Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

những quy định của pháp luật về hụi lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.28 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP
---

---

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỤI
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giáo viên hướng dẫn:
Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
Bộ môn luật Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Hà Thái Thơ
MSSV: 5062288
Lớp Tư pháp 1 – K32

CẦN THƠ – 11/2009


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................................. 3
2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................................ 4


3. Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 5
5. Kết cấu đề tài.................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ “HỤI” ................................................................. 6
1.1. Lịch sử hình thành hụi ở Việt Nam............................................................................... 6
1.2. Một vài điểm mới trong Bộ Luật dân sự 2005 liên quan đến hợp đồng góp “hụi” ...... 9
1.3. Hợp đồng vay tài sản................................................................................................... 14
1.3.1. Khái niệm hợp đồng vay tài sản............................................................................... 14
1.3.1.1. Khái niệm.............................................................................................................. 14
1.3.1.2. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vay tài sản ......................................................... 14
1.3.2. Đối tượng và kì hạn của hợp đồng vay tài sản......................................................... 15
1.3.2.1. Đối tượng .............................................................................................................. 15
1.3.2.2. Kì hạn .................................................................................................................... 15
1.3.3. Hình thức của hợp đồng vay tài sản......................................................................... 16
1.3.4. Lãi suất và lãi trong hợp đồng vay tài sản ............................................................... 16
1.3.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên................................................................................ 17
1.3.5.1. Bên cho vay........................................................................................................... 17
1.3.5.2. Bên vay ................................................................................................................. 17
1.4. “Hụi” – hợp đồng vay tài sản đặc biệt ........................................................................ 18
CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI”........................... 21
2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý................................................................................... 21
2.1.1. Các khái niệm........................................................................................................... 21
2.1.2. Đặc điểm pháp lý về “hụi”....................................................................................... 23
2.1.3. Mục đích của chơi hụi.............................................................................................. 25
2.2. Phân loại hợp đồng góp “hụi”..................................................................................... 26
2.3. Khái quát chung về hợp đồng góp “hụi”..................................................................... 31
2.3.1. Giao kết hợp đồng góp hụi....................................................................................... 31
2.3.1.1. Điều kiện về chủ thể ............................................................................................. 31
2.3.1.2. Điều kiện về hình thức .......................................................................................... 33
2.3.1.3. Các điều kiện khác ................................................................................................ 35

2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người chơi hụi .................................................................... 38
2.3.2.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ hụi............................................................................. 38
2.3.2.2. Quyền và nghĩa vụ của thành viên........................................................................ 44
2.3.3. Chấm dứt hợp đồng góp hụi .................................................................................... 47
2.4. Tranh chấp hụi và hướng giải quyết các tranh chấp về hụi ........................................ 51

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

1

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.4.1. Đối với các giao dịch về hụi diễn ra trước ngày Nghị định 144 có hiệu lực (ngày
22-12-2006) ...................................................................................................................... 51
2.4.2. Đối với các giao dịch về hụi diễn ra từ ngày Nghị định 144 có hiệu lực (ngày 2212-2006)
...................................................................................................................... 53
2.4.3. Về thời hiệu khởi kiện.............................................................................................. 55
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC GIAO DỊCH VỀ
“HỤI” ................................................................................................................................ 57
3.1. Thực trạng giao dịch về hụi trong giai đoạn hiện nay ................................................ 57
3.1.1. Tình hình thực tiễn................................................................................................... 57
3.1.2. Vướng mắc trong các giao dịch về “hụi”................................................................. 60
3.2. Một số ý kiến đề xuất hoàn thiện quy chế pháp lý về hụi........................................... 66
3.2.1. Một vài lưu ý khi tham gia các giao dịch về “hụi” .................................................. 66
3.2.2. Bổ sung các quy định về chủ hụi chuyên nghiệp..................................................... 67
3.2.3. Quản lý các giao dịch về hụi.................................................................................... 67
3.2.4. Tăng nghĩa vụ cho các thành viên............................................................................ 68
3.2.5. Quy định cách tính lãi và lãi suất dễ áp dung .......................................................... 68

3.2.6. Xây dựng các văn bản giải quyết tranh chấp nợ hụi................................................ 69
3.2.7. Phổ biến pháp luật.................................................................................................... 70
3.2.8. Mở rộng phạm vi giao dịch về hụi ........................................................................... 71
KẾT LUẬN CHUNG ....................................................................................................... 72

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

2

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hụi là một giao dịch dân sự được đã tồn tại rất lâu và đã trở thành một tập quán
nhưng trước đây chơi hụi là không được pháp luật công nhận nên các hành vi chơi hụi bị
coi là bất hợp pháp dẫn đến người chơi hụi phải lén lút, thậm chí không có văn bản giấy
tờ gì thể hiện sự thỏa thuận, sự giao nhận tiền giữa những người chơi hụi, nên rất dễ xảy
ra tranh chấp mà không được tòa án giải quyết. Chính vì vậy, việc chơi hụi luôn tiềm ẩn
nguy cơ rủi ro rất cao, nhiều khi vỡ hụi dây chuyền, thiệt hại hàng chục tỉ đồng, nhiều gia
đình khốn đốn vì hụi. Bộ luật dân sự mới (có hiệu lực thi hành từ 01-01-2006) đã thừa
nhận việc chơi hụi như một giao dịch dân sự hợp pháp về tài sản, nằm trong mục “hợp
đồng vay tài sản” (Điều 479), theo đó pháp luật cũng quy định nghiêm cấm việc lợi dụng
chơi hụi để cho vay nặng lãi (khoản 3, Điều 479). Sau đó, nhằm cụ thể hóa tinh thần Bộ
luật dân sự, Chính phủ ban hành nghị định 144/NĐ-CP qui định về giao dịch hụi, họ. Như
vậy, đến nay việc chơi hụi là hoàn toàn hợp pháp, do đó khi có tranh chấp về hụi thì tòa
án có trách nhiệm phải thụ lý, giải quyết theo trình tự qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc thừa nhận hụi là một giao dịch hợp pháp và đã có văn bản hướng dẫn về loại

giao dịch đặc biệt này đã tạo ra tác dụng tích cực trong việc phát triển giao dịch dân sự,
tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong xã hội dân sự huy động vốn phục vụ cho các
mục đích tiêu dùng, mở rộng sản xuất của mình, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Bên
cạch tác dụng tích cực đó thì “công nghệ giựt hụi” cũng ngày càng phát triển với nhiều
thủ đoạn của chủ hụi như dựng hụi giả (không cho hụi viên bỏ hụi, hốt hụi) hoặc mạo
danh ai đó bỏ hụi cao để hốt sau đó “xù” luôn. Thấy lãi suất quá cao, người dân cả tin hùn
vốn vào các "chiêu bài" do những chủ hụi tung ra như: tiền tiết kiệm, tiền vay từ tín dụng
đen, tiền từ đền bù giải phóng mặt bằng… Nhiều người còn liều lĩnh thế chấp nhà, đất, tài
sản có giá trị cho ngân hàng để vay vốn nộp cho chủ hụi để cầm về một tờ giấy nợ viết tay
“nguệch ngoạc”. Và rồi, khi tạo dựng được một cớ nhỏ, các chủ hụi tuyên bố… vỡ hụi.
Dẫn đến hậu quả dây chuyền, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân của cả một khu vực. Có

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

3

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
rất nhiều người chỉ vì chơi hụi và tin tưởng vào chủ hụi mà sa vào cảnh trắng tay, tan cửa
nát nhà cũng vì hụi.
Hụi hiện nay được xem là một vấn đề nóng bỏng trong xã hội. Chính vì lẽ đó tìm
hiểu và phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn
giao dịch về hụi, rút ra các điểm hạn chế trong giao dịch về hụi từ đó đưa ra một số kiến
nghị và giải pháp để hoàn thiện các giao dịch về hụi, hạn chế các tranh chấp liên quan,
đảm bảo bình đẳng, công bằng và trật tự xã hội trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới.
Đây cũng chính là lý do để tác giả chọn đề tài: những quy định của pháp luật về “hụi”,
lý luận và thực tiễn.


