Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
____________________________________

Phạm Thị Nguyên Chi

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH SÁNG TẠO
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
TẠI GÓC TẠO HÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
____________________________________

Phạm Thị Nguyên Chi

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH SÁNG TẠO
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
TẠI GÓC TẠO HÌNH

Chuyên ngành

: Giáo dục học (Mầm non)

Mã số


: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ KIM ANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Nguyễn Thị Kim Anh,
người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn trường Đại học sư phạm Tp. HCM cùng toàn thể các thầy
cô giáo trong Khoa Giáo dục Mầm non đã trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ dẫn cho tôi trong
thời gian tôi học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cô và cháu trường Mầm non Hoạ Mi 2, Quận 5,
Tp.HCM đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong công tác nghiên cứu.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Tp.HCM, tháng 09 năm 2013
Tác giả

Phạm Thị Nguyên Chi

1


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ 1
MỤC LỤC .................................................................................................................. 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................... 5
MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ...........................................................................................................6
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................................7
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ............................................................................7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................................7
5. Giả thuyết khoa học......................................................................................................8
6. Giới hạn nghiên cứu .....................................................................................................8
7. Cách tiếp cận nghiên cứu .............................................................................................8
8. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................9
9. Những đóng góp mới của đề tài.................................................................................10
10. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................10

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH SÁNG
TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TẠI GÓC TẠO HÌNH..................... 11
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................11
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới ......................................................................... 11
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam .......................................................................... 13
1.2. Cơ sở lý luận về sáng tạo .........................................................................................15
1.2.1. Khái niệm sáng tạo ............................................................................................. 15
1.2.2. Cơ sở thần kinh và cơ chế tâm lý của sáng tạo .................................................. 17
1.2.3. Bản chất của sáng tạo ......................................................................................... 19
1.2.4. Đặc điểm của sáng tạo........................................................................................ 22
1.2.5. Các cấp độ của sáng tạo ..................................................................................... 23
1.3. Tính sáng tạo của trẻ MG .......................................................................................24
1.3.1. Khái niệm ........................................................................................................... 24
1.3.2. Vai trò của tính sáng tạo đối với sự phát triển tâm lý trẻ mẫu giáo ................... 25
1.3.3. Đặc điểm sáng tạo của trẻ mẫu giáo................................................................... 26

1.4. Cơ sở lý luận về góc tạo hình ..................................................................................28
1.4.1. Khái niệm góc tạo hình ...................................................................................... 28
1.4.2. Mối quan hệ giữa góc tạo hình và tính sáng tạo của trẻ MG 5 – 6 tuổi ............. 33
1.5. Biện pháp giáo dục tính sáng tạo của trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình ..........36
2


1.5.1. Khái niệm biện pháp giáo dục tính sáng tạo của trẻ MG 5 – 6 tuổi................... 36
1.5.2. Vai trò của giáo viên trong quá trình tổ chức góc tạo hình nhằm giáo dục tính
sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi ..................................................................................... 37

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH SÁNG TẠO
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TẠI GÓC TẠO HÌNH Ở MỘT SỐ
TRƯỜNG MẦM NON, THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH ..................................... 40
2.1. Tổ chức khảo sát thực trạng ...................................................................................40
2.1.1. Mục đích khảo sát thực trạng ............................................................................. 40
2.1.2. Vài nét về mẫu nghiên cứu................................................................................. 40
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu thực trạng .................................................................. 41
2.1.4. Thời gian khảo sát thực trạng ............................................................................. 41
2.2. Phân tích kết quả nghiên cứu thực trạng ..............................................................41
2.2.1. Thực trạng nhận thức của BGH, GVMN về góc tạo hình trong việc giáo dục
tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi .............................................................................. 41
2.2.3. Thực trạng những biểu hiện sáng tạo của trẻ MG 5 - 6 tuổi tại góc tạo hình ............ 51
2.2.4. Thực trạng biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo
hình ở một số trường MN, Tp.HCM ............................................................................ 57
2.2.5. Những thuận lợi và khó khăn của các GVMN trong việc giáo dục tính sáng tạo
cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình ......................................................................... 58

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH SÁNG TẠO
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TẠI GÓC TẠO HÌNH .............................. 63

3.1. Xây dựng một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 - 6 tuổi tại góc
tạo hình ............................................................................................................................63
3.1.1. Các nguyên tắc khi xây dựng một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ
MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình ..................................................................................... 63
3.1.2. Đề xuất một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc
tạo hình ......................................................................................................................... 65
3.1.3. Hướng dẫn triển khai các biện pháp................................................................... 66
3.2. Tổ chức thử nghiệm các biện pháp ........................................................................75
3.2.1. Mục đích thử nghiệm ......................................................................................... 75
3.2.2. Quy trình thử nghiệm ......................................................................................... 75
3.2.3. Điều kiện tiến hành TN ...................................................................................... 76
3.2.4. Cách đánh giá kết quả TN .................................................................................. 77
3.2.5. Kết quả TN ......................................................................................................... 77

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM ............................................................. 97
1. Kết luận chung ............................................................................................................97
2. Kiến nghị sư phạm ......................................................................................................98
3


TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 100

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BGH

Ban Giám hiệu


ĐC

Đối chứng

GDMN

Giáo dục mầm non

GVMN

Giáo viên mầm non

HĐTH

Hoạt động tạo hình

MG

Mẫu giáo

MN

Mầm non

ND

Nội dung

NVL


Nguyên vật liệu

TN

Thử nghiệm

Tp.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Luật
giáo dục, mục tiêu của giáo dục mầm non là “Giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm,
trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào
lớp một;…”[5].
“Hoạt động sáng tạo có ảnh hưởng to lớn không chỉ đến sự tiến bộ khoa học kỹ
thuật, mà còn đến toàn xã hội nói chung, và dân tộc nào biết nhận ra được nhân cách sáng
tạo một cách tốt nhất, biết phát triển họ và biết tạo ra được một cách tốt nhất cho họ
những điều kiện thuận lợi nhất, thì dân tộc đó sẽ có những ưu thế lớn lao” [25]. Do đó,
tính sáng tạo là một trong các phẩm chất rất quan trọng không thể thiếu được để hình thành
con người trong thời đại mới.
Chính vì vậy, phát triển tính sáng tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Tính sáng tạo không tự đến, nó cần
được hình thành, nuôi dưỡng và phát triển dựa vào nhiều yếu tố. Nhiều công trình nghiên
cứu khoa học của các nhà tâm lý chứng minh rằng, trẻ lứa tuổi mầm non đã có những biểu

