Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

biện pháp phát triển kỹ năng tiền học đường cho trẻ 5 – 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thùy Trang

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG
TIỀN HỌC ĐƯỜNG CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thùy Trang

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG
TIỀN HỌC ĐƯỜNG CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI

Chuyên ngành : Giáo dục học (Giáo dục Mầm non)
Mã số

: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ MINH HÀ


Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kì công trình nào khác

Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thùy Trang


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cám ơn chân thành các Thầy Cô Khoa giáo dục Mầm non Trường
Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, Phòng Sau Đại Học đã giúp đỡ và
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt xin chân thành
cám ơn đến Tiến sĩ Lê Thị Minh Hà – Giáo viên hướng dẫn khoa học, đã nhiệt
tình, tận tụy và luôn động viên tôi rất nhiều trong suốt quá trình tôi thực hiện đề
tài nghiên cứu này.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn các Thầy Cô tại Thư viện Trường Cao
Đẳng Trung Ương Thành Phố Hồ Chí Minh, Ban giám hiệu và các giáo viên lớp
Lá Trường Măng non I quận 10, Trường Mầm non Hoa Hồng Quận 8, Mầm non
Nhà Bé Yêu Quận Bình Thạnh, Trường Mầm non Hoa Hồng Quận Tân Phú,
Trường Mầm non Anh Duy quận Bình Chánh, Trường Mầm non Tân Thông Hội
huyện Củ Chi Tp. HCM đã nhiệt tình ủng hộ đề tài, tạo mọi điều kiện và tích cực
tham gia vào quá trình nghiên cứu đề tài, góp phần quan trọng để đề tài nghiên
cứu triển khai có kết quả.
Cám ơn gia đình, thầy cô, anh chị em đồng nghiệp, bạn bè đã hết lòng giúp
đỡ, động viên, khích lệ trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2014

Nguyễn Thị Thùy Trang


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.............................................................................. 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 5
1.1.1. Trên thế giới.......................................................................................... 5
1.1.2. Tại Việt Nam ........................................................................................ 6
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu .......................................................... 8
1.2.1. Một số khái niệm công cụ của đề tài .................................................... 8
1.2.2. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ....................................... 18
1.2.3. Chương trình giáo dục mầm non hiện hành ....................................... 28
1.2.4. Chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi ............................................................ 29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................. 31
Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG KỸ NĂNG TIỀN
HỌC ĐƯỜNG CỦA TRẺ 5 – 6 TUỔI............................................. 32
2.1. Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực trạng ............................................. 32
2.1.1. Khái quát về địa bàn điều tra .............................................................. 32
2.1.2. Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực trạng ....................................... 32
2.1.3. Bài tập đánh giá .................................................................................. 33
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng kỹ năng tiền học đường của trẻ 5 – 6 tuổi...... 35
2.2.1. Mô tả khách thể nghiên cứu................................................................ 35
2.2.2. Thực trạng mức độ kỹ năng tiền đọc của trẻ 5 – 6 tuổi. ..................... 36

2.2.3. Thực trạng mức độ kỹ năng tiền viết của trẻ 5 – 6 tuổi ...................... 40
2.2.4. Thực trạng mức độ kỹ năng tiền tính toán của trẻ 5 – 6 tuổi.............. 46
2.3. Nguyên nhân của thực trạng mức độ kĩ năng tiền học đường........................ 54
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................. 55


Chương 3. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG TIỀN HỌC ĐƯỜNG
CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI .................................................................... 57
2.4.1. Nội dung các biện pháp ....................................................................... 58
2.4.2. Kết quả khảo nghiệm các biện pháp. ................................................... 63
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................. 67
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..........................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................71
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.

Khách thể nghiên cứu ..................................................................... 35

Bảng 2.2.

Mức độ kỹ năng tiền đọc ................................................................ 36

Bảng 2.3.

So sánh mức độ kỹ năng tiền đọc theo giới tính ............................ 38

Bảng 2.4.


So sánh mức độ kỹ năng tiền đọc theo khu vực nội thnh và
ngoại thành ..................................................................................... 39

Bảng 2.5.

Mức độ kỹ năng tiền viết................................................................ 40

Bảng 2.6.

So sánh mức độ kỹ năng tiền viết theo giới tính ............................ 44

Bảng 2.7.

So sánh mức độ kỹ năng tiền viết theo khu vực nội thành và
ngoại thành ..................................................................................... 45

Bảng 2.8.

Mức độ kỹ năng tiền tính toán ....................................................... 46

Bảng 2.9.

So sánh mức độ tiền tính toán theo giới tính.................................. 50

Bảng 2.10.

So sánh mức độ kỹ năng tiền tính toán theo khu vực nội thành
và ngoại thành ................................................................................ 52


Bảng 2.11.

Các biện pháp giúp nâng cao kỹ năng tiền học đường................... 57

Bảng 2.12.

Mức độ khả thi của những biện pháp giúp phát triển các kỹ
năng tiền đọc .................................................................................. 63

Bảng 2.13.

Mức độ khả thi của những biện pháp giúp phát triển kỹ năng
tiền viết ........................................................................................... 64

Bảng 2.14.

