Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

“Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong “hai giọt lệ” của tương phố đông hồ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.82 KB, 119 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
VĂN HỌC VIỆT NAM
ĐỀ TÀI

Người hướng dẫn: Thầy Phạm Văn Phúc
Người thực hiện: Sinh viên Nguyễn Thị Thu Nga
MSSV:

K35.601.059

Niên khóa:

2009 - 2013

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 05 năm 2013


LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành bài khóa luận, em đã
được tiếp xúc và rèn luyện nhiều hơn về kiến thức chuyên môn lẫn nghiệp vụ.
Em xin chân thành cám ơn thầy Phạm Văn Phúc với sự hướng dẫn, góp ý của
thầy để em hoàn thành khóa luận này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thu Nga


MỤC LỤC
Phần thứ nhất ...................................................................................................................4
DẪN NHẬP .....................................................................................................................4


I.

Lý do chọn đề tài ................................................................................................4

II.

Lịch sử vấn đề ....................................................................................................5

III.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................20

IV.

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................20

Phần thứ hai: NỘI DUNG .............................................................................................22
CHƯƠNG I: KHÁI LƯỢC TRỞ LẠI VỀ DIỆN MẠO THƠ CA VIỆT NAM TRÊN
VĂN ĐÀN CÔNG KHAI ĐẦU THẾ KỈ XX ...............................................................22
I. Bối cảnh lịch sử xã hội của diện mạo thơ trên văn đàn công khai đầu thế kỉ XX ..24
II. Bối cảnh văn học của thơ và diện mạo thơ ca giai đoạn .......................................26
II.1. Bối cảnh văn học của thơ: những đặc điểm chính của văn học trên văn đàn
công khai .................................................................................................................28
II.2. Diện mạo thơ: những đặc điểm riêng của thơ ca giai đoạn ............................31
II.2.1. Một giai đoạn ôn tập lại các thể loại .........................................................31
II.2.2. Tình trạng đình đốn về nghệ thuật ............................................................34
II.2.3. Điểm qua các khuynh hướng và các nhà thơ ............................................36
II.2.4. Một số nhà thơ tiêu biểu...............................................................................40
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA HIỆN ĐẠI HÓA CỦA “HAI GIỌT LỆ” .............................49
I. Khái quát chung ......................................................................................................49

I.1. Hoàn cảnh sáng tác ...........................................................................................49
I.1.1.“GIỌT LỆ THU” (TƯƠNG PHỐ) .............................................................49
I.1.2.“LINH PHƯỢNG KÍ” (ĐÔNG HỒ) ..........................................................50


I.2. Khái niệm “hiện đại hóa” trong văn học ..........................................................51
I.2.1. Khái niệm “hiện đại hóa” ...........................................................................51
I.2.2. Nội dung của hiện đại hoá .........................................................................54
II. Ý nghĩa hiện đại hóa của “Hai giọt lệ” ..................................................................58
II.1. Về phương diện nội dung ................................................................................58
II.2. Về phương diện hình thức ..............................................................................80
CHƯƠNG III: VỊ TRÍ CỦA ĐÔNG HỒ VÀ TƯƠNG PHỐ TRONG TỔNG THỂ BỐI
CẢNH GIAO THỜI CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX.......................93
I.

Tương Phố ........................................................................................................93
I.1. Đôi nét về tác giả Tương Phố ...........................................................................93
I.2. Sự nghiệp thơ văn và đóng góp của Tương Phố ..............................................94

II. Đông Hồ ..............................................................................................................100
II.1. Đôi nét về tác giả Đông Hồ ...........................................................................100
II.2. Sự nghiệp thơ văn và đóng góp của Đông Hồ ..............................................101
Phần thứ ba: KẾT LUẬN ............................................................................................112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................115
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ...............................................................................118


Phần thứ nhất
DẪN NHẬP
I.


Lý do chọn đề tài

Giai đoạn 30 năm đầu thế kỉ XX có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử
văn học Việt Nam. Đây là giai đoạn chuyển tiếp, là “buổi giao thời” giữa hai thời kì
văn học, trung đại và hiện đại. Vì vậy văn học giai đoạn này có một đặc điểm nổi bật
là sự đan xen cũ – mới, thúc đẩy nhanh nhịp hiện đại hóa văn học. Đấy cũng là cơ hội
cho sự vận động phát triển thể loại văn học; trong đó có thơ ca - một lĩnh vực vốn là
truyền thống lâu đời của văn học Việt Nam.
Tương Phố và Đông Hồ là hai “độc đáo” hiếm có, không chỉ trong giai đoạn 30
năm đầu của thế kỉ XX. Họ đã góp mặt vào thi đàn “Hai giọt lệ” chứa chan thương
cảm, từng có lúc được coi là hai thi phẩm “trác tuyệt”. Tuy không lớn bằng, không
nhiều bình diện thành công và đóng góp như Tản Đà, hay thậm chí như Á Nam Trần
Tuấn Khải, để tiêu biểu cho “gạch nối” giữa hai nền thơ cũ và mới, nhưng họ đã góp
vào tiếng nói chung của thơ ca thời ấy, cùng làm nên cảnh tượng về một “dàn đồng ca”
thơ lãng mạn, với cái Tôi cá nhân mang theo nỗi buồn nhiều sắc độ, và với những
vùng vẫy phá bỏ “khuôn khổ bất nhân” trong thơ ca (lời Xuân Diệu), mở đầu cho
khuynh hướng buồn thương, ảo não ảnh hưởng đến Thơ mới sau này.
Và, Đông Hồ sẽ trở thành nhà Thơ mới (1932-1945) thực thụ.
Thành tựu nghiên cứu về thơ ca của Tương Phố và Đông Hồ chưa nhiều, chưa
thật thấu đáo. Do vậy, chúng tôi chọn đề tài “Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX
trong “Hai giọt lệ” của Tương Phố - Đông Hồ” với mong muốn tìm hiểu thấu đáo hơn
sự hình thành, chuẩn bị, tích lũy và vận động hiện đại hóa của thơ ca Việt Nam ở “giai
đoạn giao thời” rất quan trọng này.