hiện của tính sáng tạo. Vì thế, việc hình thành và phát triển tính sáng tạo phải được bắt đầu
từ khi trẻ còn nhỏ. Ở lứa tuổi này, hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi. Trong khi chơi
những tình huống, những mối quan hệ, những điều kiện vật chất của hoàn cảnh xung
quanh làm nảy sinh ở trẻ những ý tưởng và thúc đẩy sự sáng tạo của chúng. Bất cứ góc
chơi nào trẻ cũng thích chơi và khi chơi bất kì góc chơi nào trẻ cũng có thể sáng tạo. Do
vậy, góc chơi của trẻ mẫu giáo (MG) cũng được coi là một phương tiện giáo dục và phát
triển tính sáng tạo cho trẻ em.
Những góc chơi sáng tạo nói chung và góc tạo hình nói riêng luôn được trẻ quan tâm
và thích thú. Bởi khi tham gia góc tạo hình, trẻ sẽ có nhiều cơ hội thể hiện tính sáng tạo
của mình thông qua các dạng hoạt động tạo hình (HĐTH) từ nhiều nguyên vật liệu (NVL)
khác nhau, việc liên kết góc tạo hình với các góc chơi khác và kết quả là sự hiểu biết của
trẻ về thế giới xung quanh thêm mở rộng, tư duy, trí nhớ, thể chất và ngôn ngữ của trẻ
cũng được phát triển. Do đó, nếu góc tạo hình được nhà giáo dục xây dựng và tổ chức một
cách khoa học, hấp dẫn, linh hoạt và tạo điều kiện cho trẻ được tự do hoạt động trên chính
những NVL đa dạng… sẽ thúc đẩy làm nảy sinh ý tưởng sáng tạo ở trẻ, giúp trẻ tham gia
6


một cách tích cực, phát huy tính tự lập của trẻ như tự nghĩ ra cách thực hiện, tự chọn NVL
cho mình, tự giải quyết các tình huống nảy sinh trong góc tạo hình…
Tuy nhiên, tính sáng tạo của trẻ sẽ hạn chế trong góc tạo hình khi chúng chỉ được đặt
trong phạm vi lớp học. Chúng phải được nuôi dưỡng, có cơ hội thể hiện, phát triển trong
góc tạo hình - là môi trường sẽ giúp trẻ trải nghiệm nhiều hơn, tạo cơ hội cho trẻ được thể
hiện tính sáng tạo, tính tự chủ, nhanh nhẹn và tự lập hơn. Bên cạnh đó, góc tạo hình sẽ tạo
cơ hội trẻ được hoạt động trải nghiệm, được tự do khám phá theo ý thích, được giao tiếp,
được chia sẻ với bạn với cô theo hứng thú, nhu cầu và khả năng của mình, giúp trẻ được sử
dụng tối đa tính sáng tạo của mình ở mọi lúc, mọi nơi, trong lớp lẫn ngoài trời và như vậy
nó chiếm một vị trí quan trọng trong sự phát triển của trẻ em.
Những quan sát gần đây cho thấy, góc tạo hình ở các trường mầm non đã được đầu tư
các NVL, đồ chơi, nhưng phần lớn giáo viên mầm non (GVMN) chưa quan tâm, chưa tận

dụng tối đa góc tạo hình ở trong lớp lẫn ngoài trời để giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mầm
non, đặc biệt trẻ MG 5 - 6 tuổi. Bên cạnh đó vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về biện
pháp sử dụng môi trường, cụ thể là góc tạo hình trong việc giáo dục tính sáng tạo cho trẻ
MG 5 - 6 tuổi.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Biện pháp giáo dục tính
sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình”.

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG
5 – 6 tuổi tại góc tạo hình.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài
4.2. Khảo sát thực trạng biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại
góc tạo hình ở một số trường mầm non tại TP.HCM
7


4.3. Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 –
6 tuổi tại góc tạo hình

5. Giả thuyết khoa học
Nếu xác định đúng thực trạng biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi
tại góc tạo hình ở các trường mầm non (MN) thì sẽ đề xuất một số biện pháp phù hợp với

lứa tuổi và mang tính thực tiễn cao.

6. Giới hạn nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu:
Nghiên cứu một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo
hình.
6.2. Địa bàn nghiên cứu:
6.2.1. Khảo sát thực trạng:
Khảo sát 10 trường MN bán công và công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM).
Mẫu khảo sát:
- Ban Giám hiệu (BGH) : 10
- Giáo viên lớp MG 5 – 6 tuổi: 100
- Trẻ MG 5 – 6 tuổi: 60
Thời gian khảo sát: Từ 02/ 01/ 2013 đến 25/ 02/ 2013
6.2.2. Thử nghiệm một số biện pháp
Thử nghiệm một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc
tạo hình ở trường MN Hoạ Mi 2 - Quận 5 –Tp.HCM
Đối tượng khảo sát:
- Nhóm đối chứng (ĐC): 20 trẻ MG 5 – 6 tuổi
- Nhóm thử nghiệm (TN): 20 trẻMG 5 - 6 tuổi
Thời gian TN: từ tháng 03/2013 đến tháng 05/2013

7. Cách tiếp cận nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận hệ thống – cấu trúc (B.G. Ananev, B.F. Lomov, E.G. Yudin,
Whitehead, Von Bertalanffy): Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp giáo dục tính sáng tạo
cho trẻ MG 5 - 6 tuổi, do đó các biện pháp này như những thành tố trong cùng cấu trúc liên
quan chặt chẽ với nhau và quy định lẫn nhau. Biến đổi ở một thành tố của cấu trúc sẽ ảnh
8



hưởng và làm biến đổi một thành tố khác của cấu trúc. Sự biến đổi các biện pháp giáo dục
trẻ MG 5 - 6 tuổi tại góc tạo hình sẽ nuôi dưỡng, phát triển tính sáng tạo cho trẻ MG 5 - 6
tuổi.
7.2. Cách tiếp cận thực tiễn: Dựa vào chương trình giáo dục mầm non (GDMN) 2009 và
thực tiễn chỉ đạo, triển khai hoạt động giáo dục nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ ở các
trường MN.
7.3. Cách tiếp cận hoạt động (L.X. Vygotsky, A.N. Leontev, S.L. Rubinstein): Các
thuộc tính tâm lý (trí tuệ, cảm xúc) và ý thức được hình thành và thể hiện trong hoạt động
(xuất tâm). Việc phân tích sản phẩm HĐTH nhằm mục đích làm nổi rõ tính sáng tạo của
trẻ MG 5 - 6 tuổi.