Mức độ khả thi của những biện pháp giúp phát triển kỹ năng
tiền tính toán. .................................................................................. 65


DANH MỤC
CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

%

:

Tỉ lệ phần trăm

MQH


:

Mối quan hệ

NN – KQ

:

Nguyên nhân – Kết quả

Sig = 0.05

:

Mức ý nghĩa

MG

:

Mẫu giáo

MN

:

Mầm non

Tp


:

Thành phố


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo các nhà tâm lý giáo dục, giai đoạn chuyển tiếp từ mẫu giáo sang lớp một
gọi là giai đoạn tiền học đường đánh đấu một bước ngoặt trong cuộc đời trẻ. Vì nếu
ở học sinh tiểu học đối tượng lĩnh hội là khái niệm khoa học, thì ở trẻ 5 tuổi chỉ là
tri thức đời sống hay tri thức tiền khoa học. Nếu hình thức tổ chức lớp học ở tiểu
học là tiết học, có tổ chức chặt chẽ, ranh giới giữa chơi và học thuật rành rọt, học ra
học chơi ra chơi, có giảng bài mới, có ôn tập, kiểm tra, đánh giá,…thì ở lớp Mẫu
giáo “tiết học” được diễn ra một cách nhẹ nhàng, thoải mái và linh hoạt hơn. Về
phương pháp, ở tiểu học giáo viên tiến hành các phương pháp dạy học có trong lí
luận dạy học, trong khi đó ở Mẫu giáo phương pháp đặc trưng là dạy dỗ nghĩa là
dùng tình thương để dạy dỗ trẻ, đồng thời với phương châm “chơi mà học, học mà
chơi” là thể hiện phương pháp đặc trưng đối với trẻ mẫu giáo. Do có sự khác biệt
đó, để trẻ hoàn thành những yêu cầu học tập, thích ứng với môi trường học đường
trước hết cần chuẩn bị cho trẻ về các mặt: thể lực, tâm lí, tình cảm, giao tiếp, nhận
thức và các kỹ năng học tập. Chuẩn bị tốt về mặt tâm lí, thể lực cho trẻ được xem là
công tác quan trọng, đồng thời việc sẵn sàng về mặt nhận thức và các kỹ năng học
tập là yêu cầu tiên quyết trong công tác chuẩn bị cho trẻ 5 – 6 tuổi bước vào môi
trường học đường. Các kỹ năng học tập và nhận thức của trẻ 5 – 6 tuổi được xác
định là kỹ năng tiền học đường.
Mỗi giai đoạn phát triển đều có những đặc điểm riêng, sự phát triển của một
giai đoạn này là kết quả của giai đoạn trước đó và là tiền đề cho giai đoạn phát triển

kế tiếp. Nếu trẻ phát triển tốt ở giai đoạn trước cũng chính là chuẩn bị tốt cho giai
đoạn sau. Nghĩa là, nếu kỹ năng tiền học đường của trẻ hoàn thiện thì trẻ sẽ dễ dàng
tham gia vào hoạt động học tập, ngược lại, kỹ năng tiền học đường của trẻ yếu thì
trẻ sẽ gặp khó khăn trong những năm học đầu tiên tại trường học và có thể ảnh
hưởng đến suốt quá trình học tập lâu dài về sau.
Trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một vai trò của giáo viên mầm non đóng
vai trò chủ đạo vì các hoạt động cung cấp kiến thức và hình thành các kỹ năng học
tập cho trẻ được tiến hành tại trường mầm non dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo
viên mầm non. Điều này có nghĩa, nếu công tác tổ chức các hoạt động nhận thức,


2

hình thành kỹ năng học tập của giáo viên hiệu quả thì kỹ năng tiền học đường của
trẻ được hoàn thiện giúp các em chuẩn bị sẵn sàng vào lớp một. Ngược lại, nếu
công tác tổ chức các hoạt động nhận thức, hình thành kỹ năng học tập của giáo viên
hạn chế sẽ ảnh hưởng đến mức độ hình thành và hoàn thiện các kỹ năng, mức độ
thuận lợi khi trẻ vào lớp một.
Hiện nay, chương trình Giáo dục mầm non và chương trình lớp một ở tiểu học
có tính liên thông kế thừa với nhau. Đây là một thuận lợi về mặt chương trình học
tập cho trẻ. Đồng thời việc ban hành Thông tư 23/ 2010/ TT – BGDĐT của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi cũng là cơ sở để giáo viên
nhận thức được mục tiêu cần đạt ở trẻ 5 tuổi, đánh giá được sự phát triển của trẻ
giúp chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào lớp một, từ đó xây dựng nội dung chăm sóc giáo
dục phù hợp.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, tại các trường Mầm non ở Thành phố Hồ
Chí Minh một số giáo viên lớp lá vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của công
tác chuẩn bị cho trẻ vào lớp một một cách đầy đủ và chính xác. Nguyên nhân là sự
thiếu nhiệt tình của giáo viên trong quá trình giáo dục trẻ, chưa tâm huyết với công
việc từ đó ít trau dồi kỹ năng sư phạm hoặc do những áp lực từ công việc: sĩ số trẻ

đông, thiếu trang thiết bị dạy học, sự thiếu hợp tác từ phụ huynh… từ đó ảnh hưởng
đến công tác chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
Vì vậy, khi bước vào lớp một không ít trẻ vẫn bỡ ngỡ, khó thích nghi vào hoạt
động học tập, một số ít trẻ còn sợ đi học, đến trường chỉ là sự bắt buộc. Một số trẻ
khác, do chỉ được tập trung rèn luyện một số kỹ năng nên mức độ phát triển các kỹ
năng không đồng đều từ đó ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Những điều này
không những mang lại nỗi vất vả cho giáo viên tiểu học, nỗi lo lắng của các bậc cha
mẹ, mà còn làm cho cuộc sống của trẻ nặng nề hơn ảnh hưởng lớn đến kết quả học
tập của trẻ lâu dài sau này. Điều này cho thấy thực tế chuẩn bị kỹ năng tiền học
đường của một số giáo viên vẫn còn nhiều hạn chế, từ đó dẫn đến mức độ kỹ năng
tiền học đường của trẻ chỉ đạt mức trung bình so với chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi.
Đó là lí do chúng tôi tiến hành nghiên cứu biện pháp phát triển kỹ năng tiền
học đường của trẻ 5 – 6 tuổi giúp phát triển kỹ năng tiền học đường cho trẻ góp
phần giúp trẻ tự tin và thuận lợi khi học lớp một ở trường tiểu học.