2. Mục tiêu nghiên cứu
Vấn đề hụi là vấn đề nóng và gây nhiều bức xúc trong xã hội, không chỉ gây khó
khăn cho nhân dân mà còn gây khó khăn trong việc quản lý của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, văn bản hướng dẫn thi hành thì quá ít không đủ điều chỉnh tất cả các vấn đề
liên quan. Do đó, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý về “hụi” được pháp luật
quy định, phân tích các vướng mắc trong các giao dịch về hụi hiện nay, các đề xuất và
giải pháp để hoàn thiện loại giao dịch đặc biệt này.

3. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài khá mới mẽ và hiện nay chưa có nhiều văn bản điều chỉnh về vấn
đề này. Trong khi đó, quá trình nghiên cứu tìm hiểu chỉ thông qua sách báo, tài liệu tham
khảo, phân tích câu chữ của luật. Mặc khác, do còn đang học tập tại trường nên chưa
được cọ sát nhiều với thực tế, thời gian nghiên cứu đề tài ngắn. Do đó, đề tài chỉ nghiên
cứu các vấn đề lý luận dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành, bên cạnh đó do
không có điều kiện nên người viết chỉ tập trung vào giải quyết các vấn đề thực tiễn liên
quan đến tập quán chơi hụi ở Miền nam.

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

4

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn tốt nghiệp được nghiên cứu và phân tích dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, các phương pháp phân tích luật viết, thu thập tài liệu có
liên quan, phân tích đánh giá các nguồn tài liệu, phương pháp quy nạp, diễn dịch, đối

chiếu, kết hợp giữa lý luận và thực tiển để giải quyết vấn đề.

5. Kết cấu đề tài
Đề tài kết cấu gồm ba chương, trong đó từng chương như sau:
Chương 1. Các vấn đề chung về “hụi”.
Chương 2. Những quy định của pháp luật về “hụi”
Chương 3. Thực trạng và đề xuất hoàn thiện các giao dịch về “hụi”

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô khoa Luật và giáo viên hướng
dẫn đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này.

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

5

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ “HỤI”
1.1.

Lịch sử hình thành hụi ở Việt Nam
Họ, hụi, biêu, phường là các tên gọi khác nhau của một hình thức giao dịch về tài

sản theo tập quán, tồn tại từ rất lâu và khá phổ biến ở Việt Nam. Ở miền Bắc thường gọi
là họ, ở miền Nam gọi là hụi, còn miền Trung thì hay gọi là biêu, là phường. Văn hoá bản
địa Việt Nam là văn hoá nông nghiệp trồng lúa nước. Điểm đặc trưng của nền văn hoá
bản địa này là sự bảo tồn lâu dài các công xã nông thôn (làng xã) và tinh thần cộng đồng

trong sinh hoạt của cư dân nông nghiệp lúa nước. Một trong những biểu hiện của tinh
thần cộng đồng làng xã của người Việt cổ truyền là việc lập hội để tương thân tương ái,
giúp đỡ lẫn nhau1. Hụi đã hình thành và phát triển trong dân gian không biết chính xác từ
thời điểm nào nhưng chắc chắn nó đã phát triển mạnh ở miền Bắc vào thời phong kiến.
Hình thức hụi thì thiên hình vạn trạng, tùy theo sự thỏa thuận và số lượng người tham gia.
Các chủ dây hụi thường là các bà phó, bà tổng, bà huyện – vợ của các quan lại ngày xưa.
Tính chất bốc lột là đặc điểm chủ yếu của các dây hụi này nên khi xóa bỏ chế độ phong
kiến, hụi-họ bị coi là bất hợp pháp. Mặc dầu vậy, hụi vẫn có sức sống mạnh mẽ trong đời
sống người dân đủ mọi thành phần vì đây cũng là hình thức tiết kiệm và hỗ trợ tín dụng
rất hiệu quả, nhanh chóng và tiện lợi, dựa vào sự tín chấp giữa những người thân quen là
chính2. Trước thế kỷ 19, Sài Gòn đã có xuất hiện hoạt động này như một kiểu Ngân hàng
tín dụng nhân dân. Cứ chiều chiều, bà con tụ tập lại thảo luận, bàn bạc về việc góp hụi,
lãnh hụi khiến bọn Tây tưởng họp kín để làm chính trị nên đã cho lính theo dõi về hoạt
động này. Cuối cùng hiểu ra đây là hoạt động giao dịch dân sự nên chúng chấp nhận cho
hoạt động.
Về pháp luật dân sự, từ thời Pháp thuộc pháp luật đã ghi nhận về hình thức giao
dịch này. Trong Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931, tại Quyển thứ hai, Thiên thứ hai, Chương
IX – Nói về khế ước lập hội có Điều 1024 quy định: “Phàm những hội để dành tiền và
những hội cho vay lẫn nhau, như chơi họ, hội hiếu hỉ, hội tư văn, là tuân theo dân luật,
1
2

ThS. Trần Văn Biên, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện KHXH Việt Nam
Nguyễn Quốc (báo Sài Gòn giải phóng).