II. Lịch sử vấn đề
Trong những công trình, bài viết về văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, một số
nhà nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến Tương Phố và Đông Hồ. Ngoài phần viết về con
người hai nhà thơ, còn có những nhận xét, phê bình về văn nghiệp của họ, về “Hai giọt

lệ” – “Giọt lệ thu” của nữ sĩ Tương Phố và “Linh Phượng lệ ký” của thi sĩ Đông Hồ.
Có thể quy các bài viết ấy thành ba dạng sau:
Dạng thứ nhất: Những bài chủ yếu kể về kỉ niệm riêng tư của người viết đối
với hai tác giả. Qua đó, ta hiểu hơn về con người của Tương Phố và Đông Hồ.
Dạng thứ hai: Những bài thẩm bình, cảm nhận về các sáng tác của hai tác giả,
nhất là về “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký”. Nhờ những bài viết này, độc giả sẽ có
cái nhìn cụ thể hơn và phần nào sâu sắc hơn về sáng tác của hai tác giả.
Dạng thứ ba: Những công trình có tính chất văn học sử, hoặc chuyên luận /
chuyên khảo, nghiên cứu, đánh giá chung về toàn bộ văn nghiệp của Tương Phố và
Đông Hồ hay một đặc điểm nổi bật nào đó về nội dung và nghệ thuật... Dạng thứ ba
này chiếm số trang nhiều nhất.
Nhìn chung, số lượng bài viết nghiên cứu về “giai đoạn văn học giao thời” đầu
thế kỉ XX có phần ít hơn đáng kể, so với lượng bài lẫn số trang, viết về những giai
đoạn khác của văn học Việt Nam (tình hình đó có những lý do khách quan của nó, xin
không bàn đến ở đây). Nhưng chính vì vậy, công việc của chúng tôi, tìm hiểu về
Tương Phố và Đông Hồ, sẽ gặp những khó khăn mà đề tài khác ít gặp, chẳng hạn,
ngay từ khâu đầu tiên là văn bản đầy đủ của các tác phẩm để khảo sát, cũng như nguồn
tư liệu phải tham khảo...
Xin đi vào cụ thể từng kiểu dạng như sau:
Dạng 1:
Khi “Giọt lệ thu” ra đời và thổi vào lòng công chúng thành thị những nỗi buồn
thê lương, dai dẳng thì tên tuổi của Tương Phố mới thực sự được nhiều người biết đến.


Không ít người khi tiếp xúc với bà, vẫn giữ mãi ấn tượng đẹp về bà. Trong tuyển tập
“Nữ sĩ Việt Nam” [11, 500], nhà văn Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiên đã kể lại rằng:
“Lần cuối cùng (17/4/1973) chúng tôi đến thăm bà tại nhà nữ sĩ Song Khê (em
gái bà) ở 36 Trần Cao Vân, Sài Gòn. Vì chúng tôi là bạn thân với con trai, con dâu của
bà, cũng lại là bạn văn nghệ vong niên với bà nữa, nên qua tâm sự bà đã tặng vợ chồng
tôi một bài thơ lưu niệm với thủ bút của bà.

Lúc ấy nữ sĩ Tương Phố đang bị bệnh, người rất gầy, tôi lo lắng hỏi bà bệnh gì.
Bà ung dung mỉm cười và rất thân mật kéo tay tôi gí vào cục u bên hông rồi nói: “Ung
thư rồi đây này Như Hiên ạ”... Rồi bằng ánh mắt xa xôi...bằng nụ cười thản nhiên, làm
như không cần biết người đối thoại đang há hốc mồm chột dạ..., bà vẫn điềm nhiên
mỉm cười, thong thả đọc mấy vần thơ ứng khẩu:
“Lúc đau, đau đến tái người
Lúc yên... thì lại đau đời sầu đau...”
Tương Phố đã để lại trong lòng người mọi người hình ảnh một người phụ nữ
sầu não, mảnh dẻ nhưng lại rất gan dạ, lúc nào cũng tỏ ra cương quyết. Dù ốm nặng
nhưng bà vẫn rất lạc quan và mạnh mẽ. Chẳng thế mà khi đến thăm nhà văn Tam Lang
Vũ Đình Chí (tác giả “Tôi kéo xe”), bà đã làm tặng bốn câu thơ nhan đề “Siêu thoát” :
“Rồi cũng đi mà có ở chi
Chuyện đời thôi nỏ hết sân si
Phù sinh vốn biết thân là mộng
Một sớm qua chời thắc mắc gì.”
Sau khi bà qua đời, trong bài báo nhan đề “Vẫn về nữ sĩ Tương Phố, cô dâu xứ
Huế” của nhà văn Nguyễn Hữu Thứ, có đoạn kể lại suy nghĩ của bà về tâm trạng cùng
hoài bão của nữ sĩ khi làm thơ. Lúc sinh tiền, khi được nhà văn đặt câu hỏi đó, bà đã
mỉm cười khiêm tốn trả lời:


“... Tôi làm thơ để diễn tả tâm tình tùy theo nhu cầu, theo hứng... chứ không
phải làm thơ để sáng tác văn chương. Có lẽ đó là một loại nghệ thuật vị nhân sinh cho
tôi...”[11, 504]
Tuy nói vậy nhưng nếu theo dõi thi nghiệp của bà thì chúng ta sẽ sớm nhận ra
không hẳn vậy. Dấu vết dụng công “làm văn chương” và thậm chí là “sáo” vẫn lộ rõ
và xuất hiện nhiều trong “Giọt lệ thu”, đặc biệt trong “Tái tiếu sầu ngâm” và những
“thi phẩm” khác về sau.
Có thể thấy rằng, Tương Phố coi thơ văn là một loại hình nghệ thuật giúp ích
cho bà trong việc diễn tả cảm xúc, tình cảm chứ không hẳn là chuyện nghề nghiệp. Đó

cũng là một cách nghĩ tác động đến nội dung và đề tài trong những sáng tác của bà.
Bởi hầu hết các tác phẩm của Tương Phố đều là tiếng lòng xuất phát từ một tâm hồn
đa cảm, đa sầu nhưng cũng không kém phần mạnh bạo, mạnh mẽ.
Cùng thời với Tương Phố và cũng góp phần vào thi đàn một “giọt lệ” khóc vợ
thương tâm là thi sĩ Đông Hồ. Trong mắt người đương thời từng tiếp xúc, ông là một
người rất trọng phép tắc, lễ giáo. Nhà văn Nguyễn Triệu Nam đã kể lại trong bài viết
“Kỷ niệm về thi sĩ Đông Hồ” [47] như sau:
“…Đông Hồ là mẫu người nệ cổ, có phần kiểu cách. Hay dùng điển tích xưa
mỗi khi nói chuyện. Tiếp xúc với văn hữu, thường chêm những cổ ngữ, nhất là những
kính ngữ. Cách trang phục cũng cổ nữa. Lễ lạc hay tiếp tân, đều vận quốc phục, khăn
đóng, áo dài, giầy Gia Định. Về hình thức bề ngoài, có thể coi con người Đông Hồ là
phiên bản của hình ảnh một công dân Gia Định Thành thời Minh Mạng. Tiếp khách
quý, Nhà thơ còn đốt trầm cho thêm phần trịnh trọng. Chỉ khách quý ngang vai hoặc
trên vai mình thì mới bày vẽ như thế. Khách dưới vai, đáng tuổi con cháu thì khỏi.”
Quả thực, tuy sinh ra trong thời đại mới nhưng Đông Hồ vẫn giữ được vẹn
nguyên những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cung cách ứng xử
của ông tuy có phần kiểu cách nhưng đó cũng là sự thể hiện tấm lòng hoài cổ và yêu
quý những giá trị văn hóa một thời của tầng lớp trí thức.


