Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.18 KB, 81 trang )

Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(Niên khóa: 2006-2010)

Đề tài:

VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO OAN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

Th.S. MẠC GIÁNG CHÂU

ĐỖ THỊ THUỲ TRANG
MSSV: 5062366
LỚP: LUẬT TƯ PHÁP 2-K32
Cần Thơ - Tháng 4/2010

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang



Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
…………………………………………………………………………………………………

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

3

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
…………………………………………………………………………………………………

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Toà án nhân dân: TAND
2. Toà án nhân dân tối cao: TANDTC

3. Hội đồng xét xử: HĐXX
4. Viện kiểm sát: VKS

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
OAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................................4
1.1 Khái niệm chung về oan......................................................................................4
1.1.1 Khái niệm về oan và bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự
của Việt Nam......................................................................................................4
1.1.1.1 Khái niệm về oan...........................................................................4
1.1.1.2 Khái niệm về bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự....6
1.1.1.3 Đặc điểm về bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự......7
1.1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tình trạng gây ra oan trong tố tụng hình sự......9
1.1.2.1 Nguyên nhân của tình trạng xét xử oan trong tố tụng hình sự....................10
1.1.2.2 Hậu quả của việc xét xử oan trong tố tụng hình sự..........................16
1.1.3 Sự cần thiết của chế định bồi thường thiệt hại cho ngưới bị oan trong tố tụng
hình sự.........................................................................................................................19
1.1.4 Những nguyên tắc bồi thường thiệt hại Nhà Nước do oan............................21
1.2. Sự ra đời của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước.............................22
1.2.1 Sự cần thiết phải ban hành Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước...............22

1.2.2 Quá trình ra đời Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước.................................24
1.2.3 Mục đích ban hành Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước...........................24
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO OAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM...27
2.1 Các trường hợp được và không được bồi thuờng thiệt hại do oan trong tố
tụng hình sự theo Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước....................................27
2.1.1 Các trưòng hợp được bồi thường...................................................................27
2.1.1.1 Bồi thường về mặt vật chất......................................................................31
2.1.1.2 Bồi thường về mặt tinh thần....................................................................36
2.1.2Các trường hợp không được bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự.........40
2.2 Chủ thề bồi thường và nghĩa vụ hoàn trả..........................................................43
2.2.1. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường................................................................43
2.2.1.1 Trách nhiệm bồi thường của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số họat động điều tra.............................................................................43

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
2.2.1.2 Trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm Sát Nhân Dân trong hoạt
động tố tụng hình sự.........................................................................................44
2.2.1.3 Trách nhiệm bồi thường của Toà án nhân dân...............................45
2.2.2 Nghĩa vụ hoàn trả..................................................................................49
2.2.2.1 Nghĩa vụ hoàn trả và xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ
..........................................................................................................................50
2.2.2.2 Căn cứ xác định mức hoàn trả.........................................................51

CHƯƠNG 3: NHỮNG TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ĐỂ KHẮC PHỤC
CHO VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO OAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM..........................................................................................................53
3.1. Những tồn tại và giải pháp đề xuất để khắc phục tồn tại về mặt pháp lý.......53
3.1.1 Vấn đề bồi thường thiệt hại về tinh thần.........................................................53
3.1.1.1 Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khoẻ bị xâm hại.....53
3.1.1.2. Khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại................................................54
3.1.1.3. Quy định về mức bồi thường thiệt hại về tinh thần..................................55
3.1.2. Trường hợp không được bồi thường thiệt hại.................................................55
3.1.3. Phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự.....56
3.2 Những tồn tại và giải pháp đề xuất khắc phục những tồn tại về mặt thực
tiễn..............................................................................................................................57
3.2.1 Về chứng cứ chứng minh thiệt hại.................................................................57
3.2.2. Vấn đề thương lượng.....................................................................................60
3.2.3. Vấn đề xin lỗi, cải chính công khai................................................................63
3.2.4. Sự né tránh và đùn đẩy trách nhiệm của cơ quan có trách nhiệm bồi thường.65
3.3. Những giải pháp chung để khắc phục tình trạng gây ra oan trong tố tụng
hình sự........................................................................................................................67
3.3.1. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn...............................................................67
3.3.2. Vấn đề tranh tụng tại phiên toà.....................................................................69
3.3.3. Vấn đề hình sự hoá.......................................................................................69
3.3.4. Trình độ kiến thức của người tiến hành tố tụng............................................70
3.3.5. Vấn đề đạo đức của ngưòi tiến hành tố tụng................................................71
3.3.6. Vấn đề cơ sở vật chất kỹ thuật......................................................................71
KẾT LUẬN................................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

6


SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân đã
được pháp luật ghi nhận, Nhà nước phải sử dụng quyền lực của mình để chống lại mọi
hành vi tiêu cực nhất là trong lĩnh vực tội phạm. Giải quyết vụ án hình sự một cách
khách quan, đúng pháp luật là sự thể hiện việc bảo vệ quyền con người. Nhà nước phải
ngăn chặn hoặc xử lý kịp thời không để cho những hành vi phạm tội xâm phạm đến
quền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhưng không phải vì việc xử lý nhanh chóng
vụ án hình sự mà để quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm.
Tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án.
Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nhà
nước thông qua hoạt động tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
Thông qua hoạt động tố tụng hình sự mà cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết vụ
án tố tụng hình sự, mà ở đó số phận pháp lý của một con người sẽ được định đoạt hoặc
là tước bỏ một số quyền hoặc là bảo vệ quyền của họ. Mục đích của tố tụng hình sự là
xét xử đúng người đúng tội nhưng cũng không được làm oan người vô tội. Điều đó
được thể hiện lần đầu tiên tại Điều 10 Bộ Luật tố tụng hình sự 1985 và sau này được
thể trong Hiến pháp 1992. Tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 quy định “Không ai có
thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật của. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có
quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp
luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử
lý”. Kế thừa những nguyên tắc dân chủ của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật

Tố tụng hình sự năm 2003 còn có những quy định cụ thể hơn về quyền được bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 quy định “Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt
hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây ra thiệt hại có
trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”.
Với những qui định của Luật như, tuy nhiên trong thời gian qua một số nội
dung của quyền con người mà cụ thể hơn là quyền công dân có lúc, có nơi bị xâm
phạm nghiêm trọng. Điển hình là tình trạng oan sai xảy ra trong tố tụng hình sự gây
hậu quả nghiệm trọng với xã hội, bản thân và gia đình người bị thiệt hại. Xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Thấy được những hạn chế
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
đó Nhà nước cũng đã ban hành một số văn bản qui phạm pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Qua đó hạn chế tình trạng xét xử oan
chongười vô tội và ban hành một số văn bản giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do
cán bộ, công chức Nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự gây ra như: Nghị định số 47/NĐ-CP ngày 3 tháng 5 năm 1997 về việc giải
quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm quyền cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra, hay Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17
tháng 3 năm 2003 qui định về vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố
tụng hình sự. Và văn bản pháp luật mới nhất là Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước
qui định về việc bồi thường thiệt hại trong các lĩnh vực dân sự, hành chính, Tố tụng