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

6

SVTH: Hà Thái Thơ



NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
tục lệ cùng khế ước của người đương sự lập ra”. Hay “thể lệ luật này nếu không trái gì
với luật lệ hay tục riêng về thương mại, thời cũng đem thi hành với hội buôn. Đối với
những hội để dành tiền và những hội cho vay lẫn nhau như chơi họ cũng vậy” (Điều 1435
Bộ Hoàng việt Trung kỳ hộ luật 1936-1939). Hụi vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến
ngày nay, với những biến tướng mới có lúc đã bộc lộ những ảnh hưởng tiêu cực như lừa
đảo, cho vay nặng lãi. Vì thế có lúc nhà nước ta muốn xóa bỏ loại giao dịch này. Tại
Thông báo số 2590/PPLT ngày 10/8/1990 của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng đã coi hoạt
động chơi hụi như là một tệ nạn xã hội, nên trong Thông báo nói trên có đoạn viết “trong
tình hình hiện nay nghiêm cấm tất cả các tổ chức và mọi công dân tham gia chơi hụi, họ
dưới mọi hình thức. Bất cứ tổ chức cá nhân nào tham gia chơi hụi, họ thì tùy theo lỗi
nặng nhẹ mà xử lý hành chính hoặc truy tố trước pháp luật”. Tuy nhiên, đến năm 1992,
tại Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 08/8/1992 của Toà án nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát nhân dân tối cao lại hướng dẫn không được coi nợ hụi là những giao dịch bất
hợp pháp để không thụ lý và giải quyết mà phải coi đây là một loại giao dịch dân sự về
vay tài sản. Văn bản trên khẳng định rõ: "1/ Khi có tranh chấp về nợ hụi thì tòa án cần coi
đó là một loại tranh chấp về vay nợ và phải thụ lý, giải quyết các tranh chấp về nợ hụi. 2/
Khi giải quyết các tranh chấp về nợ hụi, tòa án chỉ buộc người nợ phải trả lại cho người
đòi nợ phần vốn gốc (tức nợ gốc) mà không buộc người nợ phải trả cho người đòi nợ một
khoản lãi nào". Thông tư này được áp dụng cho đến khi Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực.
Sau khi Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực thi hành, ngày 05/7/1996 TANDTC ra thông báo
số 38/KHXX "Về việc hủy bỏ, chấm dứt hiệu lực thi hành, sửa đổi, bổ sung và ban hành
mới các quy định pháp luật dân sự theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật
Dân sự". Theo điểm 4 mục I của thông báo này thì: "Thông tư liên ngành số 04/TTLN
ngày 08/8/1992 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn
giải quyết các tranh chấp về nợ hụi không còn hiệu lực thi hành để giải quyết các tranh
chấp về nợ hụi phát sinh từ ngày 01/7/1996". Để hướng dẫn việc giải quyết tranh chấp về
nợ hụi, Tòa án nhân dân tối cao đã lần lượt ban hành công văn số 49/KHXX ngày

20/5/1997 và công văn số 19/KHXX ngày 13/3/1998 với nội dung: "Đối với những tranh
chấp về nợ hụi phát sinh từ việc chơi hụi xác lập trước ngày 01/7/1996 thì tòa án vẫn giải
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

7

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
quyết theo Thông tư liên ngành số 04/TTLN. Như vậy, kể từ thời điểm 01/7/1996 nếu có
tranh chấp về hụi xảy ra thì không có văn bản pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp.
Sở dĩ như vậy là do Bộ luật dân sự 1995 không đề cập đến vấn đề hụi, nên sau đó đã có
nhiều cuộc họp của các cơ quan, ban nghành về vấn đề hụi nhằm tạo ra một quy chế, một
hành lang pháp lý cho hoạt động này, nhưng do các quan điểm còn khác biệt nhiều dẫn
đến trước ngày Bộ luật dân sự 2005 có hiệu lực Tòa án vẫn không có cơ sở pháp lý để thụ
lý, giải quyết các tranh chấp về hụi.
Dù pháp luật không quy định nhưng trên thực tế giao dịch về hụi vẫn luôn diễn ra
trong nhân dân, và các tranh chấp cũng vì vậy mà không ngừng phát sinh nhưng không
được cơ quan mang quyền lực nhà nước thụ lý, giải quyết.
Bản chất của chơi hụi là một hình thức để dành dụm của cải, một giao dịch mang
bản chất của một hợp đồng vay tài sản, lúc đầu mang đậm tính tương trợ, giúp đỡ, tương
thân, tương ái lẫn nhau trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện của một nhóm người cùng nhau
góp một số vốn nhất định mỗi người đều được nhận số tiền một lần và bằng nhau theo sự
thống nhất của tất cả những người góp vốn (đối với hụi không có lãi) hoặc là sự thỏa
thuận của những người trong giao dịch về hụi, theo đó người được lãnh hụi trực tiếp hoặc
thông qua chủ hụi nhận phần hụi của các thành viên khác và phải trả lãi. Tuy nhiên khi
bước sang nền kinh tế thì trường, do thiếu vắng sự điều chỉnh của pháp luật, các giao dịch
về hụi có lãi tăng lên, đặc biệt là hệ thống tín dụng chưa phát huy được hết sự tích cực
trong hoạt động của mình, dẫn đến ở nhiều nơi việc chơi hụi đã biến tướng dưới hình thức

cho vay nặng lãi hoặc lừa đảo để chiếm đoạt tài sản của người khác. Dù có mặc tiêu cực
phát sinh, nhưng đa phần giao dịch về hụi trong nhân dân là tích cực, đã tạo ra vốn làm ăn
cho nhau, hoặc giải quyết các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Do đó, sau một thời gian dài
khảo sát, nghiên cứu, các cơ quan chức năng đã thấy hết được mặc tích cực của giao dịch
này. Chính bởi vậy, để phát huy được ý nghĩa nhân văn của việc chơi hụi đồng thời để
quản lý và điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ này, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp pháp sinh từ giao dịch đặc biệt này, ngày 19/5/2005 - tại kỳ họp
thứ 7, Quốc hội khoá 11 đã thông qua Nghị quyết về việc thực hiện Bộ luật dân sự (sửa

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

8

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
đổi), trong đó có việc quy định hụi, họ, biêu, phường là một loại giao dịch dân sự được
điều chỉnh bằng các quy định của Bộ luật dân sự. Bộ luật dân sự mới (có hiệu lực thi hành
từ 01/01/2006) đã thừa nhận việc chơi hụi như một giao dịch dân sự hợp pháp về tài sản,
nằm trong mục “hợp đồng vay tài sản” (điều 479). Đây là quy định khung, mang tính
nguyên tắc, để thực sự đi vào cuộc sống cần phải hướng dẫn cụ thể. Chính vì vậy, ngày
27-11-2006 Chính phủ ban hành nghị định 144/NĐ-CP qui định về giao dịch hụi, họ,
biêu, phường (sau đây gọi là Nghị định 144). Như vậy, đến nay việc chơi hụi là hoàn toàn
hợp pháp, do đó, khi có tranh chấp về hụi thì tòa án có trách nhiệm phải thụ lý, giải quyết
theo trình tự qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Thông qua Nghị định 144 Chính phủ đã
nhìn nhận lại chính sách của Nhà nước ta đối với họ, hụi, biêu, phường và được thể hiện
chính thức tại Điều 2 của nghị định này. Theo đó, Nhà nước ta nghiêm cấm việc tổ chức
hụi để cho vay nặng lãi, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm hoặc các hành vi trái pháp luật khác
để chiếm đoạt tài sản của người khác; Quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia hụi

nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân theo quy định của Nghị định này và các văn bản
pháp luật có liên quan được pháp luật bảo vệ.
Tóm lại, trong lịch sử hình thành pháp luật dân sự Việt Nam, hụi cũng song song
tồn tại, tuy nhiên trong một khoảng thời gian khá dài (từ 01/7/1996 đến 01/01/2006) nó
không được thừa nhận, mãi đến khi Bộ luật dân sự 2005 ra đời nó mới được coi là hợp
pháp, có thể nói đây là một tiến bộ rất lớn của Bộ luật dân sự mới, điều chỉnh kịp thời mối
quan hệ này. Hiện nay, giao dịch về hụi đã được nhà nước thừa nhận là một giao dịch dân
sự hợp pháp nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân để giải quyết khó khăn. Từ đây trở
đi những người chơi hụi đã chính thức có một hành lang pháp lý cho sân chơi riêng của
mình.

1.2.