Ngoài ra, Đông Hồ còn là một thầy giáo nhiệt thành và tâm huyết với nghề, tâm
huyết với việc truyền bá nét đẹp văn chương đến với thế hệ trẻ. Nói về điều này, Hoài
Thanh đã có nhận định trong “Thi nhân Việt Nam” rằng:
“Hoàn cầu dễ ít có thứ tiếng được âu yếm nâng niu như tiếng Nam. Âu cũng vì
tiếng Nam đương ở trong cảnh khốn cùng, đương bị nhiều người rẻ rúng. Thói thường
con nhà nghèo vẫn thương yêu cha mẹ hơn con nhà sang trọng. Nhưng yêu quốc văn
mà đến như Đông Hồ kể cũng ít. Thất học từ năm mười lăm, mười sáu; từ đó người
chỉ chuyên học quốc văn, viết quốc văn rồi mở trường chuyên dạy quốc văn”. [38,
349]
Chính vì tình yêu tiếng mẹ đẻ ấy mà Đông Hồ đã không quản sức khỏe, tuổi tác

để tiếp tục đứng lớp giảng dạy. Sự ra đi đột ngột trên bục giảng của người thầy đáng
kính ấy đã để lại trong lòng mọi người sự thương tiếc khôn nguôi.
Nhà giáo Võ Văn Nhơn - người học trò chứng kiến cái chết của thầy Đông Hồ
đã viết bài “Đông Hồ - thi sĩ yêu tiếng Việt” [51] kể lại: “Cũng vì lòng yêu tiếng mẹ,
nên ba mươi năm sau ngày Trí Đức học xá đóng cửa, Đông Hồ đã nhận lời giảng dạy
phần Văn học miền Nam cho Đại học Văn Khoa, mặc dù tuổi đã gần sáu mươi và sức
khỏe cũng đã kém. Việc trở lại dạy học chính là để nối lại “tình duyên lỡ làng” với Trí
Đức học xá ngày nào, để đề cao “giọng Hàn Thuyên” và kêu gọi “hồn Đại Việt”.
[…]Vào ngày 25/3/1969 (tức ngày mồng 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu), trên một
giảng đường ở lầu hai lộng gió của Đại học Văn Khoa (bây giờ là Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn TP. HCM), Đông Hồ đã bất ngờ ngã xuống lúc đang bình bài thơ
“Trưng nữ vương” của Ngân Giang. Bài thơ nói về nỗi cô đơn, lạnh lẽo của người nữ
anh hùng chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng, một tứ thơ rất độc đáo, rất nữ tính mà
Đông Hồ đã tinh tế chỉ ra. Được các học trò đưa vào bệnh viện, ông mất ngay ngày
hôm đó.”
Chúng tôi xin mượn lời nhà thơ Hoài Anh để nói đôi điều về sự ra đi của Đông
Hồ - người thầy tận tâm với nghề đến hơi thở cuối cùng: “Việc Đông Hồ ngất đi trên
bục giảng khi đang ngâm bài thơ Trưng Nữ Vương và chỉ vài giờ sau hấp hối ở bệnh


viện, há chẳng đủ chứng tỏ trái tim yêu nước, bị dồn nén không chịu nổi, đến mức phải
phá tung đó sao”.
Dạng 2:
Bàn luận riêng về các sáng tác của Tương Phố và Đông Hồ, các nhà nghiên cứu
đặc biệt chú ý đến hai tác phẩm tiêu biểu nổi bật là “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ
ký”. Nhiều bài thẩm bình, cảm nhận xoay quanh hai tác phẩm này đã giúp chúng ta có
cái nhìn tương đối sâu sắc hơn về bút lực của họ. Vì lẽ đó, trong các thẩm bình, đánh
giá của dư luận về tác phẩm của Tương Phố và Đông Hồ, dường như không mấy ai
không nói đến “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký” - hai tác phẩm làm nên tên tuổi
hai nhà thơ Việt Nam trước 1932 này.

Về giá trị của “Giọt lệ thu”, Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền (2006) đã viết:
“Tác phẩm “Giọt lệ thu” được nung nấu trong hoàn cảnh bi thiết của tác giả.
Hơn nữa, nếp văn chương lãng mạn thời đó đã tô điểm cho “Giọt lệ thu” đầy màu sắc
ủy mị bi thu, gợi cảm lòng sầu... quyến rũ độc giả, nhất là phái nữ. Quả thật, “Giọt lệ
thu” của nữ sĩ Tương Phố đã được ấn dấu son một thời, đã đưa bà bước vào sự nghiệp
văn chương và bà đã nổi tiếng trên văn đàn cũng qua tác phẩm này vào năm 1928”.
[11, 492]
Phê bình về Tương Phố, Bùi Xuân Uyên đã viết trong lời tựa của “Mưa gió
sông Tương” (1960) như sau:
“Chúng ta đều đã biết Tương Phố.
“Giọt lệ thu” năm nào đã thấm vào văn học sử. Cái tên của Tương Phố đã đóng
dấu một nỗi buồn. Kể ra không lạ gì một trang thiếu phụ, những năm ngó đào tơ đã
gặp người xứng lứa vừa đôi, yêu nhau lại lấy được người mình yêu. Nhưng thương
thay, đoàn tụ để chia lìa, tang chồng đã ám mặt người vợ trẻ tay bồng con thơ. Bạn gái
trong hoàn cảnh này, ai thì cũng khóc”. [24, 103]


Tác phẩm này không những đã chiếm được cảm tình của độc giả bốn phương
mà còn gây xôn xao cho giới cầm bút một thời. Nhà văn Nguyễn Vỹ (1970) đã nêu
trong “Văn thi sĩ tiền chiến”:
“... So sánh thơ văn của nữ sĩ Tương Phố, với cô Desbordes Valmore, một nữ
thi sĩ Pháp cũng thuộc thế kỉ XIX...
“... Desbordes Valmore đã khóc sướt mướt suốt cả tập thơ; nhưng lệ của
Valmore là những nốt đàn rơi đọng tuyết... héo hắt! Còn giọt lệ của Tương Phố là
những hạt sương xao xuyến bình minh, là những thổn thức lóng trong tim hoa, khiến
“Giọt lệ thu” dễ cảm lòng người”. [43, 493]
Đến nhà phê bình Nguyễn Tấn Long (1968) cũng đã nhận xét trong “Việt Nam
thi nhân tiền chiến toàn tập: “... Nữ sĩ Tương Phố đã đem nỗi niềm bi thương của
mình trải trên những dòng thơ và tạo thành áng văn trác tuyệt về tình... ” [24, 102]
Năm 1929, bà Jeanne Duclos Salesses đã dịch “Giọt lệ thu” của Tương Phố ra