8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
8.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Đọc các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như luận văn, khoá luận tốt
nghiệp, các đề tài nghiên cứu khoa học, sách, tạp chí, giáo trình…nhằm phân tích và tổng
hợp tài liệu.
8.1.2. Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết
Hệ thống hoá lý thuyết nhằm sắp xếp thông tin lý luận thu được thành những đơn vị
kiến thức có cùng bản chất, từ đó xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
- Quan sát HĐTH của trẻ MG 5 - 6 tuổi tại một số trường MN, Tp.HCM
- Quan sát hoạt động vui chơi tại góc tạo hình nhằm thu thập thông tin về biện pháp
giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 - 6 tuổi của GVMN tại góc tạo hình.
8.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu (Anket)
Sử dụng phiếu điều tra để thu thập ý kiến của BGH, GVMN về:
- Nhận thức của BGH, GVMN về góc tạo hình, góc tạo hình “mở” trong việc giáo
dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi.
- Thực trạng xây dựng, thiết kế góc tạo hình nhằm giáo dục tính sáng tạo cho trẻ

MG 5 – 6 T tại góc tạo hình.
- Thực trạng biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình.
8.2.3. Phương pháp phỏng vấn
9


- Phỏng vấn BGH, GVMN nhằm tìm hiểu sâu về biện pháp giáo dục tính sáng tạo
cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình hiện nay ở trường MN.
- Trò chuyện với trẻ nhằm thu thập thông tin về tính sáng tạo của trẻ MG 5 – 6 tuổi
tại góc tạo hình.
8.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Tham khảo các ý kiến của các giảng viên, các chuyên gia MN về các biện pháp giáo
dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình.
8.2.5. Phương pháp thử nghiệm
Thử nghiệm một số biện pháp đã đề xuất nhằm kiểm chứng tính khả thi của các biện
pháp đề xuất.
8.2.6. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của trẻ
Nghiên cứu các sản phẩm tạo hình của trẻ MG 5 - 6 tuổi tại góc tạo hình nhằm đánh
giá tính sáng tạo của trẻ.
8.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học:
Sử dụng toán học thống kê (phần mềm SPSS) để xử lý các số liệu đã thu thập được
trong các quá trình điều tra và tiến hành thử nghiệm.

9. Những đóng góp mới của đề tài
9.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn và chỉ ra thực trạng của việc giáo dục tính sáng tạo
cho trẻ MG 5 - 6 tuổi tại góc tạo hình ở một số trường MN trên địa bàn Tp.HCM.
9.2. Đề xuất và vận dụng một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 - 6 tuổi
tại góc tạo hình.

10. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, danh mục các bảng biểu và
chữ viết tắt, cấu trúc luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6
tuổi tại góc tạo hình
- Chương 2:. Thực trạng biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi tại
góc tạo hình ở một số trường MN, Tp. HCM.
- Chương 3: Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ
MG 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình.

10


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH
SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TẠI GÓC TẠO
HÌNH
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
 Những nghiên cứu về tính sáng tạo
Trước đây khi nói đến sáng tạo là người ta thường đề cập tới những thiên tài trong
các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật như: Wolfgang AmadeusMozart, Albert Einstein, Lev
Nikolayevich Tolstoy, Isaac Newton, Leonardo da Vinci…, vì vậy vấn đề bản chất và quy
luật của hoạt động sáng tạo chưa được đi sâu nghiên cứu trên cơ sở các hồi ký, tiểu sử, các
tác phẩm văn học mang tính tự thuật của các danh nhân, do vậy, cũng mới chỉ được mô tả,
giải thích sơ bộ.
Giữa thế kỷ XIX, với những nghiên cứu đầu tiên và có ý nghĩa lớn về sáng tạo, các
nhà xã hội học đã cho rằng, bản chất của tính tích cực sáng tạo là hoạt động tưởng tượng.
Quan điểm này gần với quan điểm của các nhà tâm lý học ngày nay.
Sang thế kỷ XX, đây là một thời điểm có tính chất bước ngoặt trong lịch sử phát triển
nhân loại, cùng với những tiến bộ vượt bậc trong các lĩnh vực khoa học, nhiều ngành khoa
học ra đời, nhiều thành tựu khoa học được công bố và lĩnh vực sáng tạo cũng bắt đầu được

quan tâm nghiên cứu. Như một tất yếu, quốc gia nào càng có nền khoa học kỹ thuật phát
triển cao bao nhiêu thì càng tập trung nghiên cứu về lĩnh vực sáng tạo bấy nhiêu.
Khi nói đến lĩnh vực sáng tạo, chúng ta không thể không kể đến các nghiên cứu của
nước Mỹ - một quốc gia có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao nhất thế giới. Các nhà
nghiên cứu ở đây có những điều kiện thuận lợi về mặt cơ sở vật chất để tiến hành nghiên
cứu, vì vậy, cũng như nhiều lĩnh vực khoa học khác, việc nghiên cứu sáng tạo có cường độ
mạnh nhất là ở Mỹ.
Vào đầu những năm 1920, công trình nghiên cứu về sáng tạo của Lewis Terman trên
những học sinh giỏi có chỉ số IQ từ 140 trở lên đã được các nhà khoa học học đánh giá
cao. Sau đó, ông còn tiếp tục nhiều công trình nghiên cứu khác cũng về lĩnh vực sáng tạo,
rút ra nhiều kết luận về các vấn đề chung của sáng tạo như: môi trường sáng tạo, vấn đề
nhân cách sáng tạo, sản phẩm sáng tạo…
11


Vấn đề sáng tạo thực chất chỉ được nghiên cứu có hệ thống từ những năm 50 của thế
kỷ XX mà người có công lớn nhất là J.P.Guilfort – nguyên là giáo sư của một trường đại
học tổng hợp ở Miền nam California, được đề cử là Chủ tịch hội Tâm lý học Mỹ năm
1950. Trong bài phát biểu tại buổi lễ nhận chức, ông đã dành rất nhiều thời gian để nói về
vấn đề sáng tạo. Ông cũng khuyến khích các nhà tâm lý học tham gia nghiên cứu hoạt
động sáng tạo. Từ đó vấn đề sáng tạo được đầu tư và cũng đạt được nhiều thành tựu đáng
kể. Một số các công trình nghiên cứu về sáng tạo đã được xuất bản như: May (1961),
Mackinon (1962), Yamamoto (1963), P.Torance (1965)…
Nhiều công trình nghiên cứu trong thời gian này đã được xuất bản nội dung đề cập
tới những vấn đề cơ bản của hoạt động sáng tạo, các thuộc tính của nhân cách sáng tạo,
bản chất, quy luật của hoạt động sáng tạo, các giai đoạn của quá trình sáng tạo, vấn đề kích
thích năng lực sáng tạo…
Ngoài ra còn có nhiều tác giả khác ở Mỹ cũng nghiên cứu vấn đề sáng tạo như:
Barron, Blom, Helmholtz, Wallass. Getzels…
Vượt ra khỏi nước Mỹ, các nhà khoa học Liên Xô (cũ) đã có nhiều công nghiên cứu

về sáng tạo, đóng góp cho xã hội, nổi bật như: G.S.Altshuller, V.N. Puskin, B.N. Kedrop,
M.G. Iarosepxki, P.A.Rudich, X.L.Rubinstein, L.X. Vygotsky … Họ cũng đã tổ chức cuộc
hội nghị, hội thảo về sáng tạo vào những năm 1960 – 1980 tại Matxcơva, Praha,
Budapest…
Từ những năm 60 – 70 của thập kỷ 20 trở đi, không chỉ ở Mỹ, Liên xô mà Tây Âu
đặc biệt ở Đức, do nhận ra ý nghĩa phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật cũng như ý
nghĩa phát triển cá nhân của sáng tạo mà vấn đề sáng tạo dưới góc nhìn mới của Tâm lý
học, Giáo dục học và Xã hội học đã được quan tâm nghiên cứu thích đáng.
 Những nghiên cứu về môi trường hoạt động cho trẻ
Vai trò của môi trường hoạt động trong việc giáo dục và phát triển của trẻ rất quan
trọng và quyết định chất lượng của các hoạt động của trẻ, đặc biệt là sự sáng tạo. Vì vậy,
vấn đề này được rất nhiều nhà giáo dục trên thế giới quan tâm và nghiên cứu, đặc biệt là ở
các nước đã từ lâu trong lịch sử giáo dục, người học luôn được đặt vào vị thế chủ thể của
quá trình nhận thức như: M. Montessori, Piaget, J. Dewey, Carol Seefeldt, A.N.
Leonchiev,…
Rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hiệu quả giáo dục phụ thuộc rất nhiều về cách
suy nghĩ của nhà giáo dục, về vị thế của người được giáo dục. Quan điểm về vị thế của
12