hình sự,..Luật ra đời đã kế thừa những qui định tiến bộ và khắc phục những hạn chế
của hai văn bản trước. Tuy nhiên, do cơ quan có trách nhiệm bồi thường chưa làm hết
những khả năng của mình, có những biểu hiện tiêu cực trong việc giải quyết bồi
thường. Cũng như pháp luật điều chỉnh về vấn đề bồi thường thiệt hại còn nhiều hạn
chế. Cho nên vấn đề oan sai vẫn còn tồn tại, vấn đề giải quyết bồi thường chưa được
giải quyết một cách triệt để, gây rất nhiều bức xúc xã hội. Do đó nghiên cứu vấn đề
oan sai trong xã hội là một vấn đề cấp thiết nhất hiện nay, để từ đó tìm ra được những
tồn tại của Luật qui định về vấn đề bồi thường thiệt hại do oan, cũng như những tồn tại
khi việc áp dụng Luật vào thực tiễn để từ đó tìm ra những giải pháp để khắc phục
những tồn tại đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, không để quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm. Đây chính là lý do người viết chọn nội
dung vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam làm trọng tâm
nghiên cứu cho đề tài của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về vấn đề bồi thường thiệt hại do oan được qui định trong
Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước tuy nhiên do thời gian nghiên cứu đề tài từ
tháng 1 năm 2010 đến tháng 4 năm 2010, vì thời gian có hạn nên người viết chỉ tập
trung nghiên cứu những phần như: nguyên tắc của việc bồi thường, những qui định
của Luật về phạm vi trách nhiệm bồi thường, cơ quan có trách nhiệm bồi thường, thiệt
hại được bồi thường, và nghĩa vụ hoàn trả của người thi hành công vụ.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự nhằm
khẳng định sự cần thiết của vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự ở
nước ta hiện nay. Phân tích Luật để chỉ ra những tồn tại và đề ra những giải pháp để
khắc phục những tồn tại đó, để Luật sớm được hoàn thiện hơn, để quyền và lợi ích của
người bị thiệt hại ngày càng được đảm bảo hơn.
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

8


SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình ngiên cứu đề tài, người viết dùng phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp. Đồng thời thu
thập những tài liệu trên sách vở, trong thực tiễn về vấn đề bồi thượng thiệt hại do oan,
sai trong tố tụng hình sự Việt Nam.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài là một nghiên cứu rộng, ngoài lời mở đầu, kết luận đề tài được kết cấu
gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Những qui định của pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại do oan
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3: Những tồn tại và giải pháp đề xuất khắc để phục cho về vấn đề bồi
thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam.

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO OAN

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Khi nghiên cứu vấn đề bồi thường thiệt hại do oan điều cần thiết trước nhất là
phải đi nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề bồi thường thiệt hại do oan, để biết được
những căn cứ nào, những yêu cầu nào đã dẫn đến sự ra đời của pháp Luật về bồi
thường thiệt hại do oan được thể hiện trong Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Sự
phân tích cơ sở lý luận sẽ là việc làm trước tiên sau đó mới đến những phân tích những
qui định của Luật về vấn đề bồi thường, những tồn tại của Luật và giải pháp đề xuất để
khắc phục những tồn tại đó. Và để tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề bồi thường thiệt
hại do oan trong tố tụng hình sự cần thiết là phài làm rõ hai vấn đề. Thứ nhất là khái
niệm chung về oan và thứ hai là sự ra đời của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước.
1.1. Khái niệm chung về oan
Khi nói đến oan thì sẽ kéo theo rất nhiều những vấn đề liên quan đến oan cần
phải phân tích. Điều trước tiên là phải bíêt được oan là như thế nào, và phải hiểu được
khái niệm bồi thường thiệt hại do oan là như thế nào vì oan gắng liền với vấn đề bồi
thường thiệt hại. Tìm hiểu về oan thì nhất thiết phải tìm hiểu nguyên nhân từ đâu gây
ra oan và hậu quả như thế nào để tìm ra giải pháp khắc phục và sẽ thấy được sự cần
thiết của chế định bồi thường thiệt hại do oan. Và điều sau cùng là phải tìm hiểu những
nguyên tắc bồi thường thiệt hại do oan trên cơ sở đó sẽ giải quyết vấn đề bồi thường
được tốt hơn.
1.1.1. Khái niệm về oan và bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự
của Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm về oan
Theo từ điển Tiếng Việt1 “Oan” được hiểu là “ Bị qui cho tội mà bản thân
không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng”. Theo cách hiểu đó thì
nói đến oan, trước hết là nói đến trường hợp một người bị truy tố, xét xử về hành vi do
người khác gây ra tức là trường hợp có sự kiện phạm tội xảy ra nhưng truy tố, xét xử
nhầm người. Như vậy “oan” nói trong trường hợp này đồng nghĩa với truy tố xét xử
nhầm. Ngoài ra còn có các trường hợp xét xử về hành vi “ảo”, tức là về các hành vi
không xảy ra trên thực tế cũng gọi là “oan”. Có thể xảy ra tình huống như sau: một
người bị truy tố, xét xử, về tội giết người, song, sau khi vụ án được xét xử, người được

coi là nạn nhân trở về lành lặn sau một thời gian vắng mặt. Hay cũng có thể là trường

1

Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB TP. Hồ Chí Minh năm 2005, Tr. 638.

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

10

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
hợp người nào đó bị truy tố, xét xử bởi bị “coi” là đã cố ý gây thiệt hại thực tế, nhưng
thực ra thiệt hại thực tế đó do thiên tai như gió bão, mưa lũ, cháy nổ…gây ra.
Bên cạnh đó oan còn được hiểu là trường hợp truy tố, xét xử hình sự đối với
“ những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể, thì không phải là tội phạm mà phải xử lý bằng hướng khác”(2)
Ví dụ trường hợp gọi là oan: ngày 13 tháng 6 năm 2008 vừa qua, anh Nguyễn
Minh Hùng - người bị các cơ quan tố tụng tỉnh Tây Ninh truy tố vì tội “vận chuyển trái
phép chất ma tuý” từng hai lần bị xử án tử hình đã được trả tự do sau hơn 1000 ngày
giam oan vì không đủ căn cứ buộc tội.
Từ vụ án “mua bán vận chuyển ma tuý” do lực lượng biên phòng tỉnh Tây Ninh
thực hiện vào tháng 5/2003, Nguyễn Minh Hùng bị tình nghi là đối tượng tham gia vận
chuyển 25 bánh heroin trong đường dây của Phan Nguyễn Anh Thư. Sau hai cấp xét
xử, Thư đều khai là Nguyễn Minh Hùng là người trực tiếp nhận heroin, nhưng tại
phiên xét xử phúc thẩm (lần 2) ngày 5/4/2007, bị cáo Thư đã thừa nhận mình nhầm lẫn
trong việc nhận dạng Hùng, do “nhận đại” là Hùng mà không biết gây hậu quả nghiêm
trọng, ảnh hưởng tới tính mạng người khác.