3

2. Mục đích nghiên cứu
Xác định mức độ hình thành kỹ năng tiền học đường của trẻ 5 – 6 tuổi, trên cơ
sở đó xây dựng một số biện pháp giúp nâng cao kỹ năng tiền học đường của các em.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về kỹ năng tiền học đường của trẻ 5 – 6 tuổi.
3.2. Khảo sát thực trạng kỹ năng tiền học đường của trẻ 5 – 6 tuổi và tìm ra
nguyên nhân thực trạng.
3.3. Đề xuất và khảo nghiệm một số biện pháp giúp nâng cao kỹ năng tiền
học đường cho trẻ 5 – 6 tuổi.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp phát triển kỹ năng tiền học đường cho trẻ 5 – 6 tuổi

4.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình tổ chức các hoạt động để chuẩn bị cho trẻ vào lớp một tại một số
trường Mầm non trên địa bàn TP. HCM.
5. Giả thuyết khoa học:
Nếu đề xuất được một số biện pháp hiệu quả giúp phát triển kỹ năng tiền học
đường cho trẻ 5 - 6 tuổi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ chuẩn bị vào lớp một.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành trong phạm vi các trường mầm non tại Tp.HCM.
6.2. Giới hạn nghiên cứu
388 trẻ 5 – 6 tuổi đang học cuối năm lớp lá tại 6 trường mầm non ở Thành phố
Hồ Chí Minh.
38 giáo viên lớp Lá tại 6 trường mầm non tiến hành khảo sát trẻ.
6.3. Địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu khảo sát tại 6 trường mầm non thuộc địa bàn TP. HCM: Mầm non
Măng Non I quận 10, Mầm non Hoa Hồng Quận 8, Mầm non Nhà Bé Yêu Quận
Bình Thạnh, Mầm non Hoa Hồng Quận Tân Phú, Mầm non Anh Duy quận Bình
Chánh, Mầm non Tân Thông Hội huyện Củ Chi.


4

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Tổng hợp và phân tích những tài liệu có liên quan đến đề tài nhằm xây dựng
cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Điều tra giáo viên bằng phiếu hỏi nhằm tìm hiểu thực trạng mức độ kỹ năng
tiền học đường của trẻ 5 – 6 tuổi và nguyên nhân của thực trạng.

7.2.2. Phương pháp đo nghiệm
Bài tập đo nghiệm được xây dựng dựa trên cơ sở:
- Chương trình giáo dục mầm non hiện hành
- Mục tiêu giáo dục mầm non
- Bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi
7.2.3. Phương pháp sử lý số liệu bằng toán thống kê.
Sử dụng toán thống kê để xử lý các số liệu đã thu thập được, tất cả các số
thống kê được xử lý với sự trợ giúp của phần mềm máy tính SPSS.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Lấy ý kiến của các chuyên gia về một tính hiệu quả và khả thi của các biện
pháp.
8. Đóng góp mới của đề tài
8.1. Góp phần làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về kỹ năng tiền học đường của
trẻ 5 – 6 tuổi.
8.2. Chỉ ra thực trạng và nguyên nhân thực trạng mức độ kỹ năng tiền học
đường của trẻ 5 – 6 tuổi tại 6 trường mầm non thuộc địa bàn TP. HCM
8.3. Đề xuất và khảo nghiệm một số biện pháp nhằm phát triển kỹ năng tiền
học đường cho trẻ 5 – 6 tuổi.


5

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Theo K.D Usinxki thời điểm bắt đầu đi học phổ thông liên quan đến việc sẵn
sàng về mặt tâm lí cho hoạt động học tập. Nếu trẻ đi học quá sớm thì nhiệm vụ học
tập không phù hợp, quá sức với trẻ. Điều này làm cho trẻ mất lòng tin vào bản thân
và khả năng của mình, mà lòng tin đó rất cần cho mỗi công việc. Sự thiếu lòng tin
này ăn sâu đến nỗi làm chậm thành tích học tập của trẻ lâu dài.

Theo L.V. Vưgotxki đối với việc dạy học cần có thời điểm tối ưu của nó, có nghĩa
là khoảng thời gian thuận lợi nhất. Bỏ qua thời điểm đó dù trước hoặc sau đều có
hại cho sự phát triển của trẻ.
Theo A.V. Daparogiet; L.A. Vengher; P.A. Côkhin; L.E. Rurôva; T.V.
Taruntaeva… có thể chia vấn đề sẵn sàng cho trẻ bước vào môi trường học đường
có thể chia làm hai mảng lớn: “Chung” và “Chuyên biệt”. Ở mảng sẵn sàng chung
bao gồm sự sẵn sàng về thể lực, nhân cách, trí tuệ. Ở mảng sẵn sàng chuyên biệt, sự
chuẩn bị để lĩnh hội những môn học của trường phổ thông đảm bảo cho trẻ những kĩ
năng đầu tiên của việc đọc, viết, làm toán và cả sự phát triển chung. Sự sẵn sàng về
thể lực theo nghiên cứu của A.V. Daparogiet; M.IU. Kixchiacôvxcôi; N.T.
Têrêcôvô nên hiểu là tình trạng sức khỏe, sự phát triển các tố chất vận động, khả
năng điều khiển các cơ nhỏ, khả năng lao động của cơ thể và trí óc. Sự sẵn sàng về
nhân cách theo nghiên cứu của R.C. Bure; T.A. Rêpinôi; G.G. Kravsôva; R.B.
Xterkinôi; T.V. Antônôvôi thể hiện ở sự chủ định của hành vi, trong sự hình thành
giao tiếp, trong sự đánh giá và động cơ học tập thể hiện ở sự tích cực, sự số sắng
giải quyết những nhiệm vụ chung, ở nhu cầu giúp đỡ bạn bè, tính kỉ luật, kĩ năng
tuân theo các quy chế, ở việc xuất hiện tính bền vững, tính cố gắng.
Sự sẵn sàng về trí tuệ theo nghiên cứu của A.V. Daparogiet; L.A. Vengher;
P.A. Côkhin; N.N. Pôđiakôv; Paramônôva biểu hiện ở sự hình thành tư duy hình
ảnh, trí tưởng tượng, óc sáng tạo, cơ sở của tư duy ngôn ngữ logic và ngay cả sự
lĩnh hội những phương thức hoạt động nhận thức (kĩ năng phân loại, khái quát hóa,