Pháp ngữ nhan đề “Larmes d’Automne” đăng trên báo “Le Moniteur d’Indochine”.
“Giọt lệ thu” viết từ năm 1923 cho đến mùa thu năm 1928 mới đăng trên báo
Nam Phong (số 131, tháng 7 năm 1928); đến năm 1952, tác phẩm được nhà xuất bản
Ngày nay – Hà Nội in lần đầu. Và đến năm 1967, tác phẩm “Giọt lệ thu” được nhà
xuất bản Bốn phương cho tái bản tại Sài Gòn. Lần này sau tập “Giọt lệ thu” có thêm
hai phụ lục. Cụ thể:
Phần một: Nói qua về bản dịch Pháp ngữ.
Phần hai: Trích đăng gần 100 cảm đề được tích tụ từ 1928 đến 1956 của các
nhà trí thức, văn thi gia và độc giả khắp nơi trong, ngoài nước gửi đến khen tặng tác
giả “Giọt lệ thu”.
Sau đây là một số ghi nhận trích ra từ tập cảm đề:
“Thu về riêng biết tình thu nặng
Còn chăng châu lệ khóc sơn hà?”


Hãn Mạn Tử (Huế 1933)
(HMT - bút danh của cụ Phan Bội Châu)
“Thím ơi! Một giọt lệ ấy, đủ mát mẻ vong hồn người cửu nguyên rồi!...”
Cháu: Thái Thị Nghĩa
Huế 1928
“Cành hoa xuân mới vừa quen mặt
“Giọt lệ thu” xưa luống chạnh lòng.”
Ưng Bình Thúc Giạ Thị
Vĩ Dạ, Huế 1933
“... Bài “Giọt lệ thu” mà Tương Phố viết năm Quý Hợi (1923) và đăng tạp chí
Nam Phong cách đây 13 năm. Có thể coi là một bài mở đầu cho lối thơ thê lương ảo
não... Cái buồn của Tương Phố là cái buồn có cớ, cái buồn thực sự, cái buồn ghi sâu
tận đáy lòng... ”
Vũ Ngọc Phan, tác giả “Nhà văn hiện đại”
“... Phàm những sự đau đớn trên đời này, chỉ về chữ tình là nhiều nhất, và lại là

sâu nhất. Thật vậy, không phải nói ngoa đâu. Mà từ nghìn xưa cái giống văn chương
vẫn là dòng đa tình. Nhưng cũng phải yêu nhau thế nào, tình ái thiết tha đến thế nào
mới có được giọt lệ như “GIỌT LỆ THU”!”
Song An – Hoàng Ngọc Phách
(Kiến An 1928)
“Giọt lệ thu” thực là một bài văn đã chiếm phần ưu thắng về tình cảm và tưởng
tượng, lại thêm ý đẹp lời hay, giọng điệu mới mẻ, biệt lập riêng một loại. Bài văn ấy,
đã được Nha học chánh Đông Pháp lựa chọn làm tài liệu giảng văn trong khoa Việt
Nam ban Trung học về “khuynh hướng lãng mạn”.
Dương Quảng Hàm


Hà Nội 1944
Cảm đề “Giọt lệ thu” của nữ sĩ Tương Phố:
“Tờ thơ mấy độ lệ sầu chan
Bàng ến cũ não can tràng
Hồn nương mấy dặm mờ quan ải
Bóng lẩn thâu đêm tiếc mộng tàn
Hương cũ mơ hồ sen Tịnh Đế
Trời Nam sầu đọng khắp rừng bàng.”
Thanh Vân NDN
(Nha Trang 15/06/1954)
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng “Giọt lệ thu” đã có tầm ảnh hưởng khá sâu
rộng tới độc giả đương thời. Bằng tấm lòng chân tình thể hiện trong ngòi bút tài hoa,
Tương Phố đã ghi dấu ấn trong lòng mọi người và góp phần đưa văn học Việt Nam
vượt ra khỏi biên giới thông qua các văn bản dịch.
Bàn về “Linh Phượng lệ ký” của thi sĩ Đông Hồ, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan
đã viết:
“Đông Hồ vốn là một thi sĩ giàu tình cảm, nên văn bài Linh Phượng của ông là
một thứ văn đẽo gọt, lời nhiều hơn ý, lời tràn lan mà ý quanh co, như không bao giờ

hết.
Bài lệ kí Linh Phượng được kể là một áng văn hay, nhờ ở mấy điều này: Từ đầu
đến cuối chỉ toàn một giọng tha thiết, ai oán; lại có nhiều việc tuy nhỏ mà đầy đau
thương, như giặt giũ, thuốc thang, bóp chân tay, chải đầu vấn tóc cho người đàn bà sắp
mất, làm cho người ta thấy rằng cái tình yêu đương của hai vợ chồng không cứ ở việc
lớn, mà chỉ một vài cử động nhỏ cũng tiêu biểu được tấm lòng khăng khít”. [30, 125]


“Toàn bài, câu nào cũng được; nhân mấy chữ “bỗng châu chìm” ở câu hai mà
hạ được câu bốn hay tuyệt “Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm”, âm điệu trầm, gây
nên một cảm tưởng thật buồn... ” [30, 126]
Hoài Anh trong tập “Chân dung văn học, NXB Hội nhà văn, 2001” cũng đã
nhận xét rằng:
“... Đông Hồ thực sự nổi tiếng bằng bài “Linh Phượng” trong tập “Trác Chi lệ
kí” (1928). Khi người yêu là nàng Linh Phượng qua đời giữa lúc đang độ tình ái nồng
thắm đã gây xúc động mạnh cho Đông Hồ khi viết những dòng thơ não nuột... ” [1,
395]. Tuy nhiên, Hoài Anh cũng đã có chỗ chưa đúng khi nói Linh Phượng là “người
yêu” của Đông Hồ. Bởi lẽ, Linh Phượng, nói một cách chính xác, không chỉ là người
yêu mà là vợ của Đông Hồ. Thứ đến, thời Đông Hồ người ta vẫn chưa có quan niệm
“người yêu” như thời Hoài Anh.
Đông Hồ sáng tác nhiều nhưng một trong các tác phẩm đánh dấu tên tuổi của
ông chính là “Linh Phượng lệ ký”. Bởi lẽ đây là tiếng lòng của một người chồng yêu
thương vợ sâu sắc nên dễ đi vào tâm khảm của độc giả và tìm được sự đồng cảm nơi
họ.
“Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ và “Giọt lệ thu” của Tương Phố là hai áng
văn đặc sắc lúc bấy giờ. Thấy hai nhà thơ, kẻ ở miền Nam khóc vợ, người ở miền Bắc
khóc chồng nên ông Giám đốc Nhà xuất bản Nam Ký Hà Nội có sáng kiến đề nghị hai
tác giả Đông Hồ và Tương Phố cho phép nhà xuất bản in chung hai tác phẩm thành
một quyển lấy nhan đề “Hai giọt lệ”, nhưng hai tác giả chưa trả lời dứt khoát nên việc
không thành.