Từ lời khai mới của bị cáo Thư và các chứng cứ ngoại phạm khác (Hùng dự
sinh nhật một người bạn, vợ chồng Hùng đi Củ Chi chơi và vợ Hùng phải nhập viện
mổ, điều trị 1 tuần sau mới xuất viện), HĐXX đã quyết định huỷ án, điều tra lại…
Đến tháng 6/2008, cơ quan tố tụng tỉnh Tây Ninh đã thừa nhận sai sót và ra các
văn bản đình chỉ điều tra, huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với Nguyễn Minh Hùng. Do
vậy, đến nay, anh Nguyễn Minh Hùng có đơn đề nghị xin lỗi, bồi thường nhằm khôi
phục danh dự, nhân phẩm của mình sau nhiều năm bị đối xử oan ức.3
Oan và sai là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Việc làm oan người vô tội thường là hậu quả của hành vi sai (trái) pháp luật.
Tuy nhiên cũng có một số trường hợp hành vi sai (trái) pháp luật của người thi hành
công vụ không dẫn đến làm oan người vô tội. Ví dụ trong quá trình điều tra, điều tra
viên đã hỏi cung bị can vào ban đêm không đúng qui định của điều 137 Bộ luật hình
sự 1999 hoặc do thiếu trách nhiệm trong việc đánh giá chứng cứ của vụ án, thẩm phán
đã áp dụng điều luật qui định tội phạm của Bộ luật hình sự có tính chất nương nhẹ so
với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo. Vậy những trường hợp sai này không thuộc
nội hàm khái niệm sai. Việc phân biệt được đâu là oan, đâu là sai là vấn đề rất quan
trọng, khi đó sẽ xác định được trường hợp nào là oan trường hợp nào là sai để xác định
việc bồi thường. Vì Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước qui định trong lĩnh vực tố
2
3

Khoản 4 điều 8 Bộ luật hình sự hiện hành
Trả tự do sau hai lần bị kết án tử hình - Nguyễn Hải – Báo pháp luật – Ngày 05/04/2007.

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang



Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
tụng hình sự chỉ bồi thường thiệt hại cho người bị oan mà không qui định việc bồi
thường thiệt hại trong trường hợp sai.
Theo từ điển Tiếng Việt4 “sai” được hiểu là “không đúng, không phù hợp với lẽ
phải”. Trong khoa học tố tụng hình sự Việt Nam, khi bàn về khái niệm sai vẫn cò đang
nhiều ý kiến tranh cải khác nhau. Ý kiến được số đông đồng tình nhất là, “sai” trong tố
tụng hình sự có biểu hiện rất đa dạng, song rõ nét nhất là hiện tượng truy tố, xét xử
nặng hơn hoặc nhẹ hơn trách nhiệm của từng cá nhân lẽ ra phải chịu trong vụ án hình
sự, không áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho cá nhân người phạm tội mà đúng ra họ được
hưởng theo qui định của pháp luật hoặc ngược lại vì lý do nào đó đã bỏ qua những tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải chịu. Không ít trường hợp
“sai” trong Tố tụng hình sự dẫn đến việc bỏ lọt (bỏ sót) người phạm tội và tội phạm.
Bỏ lọt người phạm tội là trường hợp có tội phạm xảy ra trên thực tế, nhưng người thực
hiện tội phạm đó không bị truy tố, bị xét xử dẫn đến kết cục là người đó “được ung
dung ngoài vòng pháp luật”. Còn bỏ lọt tội phạm có kết quả từ nhiều nguyên nhân
trong đó có kết quả của việc định tội danh sai. Đó có thể là trường hợp có hành vi xảy
ra trên thực tế và hành vi này có đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể
được qui định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhưng Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát,
Tòa án xác định là không có tội. Đó có thể là hành vi của bị can, bị cáo cấu thành hai
hoặc nhiều hơn tội phạm được qui định trong Bộ luật hình sự nhưng các cơ quan tiến
hành tố tụng xác định chưa hết để đưa ra truy tố, xét xử. 5Như vậy, sai trong tố tụng
hình sự, xét đến cùng là biểu hiện của sự không tương thích giữa cấu thành tội phạm
và hình thức xử lý trách nhiệm hình sự, vi phạm nguyên tắc cá thể hóa hình phạt,
không áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hoặc ngược lại bỏ qua các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự mà kết quả là để xảy ra tình trạng nặng hơn hoặc nhẹ hơn phần
trách nhiệm của từng cá nhân trong vụ án hình sự.Ví dụ: anh A phạm tội buôn bán
hàng giả, khi xem xét với tội của anh A nếu theo qui định Bộ luật hình sự 1999 là anh
phải chịu án phạt tù là 5 năm nhưng thẩm phán lại quyết định hình phạt cho anh là 10
năm trong khi anh không phạm vào khung hình phạt tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vậy ở đây thẩm phán đã xử sai cho anh A.
1.1.1.2. Khái niệm về bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình
sự
Bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự là việc Nhà nước sẽ dùng tiền
từ ngân sách nhà nước để bồi thường thiệt hại cho những người bị oan do người có
thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Các trường hợp được bồi thường
4

Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB TP. Hồ Chí Minh năm 2005, Tr. 772
Các giải pháp phòng chống oan, sai trong tố tụng hình sự nhìn từ góc độ cải cách tư pháp – TS. Hồ Sỹ Sơn Viện Nhà nước và pháp luật -Tạp chí Toà án nhân dân - số 1 tháng 1 năm 2010.
5

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

12

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
phải được qui định trong Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước6 và khi người bị oan
có yêu cầu bồi thường.
Luật qui định việc Nhà nước sẽ dùng tiền từ ngân sách nhà nước để bồi thường
thiệt hại cho người bị oan là hoàn toàn hợp lý như thế sẽ đảm bảo được quyền được
bồi thường cho người bị oan. Vì nếu giao việc bồi thường này cho cơ quan tiến hành tố
tụng hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng gây ra oan bồi thường
thì như vậy sẽ có rất nhiều hạn chế: thứ nhất người có trách nhiệm bồi thường sẽ kéo
dài thời hạn bồi thường, dẫn đến đơn yêu cầu càng ngày càng nhiều thêm gây áp lực
công việc làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết công vệc không cho kết
quả tốt; thứ hai: nhiều trường hợp người bị oan sẽ được bồi thường với số tiền rất lớn

mà cá nhân người tiến hành tố tụng thì lại làm việc cho Nhà nước, lương không cao thì
họ không có tiền đủ để bồi thường và gây nên hậu quả là người tiến hành tố tụng chỉ lo
bảo vệ cho mình, không kiên quyết khi ra quyết định vì họ sợ sẽ gây ra oan và sẽ bồi
thường như vậy gây nên tình trạng người tiến hành tố tụng sẽ không xử đúng người
đúng tội, không bảo vệ được quyền và lợi ích cho người dân. Vì vậy trước hết Nhà
nước sẽ dùng tiền từ ngân sách nhà nước để bồi thường cho người bị oan để đảm bảo
cho người bị oan được bồi thường rồi sao đó mới xét đến lỗi của người gây ra thiệt hại
và buộc họ có nghĩa vụ hoàn trả tiền bồi thường. Như vậy đã thể hiện sự đúng đắn của
pháp luật.
Tuy nhiên nếu được Nhà nước bồi thường thì một người phải thuộc trường hợp
được bồi thường trong Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước, vì có rất nhiều trường
hợp bị oan nhưng không thoã điều kiện được bồi thường trong luật thì cũng sẽ không
được bồi thường.7
Thêm một qui định của luật là khi người bị thiệt hại có yêu cầu bồi thường thì
nhà nước bồi thường, còn ngược lại thì không. Thật ra thì khi cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra oan cho người dân thì họ cũng phải tự có trách nhiệm bồi thường cho
người bị oan mà không cần phải đợi đến khi có yêu cầu thì cơ quan có trách nhiệm bồi
thường mới bồi thường. Đây là một qui định còn hạn chế của Luật.
1.1.1.3. Đặc điểm về bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình
sự
Việc nghiên cứu những đặc điểm của vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong
tố tụng hình sự là rất cần thiết, để từ đó xác định được đâu là phạm vi trách nhiệm bồi
thường trong tố tụng hình sự một cách dễ dàng hơn.
6

Văn bản số 35, thông qua ngày 18/6/2009 , Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước, có hiệu lực thi hành ngày 1
tháng 1 năm 2010.
7
Các trường hợp không được bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự (Tr.42, mục 2.1.2).


GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
Vệc bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự có những đặc điểm cơ bản
sau:
a. Đây là trường hợp bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự
Trong tố tụng hình sự, Nhà nước chỉ có trách nhiệm bồi khi người bị thiệt hại
bị oan - tức là không thực hiện hành vi phạm tội mà bị điều tra, truy tố, xét xử; không
đặt vấn đề lỗi của người thi hành công vụ, tức là, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường
nếu người bị thiệt hại được coi là bị oan - bất luận công chức có lỗi hay không có lỗi
trong việc gây ra tình trạng oan này.
Việc bồi thường thiệt hại do oan chỉ xảy ra trong tố tụng hình sự. Xét về đối
tượng và bản chất đối với các lĩnh vực như dân sự, hành chính thì khi thiệt hại xảy ra
là do hành vi sai (trái) của người thi hành công vụ, cho nên trong lĩnh vực dân sự, hành
chính chỉgọi là sai không gọi là oan. Vì khi nói đến oan là nghĩ ngay đến việc một
người bị cho là có tội nhưng trên thực tế họ không thực hiện hành vi phạm tội đó. Và
tội thì chỉ có trong lĩnh vực hình sự, vì một hành vi khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự
thì xét mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ cao hơn so với lĩnh vực dân sự và hành chính.
Mà hình sự thì gắn liền với lĩnh vực tố tụng hình sự, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án một hành vi bị cho là có tội. Và thông qua giai đoạn tố tụng hình sự thì
mới biết được một người có bị oan hay là không.
Xét về hệ quả của oan và sai thì giống nhau điều là gây nên thiệt hại, nhưng đối
với oan thì thiệt hại sẽ to lớn hơn nhiều so với sai. Chẳng hạn như thiệt hại cả về tài
sản lẫn con người. Còn sai chủ yếu gây ra thiệt hại về tài sản.
Từ những phân tích trên có thể chứng minh được rằng, oan chỉ xảy ra trong tố

tụng hình sự.
b. Chủ thể gây ra oan sau cùng thì phải bồi thường toàn bộ
Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước qui định trong lĩnh vực tố tụng hình sự
thì cơ quan giải quyết vụ án sau cùng nếu làm oan người vô tội thì sẽ bồi thường tất cả
các giai đoạn trước đó. Luật qui định như vậy thì ta có thể hiểu là sẽ không phụ thuộc
vào cơ quan tiến hành tố tụng trước đó có xử lý oan toàn bộ hay chỉ xử lý oan một
phần thì cơ quan tiến hành tố tụng xử lý oan sau cùng cũng phải bồi thường toàn bộ.
Ví dụ minh hoạ để thấy rõ việc chủ thể gây ra oan sau cùng thì phải bồi thường toàn
bộ:
Ví dụ: Năm 2004, trong quá trình làm ăn, ông Tuấn đã vay mượn nợ trong kinh
doanh dẫn đến tranh chấp. Sau đó công an Đồng Nai đã điều tra, khởi tố vụ án, bắt
giam ông Tuấn về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Đến năm 2006, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai tuyên phạt ông Tuấn 10 năm tù
giam và đã bị Toà Phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM tuyên huỷ án và Viện Kiểm
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
sát nhân dân tỉnh Đồng Nai ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can vì cho
rằng “ chỉ là tranh chấp dân sự”.8
Vậy ở đây Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai là chủ thể gây ra oan sau cùng nên
Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông
Tuấn nhưng trừ thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.
c. Do người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng là những người làm việc
trong: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Cơ quan thi hành án. Họ sẽ tham gia

vào từng giai đoạn mà họ có thẩm quyền giải quyết (ví dụ: Toà án thì có thẩm quyền
xét xử). Như vậy nếu có trường hợp gây ra oan thì chỉ do những người có thẩm quyền
trong cơ quan tiến hành tố tụng gây ra chứ không thể là một người khác không có
thẩm quyền và không làm việc trong cơ quan tiến hành tố tụng mà gây ra oan được. Ví
dụ như chủ thể làm việc trong lĩnh vực dân sự thì không thể nào có thẩm quyền để ra
lệnh tạm giam hoặc tạm giữ người được và như vậy thì sẽ không có trường hợp gây ra
oan thuộc trường hợp được bồi thường của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước.
Còn ngược lại như Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền trong việc khởi tố bị can
khi phát hiện ra dấu hiệu tội phạm nhưng khi xét xử người đó không có tội và Viện
trưởng viện kiểm sát đã gây ra oan cho người đó và đây mới là trường hợp thuộc phạm
vi điều chỉnh của luật trách nhiệm bồi thường nhà nước do người có thẩm quyền trong
cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
d. Nghĩa vụ hoàn trả
Nghĩa vụ hoàn trả là việc người tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải hoàn trả
khoảng tiền cho Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Có nghĩa là trong
phạm vi trách nhiệm của mình người thi hành công vụ đã không thực hiện tốt nhiệm
vụ đã gây ra oan cho người vô tội thì người tiến hành tố tụng phải có nghĩa vụ hoàn trả
khoảng tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Nhưng không phải mọi
trường hợp người thi hành công vụ có lỗi điều có nghĩa vụ hoàn trả khoảng tiền cho
Nhà nước mà Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước quy định người thi hành công vụ
chỉ có nghĩa vụ hoàn trả đối với lỗi cố ý do mình gây ra, không có nghĩa vụ hoàn trả
đối với lỗi vô ý. Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra qui định đối với tất cả các trường hợp người thi
hành công vụ gây ra lỗi đều có trách nhiệm hoàn trả. So với nghị quyết 388 thì Luật
trách nhiệm bồi thường Nhà nước có một qui định mới đó là: người thi hành công vụ
8

nhansuvietnam.vn/tintuc/phap_luat/mot-cong-dan-doi-boi-thuong-oan-sai-hon-1-8-ti-dong/68915.htmlnhật ngày 21/04/2009 - 01:57 Nguồn: ThanhNien.com.vn


GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

15

Cập

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
có lỗi vô ý gây ra thiệt hại thì không phải chịu trách nhiệm hoàn trả. Chỉ có trách
nhiệm hoàn trả đối với lỗi cố ý.
1.1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tình trạng gây ra oan trong tố tụng hình sự
Khi nghiên cứu vấn đề oan thì điều cần thiết là phải tìm hiểu nguyên nhân từ
đâu gây ra oan và hậu quả của tình trạng gây ra oan là như thế nào. Để từ đó tìm ra
được những giải pháp khắc phục nhằm hạn chế tình trạng xảy ra oan và biện pháp
khắc phục những hậu quả khi đã xảy ra tình trạng oan đó.
1.1.2.1. Nguyên nhân của tình trạng xét xử oan trong tố tụng hình sự
Oan, sai trong tố tụng hình sự dù ở mức độ nào cũng dẫn đến những hậu quả
tiêu cực đối với cá nhân và gia đình của người bị oan, đối với xã hội, đối với Nhà
nước, không đảm bảo công lý, công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm. Do đó, việc
xác định một cách chính xác những yếu tố nào là nguyên nhân của oan, sai trong hoạt
động điều tra, truy tố và xét xử là nhu cầu cấp thiết khi nghiên cứu các giải pháp
phòng, chống oan, sai nhìn từ góc độ cải cách tư pháp hình sự.
a. Sự vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Oan, sai trong tố tụng hình sự xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong
số những nguyên nhân đó trước hết phải kể đến sự vi phạm nghiêm trọng các nguyên
tắc quan trọng của luật hình sự và luật tố tụng hình sự mà trước tiên là nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những
nguyên tắc hiến định, bao hàm nhất được thể hiện trong tất cả các giai đoạn tố tụng

hình sự, từ những qui định chung cho đến những qui định cụ thể. Đây là nguyên tắc cơ
bản, chung nhất trong mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã họi và
công dân được Điều 12 của Hiến pháp 1992 ghi nhận “ Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh đó Điều
2 của Bộ luật tố tụng hình sự quy định về việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tố tụng hình sự như sau: “ mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành
theo qui định của bộ luật này”.
Có thể nói nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là cơ sở cho các nguyên tắc
khác của tố tụng hình sự và được áp dụng một cách thống nhất trong công tác điều tra,
xử lý tất cả các vụ án hình sự xảy ra trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những yêu cầu cấp thiết
để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn
mạnh “phải dùng sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh của
dư luận quần chúng để đấu tranh chống những hành vi vi phạn pháp luật. Các cấp uỷ
đảng từ trên xuống dưới phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế, tăng cường
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
cán bộ có phẩm chất và năng lực cho lĩnh vực pháp chế, kiểm tra hoạt động của các
cơ quan pháp chế”.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống tội
phạm được kiên quyết, kịp thời, triệt để nhằm giáo dục kẻ phạm tội đồng thời ngăn
chặn việc xử oan người vô tội, hạn chế các quyền tự do dân chủ của công dân một
cách trái pháp luật. Xuất phát điểm của pháp chế là một kỹ luật cao của Nhà nước và

xã hội, là sự tuân thủ triệt để các nghĩa vụ pháp lý. Pháp chế xã hội chủ nghĩa được
hiểu là “…một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội trong đó tất cả các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên các cơ quan nhà nước, nhân
viên các tổ chức xã hội và mọi công dân điều phải tôn trọng một cách nghiêm chỉnh,
triệt để và chính xác”(9).
Nói một cách ngắn gọn thì pháp chế có thể hiểu như là tính thiêng liêng của
pháp luật, tính bền vững của các quy phạm pháp luật, sự tuân thủ và chấp hành pháp
luật một cách nghiêm minh, không cho phép bất kỳ sự vi phạm nào dù nhỏ nhất đối
với các quy định của pháp luật. Biểu hiện rõ nét nhất của vi phạm nguyên tắc pháp chế
trong luật hình sự và luật tố tụng hình sự là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ những qui định của
hai ngành luật đó. Sự vi phạm này là gắn rất chặt với căn bệnh cũng hết sức nguy hiểm
khác là tệ quan liêu, mất dân chủ, thiếu công khai, minh bạch, tham nhũng nằm trong
cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống tổ chức bộ máy Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội…Tất nhiên sự vi phạm này do người trong các cơ quan tiến hành tố tụng sự
có thể tạo ra chứng cứ giả, đưa những thông tin sai lệch, sửa chữa hồ sơ, giấy tờ…
nhằm che giấu tội phạm và người phạm tội hay vu khống cho người khác. Những loại
hành vi này có thể dẫn đến những oan, sai trong Tố tụng hình sự.
Do đó cần phải có những giải pháp hữu hiệu để những người tiến hành tố tụng
hình sự có được bản lĩnh chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng nhằm đảm bảo
cho hoạt động nghiệp vụ được chính xác, khách quan và công bằng.
b. Phong cách làm việc và tư duy làm việc của một số người tiến hành tố tụng
Phong cách làm việc và tư duy làm việc của một số người tiến hành tố tụng
thiên về buộc tội đối với người bị tình nghi thực hiện tội phạm (người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo) là một trong những nguyên nhân dẫn đến oan, sai trong Tố tụng hình sự.
Việc nghiên cứu một số vụ án bị oan, sai trong Tố tụng hình sự cho thấy oan, sai bắt
đầu từ tác phong và tư duy của người tiến hành tố tụng vì ngay từ đầu chỉ nghiên về
buộc tội bị can, bị cáo vì thế bỏ qua các tình tiết, sự kiện, chứng cứ gỡ tội cho họ. Điều
mà những người tiến hành tố tụng có phong cách và tư duy thiên về buộc tội ngay từ
9


Giáo trình lý luận về Nhà nước và pháp luật. Trường đại học luật Hà Nội.NXB.Giáo dục Hà Nội 1996. Tr. 425.

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
đầu quan tâm là mâu thuẩn trong lời khai của bị can, bị cáo, người làm chứng, người
bị hại…về thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm, chứng cứ ngoại phạm…chứ không phải
chân lý vụ án, chính vì thế nhiều chứng cứ quan trọng đã bị bỏ qua, bị thất lạc, bị hư
hỏng. Đồng thời các giả thuyết điều tra, hướng điều tra, truy tố, xét xử thường bị lệch,
lạc ngay từ đầu. Vấn đề là ở chổ, đã có thiên hướng buộc tội ngay từ đầu, người tiến
hành tố tụng bao giờ cũng muốn bị can, bị cáo nhận tội hay khai báo theo đúng giả
thuyết đã đặc ra. Đó là nguyên nhân dẫn đến gây oan cho người vô tội.
c. Bệnh “quan liêu” vốn tồn tại ở một số người tiến hành tố tụng
Nói đến nguyên nhân dẫn đến oan, sai trong Tố tụng hình sự, không thể không
nói đến bệnh “quan liêu” vốn tồn tại ở một số người tiến hành tố tụng. Quan liêu vốn
là căn bệnh chung của bộ máy quyền lực nhà nước có biểu hiện đặc trưng là xa cách
nhân dân, không hiểu tâm tư và nguyện vọng của dân. Trong tố tụng hình sự, quan liêu
thể hiện ở tính thiếu toàn diện, thiếu khách quan, không sát thực tế của việc thu thập,
đánh giá chứng cứ, đánh giá vụ việc. Quan liêu trong tố tụng hình sự còn là việc bỏ sót
người làm chứng, không chú ý đến dư luận xã hội, không coi trọng ý kiến chuyên gia,
vội tin vào lời khai hoặc suy diễn từ lời văn điều luật…Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh
thời đã nhiều lần thể hiện thái độ phê phán đối với các hành vi sai trái của các cán bộ
đối với người dân. Người nói “ tiếc rằng ở một vài nơi, cán bộ làm sai chỉ thị của
Chính phủ và đường lối của đoàn thể. Họ xa rời nhân dân, không hiểu nhân dân (…)