người được giáo dục quyết định đến việc người được giáo dục sẽ xây dựng và sử dụng môi
trường giáo dục như thế nào và vai trò của họ ra sao.
Về vấn đề này Carol Seefeldt cho rằng: “Môi trường tạo nên hành vi của người thầy
sau khi người thầy tạo nên nó. Cách mà người thầy sử dụng môi trường và cách mà người
thầy sắp xếp các đồ vật bên trong cấu trúc vật chất đã định vị này phụ thuộc vào chính
ông ấy. Trong công tác dạy học, người thầy có quan điểm riêng về bản chất của trẻ em.
Những đánh giá, hệ thống niềm tin này sẽ quy định nên cách mà người thầy sẽ sử dụng
môi trường” [19].
J. Dewey lại đề cập đến vai trò của môi trường như một tác nhân kích thích trẻ đến
với hoạt động: “Chỉ có một con đường cho phép người lớn kiểm soát trẻ nhỏ, đó là bằng

cách kiểm soát môi trường mà trẻ sống trong đó”. Như vậy, J. Dewey đã đề cập đến tam
giác tương tác: Môi trường vật chất – Người lớn – Trẻ. Người lớn và môi trường vật chất
là tác nhân kích thích trẻ tích cực hoạt động [20].
A.N. Leonchiev lại nhìn nhận vấn đề ở trên ở một góc độ khác. Ông cho rằng, chính
môi trường làm cho đứa trẻ nhận thức được nhu cầu (cảm xúc có nhu cầu), làm nảy sinh sự
kích động bên trong dẫn đến sự tích cực hóa toàn bộ hoạt động tâm lý con người. Như vậy,
môi trường hoạt động trong đó đồ dùng đồ chơi hấp dẫn có vai trò làm cho nhu cầu của trẻ
trở nên có đối tượng và thúc đẩy trẻ tích cực hoạt động. Và khi trẻ càng tích cực hoạt động,
trẻ càng hiểu sâu sắc hơn về môi trường và càng phát triển bền vững.
Theo Jonhson, J. Piaget, Hunt, J. Dewey “Môi trường vật chất cần phải được thay
đổi theo nhu cầu hoạt động của đứa trẻ. Nhà giáo dục phải tổ chức cái mới mẻ, các cơ hội
nhận cảm, những thử thách từ môi trường” [19].
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
 Những nghiên cứu về tính sáng tạo
Bên cạnh sự phát triển, nghiên cứu về vấn đề sáng tạo của các nước trên thế giới thì ở
Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động sáng tạo và các tài năng sáng
tạo. Nhiều hoạt động thể hiện sự chăm lo, bồi dưỡng, khuyến khích những tài năng sáng
tạo được tổ chức hàng năm: Hội thi sáng chế kỹ thuật, tổ chức hỗ trợ sáng tạo khoa học và
công nghệ Việt Nam thuộc Viện Khoa học Việt Nam và Trung tâm sáng chế khoa học kỹ
thuật thuộc ĐHQG TPHCM và nhiều hội thi tài năng được tổ chức trong các trường học.
Năm 1990, Viện khoa học giáo dục thuộc Bộ giáo dục và đào tạo là cơ quan khoa
học đầu tiên ở Việt Nam tiến hành nghiên cứu về “khả năng sáng tạo” của học sinh. Các
13


công trình nghiên cứu này quan tâm tới bản chất, cấu trúc tâm lý của sáng tạo, phương
pháp chẩn đoán, đánh giá khả năng sáng tạo và con đường giáo dục, phát huy khả năng
sáng tạo của người Việt Nam.
Mãi cho đến nay, chúng ta cũng đã có một số công trình nghiên cứu của các Tiến sĩ,
Thạc sĩ đóng góp cho hoạt động sáng tạo như:

• Luận án Tiến sĩ của Lê Thanh Thủy nghiên cứu “Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng
tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ 5 – 6 tuổi”.
• Luận án Tiến sĩ của Trương Thị Bích Hà nghiên cứu về “Tưởng tượng sáng tạo
hành động của sinh viên trường Đại học sân khấu điện ảnh”.
• Luận văn Thạc sĩ của Phạm Thị Thu Hương nghiên cứu “Tiềm năng sáng tạo và
biểu hiện của nó trong vận động theo nhạc của trẻ MG 5 – 6 tuổi”, của Trần Thị Nga,
Phạm Thị Thu Hoa nghiên cứu “Khả năng sáng tạo của trẻ MG và học sinh tiểu học thông
qua hoạt động vui chơi và qua môn kể chuyện”.
• Luận văn Thạc sĩ của Vũ Thị Kiều Trang nghiên cứu về “Phát huy tính sáng tạo
của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong trò chơi lắp ghép xây dựng từ các NVL thiên nhiên và phế
liệu”…
Ngoài ra, một số tác giả như: PGS – TS Nguyễn Huy Tú, TS. Đức Uy, TS. Trần Tuấn
Lộ, TS. Vũ Kim Thanh… có bài giảng về Tâm lý học sáng tạo.
 Những nghiên cứu về môi trường hoạt động cho trẻ
Hiện nay, cùng với sự đổi mới sâu và rộng các biện pháp giáo dục trẻ ở trường MN,
các nhà giáo dục cũng đã quan tâm nhiều hơn đến môi trường hoạt động của trẻ. Ở trẻ MG,
hoạt động vui chơi đóng vai trò chủ đạo, môi trưòng chơi có tác động rất nhiều tới quá
trình và kết quả chơi. Việc tổ chức môi trưòng chơi được các tác giả xem nó như là biện
pháp trong tổ chức hoạt động chơi để phát triển một năng lực nào đó hay một số phẩm chất
như: tính tích cực, tính sáng tạo, tính tự lập… nhằm phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Một số công trình nghiên cứu về môi trường hoạt động như:
• Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Anh nghiên cứu “Biện pháp phát triển tính tích
cực sáng tạo của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề”.
• Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Hà nghiên cứu về “Phuơng pháp hướng
dẫn trẻ 2 – 3 tuổi chơi trò chơi phản ánh sinh hoạt”.