Sau đó, người ta thấy cuốn sách này xuất hiện trong tủ sách “Những áng văn
hay” của Nhà xuất bản Tân Dân Hà Nội do ông Vũ Đình Long làm giám đốc mà hai
tác giả cũng không phản ứng gì.
Do chuyện này mà Đông Hồ làm bài thơ Hai giọt lệ gửi cho Tương Phố:
“Giọt lệ thu” kia vẫn đượm sầu,


Cánh chim “Linh Phượng” biết về đâu?
Đài gương nhạt phấn phôi pha nét,
Viện sách tàn hương lạnh lẽo màu.
Cõi Bắc trời Nam Hai giọt lệ,
Đông Hồ, Tương Phố một dòng châu.
Đoạn trường gặp gỡ năm canh mộng,
Một hội thương tâm, một nhịp cầu.”
Nhận được bài này, Tương Phố bèn làm một bài thơ đáp tạ:
“Hai giọt lệ chưa tuôn đã cạn,
Khúc đoạn trường dạo bán cũng thôi.
Lửa hương kiếp trước tàn rồi,
Dây tơ một đứt, mấy hồi thương tâm.
Lệ Nam Bắc âm thầm rỏ giọt,
Tiết xuân thu chua xót lòng nhau.
Ngùi trông trời thảm đất sầu,
Hỏi chim “Linh Phượng” bay đâu quên về?
“Giọt lệ thu” dầm dề ứa mãi,
Buổi thu về lệ lại chứa chan.
Hồ Đông mạch nước còn tràn,
Sông Tương lai láng khôn hàn tình xưa.
Tâm sự kể bao giờ cho xiết,
Giấy mực đâu giãi hết niềm đau?
Não tình kẻ Bắc người Nam,



Cảm “Hai giọt lệ” mấy hàng châu rơi.
Tạ lòng quân tử mấy mươi!”
25/3/1929
Đó cũng là một cái duyên thú vị của hai tác giả trong nghiệp văn chương thi
phú trên văn đàn Việt Nam thời bấy giờ...
Dạng 3:
Đánh giá chung về toàn bộ văn nghiệp của Tương Phố và Đông Hồ hay một đặc
điểm nổi bật nào đó về nội dung và nghệ thuật chiếm số lượng trang viết nhiều nhất,
nhiều nhà nghiên cứu đã có những tìm hiểu khá sâu sắc và đa dạng. Hãy đi vào một số
trong đó, mà khóa luận thấy là tiêu biểu:
Nói về tình yêu của mình đối với thơ Tương Phố, Nguyễn Vỹ trong “Văn thi sĩ
tiền chiến” đã viết: “Tôi yêu thơ Tương Phố từ hồi 11 tuổi. Tình yêu thơ mộng hồn
nhiên và viển vông còn mãi trong tâm trí. Lớn lên tưởng tình yêu đó đã chết, không
ngờ nó cũng lớn lên với tôi...”[43, 345].
Tìm hiểu về những điểm làm nên nét độc đáo của thơ Tương Phố, Nguyễn Tấn
Long và Nguyễn Hữu Trọng trong “Việt Nam thi nhân tiền chiến” nhận định: “Chỉ
trong thời gian ba năm, đôi vợ chồng trẻ đã làm một cuộc tạm biệt rồi vĩnh biệt nhau.
Đau khổ, Tương Phố đã đem nỗi bi thương của mình trải trên những dòng thơ và tạo
thành áng văn trác tuyệt về tình... Nó không hề vay mượn của ai, nó hề không gò bó,
gượng ép hay giả tạo... Đó chính là nét độc đáo của Tương Phố.”[24, 87-88].
Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” (trọn bộ) đã đánh giá cao thơ Tương
Phố bằng những lời lẽ khen ngợi: “Gần đây, thơ mà âm điệu du dương, nhưng tính tình
lại thấm thía và gần gũi với người đời, trước hết phải kể thơ của Tương Phố... Và bài
“Giọt lệ thu” có thể coi là một bài mở đầu cho lối thơ thê lương, ảo não... Trong thi
phẩm này, Tương Phố hay kể lể, hay dùng chữ cổ đượm những màu xưa... nên ngày
nay chắc nhiều người cho là lôi thôi (đúng là những lời kể lể của người đàn bà trong
khi khóc chồng), là cổ, nhưng nó thật là lối văn đặc biệt... vẫn có cái sức cảm người ta



về âm điệu trước, về ý sau... Nếu đem so sánh Đông Hồ với Tương Phố, người ta thấy
Đông hồ là tay thợ thơ, còn Tương Phố mới thật có tâm hồn thi sĩ. Cái tâm hồn này lại
là một tâm hồn đặc Việt Nam, không chịu ảnh hưởng một cái học ngoại lai nào cả...
Nhìn chung, thơ của Tương Phố réo rắt và cảm động, nhưng văn xuôi của bà lại kém
phần chân thật”. [30, 137 - 138 và 147]. Ông đã có cái nhìn tinh tế và thẳng thắn khi
nhận định về những ưu – nhược điểm của Tương Phố ở hai lĩnh vực văn xuôi và thơ.
Tuy nhiên, tác giả cũng đã quá đề cao Tương Phố mà có phần xem nhẹ Đông Hồ khi
cho rằng thi sĩ chỉ là “tay thợ thơ” trong mối tương quan so sánh giữa hai tác giả.
Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên” (quyển III) đã
tóm tắt những điểm chính và sự đóng góp của Tương Phố đối với văn đàn như sau:
“Chỉ từ khi bài "Giọt lệ thu" đăng trên tạp chí Nam Phong (tháng 7 năm 1928), cái tên
Tương Phố mới ra đời. Nhưng mãi đến 1930, sau khi bài “Khúc thu hận” và bài “Tái
tiếu sầu ngâm” đăng trên Nam Phong, thì nữ sĩ mới thật sự chiếm được một ghế thi gia
vững vàng trên thi đàn, và đủ làm cho ngây ngất cả một thế hệ vốn ôm sẵn chữ “thu”
trong lòng. Hơn mười năm sau, mấy vần réo rắt ấy vẫn còn được Vũ Ngọc Phan tán
tụng. Song đối với chúng ta ngày nay, cái giọng gọi hồn, cái tiếng khóc đám ma ấy đã
giảm nhiều hấp lực. Có thể khen là tác giả có ý thành thật, song nó sáo, sáo quá... Còn
truyện của bà, đa phần là những ký sự, hồi ký cá nhân. Cách kết cấu của chúng (trừ
“Giọt lệ thu”) đều sơ sài, cốt chuyện có khi rất giả tạo, hình như tác giả viết cốt để
giảng luân lý, để giải bày những tư tưởng của mình về nhân sinh, về thời thế”. [28, 338
và 404]. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải nhìn nhận rằng, không phải hai bài “Khúc
thu hận” và “Tái tiếu sầu ngâm” đưa Tương Phố “chiếm được một ghế thi gia vững
vàng trên thi đàn”. Bởi sự thật thì chính mấy tác phẩm này lại làm nhạt và nhẹ “ghế thi
gia văn đàn” của Tương Phố. Cả hai bài đều không có điểm gì mới (thậm chí còn nặng
hơn) so với “Giọt lệ thu” ở tính “sáo”. Do đó, chúng cũ hơn, lạc hậu hơn so với trình
độ văn đàn và trình độ thưởng thức của công chúng đương thời.
Không chỉ nhận xét về hình thức nghệ thuật của văn thơ Tương Phố, Thanh
Lãng còn đi sâu hơn về những đóng góp mang tính tư tưởng thời đại của nữ sĩ trong
“Bảng lược đồ văn học Việt Nam” (quyển hạ): “Ba nhà viết truyện ngắn tiêu biểu ở