thậm chí họ dùng những cách ép uổng, cưỡng bức, bắt bó dân”10. Vậy quan liêu là
một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên oan sai, cần phải có biện pháp khắc
phục kịp thời để hạn chế căn bệnh quan liêu này để làm giảm tỷ lệ oan sai xảy ra trong
xã hội.
d. Do trình độ kiến thức pháp luật và năng lực chuyên môn thấp kém của
một số người tiến hành tố tụng
Hoạt động tố tụng hình sự do những cá nhân có thẩm quyền giải quyết vụ án
hình sự tiến hành. Chất lượng của hoạt động tố tụng vì vậy, tùy thuộc rất nhiều vào
trình độ kiến thức pháp luật cũng như năng lực chuyên môn, nghề nghiệp của họ. Có
thể nói, những oan, sai xảy ra trong tố tụng hình sự là do trình độ kiến thức pháp luật
và năng lực chuyên môn thấp kém của một số người tiến hành tố tụng. Hoạt động tố
tụng hình sự (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) về thực chất là hoạt động áp dụng pháp
luật luôn gắn với quá trình định tội danh. Để định được tội danh chính xác, người tiến
hành tố tụng chẳng những phải có trình độ, kiến thức chuyên môn vững vàng, có ý
thức pháp luật cao mà còn cần phải có kinh nghiệm thực tiễn dồi dào…để có thể phát
hiện, thu thập, phân tích, đánh giá các tình tiết, sự kiện, hành vi, đã xảy ra trên thực tế,
10

Xem: Hồ Chí Minh, Toàn tập, T5, Tr. 329.

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
từ đó đối chiếu, so sánh với các tình tiết, dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể đã
được qui định trong Bộ luật hình sự, khẳng định tội danh và trên cơ sở đó quyết định

loại và mức hình phạt phù hợp. Thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hình sự cho
thấy, những sai lầm nghiêm trọng nhất trong từng vụ án là cơ quan tiến hành tố tụng,
những người tiến hành tố tụng đã không căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm để
định tội danh đối với hành vi đã xảy ra trên thực tế, không nắm vững hết tất cả các qui
định của pháp luật liên quan đến yếu tố cấu thành tội phạm đó. Thực tiễn cũng chỉ ra
có những oan, sai xảy ra là do người tiến hành tố tụng chỉ lấy điều luật qui định tại
Phần các tội phạm qui định trong Bộ luật hình sự làm căn cứ duy nhất để định tội danh
mà không chú ý đến các qui định ở phần chung của luật hình sự, không nắm vững các
nguyên tắc của Bộ luật hình sự và rộng hơn là chính sách hình sự. Kiểu áp dụng pháp
luật một cách cứng nhắc, máy móc đó cũng là nguyên nhân của những sai sót dẫn đến
oan, sai trong tố tụng hình sự. Thực tiễn tố tụng hình sự của nước ta còn cho thấy, một
trong những nguyên nhân của oan, sai là do người tiến hành tố tụng vi phạm, coi
thường việc tuân thủ các thủ tục tố tụng.
đ. Viện kiểm sát vừa giữ chức năng công tố, vừa kiểm sát việc xét xử của
toà án, điều đó làm giảm tính độc lập của Toà án
Theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền thì chính các cơ quan công quyền phải
bị Toà giám sát, nghĩa là khi các cơ quan công quyền phạm luật thì Toà án sẽ
là nơi có quyền phán xét nhưng ở nước ta Toà lại bị giám sát bởi cơ quan công
quyền, như cơ quan dân cử, Viện Kiểm Sát, và phần nào đó của Chính phủ - thông
qua quyền xem xét tái bổ nhiệm thẩm phán. Bản thân việc tổ chức Toà án theo hai cấp
xét xử đã bao hàm ý nghĩa giám sát, bởi bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực thi hành
ngay, nên nếu một bên chưa hài lòng, sẽ phải được phúc thẩm. Vì vậy tư pháp độc lập
là quan trọng nhất của Nhà nước pháp quyền. Tư pháp không độc lập có nghĩa là Toà
án phải chịu sự giảm sát của nhiều cơ quan, điều đó làm giảm đi tính khách quan trong
khi xét xử vụ án. Hậu quả gây ra nhiều oan sai cho người dân. Vì vậy Tư pháp không
độc lập tất dẫn đến oan, sai nhiều.
e. Vấn đề hình sự hoá
Hình sự hoá là việc quy định hình phạt hay việc xác định loại hình phạt, khung
hình phạt, điều kiện áp dụng hình phạt đối với loại tội phạm này hay tội phạm khác
được quy định trong Bộ luật hình sự.

Hình sự hoá chỉ diễn ra ở giai đoạn xây dựng pháp luật chứ không diễn ra ở giai
đoạn áp dụng pháp luật. Và, theo nguyên tắc pháp chế, hiện nay Luật hình sự Việt
Nam không chấp nhận nguyên tắc “tương tự” pháp luật, khi đó chỉ có Quốc hội mới có
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
quyền tiến hành hoạt động “hình sự hoá”. Quan điểm này đã trở thành quan điểm
chính thống trong các tác phẩm lý luận Luật hình sự ở Việt Nam(11)
Tuy nhiên, trong giới báo chí cũng như nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam hiện
nay đã cho ra một cụm từ “hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế” với nghĩa hoàn
toàn độc lập với ý nghĩa ban đầu của “hình sự hoá” nói chung trong đó bao gồm cả các
giao dịch trong hoạt động ngân hàng. Theo đó, cụm từ “hình sự hoá các giao dịch dân
sự, kinh tế” dùng để mô tả hiện tượng dùng biện pháp hình sự để giải quyết các vi
phạm trong giao dịch dân sự, kinh tế chưa đến mức cấu thành tội phạm. Điều này dẫn
đến hậu quả oan sai trong tố tụng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Sự xuất hiện của cụm từ “hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế” ở Việt Nam có thể
được xem là một hiện tượng về ngôn ngữ bắt nguồn từ yêu cầu cấp thiết phản ánh một
hiện tượng tiêu cực của nền tư pháp nước nhà.
Ví dụ: Một vụ án trong số nhiều vụ án bị “hình sự hoá”. Đó là vụ án của Bạch
Minh Sơn (Giám đốc Công ty cổ phần BAMEX bị khởi tố, điều tra, truy tố về tội “lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN” (Điều 135 Bộ luật hình sự 1985)(12). Ngày
30/11/1993, ông Bạch Minh Sơn ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công đoàn
Ngân hàng ngoại thương Trung ương. Theo hợp đồng, Ngân hàng góp vốn để công ty
ông Sơn mua nguyên vật liệu tổ chức sản xuất tấm lợp cót ép xuất khẩu, tỷ suất chia
lợi nhuận là 50/50. Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, ông Sơn đã nhận 6 tỷ

đồng của Ngân hàng và dùng vào việc sản xuất. Khi thanh lý hợp đồng, ngày
30/7/1995, ông Sơn chỉ mới trả được 650 triệu và còn nợ trên 5 tỷ đồng ông Sơn
không có khả năng trả nợ. Ngoài ra, năm 1989, ông Sơn còn nhận của Bảo Việt Nhân
Thọ 200.000 USD tiền vốn với hình thức liên doanh để sản xuất tấm lợp, sau đó không
có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, kết quả kiểm toán xác định tài sản của công ty của
ông Sơn còn trị giá 12 tỷ đồng. Vụ việc bị phát hiện, ông Sơn bị cơ quan điều tra thành
phố Hà Nội khởi tố về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN” (Điều 135
Bộ luật hình sự 1985). Sau khi Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố, Toà
án nhân dân thành phố Hà Nội đã đưa vụ án ra xét xử và áp dụng khoản 2 Điều 189 Bộ
luật tố tụng hình sự 1988 kết luận Sơn vô tội tại bản án hình sự sơ thẩm số 165/HSST
với lý do dù Sơn chưa trả được nợ nhưng tài sản của Sơn còn đủ để thanh toán nợ.
Ngày 26/11/1998, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã kháng nghị bản án
này. Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã rút toàn bộ