6

giản lược, mô hình hóa), lĩnh hội tiếng mẹ đẻ, các hình thức cơ bản của ngôn ngữ
(đối thoại, độc thoại).
Sự sẵn sàng “chuyên biệt” bao gồm việc lĩnh hội những cơ sở ban đầu của
việc học đọc, học viết, làm toán, những cơ sở của hoạt động học tập.
Các tác giả C.V. Cidorskaia; T. Alieva; A. Arusanova đã nghiên cứu việc hình

thành những kĩ năng đầu tiên cho hoạt động học tập của trẻ [46]. Tác giả E.I. Rogov
đã nghiên cứu và nghiên cứu xác định mức độ sẵn sàng về mặt tâm lý cho việc học
tập của trẻ ở trường phổ thông [51].
Nghiên cứu kỹ năng tiền đọc và kỹ năng tiền viết, các tác giả Kathleen A
Roskos; James F. Christie; Donald J. Richge; E. Smirnôva đã nghiên cứu về những
vấn đề liên quan đến việc cho trẻ mẫu giáo làm quen với đọc viết. Tác giả A. Chafel
Judith, A. Truđacôva nghiên cứu biện pháp phát triển khả năng sớm biết đọc và biết
viết được hình thành một cách tự nhiên ở trẻ và biện pháp để chuẩn bị cho trẻ tập
Viết [3].
Nghiên cứu về kỹ năng tiền tính toán có các tác giả O.V. Sumakova; T.R.
Kuzmina; Feeney; Christensen; Moravcic; IA. I. Kovantruc nêu lên những yêu cầu
trong công tác hình thành biểu tượng toán học cho trẻ mầm non [18]. Các tác giả
khác I. Seliseva; M. Blosakova; Khoo Kim Choo; C. Tepliuk; L. Becaeva nghiên
cứu tập trung vào phương pháp, biện pháp để dạy trẻ học toán thông qua các hoạt
động hằng ngày, qua làm quen với môi trường tự nhiên, qua hoạt động kể chuyện
và trò chơi [53], [16], [59], [54].
1.1.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, nghiên cứu về vấn đề chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp một ở
trường tiểu học có tác giả Huỳnh Văn Sơn với nghiên cứu khẳng định tầm quan
trọng của vấn đề “Chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông” [57] trong đó tác giả đề
cập đến những bất cập trong công tác chuẩn bị đến trường phổ thông hiện nay, đồng
thời phân tích cụ thể các nhiệm vụ, nội dung của công tác chuẩn bị cho trẻ đến
trường phổ thông; các hình thức, phương pháp thực hiện việc tổ chức cho trẻ đến
trường. Tác giả Hồ Thị Lai Châu với nghiên cứu về “Chuẩn bị cho trẻ vào lớp một
ở trường Mẫu giáo Thực nghiệm trung ương 3” [15] đề cập đến một số công tác


7

chuẩn bị cho trẻ 5 – 6 tuổi vào lớp một. Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Trinh với nghiên

cứu về vấn đề kế thừa giữa trường mẫu giáo và trường tiểu học. Tác giả nhấn mạnh
chương trình giữa trường mẫu giáo và tiểu học có tính liên thông với nhau, đó là
điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển tiếp giữa hai môi trường, tuy nhiên nhà
giáo dục cần có nhận thức đúng tinh thần, mục tiêu chương trình để tránh tổ chức
các nội dung giáo dục hướng tới mục tiêu dạy học như ở bậc Tiểu học [64]. Ngoài
ra các tác giả Nguyễn Thị Phương Anh, Nguyễn Thị Yến Linh, Nguyễn Thị Thanh
Hương, Nguyễn Thị Thư cũng có những bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc chuẩn bị cho trẻ 5 – 6 tuổi vào lớp một, đồng thời nêu lên một số biện pháp
giúp phụ huynh chuẩn bị cho trẻ vào lớp một [6], [23], [26], [63].
Về kỹ năng tiền học đường, nghiên cứu sự phát triển kỹ năng đọc, viết cho trẻ
5 tuổi, tác giả Nguyễn Thị Phương Nga nêu lên vấn đề“Khi nào bắt đầu dạy chữ
cho trẻ”, cách tận dụng những cơ hội để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, môi trường tốt
nhất để trẻ học chữ viết, cơ sở lý luận của công tác phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm
non. Tác giả Trần Thị Nga với nghiên cứu về vấn đề phát triển ngôn ngữ và cho trẻ
mẫu giáo 5 tuổi làm quen với việc đọc viết. Các tác giả Lê Thị Ánh Tuyết, Phan
Lan Anh, Tô Nhi A [1], [5], [69] nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ đọc, viết cho trẻ
5 tuổi chuẩn bị vào lớp một ở Tiểu học. Tác giả Hoàng Thị Mai với bài viết “Cho
trẻ 5 tuổi tập làm quen với chữ Viết theo hướng đổi mới” đã đưa ra một số nội dung
giúp trẻ làm quen kỹ năng đọc [25].
Về kỹ năng tiền tính toán tác giả Trương Thị Xuân Huệ đã đề cập đến “Vấn đề
chuẩn bị cho trẻ học toán lớp một”, trong đó tác giả đã đưa ra những biện pháp
chuẩn bị cho trẻ học toán lớp một. Tác giả Lê Thị Thanh Nga với nhiều bài viết đề
cập đến phương pháp, biện pháp, môi trường tổ chức cho trẻ làm quen với biểu
tượng toán. Tác giả nêu ra các biện pháp đa dạng có thể áp dụng cho giáo viên và
phụ huynh nhằm phát triển biểu tượng toán và các thao tác toán học cho trẻ 5 – 6
tuổi.
Về vấn đề đánh giá các kỹ năng tiền học đường ở trẻ 5 – 6 tuổi tác giả
Nguyễn Thị Hồng Nga với luận án “Nghiên cứu hoàn thiện bộ trắc nghiệm đo
lường mức độ sẵn sàng đi học của trẻ 6 tuổi vào lớp một”. Trong nghiên cứu này