thời kỳ này (1913-1932) là Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn và Tương Phố. Xét kỹ về
kỹ thuật, không ai giống ai... Cả hai ông đều quan niệm truyện là một sự tập trung, một
sự đổ dồn có giàn xếp để đi đến chỗ chung kết, nhưng truyện của Tương Phố thì
không. Hình như nó chủ ý không có kết cấu... Văn thơ của bà xét chung là thứ văn
nhịp nhàng cân đối. Tuy nhiên, hồi đầu với “Giọt lệ thu”, lời lẫn ý đều rất thơ, và
thường điệp ngữ... Về sau, văn của Tương Phố nhẹ nhàng hơn, gần với tiếng nói hàng
ngày hơn. Lối dùng điệp ngữ chỉ thỉnh thoảng mới thấy...
Về mặt tư tưởng, có lẽ Tương Phố là người đã phối kết đầy đủ hơn hết (trong
một tổng hợp đầy mâu thuẫn) tất cả đặc tính của thế hệ. Cùng với Trần Tuấn Khải,
Đông Hồ, Hoàng Ngọc Phách; Tương Phố là hiện thân của tình cảm lãng mạn. Nghĩa
là, tất cả mọi sầu thảm của thế hệ (cảnh đất nước điêu linh, cảnh hàng mấy trăm ngàn
thanh niên bị bó buộc đầu quân sang Pháp...) như cô đúc lại trong người thiếu phụ
sông Thương, ấy là chưa nói đến thân phận góa bụa ở lứa tuổi 20... Nhìn chung, tài
năng thực sự của Tương Phố là ở thi ca, chứ không phải ở địa hạt tiểu thuyết”. [16,
497-499 và 502].
Tiếp đến, hai nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi và Lê Chí Dũng trong “Từ điển
Văn học” (bộ mới) cũng viết rằng: “Tương Phố đã góp vào bộ phận văn chương Việt
hợp pháp 30 năm đầu thế kỷ XX một tiếng khóc ảo não, ít nhiều có làm sống lại tâm
trạng người chinh phụ trong văn học quá khứ... Nhưng nỗi đau xót vì hạnh phúc
chóng tan của bà có nhiều sầu thảm, vô vọng hơn, và cũng nhuốm màu sắc hiện đại
hơn. Vì trong đó, không chỉ có nỗi đau riêng, mà còn gói cả một “trời sầu” của thế hệ
thanh niên tiểu tư sản thành thị Việt Nam những năm sau Đại chiến I. Chính căn bệnh
thời đại này đã đẻ ra một loạt những sáng tác kiểu “Giọt lệ thu” (Tương Phố), “Linh
Phượng” (Đông Hồ), “Bể thảm” (Đoàn Như Khuê)... Đó là những tiếng nói lãng mạn,
yếu ớt đầu mùa, nặng tính chất thoát ly, nhưng cũng còn bị cột trong khá nhiều thành
kiến luân lý cổ. Về sau, tuy Tương Phố còn sáng tác, nhưng trong tác phẩm của bà chỉ
rặt những “ý mòn, lời sáo”, nên không còn được ai chú ý nữa. Nói khác hơn, ngòi bút
của bà đã lạc lõng với thời đại.”[42,491]



Đồng thời, nhận xét về nghệ thuật, hai tác giả cũng đã chỉ ra những mặt còn hạn
chế của thơ Tương Phố. Hai ông cho rằng “văn xuôi của bà là thứ văn có đối, có vần,
có sự pha tạp giữa ký, tạp ký, luận thuyết với thể truyện. Tuy chúng có lâm ly réo rắt
nhưng từ ngữ thì sáo mòn như phần đông các cây bút văn xuôi buổi đầu thế kỷ XX.
Thơ bà, trước sau chỉ quanh quẩn trong hai thể loại là lục bát và song thất, thỉnh
thoảng có đôi bài Đường luật, với lời lẽ sầu thảm như văn xuôi...”[42, 491].
Đánh giá sự nghiệp văn chương của Đông Hồ, các nhà nghiên cứu đã viết như
sau:
Tiếng thơ Đông Hồ quả tình chưa thật trong trẻo, độc đáo nhưng lại vang xa. Lê
Tràng Kiều trong bài phát biểu “Tình và tứ của thi sĩ” in trên Tiểu thuyết thứ Năm (số
8, ra ngày 24/11/1938) đã chứng dẫn bằng thơ của Tản Đà, Thanh Tịnh, Yến Lan, Vũ
Trọng Can và cả Đông Hồ:
“Mãi đến nay ta vẫn chưa hiểu rõ những người đa tình dễ trở nên thi sĩ, hay thi
sĩ dễ trở nên đa tình. Nhưng nếu chỉ đa tình mà cũng là thi sĩ thì cả một lớp thanh niên
ở mọi thời đại đều đã là thi sĩ cả? Và nếu chỉ là thi sĩ mới trở nên đa tình thì đời này
chẳng nhẽ ít khách đa tình ư?”[51]
PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn trong “Người đương thời thơ mới bàn về thơ Đông
Hồ” đã nhận định:
“Đông Hồ chưa phải là một hiện tượng đột xuất trong làng Thơ mới nhưng
người đương thời khắp trong Nam ngoài Bắc đã tỏ lòng tri ân, trân trọng ghi nhận một
tiếng thơ bình dị, chan chứa nghĩa tình. Con đường đi từ “Thơ Đông Hồ” đến “Cô gái
xuân” đã được giới phê bình đương thời đón nhận, khẳng định như một bước tiến,
chứng tỏ khả năng tự vận động, đổi mới và hòa nhập của Đông Hồ với phong trào Thơ
mới 1932-1945, góp phần xây dựng và nối kết vùng văn học cực Tây Nam Bộ với nền
văn học Việt Nam dân tộc và hiện đại”. [50]
Viết về Đông Hồ trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh chỉ ra rằng:
“Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình
yêu dưới trăng thanh, trong tiếng sóng”. [38, 351]