Một vài điểm mới trong Bộ Luật dân sự 2005 liên quan đến hợp đồng

góp “hụi”
Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995 đã góp phần to lớn
vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ dân sự, góp phần
giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển. Tuy nhiên với xu thế hội
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

9

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
nhập cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong nước và thế giới, các quy định trong
BLDS 1995 đã trở nên bất cập. Vì vậy Quốc hội nước ta đã tiến hành sửa đổi và thông
qua BLDS vào ngày 14/6/2005 và có hiệu lực vào ngày 01/01/2006. Với mong muốn tìm

hiểu và chia sẻ thông tin, tác giả xin được phép nêu một số sửa đổi, bổ sung của BLDS
2005 trong phần những quy định chung và phần nghĩa vụ dân sự của hợp đồng. Từ đây có
thấy được sự tác động của những quy định này đối với các giao dịch về hụi.
1.2.1. Một số điểm mới tại phần Những quy định chung
Thứ nhất: Về phạm vi điều chỉnh của BLDS
Nếu như Điều 1 BLDS 1995 quy định phạm vi điều chỉnh của BLDS chỉ bó hẹp
trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự thì
trong Điều 1 BLDS 2005 đã có sự mở rộng: “… Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý,
chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa
vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”. Như
vậy, BLDS 2005 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh không chỉ bó hẹp trong các quan hệ dân
sự thuần túy mà còn có các quan hệ kinh doanh, thương mại. Quy định này đã xác định
BLDS là luật trung tâm, luật “gốc” dùng để điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ
nhân thân hình thành trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng. Trong trường hợp có mâu thuẫn về
quan hệ kinh doanh, thương mại, lao động… mà luật chuyên ngành không có quy phạm
điều chỉnh thì sẽ dùng BLDS để giải quyết. Với quy định này, BLDS 2005 đã khắc phục
được tình trạng khiếm khuyết của pháp luật đối với những quan hệ tài sản và quan hệ
nhân thân nằm “lửng lơ” giữa hoặc ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự, kinh
doanh, thương mại. Như vậy, với nguyên tắc này nếu các quy phạm khác không có điều
chỉnh đến việc góp hụi thì chúng ta có thể áp dụng các quy phạm chung của BLDS để
điều chỉnh mà cụ thể là hợp đồng vay tài sản.
Thứ hai: Về nơi cư trú của cá nhân
Điều 52 BLDS 2005 quy định:

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

10

SVTH: Hà Thái Thơ



NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
“1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại
khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống”.
Khác với quy định tại Điều 48 BLDS 1995, các nhà làm luật xác định nơi cư trú
của cá nhân còn phụ thuộc vào yếu tố hộ khẩu, quy định này mang tính hành chính và
không phù hợp với quyền tự do đi lại, tự do cư trú được quy định tại Điều 68 Hiến pháp
năm 1992 và Điều 44 BLDS 1995. Bên cạnh đó BLDS 1995 còn quy định các vấn đề hộ
tịch và đăng ký hộ tịch từ Điều 54 đến Điều 66. Đây thực chất là các quan hệ hành chính
do pháp luật hành chính điều chỉnh. Do đó các nhà làm luật đã loại bỏ những quy định
này trong BLDS sửa đổi, bổ sung năm 2005. Tuy nhiên, nếu cá nhân dễ dàng thay đổi nơi
cư trú như vậy lại có tác dụng tiêu cực đối với những người chơi hụi. Khi họ cố ý muốn vi
phạm các nghĩa vụ của người chơi hụi thì họ chỉ cần thay đổi chổ ở để trốn tránh thực
hiện nghĩa vụ, gây khó khăn cho người có quyền trong việc đòi lại lợi ích của mình.
Thứ ba: Về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Trong chương giao dịch dân sự (GDDS), tại Điều 122 BLDS 2005 chỉ quy định 3
điều kiện có hiệu lực của GDDS chứ không quy định 4 điều kiện như BLDS 1995. Cụ thể
là BLDS 2005 đã bỏ điều kiện về hình thức của giao dịch. BLDS 2005 quy định hình thức
của GDDS là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
Với quy định này, BLDS 2005 đã góp phần hạn chế trong việc tuyên bố GDDS vô hiệu
đối với những giao dịch có nội dung và mục đích phù hợp quy định của pháp luật, phù
hợp với ý chí đích thực của các bên nhưng có vi phạm về hình thức; qua đó cũng hạn chế
những người không có thiện chí viện dẫn sự vi phạm về hình thức của giao dịch mà yêu
cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng tự do ý chí
của các bên. Và điều kiện về nội dung và mục đích cũng có sự thay đổi cơ bản. Nếu như
BLDS 1995 quy định nội dung và mục đích không trái quy định pháp luật và đạo đức xã
hội thì BLDS 2005 lại quy định không vi phạm điều cấm pháp luật, không trái đạo đức xã
hội. Quy định này tôn trọng nguyên tắc hiến định công dân được làm những gì pháp luật

không cấm.
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

11

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Các quy định của phần chung chính là các nguyên tắc để xây dựng các quy phạm ở
phần riêng, nên sự thay đổi các quy định này có ảnh hưởng nhất đến từng quy định cụ thể
của phần riêng.
1.2.2. Một số điểm mới tại phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng
Chế định nghĩa vụ và hợp đồng là những chế định quan trọng bởi nó thể hiện rõ nét
tính tự do, tự nguyện của các chủ thể trong giao dịch nói riêng và trong xã hội nói chung.
Điều 2 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 có quy định “Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân…”. Thể chế hóa quy định trên của Hiến pháp, BLDS 2005 đã giảm lược
các quy định mang tính hành chính can thiệp vào các quan hệ dân sự, tăng cường sự tự
do, tự nguyện của các chủ thể trong quan hệ dân sự.
Khái niệm nghĩa vụ đã được mở rộng và cụ thể hóa hơn so với BLDS 1995. Điều
280 BLDS 2005 quy định: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể
(sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”.
Quy định về thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong BLDS 2005 tại Điều 290 cũng có sự
sửa đổi đáng kể, thể hiện rõ sự tự do, tự nguyện và phù hợp với xu thế hội nhập của đất
nước. Quy định này chỉ quy định chủ thể nghĩa vụ phải trả tiền đúng như đã cam kết mà
không bắt buộc họ phải trả bằng đồng Việt Nam như trong BLDS 1995.
Trong các biện pháp bảo đảm đã có sự sửa đổi cơ bản, ví dụ phạt vi phạm không

còn là một biện pháp bảo đảm nữa mà đã được đưa vào phần nội dung của hợp đồng. Các
bên có thể thỏa thuận phạt vi phạm trong hợp đồng như là một biện pháp chế tài; quy định
bảo lãnh bằng tín chấp đã trở thành một biện pháp bảo đảm cụ thể có đặc thù khác biệt so
với các biện pháp khác nói chung và biện pháp bảo lãnh nói riêng.
Các biện pháp cầm cố và thế chấp cũng có sự thay đổi cho đúng với bản chất của
chúng. BLDS 1995 quy định việc cầm cố được thực hiện bằng động sản, thế chấp được