8

tác giả có đề cập đến điều kiện cần thiết để trẻ vào lớp một với bốn phần chính của
trắc nghiệm đo lường mức độ sẵn sàng đi học của trẻ 6 tuổi gồm: ngôn ngữ, biểu
tượng về số, tâm vận động, thích ứng xã hội [27].
Từ năm 2010 đến nay cùng với việc ra đời Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi,
nhưng nghiên cứu về mức độ kỹ năng tiền học đường của trẻ 5 – 6 tuổi so với
Chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi chưa được nghiên cứu tại các trường mầm non trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm công cụ của đề tài
1.2.1.1. Khái niệm biện pháp
Theo từ điển Tiếng Việt: Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ
thể.
Như vậy, biện pháp là cách giải quyết một vấn đề cụ thể bằng những hành
động đúng đắn để đạt được một mục đích nhất định. Khi sử dụng biện pháp trong
quá trình sư phạm nhằm mục đích giáo dục trẻ thì biện pháp trờ thành một thành tố
của quá trình giáo dục. Biện pháp thể hiện sự sáng tạo của giáo viên trong quá trình
dạy học.
1.2.1.2. Khái niệm kỹ năng
Có nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực tâm lí học đang tồn tại hai quan điểm về vấn đề kỹ năng.
Quan điểm thứ nhất: Coi kỹ năng là một kỹ thuật của một thao tác, hành động hay
hoạt động nào đó.
Đại diện quan điểm này là: V.A.Cruchetxki, A.G.Côvaliov, V.S.Kudin…
- V.S.Kudin cho rằng, kỹ năng là phương thức hoạt động không củng cố bắt
buộc luyện tập từ trước.
- V.A.Cruchetxki cho rằng, kỹ năng là các phương thức thực hiện một hành
động – những cái mà con người đã lĩnh hội từ trước.

Như vậy theo hai tác giả, chỉ cần nắm vững phương thức hành động là con
người đã có kỹ năng không cần đến kết quả.


9

- A.G.Côvaliov: Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động thích hợp với
mục đích những điều kiện hoạt động. Do đó người có kỹ năng là người thực hiện
các hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động, không đề cập đến kết
quả hành động, mà chỉ coi kết quả hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó,
quan trọng hơn cả là năng lực con người chứ không đơn giản là nắm vững cách thức
hoạt động đem lại kết quả tương ứng.
Quan điểm thứ hai: Coi kỹ năng không đơn thuần là kỹ thuật hành động mà
còn là một biểu hiện năng lực của con người. Kỹ năng theo quan niệm này – vừa có
tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt.
Đại diện quan điểm này là: N.Đ.Lêvitốp, A.V.Pêtrovki và M.G.Jarosevxki,
Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết, Ngô Công Hoàn, Trần Quốc Thành,…
- Theo các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết, Ngô Công Hoàn,
Trần Quốc Thành kỹ năng là năng lực của con người thực hiện một công việc nào
đó có kết quả.
- N.Đ.Lêvitốp cho rằng, kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào
đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách áp dụng hay lựa chọn những cách
thức đúng đắn, có tính đến những điều kiện nhất định. Ở đây ông đặc biệt chú ý đến
kết quả của hoạt động. Việc vận dụng lý thuyết vào thực tiễn được chia thành hai
mức tương ứng với hai bước khác: kỹ năng sơ đẳng và kỹ năng phát triển.
+ Kỹ năng sơ đẳng: Được biểu hiện ở những thể nghiệm đầu tiên trong việc
thực hiện có kết quả các tác động cần thiết, kỹ năng sơ đẳng được xuất hiện do sự
bắt chước.
+ Kỹ năng phát triển: Xuất hiện ở giai đoạn cao hơn, được hình thành trong
quá trình vận dụng những tri thức, hiểu biết vào thực tiễn, do tập luyện mà dần trở

thành kỹ xảo ngày càng hoàn thiện.
Một người có kỹ năng hoạt động là phải nắm được và vận dụng đúng đắn các
cách thức của hoạt động, nhằm thực hiện hành động có kết quả.
Qua đó ta thấy, hai quan niệm kỹ năng được trình bày trên đều có điểm nhấn
chung là muốn nói tới mặt kỹ thuật của một hành động được luyện tập một cách