11

Xem tội phạm học, Luật hình sự và luật Tố tụng hình sự Việt Nam – Viện nghiên cứ Nhà nước và Pháp luật NXB Chính trị Quốc gia 1994, Tr.124; Đào Trí Úc – Luật hình sự Việt Nam (quyển 1) Những vấn đề chung –
NXB Khoa học xã hội 2000, Tr.85
12
Xem Tạp chí Kiểm sát số 1+2/1999

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

20

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội và Toà phúc thẩm đình chỉ

vụ án.
Thực tế cho thấy, hành vi vi phạm bị đánh giá sai bản chất pháp lý và “hình sự
hoá” thường là hành vi không trả được nợ (vi phạm nghĩa vụ thanh toán làm phát sinh
nghĩa vụ trả nợ). Loại tội danh thường áp dụng trong khi “hình sự hoá” là tội “lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”(Điều 135, 158 Bộ luật hình sự 1985, 140 Bộ luật
hình sự hiện hành). Cá biệt cũng có trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng tội
“lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 134, 134a, 157 Bộ luật hình sự 1985, 139 Bộ luật
hình sự hiện hành)13.
g. Nguyên tắc tranh tụng chưa được áp dụng phổ biến ở trong xét xử
Tranh tụng tại toà có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan
của vụ án nên Nghị quyết số 08/ NQ- TW của Bộ chính trị đã đặc biệt nhấn mạnh:
“Nâng cao chất lượng của công tố viên tại toà, đảm bảo tranh luận dân chủ với luật
sư, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác…khi xét xử toà phải đảm bảo cho
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan,thẩm phán
và hội thẩm nhân dân phải độc lập và tuân theo pháp luật,việc phán quyết của Toà án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ
các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, nhân chứng, bị cáo…”.
Thế nhưng việc tranh tụng tại toà vẫn chưa được áp dụng phổ biến. Bộ luật tố tụng
hiện hành chưa qui định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử, nên
không chỉ trong các điều luật có liên quan chưa thể hiện hết tính chất của tranh tụng
tại phiên toà, mà các chủ thể tham gia vào tranh tụng cũng chưa ý thức được đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình, việc tranh tụng tại phiên toà đôi khi diễn ra với hình thức
hời hợt. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy số vụ án hình sự do các cơ quan
tiến hành tố tụng xử lý oan, sai ở nước ta trong những năm trước đây chiếm tỉ lệ tương
đối cao. Sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17
tháng 3 năm 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã từng đề cập
rất rõ đến sự cần thiết của chế định bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự,
thì tình trạng xử oan người vô tội trên phạm vi cả nước đã được hạn chế đáng kể. Phải
nói rằng, mặc dù các cơ quan tư pháp ở các cấp đã có nhiều cố gắng và rút kinh

nghiệm sâu sắc từ các vụ án…nhưng tình trạng này vẫn còn chiếm tỉ lệ khá cao, oan,
sai xảy ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử; cả ở cấp huyện, cấp tỉnh và cấp
Trung ương.
13

ctu.edu.vn/colleges/law/csdlweb/csdlluattp. Hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế trước hết xâm phạm tới
quyền và lợi ích hợp pháp của người có hành vi bị hình sự hoá - Th.S Phạm Văn Beo,Th.S.LS Bùi Quang Nhơn.

GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

21

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
h. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác
Những nguyên nhân cơ bản gây ra oan sai đã được liệt kê và phân tích ở phần
trên, bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân khác không kém phần quan trọng gây
nên oan sai cần phải được nói đến đó là: Do hạn chế về phương tiện kĩ thuật phục vụ
cho quá trình phá án, thu thập và bảo quản chứng cứ; do sự thiếu hiểu biết của công
dân về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự cho nên nhiều công dân không đủ khả năng
tự vệ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng với tư cách là bị
can, bị cáo. Nhiều người không biết mình có quyền mời người bào chữa từ giai đoạn
nào. Bên cạnh đó là sự non kém về nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm chưa cao của
một số luật sư nên dẫn đến kết quả bào chữa không tốt. Chẳng hạn như một số luật sư
chỉ vì tiền mà bào chữa theo yêu cầu của đương sự của mình mà không nghĩ đến
đương sự của mình là đúng hay sai trong vụ án, hoặc một số luật vẫn chưa nghiên cứu
kỹ hồ sơ vụ án trước khi vào bào chữa cho đương sự của mình dẫn đến trong quá trình
tranh tụng không đạt kết quả cao, mà tranh tụng không đạt kết quả cao thì thường dẫn

đến oan sai cho người dân.
1.1.2.2. Hậu quả của việc xét xử oan trong tố tụng hình sự
Việc xét xử oan trong tố tụng hình sự để lại những hậu quả rất nặng nề cho xã
hội, bản thân và gia đình của người bị oan. Tìm hiểu những hậu quả của vấn đề xét xử
oan trong tố tụng hình sự để từ đó đề ra những giải pháp khắc phục kịp thời những hậu
quả đó.
a. Xâm phạm đến quyền con người
Bắt người, tạm giữ, tạm giam người chấp hành hình phạt tù hoặc các biện pháp
ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị
bắt. Mục đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Các biện pháp ngăn chặn nhằm
bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng khi áp
dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Bởi vì, một số hoạt động tố tụng có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin của
người bị bắt.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công
dân Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của
Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

22

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam

người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của công dân”. Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng nhấn mạnh:
“Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường
thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt,
giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
Những quy định trên của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của
công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước. Các quy định tại Điều 71 và Điều 72
cũng là cơ sở để xây dựng Luật tố tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong thực tiễn.
Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là những biện pháp cưỡng chế cần thiết do
các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo. Một số
trường hợp, có thể áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố (như người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang và trong trường hợp khẩn cấp)nhằm ngăn chặn những
hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp
luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án.
Những năm gần đây bắt, giam, giữ là vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội, và đông đảo quần chúng nhân dân. Việc bắt người tuỳ
tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có Lệnh đã làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nếu không bị bắt oan một người sẽ được sống một cuộc sống tự do, được hưởng
những quyền lợi, được hưởng rất nhiều hạnh phúc từ cuộc sống mang lại như bao
nhiêu người công dân khác. Ngược lại khi đã bị bắt, bị cưỡng chế nào là đau khổ về
thể xác lẫn tinh hồn, một mất mát khó có thể bù đắp được. Cho nên cần phải có những
giải pháp đề ra để khắc phục tình trạng này. Để công dân có thể được hưởng đầy đủ tất
cả các quyền và lợi ích của mình.
b. Gây hậu quả cho bản thân và gia đình của chính người bị oan
Đã nói đến hậu quả thì nó để lại cho người bị oan rất nhiều mất mát như: tiền
bạc, tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,...trước tiên đối với bản thân của người bị
oan: bản thân không làm gì nhưng bị vu oan là có tội, đang sống trong gia đình êm ấm,

công việc làm ăn thuận lợi bất ngờ lại bị bắt, bị giam giữ,.thiết nghĩ người bị oan sẽ
không tránh khỏi: sức khỏe bị giảm sút, công việc làm ăn đỗ vở, gia đình tan nát,...rồi
những người xung quanh người bị oan sẽ có những thái độ đói xử khác với họ, xem
nhẹ về phẩm chất của họ, một ngày nào đó bản thân được minh oan còn không thì họ
vẫn tiếp tục vào vòng lao lý và tù tội. Còn về phần gia đình khi có người thân bị bắt bị
vu oan như vậy thì gia đình sẽ tìm cách nộp đơn để kêu oan, phải mất tiền của và công
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