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

12

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
thực hiện bằng bất động sản. Như vậy, tiêu chí để phân biệt hai biện pháp này cơ bản căn
cứ vào động sản và bất động sản. BLDS sửa đổi, bổ sung đã không sử dụng tiêu chí trên
mà căn cứ vào cách thức thực hiện và xác định rủi ro. Cầm cố tài sản là việc một bên giao
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia, còn thế chấp tài sản là việc một bên
dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiên nghĩa vụ mà không phải chuyển
giao tài sản. Với quan điểm tôn trọng sự tự do ý chí nhằm thúc đẩy các giao lưu dân sự
phát triển, BLDS 2005 còn quy định bên cầm cố, thế chấp được bán tài sản đó nếu được
bên nhận cầm cố, thế chấp đồng ý; được bán tài sản thế chấp nếu tài sản đó là hàng hóa
luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Đây là những quy định tạo ra sự thông
thoáng cho các bên và phù hợp với nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng.
Trong chế định giao kết hợp đồng, các quy định về đề nghị giao kết hợp đồng cũng
được quy định cụ thể hơn về thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực (Điều 391),
thời điểm chấm dứt đề nghị (Điều 394). Đặc biệt Điều 401 quy định hình thức của hợp
đồng có thể được giao kết bằng lời nói, văn bản, hành vi cụ thể và không bị vô hiệu trong
trường hợp có vi phạm về hình thức trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về vấn đề hợp đồng vô hiệu, BLDS 2005 có quy định bổ sung hợp đồng vô hiệu
do đối tượng không thể thực hiện được (Điều 411).
Khiếm khuyết của BLDS 1995 là không quy định vấn đề thời hiệu khởi kiện về
hợp đồng. Khiếm khuyết ấy đã dẫn đến tình trạng tranh chấp kéo dài, không giải quyết
dứt điểm, làm cản trở giao lưu dân sự và gây tâm lý bất an cho chủ thể tham gia. Để giải
quyết vấn đề này, BLDS 2005 đã bổ sung quy định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân
sự là 02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm phạm (Điều
427).
Trong hợp đồng vay, vấn đề lãi suất được BLDS 2005 quy định cụ thể, rõ ràng hơn
so với BLDS 1995. Điều 476 BLDS sửa đổi bổ sung quy định: “Lãi suất vay do các bên
thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố đối với loại cho vay tương ứng…”.

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

13

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Ta thấy rằng các quy định trên đây đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hợp đồng vay
tài sản. Mà cái gốc của hợp đồng góp hụi chính là hợp đồng vay tài sản, do đó các quy
định ở phần riêng này ít nhiều có ảnh hưởng đến hợp đồng góp hụi.

1.3.

Hợp đồng vay tài sản
1.3.1. Khái niệm hợp đồng vay tài sản
1.3.1.1. Khái niệm

Trong cuộc sống hằng ngày, để giải quyết khó khăn tạm thời về kinh tế; đặc biệt

đối với những gia đình túng thiếu cần vốn để sản xuất, kinh doanh phải vay mượn tiền
vàng của người khác, như vậy vay mượn là những phương tiện pháp lý để thỏa mãn nhu
cầu đó. Nhà nước đã tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn ngân hàng với mức lãi suất phù
hợp, các hộ nông dân nghèo có thể phát triển sản xuất, kinh doanh. Mặc khác, nhân dân
vay, mượn của nhau để tiêu dùng cho những việc cần thiết trong gia đình hoặc để kinh
doanh là việc phổ biến và có ý nghĩa cần được Nhà nước khuyến khích. Vì vậy, Bộ luật
dân sự 2005 quy định về hợp đồng vay tài sản như sau:
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài
sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại
theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định
(Điều 471).
1.3.1.2. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng đơn vụ
Xét về nguyên tắc, hợp đồng cho vay là đơn vụ đối với những trường hợp vay
không có lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải hoàn trả vật cùng loại
tương ứng với số lượng, chất lượng của tài sản cho bên cho vay. Bên cho vay không có
quyền đối với bên cho vay. Tuy nhiên, đối với hợp đồng cho vay có lãi suất thì bên vay có
nghĩa vụ chuyển tiền đúng thời hạn, nếu vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

14

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Tính chất đền bù của hợp đồng vay tài sản thể hiện thông qua việc trả lãi suất. Điều
này có nghĩa là, nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận về lãi suất thì đây là hợp đồng
có đền bù, ngược lại, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không trả lãi suất
thì hợp đồng không có tính chất tài sản.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản của bên cho
vay sang bên vay, khi bên vay nhận tài sản thì tài sản thuộc sở hữu của bên vay. Vì vậy,
bên vay có toàn quyền đối với tài sản vay, trừ trường hợp vay có điều kiện.
1.3.2. Đối tượng và kì hạn của hợp đồng vay tài sản
1.3.2.1. Đối tượng
Thông thường, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là một khoản tiền. Nhưng trong
thực tế ngoài đối tượng phổ biến là tiền ra thì đối tượng của hợp đồng vay có thể là vàng,
kim khí, đá quý hoặc một số tài sản khác. Tuy nhiên, theo định nghĩa của hợp đồng vay
tài sản thì bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng,
chất lượng và lãi suất nếu các bên có thỏa thuận, như vậy, đối tượng của hợp đồng vay tài
sản phải là vật cùng loại.
1.3.2.2. Kì hạn
Hợp đồng vay tài sản có thể có kì hạn hoặc không có kì hạn (xác định, không xác
định). Nếu hợp đồng vay tài sản không có thỏa thuận về kì hạn thì hợp đồng vay tài sản
mặc nhiên được xem là không kì hạn. Với loại vay này thì bên cho vay có thể yêu cầu bên
vay thực hiện hợp đồng bất kì thời điểm nào. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho bên vay
chuẩn bị tiền và tài sản khi trả, bên cho vay phải báo cho bên vay một thời hạn hợp lí để
thực hiện hợp đồng. Hết thời hạn đó, bên vay buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình (
Điều 477 BLDS). Nếu hợp đồng vay không có kỳ hạn thì bên vay có thể thực hiện vào bất
kì thời gian nào, bên cho vay không được từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của
bên cho vay. Xác nhận thời điểm chấm dứt cho vay có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định trách nhiệm dân sự của các bên và thời hiệu của hợp đồng.

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

15


SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Trường hợp hết thời hạn hợp đồng mà bên cho vay không trả nợ thì phải chịu trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng. Nếu là vay có lãi thì bên vay còn phải trả lãi trên nợ gốc và
lãi quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
vay tại thời điểm trả nợ. Nếu vay không có lãi thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ
chậm trả lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thỏa thuận (khoản 4 Điều 474).
1.3.3. Hình thức của hợp đồng vay tài sản
Hình thức của hợp đồng vay tài sản có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hình
thức miệng thường được áp dụng trong những trường hợp như giá trị tài sản cho vay
không lớn hoặc giữa các bên có mối quan hệ thân quen. Trường hợp cho vay bằng miệng,
nếu xảy ra tranh chấp hợp đồng, bên cho vay phải chứng minh được là mình đã cho vay
được một số tiền hoặc một số tài sản nhất định. Trong thực tế, nếu hình thức của hợp
đồng vay bằng miệng mà có tranh chấp thì rất khó xác định quyền và nghĩa vụ giữa các
bên. Để làm cơ sở pháp lý cho hợp đồng vay tài sản các bên cần ký kết hợp đồng bằng
văn bản. Các bên có thể tự lập văn bản hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác
nhận văn bản đó.
1.3.4. Lãi suất và lãi trong hợp đồng vay tài sản
Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là khoản tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả
thêm vào số tài sản hoặc số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được
tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào lãi suất, số tiền cho vay và thời hạn vay mà bên vay phải trả số tiền nhất định
(tiền lãi). Số tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời hạn cho vay.
Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản do các bên thỏa thuận, nếu các bên không thỏa
thuận hoặc pháp luật không có quy định thì hợp đồng vay không có lãi suất. Nếu các bên
có thỏa thuận về lãi suất thì không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước

quy định đối với loại vay tương ứng (Điều 476 BLDS). Như vậy, nếu các bên thỏa thuận
về lãi suất gấp 2, 3 lần lãi suất do Ngân hàng nhà nước quy định thì khi tranh chấp xảy ra,

