Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

dạy tiếng việt thực hành cho học viên campuchia tại trường sĩ quan lục quân 2 theo quan điểm giao tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 152 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Quyên

DẠY TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH CHO HỌC
VIÊN CAMPUCHIA TẠI TRƯỜNG SĨ QUAN
LỤC QUÂN 2 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Quyên

DẠY TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH CHO HỌC
VIÊN CAMPUCHIA TẠI TRƯỜNG SĨ QUAN
LỤC QUÂN 2 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn học
Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Đặng Ngọc Lệ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013




LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Quý thầy cô Phòng Sau đại học!
Quý thầy cô Khoa Ngữ Văn!
Tên tôi là: Lê Thị Quyên.
Sinh ngày: 04/ 3/ 1976.
Quê quán: Xuân Hưng- Thọ Xuân- Thanh Hóa.
Thường trú: 14C- K2007- Ấp Long Đức 1- Tam Phước- Biên Hòa- Đồng Nai.
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp giảng dạy bộ môn Văn học.
Tên đề tài luận văn: “Dạy tiếng Việt thực hành cho học viên Campuchia tại Trường Sĩ quan
Lục quân 2 theo quan điểm giao tiếp”.
Giảng viên hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Ngọc Lệ.
Tôi xin cam đoan luận văn này là do tôi tự làm dưới sự hướng dẫn của PGS. TS.
Đặng Ngọc Lệ.
Tôi xin cam đoan những số liệu trong bài đều là do tôi tự tay thống kê.
Tôi cam đoan những tri thức kế thừa của người đi trước, tôi đều trích dẫn đầy đủ, cho
vào trong ngoặc kép, nguồn trích dẫn chính xác tên bài, số trang.
Người cam đoan

Lê Thị Quyên

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và hoàn thành đề cương luận văn này đúng thời
hạn, tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS. Đặng Ngọc Lệ, và sự góp ý chân
thành của TS. Phan Thị Minh Thúy, sự giúp đỡ từ quý thầy cô Khoa Ngữ Văn, quý thầy cô
Phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy PGS. TS. Đặng Ngọc Lệ. Mặc dù
tuổi đã cao, nhưng thầy rất nhiệt tình hướng dẫn, hỗ trợ hết mình và đôn đốc tôi trong suốt
quá trình làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô Khoa Ngữ Văn, quý thầy cô
Phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để tôi
thực hiện luận văn trong thời gian cho phép.
Dù đã cố gắng thực hiện để hoàn thành luận văn bằng tất cả tâm huyết và nỗ lực của
mình, nhưng luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến
đóng góp xây dựng chân thành của quý thầy cô. Tôi xin cảm ơn!
TP.HCM,ngày 30 tháng 9 năm 2013

Lê Thị Quyên

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................................. 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 13
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 14
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 14
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................................... 15


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................. 16
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................................ 16
1.1.1. Quan điểm giao tiếp và việc dạy thực hành tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp 16
1.1.2. Mục tiêu dạy học THTV ....................................................................................... 22
1.1.3. Nhiệm vụ của việc DH THTV .............................................................................. 23
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................... 25
1.2.1. Khảo sát tình hình dạy và học THTV ở trường Sĩ quan Lục quân 2 (năm học
2012 -2013) ..................................................................................................................... 25
1.2.2. Nhận xét ................................................................................................................ 26
1.2.3. Những khó khăn của giáo viên trong quá trình dạy học ....................................... 35

CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ MỘT SỐ BÀI TẬP VÀ GIÁO ÁN THEO QUAN
ĐIỂM GIAO TIẾP .................................................................................................... 41
2.1. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa TV và tiếng Khơmer......................... 41
2.1.1. Những điểm tương đồng ....................................................................................... 41
2.1.2. Những điểm khác biệt ........................................................................................... 42
2.1.3. Những kĩ năng cần rèn luyện cho HV .................................................................. 43
2.2. Vận dụng quan điểm giao tiếp trong việc thiết kế bài tập và giáo án để giảng dạy
cho HV Campuchia .......................................................................................................... 44
2.2.1. Thiết kế bài tập ..................................................................................................... 44
2.2.2. Thiết kế giáo án ..................................................................................................... 54
2.3. Vận dụng quan điểm giao tiếp trong việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
HV ...................................................................................................................................... 78
3