14


• Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Hươngnghiên cứu về “Một số biện pháp

hình thành kỹ năng chơi đóng vai”, của Nguyễn Thị Vinh nghiên cứu về “Tổ chức môi
trường chơi nhằm phát triển tính tự lập cho trẻ MG 5 – 6 tuổi ởtrường MN”.
• Báo cáo toàn văn đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, Tp. HCM của Tiến sĩ
Nguyễn Thị Hồng Phượngvề “Xây dựng và tổ chức môi trường giáo dục thúc đẩy trẻ 5 – 6
tuổi hoạt động tích cực trong môi trường MN”.
Các bài giảng của TS. Hoàng Thị Phương và TS. Nguyễn Thị Hồng Phượng với
chuyên đề cao học “Tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ MN”, của ThS. Hoàng Thị Thu
Hương với bài giảng “Tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động”–Vụ GDMN “Tài liệu bồi
dưỡng thường xuyên cho GVMN chu kỳ II (2004 – 2007)”, của CN. Trần Thị Hồng Sương
với đề tài Khoa học Công nghệ “Thực trạng trang bị, sắp xếp NVL hoạt động trong lớp
của trẻ 3 – 4 tuổi”…
Ngoài ra còn có các bài viết liên quan đến tổ chức môi trường cho trẻ MN như: ThS.
Nguyễn Thị Thanh Thủy với bài “Tổ chức môi trường thúc đẩy học tập và khám phá thế
giới xung quanh theo hướng đổi mới trong trường MN” và “Sắp xếp góc hoạt động ở các
lớp trong trường MN”…

1.2. Cơ sở lý luận về sáng tạo
1.2.1. Khái niệm sáng tạo
Cho đến nay, chúng ta có nhiều quan niệm khác nhau về sáng tạo:
Theo S. Freud, “Sáng tạo cũng giống như giấc mơ hiện hành, là sự tiếp tục và sự
thay thế trò chơi trẻ con cũ” [34, 28].
Chu Quang Tiềm, giáo sư đại học Bắc Kinh, trong cuốn sách “Tâm lý văn nghệ” đã
định nghĩa sáng tạo là: “Căn cứ vào những ý tưởng đã có sẵn làm tài liệu rồi cắt xén gạt
bỏ chọn lọc tổng hợp để tạo thành một hình tượng mới” [23, 295].
Ia.A.Ponomariov (Nga):“Sáng tạo là nét đặc trưng riêng cho cả thế giới vô sinh và
hữu sinh từ khi xuất hiện loài người, hình thành nên xã hội loài người. Sáng tạo là điều
kiện thiết yếu để phát triển vật chất và cùng với sự xuất hiện của chúng thì bản thân các
hình thức sáng tạo cũng thay đổi”. Ông còn nhấn mạnh thêm: “Sáng tạo của con người
chỉ là một trong những hình thức đó”.
Đối với L.X. Vygotsky hoạt động sáng tạo được coi là hoạt động cao nhất của con

người. Theo ông,“Bộ não không những là một cơ quan giữ lại và tái hiện kinh nghiệm cũ
15


của chúng ta, nó còn là cơ quan phối hợp, chỉnh lý một cách sáng tạo và xây dựng nên
những tình thế mới và hành vi mới bằng những yếu tố của kinh nghiệm cũ đó” [38,8].
Thông thường chúng ta thường cho rằng sáng tạo là hoạt động chỉ có ở một số ít
những thiên tài, những tài năng xuất chúng như: Mozart, Newton, Einstein, Tolstoy… đã
tạo ra những tác phẩm vĩ đại hoặc phát minh ra những cái mới về khoa học kỹ thuật.
Nhưng theo L.X. Vygotsky: “Sự sáng tạo thật ra không phải chỉ có ở nơi nó tạo ra những
tác phẩm vĩ đại, mà ở khắp nơi nào con người tưởng tượng, phối hợp, biến đổi và tạo ra
một cái gì mới, cho dù cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi nữa so với những sáng tạo của các
thiên tài” [36, 10].
Ông quan niệm rằng: “Sáng tạo là bất cứ hoạt động nào của con người tạo ra được
một cái gì mới, không kể rằng cái được tạo ra ấy là một vật của thế giới bên ngoài hay
một cấu tạo nào đó của trí tuệ hoặc tình cảm chỉ sống và biểu lộ trong bản thân con
người”. Như vậy, sáng tạo ở đây được hiểu là hoạt động và hoạt động này tạo ra cái mới.
Ở Việt Nam, cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về sáng tạo. Trong từ điển Tiếng
Việt (do Hoàng Phê chủ biên): “Sáng tạo là tạo ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị
phụ thuộc vào cái đã có” [17].
Từ điển Tiếng Việt của tác giả Như Ý: “Sáng tạo là tìm thấy và làm nên cái mới”
[34].
Khi đề cập đến quá trình sáng tạo, Nguyễn Đức Uy cho rằng “Đó là sự đột khởi
thành hành động của một sản phẩm liên hệ mới mẻ nảy sinh từ sự độc đáo của một cá
nhân một đằng và những tư liệu biến cố, nhân sự hay những hoàn cảnh của đời người ấy,
đằng khác” [30, 4].
PGS – TS Nguyễn Huy Tú định nghĩa:“Sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước
hoàn cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con
người trên cơ sở kinh nghiệm của mình, và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng mới,
độc đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ được các

giải pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới, độc đáo và thích hợp cho vấn đề
đặt ra” [25, 5].
Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan niệm khác nhau về sáng tạo và
các quan niệm này có đặc điểm chung là nhấn mạnh đến cái mới và ý nghĩa xã hội của
sáng tạo. Tuy nhiên mỗi tác giả lại nhìn nhận nó ở những góc độ khác nhau. Có tác giả
quan tâm tới cái mới của sản phẩm hoạt động, có tác giả quan tâm đến cách thức, đến quá
16


trình tạo ra cái mới đó. Ngay cả cái mới cũng nhiều cấp độ, có cái mới đối với toàn xã hội,
lại có cái mới đối với chính bản thân người tạo ra nó. Các tác giả cũng đều nhấn mạnh ý
nghĩa xã hội của sản phẩm sáng tạo.
Qua tìm hiểu các khái niệm trên về sáng tạo của các nhà nghiên cứu, theo chúng tôi
sáng tạo có thể hiểu là: quá trình con người vận dụng những kinh nghiệm của bản thân,
độc lập đưa ra những ý tưởng mới lạ hoặc cải tạo và biến đổi những sản phẩm có sẵn để
tạo ra những sản phẩm mới nhằm phục vụ cho lợi ích chính đáng của bản thân và của xã
hội.
1.2.2. Cơ sở thần kinh và cơ chế tâm lý của sáng tạo
1.2.2.1. Cơ sở thần kinh của sáng tạo
Năng lực nói chung, khả năng sáng tạo nói riêng không phải do bẩm sinh hay di
truyền mà có. Tuy nhiên, yếu tố bẩm sinh, di truyền là điều kiện, là cơ sở vật chất, là tiền
đề tự nhiên của sự hình thành và phát triển năng lực. Vai trò của điều kiện bẩm sinh, di
truyền, cụ thể là cấu trúc của não bộ, đặc điểm hoạt động của hai hệ thống tín hiệu và kiểu
loại hoạt động thần kinh cấp cao có ảnh hưởng tới một mức độ nào đó đến sự khác biệt về
năng lực nói chung, khả năng sáng tạo nói riêng giữa người này và người khác, đến tốc độ
phát triển năng lực, đến xu hướng phát triển năng lực trong một số lĩnh vực chuyên biệt.
Sự khác biệt về chức năng của hai bán cầu não được đánh giá bởi các hoạt động của
mỗi bán cầu não: bán cầu não trái là trung tâm điều khiển các chức năng trí tuệ như trí nhớ,
ngôn ngữ, logic, viết, sắp xếp, phân tích, phân loại, tư duy hội tụ.
Bán cầu não phải là trung tâm điều khiển các chức năng như trực giác, ngoại cảm,