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

16

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
mức lãi suất tối đa mà tòa án chấp nhận không vượt quá 150% mức lãi suất cao nhất do
Ngân hàng nhà nước quy đinh đối với loại vay tương ứng.
1.3.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên
1.3.5.1. Bên cho vay
Nếu hợp đồng vay không có kì hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả tài
sản và lãi (nếu có thỏa thuận) vào bất kỳ thời gian nào nhưng phải thông báo cho bên vay
một thời hạn hợp lí. Hết hạn đó là hết hạn hợp đồng và bên vay không trả nợ là vi phạm
về thời hạn.
Đối với hợp đồng vay có kì hạn, khi hết hạn hợp đồng, bên cho vay có quyền yêu
cầu bên cho vay phải trả cho mình một số tiền, tài sản tương ứng với số tiền, tài sản đã
cho vay. Ngoài ra, nếu các bên có thỏa thuận về lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu trả
tiền lãi như thỏa thuận. Nếu hợp đồng cho vay có áp dụng biện pháp đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ nhưng bên vay không thực hiện đúng thời hạn thì bên cho vay có quyền xử lý tài
sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ như đã thỏa thuận hoặc yêu cầu bán đấu giá để thực
hiện nghĩa vụ. Bên cho vay có nghĩa vụ giao tài sản đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng,
chủng loại như đã thỏa thuận cho bên vay. Nếu bên vay cố ý lừa dối bên vay để chuyển
giao tài sản không đảm bảo chất lượng mà gây thiệt hai cho bên vay thì phải bồi thường.
1.3.5.2. Bên vay
Là người cần giúp đỡ về vật chất của bên cho vay. Do vậy, khi đến hạn hợp đồng

phải tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng đã ký kết. Phải trả tiền
hoặc tài sản đã và tiền lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Nếu đối tượng
của hợp đồng là tài sản cùng loại. Nếu hợp đồng cho vay không kì hạn, khi bên cho vay
yêu cầu trả nợ thì phải thực hiện hợp đồng theo thỏa thuận. Bên vay cũng có thể thực hiện
hợp đồng vào bất cứ thời gian nào. Thời điểm này được coi là thời điểm chấm dứt hợp
đồng cho vay không kì hạn. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về mục đích vay,
bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản của bên vay có đúng mục đích không.

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

17

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Nếu sử dụng tài sản không đúng mục đích thỏa thuận, bên vay có quyền hủy hợp đồng
(Điều 475 BLDS).
Nếu hợp đồng có kì hạn mà bên cho vay trả nợ trước kì hạn thì phải trả toàn bộ nợ
gốc và lãi của thời hạn vay trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Bởi vì khi cho vay,
bên cho vay đã xác định trong thời gian cho vay đó không sử dụng tài sản, tiền vào mục
đích khác, do vậy khi trả lại tài sản thì bên cho vay chưa có kế hoạch sử dụng tài sản đó.
Hay nói cách khác bên cho vay sẽ bị động khi bên cho vay trả tài sản trước thời hạn
(khoản 2 Điều 478).

1.4.

“Hụi” – hợp đồng vay tài sản đặc biệt
Họ, hụi, biêu, phường (gọi chung là hụi) là một loại giao dịch dân sự về tài sản.


Giao dịch này đã được nhân dân ta sử dụng từ rất lâu và nó đã trở thành tập quán. Dưới
hình thức góp vốn, lãnh vốn theo phường hội trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người
về thời gian, số tiền hoặc tài sản khác (lúa, vật nuôi…) thể thức góp vốn, lãnh hụi và
quyền, nghĩa vụ của các thành viên.
Nguyên tắc chung của chơi hụi là nhiều người (thành viên) cùng tham gia một dây
hụi và bầu ra chủ hụi. Hàng kỳ (do các bên thỏa thuận) các thành viên phải góp một số
tiền nhất định cho chủ hụi và chủ hụi sẽ góp phần hụi của tất cả các thành viên và giao lại
cho người được lãnh hụi trong kì mở hụi (hốt hụi). Như vậy, trong kì góp hụi sẽ có một
người vay và những thành viên còn lại chưa hốt hụi là người cho vay, theo nguyên tắc này
thì người nào hốt hụi càng sớm thì càng có nhiều chủ nợ và do đó phải trả lãi nhiều nhất
(hụi chết) và cứ giảm dần cho đến khi người cuối cùng hốt hụi.
Như đã nêu trên hụi là một giao dịch dân sự, nhưng giao dịch dân sự này là một
hợp đồng hay một hành vi pháp lý đơn phương? Ta thấy rằng hợp đồng là sự thỏa thuận
của các bên để xác lập quyền và nghĩa vụ của mình, hay nói cách khác hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa người sẽ thực hiện nghĩa vụ và người thụ hưởng từ nghĩa vụ này. Ngược
lại, hành vi pháp lý đơn phương cũng làm phát sinh nghĩa vụ là hành vi pháp lý được chủ
thể của quan hệ pháp lý thực hiện với ý thức rằng bằng hành vi đó, chủ thể của quan hệ

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

18

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
pháp luật cam kết đáp ứng một yêu cầu của một chủ thể khác của quan hệ pháp luật. Vậy,
ta có thể khẳng định rằng hụi là một hợp đồng dân sự.
Hụi một giao dich dân sự, được quy định trong BLDS 2005 đặt trong Mục hợp
đồng vay tài sản nên nó là một hợp đồng vay tài sản? Trở lại với nguyên tắc chung của