Hay:
“Đông Hồ vẫn là người của thế hệ bây giờ vậy. Cho nên phong trào thơ mới
vừa nổi lên là người nhận ngay được con đường của mình”. [38, 351]
Sự nghiệp sáng tác của Đông Hồ còn dài và tiếp bước sang thời kì Thơ Mới nên
phong cách thơ của ông cũng vì thế mà có sự thay đổi, biến hóa đa dạng.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, giai đoạn 1900 – 1930 là một giai đoạn có tính
chất giao thời. Nếu từ thế kỉ XI đến cuối thế kỉ XIX văn học Việt Nam phát triển theo
một hướng, xét về quan niệm văn học, tư tưởng mĩ học, hệ thống thể loại là cùng loại
với văn học một số nước thuộc vùng Đông Á, chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc, thì
từ năm 1930 về sau văn học Việt Nam đã lại phát triển theo một hướng khác, cùng loại
với văn học thế giới cận hiện đại, về nguồn gốc thuộc truyền thống văn học châu Âu.
Trong quãng từ năm 1900 đến năm 1930, văn học Việt Nam chuyển từ loại hình này
sang loại hình khác.
Theo đó, nhiều thể loại mới ra đời và góp phần đổi mới diện mạo của văn học
Việt Nam. Nằm trong xu thế đó, sự xuất hiện “Hai giọt lệ” của Tương Phố và Đông
Hồ đã thổi luồng gió mới vào dòng chảy của văn học dân tộc. Sau khúc dạo đầu ấy,
thơ ca Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình và thực sự khởi sắc với sự trỗi
dậy mạnh mẽ mang tên “Thơ mới”.
Tóm lại, các bài viết, nhận định kể trên đều nêu lên những biểu hiện tư tưởng,
xác định vị trí, sự đóng góp của Tương Phố và Đông Hồ trong nền văn chương Việt
Nam. Tuy còn nhiều ý kiến trái chiều về những sáng tác cũng như đóng góp của hai
tác giả nhưng qua đó chúng ta cũng phần nào có cái nhìn sâu hơn về họ. Tựu chung
lại, các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao thơ của Tương Phố và Đông Hồ so với các
thể loại khác do họ sáng tác. Mặc dù có ghi nhận những đóng góp mang ý nghĩa thời
đại của hai tác giả nhưng hầu như chưa có công trình nào thực sự đi sâu nghiên cứu
một cách cụ thể những điểm mới mẻ mà “Hai giọt lệ” mang lại cho thi đàn lúc bấy
giờ. Sự ra đời của “Hai giọt lệ” – “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ kí” có ý nghĩa như
thế nào đối với quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc? Dấu ấn giao thời thể hiện ra



sao trong nội dung và hình thức của hai tác phẩm? Điểm chung và riêng của “Hai giọt
lệ”so với các sáng tác đương thời là gì?...Đây chính là những điều khóa luận quan tâm
và muốn tìm hiểu.
Với đề tài “Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong “Hai giọt lệ” của
Tương Phố - Đông Hồ”, khóa luận hi vọng sẽ đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu
một trong những giai đoạn phức tạp của văn học Việt Nam – giai đoạn giao thời 1900
– 1930. Đồng thời, với dung lượng khiêm tốn của một bài khóa luận, người viết hy
vọng sẽ đóng góp một phần khiêm tốn vào con đường tìm hiểu, nghiên cứu hai tác giả
Tương Phố – Đông Hồ. Thông qua đó, chúng ta có thể thấy được vị trí và vai trò của
họ trên con đường hiện đại hóa đầy biến động của thơ ca đầu thế kỉ XX.

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với khuôn khổ của đề tài, khóa luận tập trung tìm hiểu các vấn đề cụ thể:
Quá trình vận động và đặc điểm của thơ ca Việt Nam thuộc giai đoạn đầu thế kỉ
XX (1907 – 1932) thông qua những hiện tượng tiêu biểu. Đặc biệt là hai tác phẩm đã
tạo nên những dấu ấn văn học sử: “Giọt lệ thu” của Tương Phố và “Linh Phượng lệ
ký” của Đông Hồ.
Đối tượng nghiên cứu: Đông Hồ và Tương Phố (cuộc đời, thành tựu sáng tác),
nhưng chủ yếu tập trung tìm hiểu “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký”.
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi sẽ xem xét tương đối toàn diện đối tượng
nghiên cứu đã được xác định bên trên, nhưng chủ yếu tập trung làm rõ mấy vấn đề
sau: Đặc trưng của văn học giai đoạn đầu thế kỉ XX được thể hiện qua hai tác phẩm
“Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký”; Đóng góp của hai tác phẩm vào việc hiện đại
hóa thơ Việt Nam giai đoạn giao thời (1900 – 1930).

IV. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng và tham khảo những phương pháp và
thao tác ít nhiều có tính chất phương pháp sau:



1. Đọc tất cả các tác phẩm của Tương Phố - Đông Hồ, chú trọng
phần thơ trong phạm vi nghiên cứu đã nêu.
Đọc các bài viết mà chúng tôi tìm được của các tác giả về cuộc đời, con người
và thơ Tương Phố - Đông Hồ để có cái nhìn mang tính tổng quát.
2. Phương pháp so sánh – đối chiếu.
Phương pháp này được sử dụng để so sánh thơ của Tương Phố và Đông Hồ với
các tác giả khác, từ đó làm rõ đặc điểm nổi bật về nội dung, hình thức của “Hai giọt
lệ” và xác định tính chất giao thời của tác phẩm.
3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp này sử dụng để tiến hành phân tích những bài thơ trong “Giọt lệ
thu” và “Linh Phượng lệ ký” cũng như các sáng tác khác của hai tác giả để phục vụ
cho việc đánh giá ý nghĩa hiện đại hóa thơ Việt Nam đầu thế kỉ XX của Tương Phố và
Đông Hồ.
Tất cả các phương pháp trên không thực hiện riêng lẻ mà hỗ trợ, bổ sung, phối
hợp nhau trong quá trình khảo sát, phân tích, đánh giá các vấn đề thuộc phạm vi đề tài
để mang lại kết quả cao nhất.


