm cần thiết.
Như vậy, kỹ năng tự bảo vệ là một trong những kỹ năng quan trọng và cần thiết của
trẻ, tuy nhiên việc nghiên cứu kỹ năng này còn hạn chế, mới chỉ dừng lại trong các chương
trình triển khai giáo dục kỹ năng này.
Tại Việt Nam, những tài liệu biên soạn cho kỹ năng tự bảo vệ của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi còn ít. Những công trình nghiên cứu khoa học về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ của trẻ
chưa nhiều, do vậy chưa có những đánh giá cụ thể và mang tính khái quát về thực trạng của
việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ, từ đó đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục kỹ năng này cho trẻ.


1.2. Lý luận về biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
1.2.1. Khái niệm kỹ năng, kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ
1.2.1.1. Khái niệm kỹ năng
Nhắc đến kỹ năng tự bảo vệ, chúng ta nên bắt đầu tìm hiểu thuật ngữ kỹ năng, kỹ năng
sống để có một cách nhìn tổng thể và khoa học. Khi bàn về khái niệm kỹ năng, các tác giả
đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng. Song có thể khái quát lại thành hai cách
đặt vấn đề khác nhau của các tác giả.
• Cách thứ nhất: xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kĩ thuật hành động
Theo cách đặt vấn đề thứ nhất có các tác giả: Trần Trọng Thủy, V.A.Kruteski,
Ph.N.Gonobolin, A.G.Kovaliov…
Tác giả Trần Trọng Thủy cho rằng: “Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động con
người nắm được cách thức hành động tức là hành động có kỹ năng” [16].
19


Theo tác giả V.A.Kruteski trong cuốn sách Tâm lý học xuất bản năm 1980, cho rằng:
“Kỹ năng là các phương thức thực hiện hoạt động- cái mà con người lĩnh hội được”.
A.G.Kovaliov thì nhấn mạnh: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động phù hợp
với mục đích và điều kiện của hành động” [16].
Các tác giả này cho rằng kỹ năng được xem là phương tiện thực hiện hành động phù
hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người đã nắm vững, người có kỹ năng
hoạt động nào đó là người nắm được các tri thức về hoạt động đó và thực hiện hành động
theo đúng yêu cầu của nó mà không cần tính đến kết quả của hành động.
Như vậy, theo quan niệm thứ nhất có thể nhận thấy kỹ năng là mặt kĩ thuật của hành
động, con người nắm được cách hành động tức là có kĩ thuật hành động. Họ coi trọng cách
thức thực hiện hành động hơn kết quả của hành động đó.
• Cách thứ hai: xem xét kỹ năng nghiêng về năng lực của con người.
Theo cách đặt vấn đề thứ hai có các tác giả: K.K.Platonov, G.G.Golubev,
N.D.Levitov, Lê Văn Hồng, Vũ Dũng, Huỳnh Văn Sơn…

Tác giả K.K.Platonov và G.G.Golubev cho rằng: “Kỹ năng là năng lực của người thực
hiện công việc có kết quả với chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và trong
khoảng thời gian tương ứng” [43].
N.D.Levitov quan niệm rằng: “Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó
hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn,
có tính đến những điều kiện nhất định” [43].
Tác giả Vũ Dũng đã định nghĩa: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri
thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ
tương ứng” [10].
Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn quan niệm: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả
một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để hành động
phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ đơn thuần về mặt kĩ thuật mà còn
biểu hiện năng lực của con người” [33].
Như vậy, cách xem xét kỹ năng nghiêng về năng lực của con người để thực hiện các
công việc có kết quả đã bao hàm cả quan niệm kỹ năng là kĩ thuật hành động trong đó, bởi
chỉ khi sự vận dụng tri thức vào thực tiễn một cách thuần thục thì mới có được kết quả công
việc đạt chất lượng.
20


Từ hai cách đặt vấn đề nêu trên, chúng tôi nhận thấy, một người được coi là có kỹ
năng trong một lĩnh vực nào đó phải là người:
- Nắm được mục đích hành động, có tri thức về hành động, nắm được cách thức thực
hiện và các điều kiện thực hiện hành động.
- Thực hiện hành động đúng với các yêu cầu của hành động.
- Đạt được kết quả hành động do mục đích đề ra.
- Có thể thực hiện hành động có kết quả trong những điều kiện đã thay đổi.
Tác giả Nguyễn Đức Hưởng đưa ra các chỉ báo đánh giá mức độ thành thạo của kỹ
năng như sau:
+ Mức độ hiểu biết về hành động và các thao tác cấu thành hành động.

+ Tốc độ thực hiện hành động, thực hiện các thao tác cấu thành hành động.
+ Tính nhịp nhàng trong phối hợp các thao tác hành động
+ Hiệu quả của hành động
Khi đánh giá kỹ năng cần phải sử dụng tổng hợp các chỉ báo trên. Nếu chỉ sử dụng một
chỉ báo đơn lẻ thì có thể dẫn đến nhầm lẫn (chẳng hạn xem người có tri thức, hoặc người có
hành động nhanh hoặc người làm việc hiệu quả là người có kỹ năng) [17].
Do đó, từ các quan điểm trên chúng tôi cho rằng: Kỹ năng là khả năng vận dụng tri
thức, kinh nghiệm một cách linh hoạt để thực hiện có kết quả một hành động nào đó trong
những điều kiện phù hợp.
* Các giai đoạn hình thành kỹ năng:
Khi nghiên cứu về các giai đoạn hình thành kỹ năng cũng có nhiều quan điểm khác
nhau. Các tác giả chia các giai đoạn hình thành kỹ năng thành nhiều giai đoạn khác nhau.
Theo Nguyễn Quang Uẩn, sự hình thành kỹ năng chia thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Nắm vững các tri thức về hành động hay hoạt động
- Giai đoạn 2: Thực hiện hành động theo các tri thức đó. Để thực hiện được hành động
có kết quả, tránh phương pháp thử và sai thì phải có sự tập dượt, phải có sự quan sát mẫu,
làm thử. Hành động càng phức tạp, sự tập dượt càng phải nhiều. Muốn kỹ năng có sự ổn
định và mềm dẻo có thể vận dụng vào các điều kiện tương tự thì sự tập dượt càng đa dạng
và kĩ càng. Sau này kỹ năng ổn định có thể vận dụng được trong nhiều tình huống khác
nhau [43].
Theo tác giả Hoàng Thị Oanh thì có 4 giai đoạn hình thành kỹ năng:
21