hợp đồng góp hụi (dây hụi), khi đến kỳ mở hụi sẽ có người được lãnh hụi và người này
sau khi lãnh hụi phải hoàn trả lãi cho từng thành viên vào từng kỳ mở hụi tiếp theo, và
người này có thể phải trả lãi nếu tham gia vào dây hụi có lãi. Mặc khác đối tượng của hợp
đồng góp hụi là những tài sản cùng loại, sẽ được phân tích ở phần sau, nên người này
không phải trả đúng vật mà mình đã nhận. Dựa vào các điểm này ta có thể thấy rằng hụi
không phải là một hợp đồng mượn tài sản mà là một hợp đồng vay tài sản. Điều 479
BLDS không quy định về loại vay này không bắt buộc phải là một hợp đồng vay tài sản
có bảo đảm, vì vậy ta có thể suy đoán rằng đây là một giao dịch dân sự có thể thực hiện
biện pháp bảo đảm hoặc không bảo đảm, do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, thực tế giao
dịch cho thấy rằng đây là một giao dịch về tài sản không có bảo đảm, sự tín nhiệm lẫn
nhau là cơ sở để họ xác lập giao dịch. Họ (các thành viên) thường thì đã có sự quen biết
lẫn nhau hoặc ít ra là đã có sự quen biết với chủ hụi, nên khi tham gia vào dây hụi họ
không yêu cầu người tham gia phải có tài sản bảo đảm.
Khi đến kỳ mở hụi sẽ có người lãnh hụi và tất cả các thành viên còn lại sẽ góp hụi,
cho đến khi thành viên cuối cùng được lãnh hụi. Nếu xem xét dưới góp độ hợp đồng vay
tài sản không có lãi (hụi không có lãi) thì ta có thể thấy rằng vào mỗi kỳ góp hụi tất cả các
thành viên đều góp hụi là như nhau, do đó, tất cả các thành viên đều đóng vay trò là người
cho vay và người đi vay hay quyền và nghĩa vụ của họ là như nhau. Nếu xem xét dưới
gốc độ hợp đồng vay tài sản có lãi (hụi có lãi) thì sẽ xuất hiện ba nhóm đối tượng trong
cùng một hợp đồng:
Nhóm 1, thành viên chuyên đi vay nghĩa là người này sẽ tham gia vào dây hụi,
lãnh hụi, sau đó người này sẽ góp toàn phần hụi cơ bản3 (đóng hụi chết) để trả cho các
thành viên vào các kỳ lãnh hụi tiếp theo, thành viên này thường là người lãnh hụi đầu
3

Phần hụi này bao gồm cả lãi gốc và lãi cho thành viên đó.

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

19


SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
tiên. Ngoại lệ, đối với chủ hụi đầu thảo cũng là người chuyên đi vay nhưng không phải trả
lãi.
Nhóm 2, thành viên vừa đóng vay trò là người đi vay và người cho vay, kể từ
thành viên thứ hai trở đi đến thành viên gần cuối cùng lãnh hụi, những thành viên này
cũng vừa góp hụi và lãnh hụi cho đến khi dây hụi kết thúc. Tuy nhiên điều khác biệt ở đây
là khi thành viên này chưa lãnh hụi thì thành viên này sẽ góp hụi sống nên đóng vay trò
của người cho vay các thành viên đã lãnh hụi, ngược lại, khi thành viên này đã lãnh hụi
thì người này cũng phải góp hụi chết nhưng lúc này thì thành viên này lại đóng vay trò
của người đi vay của các thành viên còn lại chưa lãnh hụi.
Nhóm 3, thành viên chuyên cho vay là thành viên lãnh hụi cuối cùng, người này
luôn luôn góp hụi sống nên luôn đóng vay trò là chủ nợ và đương nhiên là không phải trả
lãi cho ai. Ta có thể thấy rằng người nào càng đóng nhiều phần hụi sống thì người này sẽ
được nhận nhiều lãi và ngược lại.
Như vậy, với hai loại hụi có lãi và không có lãi đều có điểm chung thành viên tham
gia hụi vừa đóng vay trò là chủ chủ nợ (bên cho vay) vừa đóng vay trò là con nợ (bên
vay), điều này tỏ ra bất hợp lý trong cùng một hợp đồng vay tài sản thông thường – bên
vay và bên cho vay – nên có thể nói đây là một hợp đồng vay tài sản đặc biệt.

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

20

SVTH: Hà Thái Thơ



NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI”
2.1.

Khái niệm và đặc điểm pháp lý
2.1.1. Các khái niệm
Như đã phân tích ở phần trên, để thỏa mãn nhu cầu về vốn của người dân thì nhà

nước luôn có chính sách về vốn cho nhân dân thông qua các tổ chức tín dụng nhằm đảm
bảo các chính sách của Nhà nước như cho vay vốn để xây nhà, kinh doanh, phục vụ các
nhu cầu của cuộc sống… Nhưng bất lợi của phương pháp này là phải tốn nhiều thời gian
và thủ tục vay vốn phức tạp, đặc biệt đối với người dân ít chữ nghĩa và cần vốn gấp thì
đây quả là một vấn đề thực sự nan giải. Trước nhu cầu về vốn nhưng lại không muốn gặp
các khuyết điểm của việc vay vốn ở các tổ chức tín dụng nên người dân đã tìm đến các
loại hình khác ở bên ngoài như vay có kỳ hạn, vay nóng, vay trả góp, góp hụi…
¯Trong đó, vay có kỳ hạn là hợp đồng vay theo đó bên vay phải trả lại vốn cho
bên cho vay tại một thời điểm do hai bên thỏa thuận. Đối với loại vay này thì hiện nay
được áp dụng khá phổ biến đối với tài sản có giá trị lớn trên tài sản là vàng hoặc tiền, và
hợp đồng vay thường kéo dài một vài tháng, một năm hoặc có thể dài hơn và thường thì
các bên trả lãi vào cuối kỳ cùng với nợ gốc.
¯Vay nóng, một giải pháp được lựa chọn khi người vay cần một khoản vốn gấp và
có thể trả trong thời hạn nhanh chóng nhất. Có thể nói vay nóng là hợp đồng vay tài sản
có kỳ hạn rất ngắn và bên vay phải trả cho bên cho vay một khoản tiền do hai bên thỏa
thuận.
Ví dụ, A cần 10 triệu để mua gấp món hàng nào đó, nếu A không mua trong thời
hạn một ngày thì chủ hàng sẽ bán hàng cho người khác. Nhưng người được A mượn tiền
thì đến 3 ngày sau mới trả cho A. Vì vậy, giải pháp của A lúc này là đến tìm B để hỏi vay
10 triệu và sẽ trả trong thời hạn 3 ngày, hai bên đã thỏa thuận là A phải trả cho B khoản
tiền là 200 ngàn cùng với nợ gốc là 10 triệu. Như vậy, ưu điểm của loại vay này là người

vay có thể tìm được nguồn vốn một cách nhanh nhất nhưng khuyết điểm là lãi suất cho
vay lại quá cao và chỉ dành cho những người có thể có thu nhập trong thời hạn nhanh nhất
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

21

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
đủ khả năng để thanh toán nợ gốc. Loại giao dịch này phát triển mạnh tại các tổ chức tín
dụng, nơi mà người dân chưa đủ khả năng hiện tại để thanh toán ngân hàng khi đến hạng,
do đó không thể vay lại. Lúc này người dân phải vay nóng để trả cho ngân hàng và sau đó
vay lại ngân hàng để thanh toán cho khoản vay nóng, bằng phương pháp này sẽ giúp
người dân giữ được tài sản đã thế chấp ngân hàng để tiếp tục sản xuất.
¯Một loại cho vay khác đó là cho vay trả góp, đây là một hình thức cho vay không
kỳ hạn theo đó bên cho vay cho bên vay vay một khoản tiền nhất định và bên vay phải trả
lãi theo định kỳ do hai bên thỏa thuận cho đến khi bên vay trả hết nợ gốc4. Ưu điểm của
loại hình vay này là người vay có thể tìm nguồn vốn nhanh và không phải trả nợ gốc
ngay, nhưng khuyết điểm thì lãi suất trả kéo dài đôi khi đến thời điểm thanh toán hết số
nợ gốc người vay đã phải trả lãi gấp mấy lần nợ gốc, cách này dễ dẫn đến việc người cho
vay rơi vào trường hợp cho vay nặng lãi.
Ví dụ, A cần tiền nên mượn B 100 ngàn và mỗi tuần A phải trả lãi cho B là 10
ngàn, hợp đồng vay được thực hiện đến tuần thứ 28 thì A trả cho B 100 ngàn và 10 ngàn/
tuần như vậy trong suốt thời gian vay A đã phải trả cho B một khoản tiền lãi là 280 ngàn.
¯ Đối với các giao dịch về hụi, pháp luật hiện hành ghi nhận khái niệm như sau:
Họ, hụi, biêu, phường (sau đây gọi chung là họ) là một hình thức giao dịch bằng
tài sản theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng
định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lãnh họ và quyền,
nghĩa vụ của các thành viên (khoản 1 Điều 479 BLDS 2005).