10

thuần thục theo đúng quy trình logic là biểu hiện của mặt kỹ năng.
Trong quá trình nghiên cứu về kỹ năng để triển khai bất kỳ một hành động nào
thì chúng ta cần xem xét những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Kỹ năng trước hết phải được hiểu là mặt kỹ thuật của thao tác hay
hành động nhất định. Kỹ năng không có mục đích riêng. Mục đích của nó là mục
đích của hành động, không có kỹ năng chung, trừu tượng tách rời hành động. Khi
nói tới kỹ năng là nói tới một hành động cụ thể đạt tới mức đúng đắn và thuần thục
nhất định. Kỹ năng hành động đồng nghĩa với hành động có kỹ năng.
Thứ hai: Cơ chế hình thành kỹ năng thực chất là cơ chế hình thành hành động.
Mỗi hành động bao giờ cũng có mục đích khách quan và lôgic thao tác dẫn đến mục
đích đó. Lôgic thao tác làm nên kỹ thuật của hành động, việc hình thành kĩ năng
hành động là cá nhân phải biết triển khai thao tác theo đúng lôgic phù hợp với mục
đích khách quan. Việc định hướng, điều khiển và điều chỉnh quá trình hình thành và
củng cố hành động.
Thứ ba: Kỹ năng là mức độ đúng đắn của việc triển khai hành động trong thực
tiễn. Hành động chưa thể có kỹ năng nếu còn mắc nhiều lỗi lầm và vụng về, còn
tiêu tốn nhiều công sức và thời gian triển khai nó. Vì vậy, để có kỹ năng hành động,
cá nhân không chỉ hiểu sâu sắc về hành động mà còn triển khai trong thực tiễn theo
đúng lôgic của nó với một vật liệu có thể có. Ta có thể đánh giá học sinh biết đọc,
biết viết tiếng Việt khi các em triển khai đúng đắn các thao tác đọc và viết trên tất
cả các âm tiếng Việt chứ không thể chỉ dừng lại ở một vài âm hoặc vần nào đó.

Để hình thành kỹ năng các tác giả đã chỉ ra rằng: khi tiến hành một hoạt động
nào đó. Lúc đầu phải xác định mục đích của nó, sau đó chỉ ra và giúp người học
hiểu được cách thức thực hiện hoạt động này, trình tự thực hiện các hoạt động và
cung cấp các biểu tượng về kỹ thuật hoàn thành chúng. Tri thức về mục đích của
hoạt động, các khái niệm, các biểu tượng về các cách thức để đạt được mục tiêu cần
được nắm vững trước khi thực hiện các hành động để hình thành kỹ năng. Trong
quá trình đó các khái niệm, biểu tượng sẽ được mở rộng hơn, trở nên sâu sắc hơn,
hoàn thiện hơn.


11

Người có kỹ năng về hành động nào đó phải có tri thức về hành động đó, hành
động theo đúng yêu cầu và đạt kết quả trong mọi điều kiện khác nhau. Theo K.I
Platonov và G.G.Golubev kỹ năng là năng lực của người thực hiện công việc có kết
quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và những khoảng thời
gian tương ứng. Bất kỳ một kỹ năng nào cũng bao hàm trong đó cả biểu tượng, khái
niệm, vốn tri thức, sự tự kiểm tra, điều chỉnh quá trình hoạt động.
- Tác giả Nguyễn Đức Hưởng đưa ra các chỉ báo đánh giá mức độ thuần thục,
thành thạo của kỹ năng như sau:
+ Mức độ hiểu biết về hành động và các thao tác cấu thành hành động
+ Tốc độ thực hiện hành động, thực hiện các thao tác cấu thành hành động
+ Tính nhịp nhàng trong phối hợp các thao tác hành động
+ Hiệu quả của hành động
Khi đánh giá kỹ năng cần phải sử dụng tổng hợp các chỉ báo trên. Nếu chỉ sử
dụng một chỉ báo đơn lẻ thì có thể dẫn đến nhầm lẫn (chẳng hạn như coi người có
tri thức, hoặc người có hành động nhanh, người làm việc có hiệu quả là người có kỹ
năng).
Từ các quan điểm về kỹ năng chúng tôi xin đưa ra khái niệm kỹ năng như sau:
Kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức vào trong thực tiễn để thực hiện có

kết quả một hành động nào đó.
1.2.1.3. Khái niệm kỹ năng tiền học đường
Kỹ năng tiền học đường bao gồm các kỹ năng ban đầu cần có trong lĩnh vực
học tập để chuẩn bị sẵn sàng cho trẻ vào lớp một, bao gồm: kỹ năng tiền đọc, kỹ
năng tiền viết và kỹ năng tiền tính toán.
a) Kỹ năng đọc
Là cách tách âm ra khỏi ký hiệu ghi âm và chuyển chúng thành cơ chế lời nói.
Đối tượng của hành động đọc là các kí hiệu ghi âm, còn bản thân hành động này
bao gồm hai quá trình có lôgic tuyến tính: tách âm thanh ra khỏi các kí hiệu ghi âm
và quá trình phát ngôn (nói to hoặc nói thầm).
Để có kỹ năng này trước hết trẻ phải hình thành được kỹ xảo phát ngôn và khả
năng phân tích âm thanh, chữ viết.


12

Các yêu cầu về kỹ năng đọc:
- Kỹ năng đọc được hình thành trên kỹ xảo nói và khả năng phân tích âm
thanh, chữ viết.
- Trẻ có kỹ năng đọc tức là đọc được dấu hiệu của một âm, một vần liên quan
đến cơ chế lời nói. Đọc được nhóm vần ghép thành từ hay thành những nhóm từ ý
nghĩa thành câu. Ở đây liên quan đến ngôn ngữ tức là từ vựng và cơ cấu tư duy.
Những thao tác cần thiết để hình thành kỹ năng đọc bao gồm:
- Nhận ra một dấu hiệu và nói lên được âm tương đương. Điều này liên quan
đến những thao tác như sau:
+ Tri giác hình thái toàn bộ.
+ Tri giác đúng hướng, kích thước và số lượng nét chữ.
+ Nhận ra và nhớ được thứ tự sắp xếp các yếu tố.
+ Nói lên được các âm tương đương.
Muốn làm như vậy, phải có một biểu tượng thính giác đúng và các cơ phát âm

hoạt động theo biểu tượng ấy.
- Nhìn nhận ra một loại ký hiệu kết thành vần
Muốn như vậy phải tri giác đúng những hình thái liên tiếp theo thứ tự bố cục,
không lẫn lộn thêm bớt theo chiều từ trái sang phải, biết cách kết hợp đúng nguyên
âm và phụ âm.
- Nhìn ra một loại vần kết nhau thành từ
Ngoài những yêu cầu như trên, còn phải yêu cầu đọc có giọng điệu. Về từ ngữ
phải hiểu theo nghĩa, có ý niệm về hình loại và số lượng, phát âm đúng theo trình
tự, đúng giọng và điệu.
- Nhận ra hàng loạt từ kết hợp với nhau thành một bài có ý nghĩa.