thái độ, cảm xúc, các liên hệ thị giác – không gian, cảm nhận âm nhạc, nhịp điệu, vũ điệu,
các hoạt động và có sự phối hợp cơ thể, các quá trình tư duy phân kỳ. Tư duy của não phải
là tố chất của sự sáng tạo.
Các chức năng của não trái có đặc điểm là tuần tự và hệ thống, trong khi não phải có
đặc điểm là ngẫu hứng và tản mạn. Não trái có thể ghép các mảnh rời rạc thành một tổng
thể có tổ chức, trong khi não phải theo bản năng nhìn thấy cái tổng thể trước, sau đó mới
đến từng phần nhỏ. Hai bán cầu não cần phải hoạt động cân bằng và phối hợp với nhau để
con người phát triển toàn diện, hài hòa và sức khỏe tinh thần cũng như thể chất được cân
bằng (A.W.Mubzert, 1994).
Chúng ta vốn coi trọng những người có tư duy não trái. Điều này thể hiện rõ nhất
trong trường học. Các trường học phần lớn có xu hướng khuyến khích và ca ngợi những
17


học sinh học thuộc bài và luôn vâng lời thầy cô. Vì vậy, những cá nhân có tư duy não phải
chiếm ưu thế trở nên lạc điệu so với tiếng trống chung của nhà trường. Thomas Edison Bĩ
đánh giá là học kém, Albert Einstein biết đọc chậm hơn so với hầu hết trẻ em khác và ở
trường, ông học hành cũng chẳng giỏi giang gì. Thầy dạy nhạc của Ludwigvon Beethoven
đã từng đánh giá ông là nhà soạn nhạc đại bại. Nhà tâm lý học John B. Waston cũng bị các
thầy cũ cho là lười và không chịu vâng lời…
Tóm lại, các điều kiện bẩm sinh, di truyền có ảnh hưởng nhất định tới khả năng sáng
tạo của cá nhân. Tuy nhiên, yếu tố bẩm sinh, di truyền của cá nhân không quyết định mức độ
sáng tạo của mỗi người. Sáng tạo là sản phẩm hoạt động của cá nhân dưới sự ước chế của
môi trường sống, đặc biệt là môi trường giáo dục. Để có những cá nhân sáng tạo đáp ứng
được nhu cầu phát triển của xã hội, hơn ai hết, các nhà giáo dục phải là những người đầu
tiên quan tâm tới việc cải cách nội dung, phương pháp giáo dục học sinh. Đặc biệt là đối với
các em nhỏ, ở giai đoạn mới bắt đầu thể hiện khả năng sáng tạo. Nhà trường, thầy cô giáo
cần phải khuyến khích, động viên các em sáng tạo, tạo môi trường thuận lợi cho các em phát
triển khả năng sáng tạo của mình sau này.
1.2.2.2. Cơ chế tâm lý của sáng tạo

Có thể nói, nguồn gốc của hoạt động sáng tạo là nhu cầu sáng tạo của xã hội, của con
người. Trong những hoàn cảnh, tình huống khó khăn, con người có nhu cầu giải quyết nhiệm
vụ mới. Do đó, con người phải nổ lực, tìm kiếm, khám phá, phải nổ lực vượt qua khó khăn để
hoàn thành nhiệm vụ đó. Chính vì vậy mà xuất hiện hoạt động sáng tạo. Do nhu cầu phát
triển của nền văn minh công nghiệp, của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin… đã
xuất hiện cụ thể như: máy hơi nước (James Walt), động cơ Diesel (Diessel), ứng dụng phần
mềm Microssoff trong tin học (Bill Gates)…
Quá trình sáng tạo diễn ra một cách có quy luật tức là tuân theo những thời kỳ, những
giai đoạn nhất định. Chẳng hạn như L.X.Xumbaev chia hoạt động sáng tạo làm 3 giai
đoạn:
- Hoạt động cảm hứng, tưởng tượng, ở giai đoạn này xuất hiện ý tưởng sáng tạo
- Sắp đặt logic những suy nghĩ, tư tưởng nhờ các thao tác khái quát hóa, trừu tượng
hóa của tư duy.
- Thực hiện ý tưởng ấy.
Năm 1926, Wallas đã mô tả quá trình sáng tạo gồm 4 giai đoạn kế tiếp nhau như sau:

18


- Giai đoạn chuẩn bị (Preparation): Một người đang tìm kiếm cách giải quyết sáng
tạo đối với một vấn đề quan trọng thì nói chung phải tiêu tốn một thời gian dài nung nấu với
vấn đề đó, thu thập các tri thức có liên quan và nghiền ngẫm nó.
- Giai đoạn ấp ủ (Incubation): Những cách giải quyết sáng tạo thường nảy sinh sau
một thời gian ấp ủ - đó là khoảng thời gian mà trong đó con người ngừng suy nghĩ tích cực
về vấn đề cần giải quyết và chuyển sang những việc khác. Thời gian ấp ủ có thể làm cho
con người có cơ hội để phục hồi sau giai đoạn chuẩn bị căng thẳng, mệt nhọc. trong giai
đoạn ấp ủ, hoạt động bổ sung với vấn đề được quan tâm có thể diễn ra thậm chí trong trạng
thái vô thức, ví dụ trong giấc ngủ.
- Giai đoạn chiếu sáng (Illumination): sáng tạo thường xuất hiện trong sự bừng sáng
bất ngờ (Insight). Tại thời điểm đó, con người đột nhiên nhìn thấy, dưới dạng chưa hoàn

chỉnh, sự le lói ban đầu của giải pháp mà họ đang phải tìm kiếm trong hàng tháng, thậm
chí trong hàng năm trời.
- Giai đoạn xác minh (Verification): giai đoạn chiếu sáng chưa phải là giai đoạn kết
thúc quá trình sáng tạo, thường phải có sự sàng lọc cẩn thận tiếp theo. Ý tưởng mới mẻ
phải được tôi luyện, phải được chuyển sang dạng có thể thử nghiệm được, rồi thử nghiệm
thực sự. Chỉ khi nào các chứng cứ chỉ ra rằng nó là đúng, thì giải pháp sáng tạo mới được
khẳng định.
Mô hình 4 giai đoạn của Walles về quá trình sáng tạo cho chúng ta một cái khung
quan niệm (Conceptual framework) để phân tích sự sáng tạo một cách có hiệu quả [24, 3].
Trong thực tế, quá trình sáng tạo diễn ra rất linh hoạt. Không phải giai đoạn sau bao
giờ cũng được bắt đầu sau khi hoàn thành giai đoạn trước. Tuy rằng mỗi giai đoạn là một
thành phần trọn vẹn và cần thiết của quá trình sáng tạo nhưng chúng thường đan xen vào
nhau, có khi ở giai đoạn kết thúc công việc có thể lại có sự điều chỉnh ý đồ ban đầu và khi
có được kết quả ở một mức độ nào đó lại gây bất ngờ cho nhà sáng tạo mà ta không nhìn
thấy từ trước hoặc lường trước.
Kết quả của bất kỳ một hoạt động nào cũng đều tạo ra sản phẩm, chỉ khác nhau ở chỗ
sản phẩm sáng tạo hay không sáng tạo.
1.2.3. Bản chất của sáng tạo
Khi tìm hiểu về hoạt động sáng tạo, các nhà nghiên cứu đã xác định bản chất của hoạt
động này ở mấy vấn đề đó là:
Thứ nhất, hoạt động sáng tạo của con người mang bản chất xã hội.
19