Qua các khái niệm trên, một điểm lớn giúp ta nhận thấy sự khác biệt của các giao
dịch về hụi so với các loại hợp đồng vay tài sản khác, đó là, cơ sở để xác lập các giao dịch
về hụi là một nhóm người mà không phải là hai bên.
Qua tìm hiểu của của tác giả thì hầu hết những người chơi hụi đều có mục đích rõ
ràng như: huy động vốn để làm ăn, trả nợ, thậm chí chữa bệnh, cưới vợ, cho con du học...
Các tiểu thương cho rằng muốn có vốn mở rộng làm ăn, họ không thể tìm đến ngân hàng
4

Kỳ hạn áp dụng thường là ngày, tuần, tháng.

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

22

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
vì sẽ phải thế chấp tài sản mới vay được. Trong khi chơi hụi thì không cần chứng minh
nhân dân, hộ khẩu mà đến lúc cần thì hốt nhanh, lãi suất cũng không cao lắm và người
vay có thể trả dần theo từng kỳ mở hụi. Do đó hụi là cách huy động vốn khả thi nhất và
nhiều người đã khẳng định rằng tham gia hụi đã giúp họ giải quyết rất nhiều vấn đề về
vốn.
2.1.2. Đặc điểm pháp lý về “hụi”
Về bản chất thì hợp đồng góp hụi là một hợp đồng vay tài sản nên nó có tất cả các
đặc điểm pháp lý của hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên, hợp đồng góp hụi cũng có những
điểm khác biệt.
Thứ nhất, về tính đơn vụ hay song vụ. Hợp đồng góp hụi là một hợp đồng dân sự
đặc biệt vừa thể hiện tính song vụ và vừa thể hiện tính đơn vụ. Tính chất song vụ hay đơn
vụ của hợp đồng góp hụi được thể hiện thông qua thể thức góp hụi. Nghị định 144 quy

định giao dịch về hụi có hai hình thức, đó là hụi có lãi và hụi không có lãi (trong đó hụi
có lãi bao gồm hụi đầu thảo và hụi hưởng hoa hồng). Đối với hụi có lãi thì trong hợp đồng
luôn thể hiện tính song vụ. Đối với hợp đồng góp hụi không có lãi thì việc xác định tính
chất song vụ hay đơn vụ tỏ ra rất khó xác định. Nếu nói rằng hợp đồng góp hụi không có
lãi có tính chất đơn vụ, vì người được lãnh hụi (người vay) mới có quyền yêu cầu những
người còn lại góp hụi, những người khác không được quyền yêu cầu ngược lại. Tuy
nhiên, vấn đề trở nên phức tạp khi người cho vay trở thành người đi vay, người đã góp hụi
được lãnh hụi, lúc này người này hoàn toàn có quyền yêu cầu người đã lãnh hụi góp hụi
cho mình. Như vậy, ta có thể nói rằng trong hợp đồng góp hụi không có lãi vừa mang tính
chất của một hợp đồng song vụ và vừa mang tính chất của hợp đồng đơn vụ
Thứ hai, về tính chất có đền bù hay không đền bù. Có thể dựa vào thể thức góp hụi
mà hợp đồng góp hụi vừa mang tính chất đền bù, vừa mang tính chất không đền bù. Số
tiền mà người vay phải trả cho người đi vay (hay còn gọi là lãi) chính là phần đền bù
trong hợp đồng. Như vậy, tính chất đền bù hay không đền bù được thể dựa trên việc các
thành viên thỏa thuận với nhau thực hiện hợp đồng góp hụi có lãi hay không có lãi, nếu
hợp đồng góp hụi không có lãi là hợp đồng không có tính chất đền bù, nếu hợp đồng có
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

23

SVTH: Hà Thái Thơ


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ “HỤI” – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
lãi thì hợp đồng có tính chất đền bù. Phân tích trên chỉ là quan hệ giữa thành viên với
nhau, nếu xét quan hệ giữa thành viên và chủ hụi thì phần hoa hồng mà chủ hụi nhận
được từ thành viên (đối với hụi hưởng hoa hồng) hay số lãi suất của chủ hụi không phải
trả cho thành viên ( đối với hụi đầu thảo) có nên xem xét là phần đền bù trong hợp đồng
hay không? Nếu như các thành viên thỏa thuận góp hụi không có lãi, nhưng khi đến kỳ
mở hụi thành viên lại trích ra một phần từ số tiền lãnh hụi cho chủ hụi thì phải xem xét

như thế nào? Vấn đề này cần được phân tích phân tích một cách sâu hơn từ phía các nhà
chuyên môn. Tuy nhiên, theo ý kiến của người viết cho rằng: để giải quyết vấn đề này
chúng ta nên phân tích hợp đồng góp hụi thành hai phần: phần một là thỏa thuận giữa
những thành viên với nhau, phần hai là thỏa thuận giữa chủ hụi và thành viên. Với cách
phân tích này chúng ta có thể xác định rằng tính chất đền bù trong hợp đồng góp hụi có
thể có những trường hợp sau:
Trường hợp 1: Chỉ mang tính đền bù nếu cả phần một và phần hai đều mang tính
chất đền bù;
Trường hợp 2: Chỉ mang tính không đền bù nếu cả hai phần đều không mang tính
đền bù;
Trường hợp 3: Vừa mang tính đền bù và vừa mang tính không đền bù nếu phần
một mang tính đền bù nhưng phần hai không mang tính đền bù hoặc ngược lại.
Thứ ba, tính chất của một hợp đồng thực tại. Hụi chính thức được giao kết khi
những người tham gia chơi hụi đóng góp phần hụi của mình trong kỳ mở hụi đầu tiên.
Nếu một thành viên nào đó đã thỏa thuận tham gia hụi nhưng trong kỳ mở hụi đầu tiên
người này lại không tham gia góp hụi thì xem như người đó không tham gia chơi hụi;
hoặc một người thể hiện rõ ý định đứng ra làm chủ hụi cho một dây hụi và được các thành
viên khác chấp nhận nhưng trước khi đến kỳ mở hụi đầu tiên người này lại từ bỏ ý định
làm chủ hụi thì xem như dây hụi đó chưa được tổ chức, nếu vẫn là thỏa thuận này khi đến
kỳ mở hụi các thành viên lại chọn ra một chủ hụi mới thì phải xem đây là một thỏa thuận
mới. Như vậy, trong cả hai trường hợp chủ hụi hay thành viên đều không bị ràng buộc
vào bất cứ nghĩa vụ nào.
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

24

SVTH: Hà Thái Thơ



×