- Giai đoạn nhận thức: là giai đoạn con người nhận thức đầy đủ mục đích, cách thức,
điều kiện hành động. Ở giai đoạn này, người ta chỉ nắm lý thuyết, chưa hành động thực sự.
Việc nắm lý thuyết cần thiết có thể do tự học hoặc do người khác hướng dẫn. Giai đoạn này
rất quan trọng vì nếu không xác định được mục đích thì sẽ không có hướng hành động được
và để hành động có hiệu quả con người phải thực hiện được các điều kiện cần thiết của hành
động đó.

- Giai đoạn làm thử: là giai đoạn bắt đầu hoạt động. Có thể người ta hoàn toàn làm
theo mẫu trên cơ sở đã nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức, điều kiện hành động. Có
thể người ta tự hành động theo hiểu biết của mình. Ở giai đoạn này hành động vẫn còn
nhiều sai sót, các thao tác còn lúng túng, hành động có thể đạt kết quả ở mức độ thấp hoặc
không đạt kết quả.
- Giai đoạn bắt đầu hình thành kỹ năng: Ở giai đoạn này người ta có thể hành động
độc lập, ít sai sót, các hành động thuần thục hơn, hành động đạt kết quả trong những điều
kiện quen thuộc.
- Giai đoạn kỹ năng được hoàn thiện: Là giai đoạn hành động được thực hiện có kết
quả không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà cả trong điều kiện khác nhau, các thao tác
thuần thục, các hành động được thể hiện có sáng tạo [28].
Tóm lại, mặc dù có nhiều cách phân chia các giai đoạn hình thành kỹ năng. Nhưng
chung quy lại để hình thành một kỹ năng nào đó, cần phải bắt đầu từ giai đoạn nắm được tri
thức về kỹ năng và sau đó là đến giai đoạn hình thành kỹ năng từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn.
1.2.1.2. Khái niệm kỹ năng sống
Kỹ năng sống (life skills) là cụm từ được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi
trong mọi lĩnh vực.
Sống là một quá trình hoạt động đòi hỏi con người phải có những kỹ năng nhất định và
rất khó để liệt kê đầy đủ những kỹ năng cần thiết cho con người trong quá trình sống.
Nhưng thuật ngữ “sống” ở đây được nhìn nhận dưới góc độ tâm lí và góc độ tâm lí – xã hội.
Như vậy, những kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn không được đề cập và phân tích
như kỹ năng sống mặc dù nó có mối quan hệ rất chặt chẽ để con người có thể sống, tồn tại
và phát triển. Hơn thế nữa, nếu hiểu theo nghĩa hẹp của kỹ năng sống thì sống có nghĩa là
tồn tại cho nên những kỹ năng sống được phân tích ở đây là những kỹ năng giúp cho con
22


người tồn tại về mặt thể chất và mặt tâm lí [33]. Như vậy, khái niệm “kỹ năng sống” ở đây
được chọn lọc để hướng đến những kỹ năng cần thiết mà con người, đặc biệt là thế hệ trẻ có

thể tồn tại một cách đúng nghĩa trong cuộc sống xã hội.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng
và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của
cuộc sống hàng ngày.
Theo Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF), kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp
thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về khả năng
tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) cho rằng:
“Kỹ năng sống là năng lực cá nhân giúp cho việc thực hiện đầy đủ chức năng và tham gia
vào cuộc sống hàng ngày”. Kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết,
gồm các kỹ năng tư duy như: giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, ra quyết định, nhận thức
được hậu quả,…; Học làm người gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng,
cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,… ; Học để sống với người khác, gồm các kỹ năng xã hội như:
giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
Học để làm, gồm các kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục
tiêu, đảm nhận trách nhiệm,…
Theo tác giả Xkomni thì kỹ năng sống là khả năng con người thực hiện những hành vi
thích ứng với thách thức và những đòi hỏi của cuộc sống. Kỹ năng sống thể hiện năng lực
sống của con người trong cuộc sống cá nhân, trong mối quan hệ xã hội,… [33].
Kỹ năng sống còn có nghĩa là khả năng phân tích tình huống và hành vi, khả năng
phân tích hậu quả của hành vi và khả năng tránh một số tình huống nào đó. (UNICEF, Thái
Lan: 1995). Ngoài ra, “kỹ năng sống” còn có nghĩa là khả năng ứng phó với các tình huống
nguy cơ để dự phòng đối với các vấn đề sức khỏe. (UNAIDS: 1997) [6].
Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) thì kỹ năng sống là tập hợp các kỹ năng mà
con người có được thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý
những vấn đề thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của con người.
Từ những khái niệm trên, có thể kết luận rằng kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản
thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
23



×