Một xã hội phát triển luôn là tiền đề và là cơ hội có một không hai cho sáng tạo phát
triển, có thể nói sáng tạo được nảy sinh từ chính sự phát triển không ngừng đó của xã hội
và góp phần làm cho cuộc sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Như vậy, hoạt động sáng tạo xuất phát từ chính nhu cầu của bản thân mỗi con người
và nhu cầu xã hội nhằm giải quyết các tình huống đặt ra. Khi xã hội phát triển, các điều
kiện thực tiễn không còn đáp ứng một cách phù hợp cho nhu cầu xã hội thì buộc con người

phải tìm ra cách giải quyết mới, hướng đi mới hoặc cải biến cáí cũ để phục vụ cho nhu cầu
ấy.
Khả năng sáng tạo của con người không phải do trời phú, thiên bẫm. Nó là sản phẩm
của việc lĩnh hội và biến đổi những kinh nghiệm xã hội lịch sử do loài người tạo ra trước
đó. Do đó, bất kỳ một sản phẩm, một cách thức nào được tạo ra cho dù là bởi cá nhân,
cũng đều mang bản chất xã hội. Goethe đã nhận định:“Đăng tơ là vĩ đại đối với chúng ta,
song ông có ở phía sau mình cả một nền văn hóa của nhiều thế kỷ” và “những con người
như Raphaen không sinh ra trên một chỗ trống rỗng, họ đều dựa vào nghệ thuật cổ đại và
tất cả những gì tốt đẹp đã được sử dụng trước họ. Nếu như họ không biết sử dụng những
ưu thế của thời đại mình thì về sau họ chẳng còn điều gì để nói nữa” [16, 338].
Như vậy có thể khẳng định, hoạt động sáng tạo của con người bao giờ cũng mang
bản chất xã hội. Sáng tạo xuất phát từ chính nhu cầu phát triển của xã hội và phục vụ cho
chính nhu cầu của xã hội đó.
Thứ hai, bản chất của quá trình sáng tạo là do các yếu tố tâm lý tham gia.
Có nhiều quan điểm khác nhau bàn về vấn đề bản chất của quá trình sáng tạo là do
các yếu tố tâm lý tham gia. Tuy nhiên, để xác định yếu tố tâm lý nào là mắt xích trung tâm
của quá trình sáng tạo thì còn nhiều ý kiến khác nhau.
Một là, các nhà nghiên cứu như B.M. Kedrow, M.A. Blok, K. Chikomiop, V.N. Puskin,
L.A. Aponomation … cho rằng chính cảm hứng, linh cảm, vô cảm là những khả năng đã giúp
con người giải quyết đúng đắn trước một tình huống khó khăn hay nguy cấp mà có khi con
người lại không biết chính xác tại sao mình lại làm được như vậy.
Thực tế có nhiều nhà văn, nhà sáng tạo trong nhiều lĩnh vực khác nhau cũng đã tạo ra
các tác phẩm mà không cần đến sự nổ lực của lao động. Trong lịch sử đã chứng kiến nhiều
câu chuyện ly kỳ về những phát minh của các nhà khoa học nổi tiếng mà trực giác đã đưa
họ đến nhiều thành công vang dội như Acsimet (Thế kỉ 13 trước Công nguyên) với câu

20


chuyện “Ơrêka” nổi tiếng. Hay A. Eintein nói rằng đã mơ thấy “Thuyết tương đối”… đã

chứng minh cho quan điểm này.
Thực tế, để có được những linh cảm, cảm hứng hay trực giác trong sáng tạo đó chính
là kết quả của sự lao động không mệt mỏi của bản thân mỗi con người. Sự bừng sáng của
tư duy ấy là kết quả của sự tích lũy kiến thức, của sự say mê, kiên trì suy nghĩ sáng tạo.
Phát minh không nằm ngoài tầm hoạt động kiên trì với định hướng khoa học nghiêm túc.
Linh cảm, trực giác không đến với người lười biếng, đó chỉ là yếu tố bổ sung tuyệt vời cho
kinh nghiệm và hiểu biết.
Hai là, những ý kiến cho rằng tư duy, tưởng tượng mới là mắt xích trung tâm của sáng
tạo. Đại diện cho quan điểm này là các nhà nghiên cứu như: L.X.Vygotsky, A.N.
Leonchiev, X.L. Rubinstein, M. Arnauđôp… Hầu hết họ cho rằng hoạt động có ý thức của
con người có vai trò quan trọng trong hoạt động sáng tạo.
Theo L.X.Vygotsky “Hoạt động sáng tạo dựa trên năng lực, phối hợp của bộ não
chúng ta được khoa học tâm lý gọi là tưởng tượng”. Chúng ta thường quan niệm tưởng
tượng là những gì không có thực, không thực tế, nhưng ông đã khẳng định “Trí tưởng
tượng là cơ sở của bất cứ hoạt động sáng tạo nào, biểu hiện hoàn toàn như nhau trong
mọi phương diện của đời sống văn hóa, nó làm cho mọi sáng tạo nghệ thuật, khoa học và
kỹ thuật có khả năng thực hiện” [33, 8 - 9].
A. N.Leonchiev cũng đã đề cập đến vấn đề này trong các nghiên cứu của mình, ông
cho rằng tư duy là vấn đề chính tham gia vào công việc sáng tạo chứ không phải là linh
cảm.
Vậy có thể thấy rằng, cả hai quan niệm đưa ra ở trên đều đúng, nhưng chưa trọn vẹn.
Vì thực tế, các yếu tố như linh cảm, tư duy, tưởng tượng không thể tách rời nhau trong hoạt
động sáng tạo. Các yếu tố này thường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Linh cảm cung
cấp cho lý trí những dữ kiện quý giá để lý trí phân tích, sàng lọc, thử nghiệm và khẳng định.
Và ngược lại, sự nổ lực nghiêm túc, kiên trì tư duy và tưởng tượng sẽ tạo điều kiện cho linh
cảm xuất hiện. Rõ ràng nếu chúng ta làm việc thực sự căng thẳng và nghiêm túc trong một
thời gian dài thì đến một thời điểm nào đó chúng ta sẽ giải quyết được nhiệm vụ một cách
tốt nhất như một sự lóe sáng.
Tóm lại, bản chất hoạt động sáng tạo của con người có nguồn gốc từ hiện thực khách
quan và mang bản chất xã hội. Sáng tạo là một hoạt động khó khăn, vất vả của con người