13

Phải biết đọc từ trái sang phải, hết một hàng lại xuống hàng dưới, ít nhiều hiểu
biết phỏng đoán có những từ chỉ về sự việc, hiện tượng; những từ chỉ tính chất,
giống nhau, khác nhau và những loại tự kết nối.
- Nhận ra các mệnh đề, câu cú:
Nhận ra ký hiệu chấm câu và giọng điệu, hiểu nhanh nghĩa của từng từ. Hiểu
được cấu trúc của câu, trình tự thời gian của sự việc và trình tự thao tác trong suy
luận.
Chỉ khi nào đọc mà không cần phát âm, tức là chỉ cần nhìn bằng mắt mà hiểu
được ý nghĩa như vậy mới là biết đọc, bài đọc thật ra là vật chất hóa ngôn ngữ bên
trong, là hòa nhập của thao tác tư duy với việc đọc thông qua hệ thống cơ quan phát
âm.
- Phải có năng lực và thái độ cần thiết
Định hướng được trong không gian và thời gian, trẻ nhận ra được vị trí của
bản thân trong không gian đối lập với những vật thể khác. Trẻ nhận ra trình tự tiếp
diễn trước sau của thời gian. Nhận ra sự tương ứng giữa bố cục trong không gian và
trình tự thời gian.

Về thao tác tư duy: trẻ biết phân tích, so sánh và nhận xét đối tượng tri giác và
nhớ được, tổng hợp nhanh thì trẻ mới tự động đọc được. Hơn nữa, trẻ còn phải biết
thay thế một sự vật cụ thể bằng một ký hiệu tương đương.
Về ngôn ngữ: trẻ phát âm không bị rối, cảm nhận được nhịp điệu, cường độ
đọc diễn cảm, sinh động
Trẻ cần tự tin và thoải mái không lo sợ khi đọc bài.
b) Kỹ năng tiền đọc
Như vậy, kỹ năng tiền đọc là khả năng vận dụng kiến thức, cơ sở ban đầu của
kỹ năng đọc vào thực tiễn để thực hiện có kết quả hành động đọc ở mức độ sẵn sàng
vào lớp một.
Kỹ năng tiền đọc bao gồm:
- Tri giác đúng hướng của việc đọc.
- Biết ý nghĩa một số ký hiệu, biểu tượng trong cuộc sống.


14

- Thao tác như người đọc sách.
- “Đọc” theo truyện tranh đã biết.
- Kể chuyện theo tranh.
- Nhận biết, phân biệt, gọi tên đúng các chữ cái và phát âm được các âm đó.
c) Kỹ năng viết
Viết chữ về bản chất là quá trình mã hóa các âm vào hệ thống ký hiệu thị giác.
Vì vậy, để có được kỹ năng viết một cá nhân phải có kỹ năng đọc, đồng thời có các
thao tác và khả năng phân tích hệ thống ký hiệu ghi âm đã được cộng đồng thừa
nhận. Trong quá trình hình thành hành động nói, trẻ em có thể tiến hành theo cơ chế
bắt chước và ướm thử âm thanh. Ngược lại, khi học viết chữ trẻ phải bắt đầu từ sự
phân tích, tổng hợp các âm theo những quy tắc được mã hóa vào các ký hiệu thị
giác.
Các từ được hình thành không phải là một phát âm liền khối mà là sự kết hợp

các âm khác nhau. Muốn vậy, việc học chữ đòi hỏi trẻ phải có khả năng phát ngôn
các âm thanh theo ký hiệu thính giác mà còn phải biết phân tích các âm đó theo quy
tắc ký hiệu thị giác. Nó là hành động có ý thức, chứ không chỉ là sự bắt chước máy
móc hay ướm thử đơn thuần trong thực tiễn.
Như vậy, cơ chế học nói khác với cơ chế học viết: học nói mang tính “tự
nhiên”, giống như các thành tựu khác của trẻ như học vận động, học đi… điều này
giải thích vì sao mọi người bình thường đều có thể học và nói được theo đúng quy
tắc ngữ pháp. Ngược lại sẽ không biết đọc, biết viết nếu không đi học một cách có ý
thức. Để có được kỹ năng viết thì trước hết trẻ phải có kỹ năng nói, đọc và phải có
các thao tác, cử động cần thiết.
Các yêu cầu về kỹ năng viết:
- Viết được các chữ cái không cần nhìn mẫu, cần phải: Nhớ được những
hướng chung về hình thái, kích thước, nhớ chữ bao nhiêu nét; nhìn nhận toàn bộ
chữ cái và đọc nhẩm không phát âm: cầm bút không co rúm cơ bắp, thực hiện đúng
ý đồ, khởi động và ngừng đúng lúc, đúng kích thước, nhớ lại những hình thái và
những chữ khác nhau.