23

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
sức nếu không có tiền thì vay mượn rồi nợ nần,...con cái của người bị oan sẽ khó mà
học hành đến nơi đến chốn.
 Tóm lại, hậu quả để lại cho người bị oan là rất nặng nề. Như vậy vấn đề cấp
thiềt là cần tìm ra những giải pháp để khắc phục vấn đề oan sai, có những qui định
hoàn thiện hơn về việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan để quyền lợi của người
dân ngày càng được đảm bảo hơn, để họ có thể sống cuộc sống êm ấm, hạnh phúc bên
gia đình và góp phần chung tay xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
c. Kéo dài thời gian xét xử dẫn đến án bị tồn động nhiều, đồng thời gây
thiệt hại cho ngân sách nhà nước
Một vụ án bị xử đi, xử lại nhiều lần, cấp sơ thẩm, phúc thẩm, tái thẩm, giám
đốc thẩm, có thể hủy án hoặc điều tra lại. Việc làm đó mất rất nhiều thời gian đồng
thời thẩm phán chịu trách nhiệm giải quyết vụ án sẽ xem xét lại vụ án từ đầu để tìm ra
những chi tiết chưa phát hiện được hoặc có những sai sót để kịp thời phát hiện. Chính
vì vậy việc xử oan sẽ làm cho vấn đề giải quyết vụ án trở nên khó khăn hơn và làm
kéo dài thời gian dẫn đến án bị tồn đọng. Án bị tồn đọng nhiều sẽ làm tăng áp lực công
việc của các cơ quan tiến hành tố tụng, họ phải làm việc với tầng suất cao hơn, có thể

dẫn đến tình trạng làm chưa hết chức trách của mình hoặc có thể có nhiều sai sót do
cùng giải quyết nhiều vấn đề, đó cũng là điều khó tránh khỏi. Và kết quả cuối cùng là
việc xét xử thiếu chính xác, thiếu khách quan dẫn đến việc làm oan cho người vô tội.
Cũng chính vì vấn đề vụ án bị xử đi xử lại nhiều lần sẽ gây thiệt hại cho ngân
sách nhà nước do phải tiến hành điều tra hoặc giám định lại...Nhà nước sẽ phải chi một
khoảng chi phí nhất định cho vấn đề này. Mặc dù, trước tiên nhà nước sẽ đứng ra chi
trả cho việc bồi thường cho người bị oan, và sau đó những người có trách nhiệm trong
việc gây ra oan cho người khác phải hoàn trả khoản tiền mà ngân sách nhà nước đã bồi
thường. Nhưng vấn đề còn xét ở mức độ lỗi, thu nhập của công chức mà có mức hoàn
trả hợp lý. Vì vậy ngân sách nhà nước không ít thì nhiều vẫn chịu những tổn thất do
bồi thường thiệt hại cho người bị oan.

d. Làm giảm lòng tin của nhân dân vào nền công lý
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân các cơ quan tiến hành tố tụng được nhân dân tin tưởng để giao trách nhiệm xử lý
các vụ án, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh, đảm bảo an toàn xã hội. Một khi
nhân dân đã thật sự tin tưởng vào các cơ quan tiến hành tố tụng thì nhân dân sẽ hợp tác
nhiệt tình, giúp đỡ các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng và triệt để vụ
án, xử lý đúng người đúng tội. Thế nhưng, với tình trạng án oan xảy ra ngày càng
nhiều như hiện nay thì thiết nghĩ sự tin tưởng của nhân dân vào nền công lý sẽ giảm đi
rất nhiều, nhân dân sẽ có tâm lý lo sợ về sự thiếu công bằng của pháp luật, vào sự thiếu
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

24

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


Vấn đề bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự Việt Nam
năng lực của các cá nhân trong các cơ quan tiến hành tố tụng, sợ một ngày nào đó

mình cũng sẽ bị bắt khi mình không thực hiện một hành vi phạm tội nào,…hậu quả là
nhân dân sẽ không hợp tác để giúp các cơ quan giải quyết nhanh chóng vụ án, nhân
dân sẽ tự gỉai quyết công việc mà không cần pháp luật, đến một lúc nào đó nhân dân sẽ
trở nên xa rời pháp luật. Bắt người, tạm giữ, tạm giam oan sai đã xảy ra ở nhiều địa
phương, gây nên sự bất bình trong dư luân xã hội.
1.1.3. Sự cần thiết của chế định bồi thường thiệt hại cho ngưới bị oan trong Tố
tụng hình sự
Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã từng đề cập rất rõ đến sự cần thiết của chế
định bồi thường thiệt hại do oan trong tố tụng hình sự. Vấn đề bồi thường thiệt hại bao
gồm hai mục tiêu đó là: thứ nhất: bồi thường thiệt hại cho người bị oan; thứ hai: nâng
cao năng lực của người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng. Hiện tại Luật
trách nhiệm bồi thường Nhà nước không có điều luật qui định cụ thể về vấn đề này
nhưng bao hàm cả nội dung của Luật thì thấy được hai mục tiêu đã được thể hiện trong
nghị quyết 388 cũng được thể hiện trong Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà
nước. Đây là hai mục tiêu không thể phủ nhận được trong chế định bồi thường thiệt
hại do oan.
 Mục tiêu thứ nhất: Bồi thường thiệt hại cho người bị oan.
Vấn đề qui định việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan là rất cần thiết, điều
đó nói lên sự quan tâm của Nhà nước đối với người bị oan về quyền lợi được bồi
thường. Xét đến cùng thì nguyên nhân sinh ra người bị oan chính là do những gười
tiến hành tố tụng gây ra, đó là những người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước
cho nên việc Nhà nước ra qui định về bồi thường cho người bị oan là hoàn toàn hợp lý.
Điều đó làm cho người bị oan phần nào có thể khắc phục được những thịêt hại trong
thời gian mà họ phải chịu oan, và người bị oan sẽ cảm thấy hài lòng về sự công bằng
của pháp luật về sự quan tâm của nhà nước đối với nhân dân.
Ngoài khoảng bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị oan giúp họ phần nào
có thể khôi phục lại những thiệt hại mà bản thân phải chịu trong thời gian bị oan, Luật
trách nhiệm bồi thường Nhà nước còn quy định về việc khôi phục danh dự cho người

bị oan.
Danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về các mặt đạo đức,
phẩm chất chính trị và năng lực của người đó.
GVHD:Th.S. Mạc Giáng Châu

25

SVTH: Đỗ Thị Thùy Trang


×