Phần thứ hai
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC TRỞ LẠI VỀ DIỆN MẠO THƠ CA VIỆT
NAM TRÊN VĂN ĐÀN CÔNG KHAI ĐẦU THẾ KỈ XX
Sở dĩ gọi là văn đàn công khai vì văn học đương thời bị phân hóa thành hai khu
vực văn học hợp pháp và bất hợp pháp.
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp chưa có đủ thời gian rảnh rang và tiền bạc để
có thể sắm một đội ngũ bồi bút chuyên nghiệp. Vì thế, công việc bồi bút vẫn còn do
những tên Việt gian kiêm nhiệm mà tiêu biểu là Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao Khải, Lê

Hoan...
Đầu thế kỉ XX, Pháp đã đào tạo được đội ngũ bồi bút chuyên nghiệp hơn, có
văn chương hơn, thậm chí số này còn đủ sức lập thuyết, để cũng lý sự về yêu nước, về
cách mạng dù thực tế là phục vụ cho Pháp. Mặt khác, Pháp còn dùng tiền bạc, uy
quyền để thành lập những cơ quan ngôn luận đủ sức lũng đoạn văn đàn công khai.
Tiêu biểu là những tờ báo như: “Đông Dương tạp chí” (1913 – 1917), sau đó là “Nam
Phong tạp chí” (1917 – 1934). Hai tờ báo này do hai nhà “trí thức lớn” là Nguyễn
Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh làm chủ bút.
Theo góc nhìn khách quan, ta không thể không thừa nhận những đóng góp lớn
của hai ông ở những điểm sau:
Trước hết, hai ông là những hiện tượng của lịch sử văn hóa văn học Việt Nam.
Thứ đến, các ông và những tờ tạp chí của mình có những đóng góp không nhỏ
cho sự tiến bộ, hiện đại hóa đối với văn hóa và văn học Việt Nam.
Tiếp đến, trong tư tưởng và nhất là trong phát ngôn của họ có những điều ta
phải thừa nhận là chân lí, có những câu xứng đáng là danh ngôn:


“Tương lai của nước ta hay hay dở là tùy thuộc vào chữ quốc ngữ.”(Nguyễn
Văn Vĩnh)
“Một nước không thể không có quốc hồn, “Truyện Kiều” là quốc hồn của ta.
Một nước không thể không có quốc túy, “Truyện Kiều” là quốc túy của ta. “Truyện
Kiều” còn thì nước ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn.”(Phạm Quỳnh)
Toàn bộ Nam Phong, một phần Đông Dương và chương trình của nhà trường
Pháp – Việt là chỉ là làm lại những điều mà Đông kinh nghĩa thục đang làm dở dang.
Khác nhau ở chỗ Đông kinh nghĩa thục xuất phát từ động cơ yêu nước, còn bọn họ làm
là để mị dân với tư cách một công cụ văn hóa của Pháp. Cho nên thực dân Pháp đóng
cửa bỏ tù Đông kinh nghĩa thục nhưng lại trả lương hậu hĩnh cho Nguyễn Văn Vĩnh
(Đông Dương), Phạm Quỳnh (Nam Phong), và Nguyễn Thái Tích (trường Quy thức).
Tại sao Pháp làm như vậy? Có thể lí giải rằng vì việc hiện đại hóa văn học Việt
Nam trở thành một tất yếu, một quy luật nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người.

Pháp hiểu ra điều đó từ sau Đông kinh nghĩa thục. Cho nên Pháp dành quyền về văn
hóa văn học Việt Nam từ tay những người yêu nước sang những người chúng có thể
điều khiển. Do đó, công lao của Phạm Quỳnh hay Nguyễn Văn Vĩnh chỉ là ý nghĩa
khách quan ngoài dự tính và quan thầy của họ (ngày nay đã có đủ chứng cớ về việc
Pháp đã kiểm soát hai tờ đó đến từng bài, quyết định bài nào xuất hiện kì nào, trả
lương, đài thọ cho những bài xuất hiện; việc trả lương do cơ quan mật thám phủ Toàn
quyền; trên bìa của các tờ Nam Phong đều công khai hai tên chủ bút: Phạm Quỳnh và
Luis Matti – chánh mật thám Đông Dương). Vì vậy khó có thể nói họ yêu nước thành
thực được.
Văn học yêu nước cũng có xuất hiện trên văn đàn công khai nhưng đó là sự lọt
lưới kiểm duyệt của nó, vì chủ yếu nó là cơ quan ngôn luận của văn học nô dịch. Ví dụ
tiêu biểu chính là việc Đông Dương tạp chí xuất hiện hàng loạt những bài công khai
lên án Phan Bội Châu và tổ chức “Việt Nam quang phục hội”. Tệ hơn nữa là còn kêu
gọi nhà cầm quyền Pháp phải bắt cho bằng được và đem tử hình Phan Bội Châu. Như
vậy, có thể nói rằng trên văn đàn công khai nắm quyền lũng đoạn chính là tiếng nói
của văn học nô dịch.


Tuy nhiên, những tiếng nói đó chỉ dừng lại ở phạm vi báo chí chứ chưa thấm
sâu vào văn học. Trái lại, những cơ quan ngôn luận của Pháp và báo chí nói chung lại
trở thành miếng đất màu để gieo mầm văn học dân tộc, trong đó có hạt mầm hiện đại
hóa. Bộ phận đó được nhiều nhà văn học sử gọi là văn học hợp pháp không cách
mạng. Nó gồm hai khuynh hướng nghệ thuật: lãng mạn và hiện thực. “Giọt lệ thu” của
Tương Phố cùng với “Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ là hai thi phẩm thuộc dòng
văn học có khuynh hướng lãng mạn.

I. Bối cảnh lịch sử xã hội của diện mạo thơ trên văn đàn
công khai đầu thế kỉ XX
Về chính trị, sau khi phong trào Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo thất
bại (1896), thực dân Pháp cơ bản thực hiện xong công cuộc bình định của chúng ở

Việt Nam. Nước Việt Nam từ đây bước vào thời kỳ lịch sử mới, chuyển từ xã hội
phong kiến Nho giáo sang chế độ thực dân – phong kiến với sự chia cắt thành ba xứ :
Bắc kỳ - Trung kỳ - Nam kỳ, theo các chính sách đô hộ khác nhau: thuộc địa - tự trị bảo hộ. Nhưng về thực chất đều chịu sự thống trị của Pháp.
Xã hội Việt Nam lúc này hết sức phức tạp. Bên trên là chính quyền thống trị
thực dân cấu kết với bộ máy cai trị Nam triều. Giai cấp phong kiến tiếp tục chiếm giữ
những vị trí nhất định trong xã hội. Tư sản thực dân và tư sản dân tộc cùng tham gia
vào quá trình bóc lột giai cấp cần lao. Các tầng lớp nhân dân lao động, nhất là nông
dân, chịu thêm nhiều áp bức. Và xuất hiện những lực lượng “dưới đáy” mới của xã
hội: công nhân, dân nghèo thành thị, thậm chí cả một bộ phận trí thức, tiểu tư sản,...
Xã hội phân hóa thành các giai tầng áp bức và bị áp bức, thống trị và bị trị.
Cuộc sống cũng phân hóa thành thị với nông thôn ngày càng rõ rệt.
Những năm đầu thế kỉ XX, thực dân, phong kiến tương đối rảnh rỗi với các
phong trào yêu nước, nên chúng tiến hành nhiều biện pháp nhằm khai thác thuộc địa,
làm giàu cho chính quốc. Người dân Việt Nam chịu rất nhiều áp bức, cùng cực.


×