nhằm cải thiện cuộc sống và thúc đẩy xã hội phát triển. Nó là hoạt động có ý thức và có
21


mục đích của con người chứ không phải là một hoạt động mang tính chất huyền bí hay là
sự may rủi nào đó.
1.2.4. Đặc điểm của sáng tạo
Đặc điểm của tính sáng tạo được bộc lộ ở 3 thuộc tính cơ bản đó là: tính mới mẻ, tính
độc lập và tính hiện thực.
Thứ nhất, tính sáng tạo bộc lộ ở tính mới mẻ trong sản phẩm của tư duy hay hành
động, tính mới mẻ này có thể là đối với cá nhân hoặc đối với xã hội. Khi đề cập đến sự
sáng tạo của người trưởng thành, của nhà khoa học, nhà phát minh sáng chế, sáng tác… là
nói đến tính mới mẻ trên bình diện xã hội.
Ở lứa tuổi học sinh, trong quá trình sáng tạo, cái mới được phát hiện không nhất thiết
phải có ý nghĩa toàn xã hội mà chỉ là đối với bản thân mình. Tuy nhiên, bản thân quá trình
sáng tạo đó có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với xã hội. Tâm lý học đã xác định được tính
tương tự giữa quá trình sáng tạo của học sinh và quá trình sáng tạo của các nhà khoa học,
sáng chế sáng tác. Sự khác nhau ở đây chỉ là vấn đề cần giải quyết ở trình độ tự lập trong
diễn tiến các giai đoạn của quá trình sáng tạo. Còn cơ chế dẫn đến cái mới về nguyên tắc
không có sự khác biệt nào giữa sáng tạo của học sinh và người lớn.
Do đó sự sáng tạo của học sinh thường không mang lại cái mới cho toàn xã hội,
nhưng hoạt động này thường có ý nghĩa xã hội rất lớn vì ở đó nhân cách trẻ được rèn luyện
để trở thành những người sáng tạo sau này cho xã hội.
Thứ hai, tính sáng tạo thể hiện ở tính độc lập trong tư duy và hành động. Tư duy độc
lập làm tiền đề để nảy sinh những ý tưởng mới, giải pháp và phương pháp mới. Ở cả trẻ
em và người lớn muốn phát triển tính độc lập tư duy, cần đặt cho họ trước những vấn đề
buộc họ đi đến đích bằng con đường giải quyết vấn đề đó. Khi đi vào giải quyết vấn đề,
nếu chúng ta thử nghiệm độc lập để tìm ra giải pháp và càng khác lạ với thông thường thì
càng được đánh giá là có tính sáng tạo.
Người sáng tạo có khuynh hướng tránh lập lại cách giải quyết cũ, họ hoài nghi, muốn

từ bỏ cái truyển thống, có khi từ bỏ cả mục đích truyền thống. Họ thường đưa ra các ý
tưởng mới, cách thực hiện mới để thực hiện ý tưởng độc đáo, mới lạ của mình.
Thứ ba là tính hiện thực, nó được thể hiện trong giá trị sản phẩm mới. Quá trình
sáng tạo ra sản phẩm mới luôn có mối liên quan đến hiện thực. Sáng tạo không phải là sự
đoạn tuyệt của hiện thực mà là sự phản ánh hiện thực tối đa nhưng trong tình huống mới,
chất lượng mới và mục đích mới.
22


Người ta thường quan niệm rằng: sáng tạo bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu của
hiện thực khách quan nhằm vươn tới việc tạo ra cái mới, độc đáo, tốt hơn, có lợi hơn cho
sự phát triển của xã hội. Điều này có vẻ trái ngược khi người ta nghiên cứu các sản phẩm
sáng tạo của trẻ: không độc đáo hơn, không đẹp hơn, không có lợi hơn cho xã hội. Các nhà
khoa học cho rằng, nếu xem xét một cách nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn của một sản phẩm
sáng tạo thì trẻ nhỏ chưa có sáng tạo. Vì vậy có nhà khoa học đã đề xuất bỏ thuật ngữ
“sáng tạo của trẻ” thay bằng thuật ngữ “tiền sáng tạo”. Do đó, cần phân biệt giá trị sáng
tạo theo hai cấp độ:
- Sản phẩm sáng tạo có giá trị khách quan: những sản phẩm mới, độc đáo, có ý
nghĩa xã hội thực sự. Đó là những phát minh, sáng chế, cải tiến khoa học kỹ thuật… của
các nhà khoa học.
- Sản phẩm khoa học có giá trị chủ quan: đó là những sản phẩm chưa có ý nghĩa xã
hội thực sự, chưa mang đến cho xã hội cái mới, cái độc đáo nhưng nó có ý nghĩa quan
trọng trong phát triển nhân cách, đặc biệt là trong phát triển trí tuệ. Nó là cái mới với chính
người tạo ra nó. Đây là sản phẩm chủ yếu do trẻ nhỏ tạo ra trong quá trình chơi và học tập.
Chúng ta tập cho trẻ học cách sáng tạo, được thể hiện nhu cầu tự nhiên vốn có ở trẻ,
không bị phụ thuộc vào một công thức, một giải pháp, một đường mòn có sẵn. Chúng ta
giúp cho trẻ trở thành người sáng tạo. Lợi ích này chính bản thân của trẻ cũng chưa ý thức
được, nhưng nó mang một ý nghĩa xã hội to lớn.
Tóm lại, xét trên bình diện toàn xã hội thì hoạt động chơi và học tập là hoạt động tái
tạo, nhưng trên bình diện cá nhân thì hoạt động chơi và học tập là hoạt động sáng tạo, sáng

tạo cho bản thân mình. Vì vậy được gọi là sáng tạo đặc biệt. Do đó, chúng ta phải động
viên, chỉ dẫn và khuyến khích trẻ để trẻ tiếp tục sáng tạo và đó là điều kiện rất tốt cho sự
sáng tạo thực sự sau này của trẻ.
1.2.5. Các cấp độ của sáng tạo
Theo nhà tâm lý học người Mỹ C.W. Taylor, sáng tạo có thể phân ra 5 cấp độ khác
nhau như sau:
Cấp độ 1: Sáng tạo biểu hiện là dạng cơ bản nhất của sáng tạo, không đòi hỏi tính
độc đáo hay kỹ năng quan trọng nào. Đặc trưng của cấp độ sáng tạo này là tính bộc phát
“hứng khởi” và sự tự do khoáng đạt.
Cấp độ 2: Sáng tạo chế tạo là bậc cao hơn sáng tạo biểu hiện. Nó đòi hỏi kỹ năng
nhất định (xử lý thông tin hoặc kỹ năng kỹ thuật…) để thể hiện rõ ràng, chính xác các ý
23


×