15

- Viết được một vần, một vài từ cần: Tri giác toàn bộ, bố cục từ trái sang phải
các chữ theo đúng trình tự, hình dung được dòng kẻ, bố cục các nét; phân biệt các
loại chữ cái, những nét cao lên hay kéo xuống các đường gạch.
- Viết chính tả (nghe đọc – viết): Dựa vào trí nhớ cấu trúc lại các từ tương ứng
những biểu tượng không gian và thời gian; nhận biết trình tự phát âm của âm tiết và
chuyển thành những ký hiệu được bố cục đúng trình tự.
Những năng lực và thái độ cần thiết để viết:
Trẻ cần hiểu được những ký hiệu để ghi lên giấy tương ứng với những âm tiết
của lời nói, mặt khác nhớ được, gợi lại được và ghi lại những định hướng, hình thái
và ký hiệu cho trước những ký hiệu ấy. Muốn vậy cần phải có:

- Trí năng phải thuần thục đến mức độ nhất định mà theo Piaget là đã đạt giai
đoạn thao tác cụ thể.
- Có khả năng nhớ lại tức thì.
- Có khả năng phân tích và suy luận.
- Có hứng thú không lo sợ.
- Thuần thục về vận động để làm chủ mọi cử động.
- Định hướng không gian và thời gian tốt.
- Phân rõ thuận tay trái hay tay phải.
Tóm lại, muốn một trẻ chưa biết đọc và chưa biết viết đạt được biết đọc, biết
viết thuần thục về mặt tình cảm cũng như tâm vận động cần có các điều kiện sau:
+ Thái độ thoải mái giúp trẻ có khả năng chú ý đến một điểm trong một thời
gian nhất định.
+ Định hướng được không gian, thời gian và thuận tay phải hay tay trái.
+ Tri giác tai mắt chính xác.
+ Biết phân tích và nhớ lại được những tri giác ấy.
Qua đó ta thấy kỹ năng nói, viết có quan hệ mật thiết với nhau, thành tựu về
kỹ năng viết dựa trên kỹ năng nói của đứa trẻ. Nhưng nếu đứa trẻ chỉ dừng lại ở kỹ


16

năng nói thì đứa trẻ chưa thể lĩnh hội được ngữ âm và sẽ không có công cụ để lĩnh
hội các môn học khác.
d) Kỹ năng tiền viết
Như vậy, kỹ năng tiền viết là khả năng vận dụng kiến thức, cơ sở ban đầu của
kỹ năng viết vào trong thực tiễn để thực hiện có kết quả hành động viết ở mức độ
sẵn sàng vào lớp một. Kỹ năng tiền viết bao gồm:
- Nhận ra chữ viết có thể đọc thay lời nói
- Sử dụng ký hiệu hoặc hình vẽ để thể hiện cảm xúc, nhu cầu, ý nghĩ, kinh
nghiệm của bản thân.

- “Viết” tên của bản thân theo cách của mình.
- Tô, đồ được chữ cái và chữ số trong bảng chữ, số tiếng Việt.
- “Viết” chữ theo thứ tự từ trái qua phải, từ trên xuống dưới.
- Bắt chước hành vi viết và sao chép từ, chữ cái.
- Ngồi viết đúng tư thế
- Cầm bút và sử dụng bút đúng
e) Kỹ năng tính toán
Học toán ở lớp một trẻ cần đạt những yêu cầu sau:
- Đọc được số tự nhiên từ 1 đến 10, hiểu về con số (về số lượng, cách biểu
diễn những số lượng ấy).
- Biết làm hai phép tính, hiểu được thế nào là lớn hơn, nhỏ hơn, bằng nhau,
thêm bớt, biết vận dụng những ký hiệu cộng trừ, biết ghi kết quả bằng con số - tức
trẻ đã có ý niệm về tính toán.
- Biết giải một số bài tập vận dụng hai phép tính và biết dùng những đơn vị đo
lường.
Ở trẻ 5 – 6 tuổi trẻ chưa có kỹ năng tính toán nhưng trẻ đã có những thành tố
ban đầu của hoạt động tính toán thông qua quá trình lĩnh hội những biểu tượng toán
ban đầu – nhận thức các biểu tượng về các phạm trù toán học cơ bản: tập hợp – số
lượng, hình dạng, kích thước, định hướng trong không gian.


17

Qúa trình hình thành biểu tượng toán ban đầu cho trẻ một lượng kiến thức nhất
định về tập hợp – số lượng, hình dạng, kích thước, định hướng trong không gian và
theo thời gian, góp phần hình thành và phát triển các quá trình nhận thức của trẻ,
hình thành cho trẻ những năng lực nhận biết chung, các nét tính cách cần thiết để
thực hiện tốt hoạt động học tập ở trường phổ thông.
Trong quá trình hình thành biểu tượng toán ban đầu ở trẻ, hình thành một số kĩ
năng cần thiết cho hoạt động học tập như: kĩ năng nghe, hiểu và hành động phù hợp

với các yêu cầu của giáo viên; lựa chọn được phương thức hành động đáp ứng
nhiệm vụ nhận thức được giao; biết thực hiện và thực hiện xong nhiệm vụ trong
một khoảng thời gian nhất định; biết kiểm tra, đánh giá các phương thức hành động
của mình, của bạn; biết đưa ra những kết luận và chứng minh sự đúng đắn của
những hành động được thực hiện hoặc sửa sai cho mình, cho bạn…
Trong quá trình hình thành biểu tượng toán ban đầu ở trẻ hình thành ý thức tổ
chức kỉ luật, ý thức phối hợp hành động với các bạn cùng nhóm, tính tích cực, sáng
tạo, lòng tự tin, kiên trì, ý chí vượt khó…là những phẩm chất cần thiết cho trẻ học
tốt ở trường phổ thông.
f) Kỹ năng tiền tính toán
Kỹ năng tiền tính toán là khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng về biểu tượng
toán ban đầu vào trong thực tiễn để thực hiện có kết quả hành động tính toán ở mức
độ sẵn sàng vào lớp một.
Kỹ năng tiền tính toán bao gồm các kỹ năng:
- Giải thích được mối quan hệ nguyên nhân - kết quả đơn giản trong cuộc sống
hằng ngày.
- Nhận ra và thực hiện quy tắc sắp xếp đơn giản.
- Nói được ngày trên lốc lịch và giờ trên đồng hồ.
- Xác định được vị trí (trong, ngoài, trên, dưới, trước, sau, phải, trái) của một
vật so với một vật khác.
- Gọi tên các ngày trong tuần theo thứ tự.
- Phân biệt được hôm qua, hôm nay, ngày mai qua các sự kiện hàng ngày.


×