2.3.1. Mục đích kiểm tra, đánh giá ................................................................................. 78
2.3.2. Vận dụng quan điểm giao tiếp trong việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
HV ................................................................................................................................... 78


CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM............................................................ 80
3.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm sư phạm ................................................................ 80
3.1.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................................... 80
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm ............................................................................................ 80
3.2. Quy trình thực nghiệm sư phạm .............................................................................. 81
3.2.1. Xác định thời gian và phạm vi thực nghiệm ......................................................... 81
3.2.2. Xác định đối tượng tham gia thực nghiệm ........................................................... 81
3.2.3. Phương pháp thực nghiệm .................................................................................... 82
3.2.4. Soạn giáo án thực nghiệm ..................................................................................... 82
3.2.5. Tổ chức thực nghiệm sư phạm.............................................................................. 93
3.2.6. Nhận xét kết quả thực nghiệm sư phạm ............................................................... 94

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 108
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 111

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TỪ NGỮ

STT

VIẾT TẮT

1.

Dạy học thực hành tiếng Việt


DH THTV

2.

Dạy học

DH

3.

Đối chứng

ĐC

4.

Giáo viên

GV

5.

Hoạt động dạy học

HĐDH

6.

Hoạt động




7.

Học viên Sĩ quan Lục quân 2

HV SQLQ 2

8.

Học viên

HV

9.

Kiến thức

KT

10.

Kĩ năng

KN

11.

Nhà xuất bản


NXB

12.

Phương pháp dạy học

PPDH

13.

Phương pháp

PP

14.

Sĩ quan Lục quân 2

SQLQ 2

15.

Thực hành tiếng Việt

THTV

16.

Thực nghiệm sư phạm


TNSP

17.

Tiếng Việt

TV

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình hội nhập và giao lưu quốc tế, ngôn ngữ luôn là vấn đề đặt ra với bất cứ
mối quan hệ quốc tế nào. Nó là rào cản trước tiên với mỗi người, với mỗi cuộc tiếp xúc khi có
yếu tố nước ngoài. Biết được tiếng nói của đối tác luôn là điều kiện và cũng là nhu cầu của tất
cả mọi người. Người nước ngoài đến Việt Nam muốn hiểu biết, nghiên cứu về Việt Nam đều
có nhu cầu biết và học tiếng Việt (TV).
Mục tiêu chung của việc dạy tiếng là cung cấp cho người học những kiến thức cơ
bản, bao gồm vốn từ vựng cơ bản, chuẩn văn hóa, một hệ thống quy tắc ngữ pháp cần thiết,
cao hơn là những thủ pháp tu từ nhằm nâng cao khả năng sử dụng TV trong giao tiếp và xa
hơn nữa là những tri thức về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam… thông qua ngôn ngữ
Việt. Mục tiêu cụ thể là những kĩ năng sử dụng ngôn ngữ với bốn kĩ năng cơ bản là nói –
nghe - đọc – viết. Kĩ năng này sẽ được người học sử dụng trong hoạt động giao tiếp như là
công cụ thông tin. Phương châm chung của việc dạy tiếng cũng xem người học là chủ thể
tức là lấy người học làm trung tâm, lấy lợi ích của người học làm mục đích.
Trong những năm qua, Trường Sĩ quan Lục quân 2 (SQLQ 2) ngoài nhiệm vụ tăng
cường hợp tác, đối ngoại quân sự, còn thực hiện chức năng đào tạo cán bộ quân sự cho quân
đội Hoàng gia Campuchia. Cùng với những nội dung huấn luyện quân sự, môn Thực hành

tiếng Việt (THTV) được đưa vào chương trình đào tạo chính khóa cho học viên (HV) nước
bạn. Bên cạnh mục đích chung của việc học tiếng thông qua các bài học, giáo viên (GV)
giới thiệu với HV nền văn hóa Việt Nam, góp phần củng cố và phát triển tình hữu nghị
truyền thống tốt đẹp giữa hai dân tộc, hai quân đội Việt Nam – Campuchia. Trên cơ sở đó,
nhận thức đúng quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta cho HV
nước ngoài, tăng cường quan hệ quốc tế; củng cố, xây dựng tình đoàn kết hữu nghị giữa
Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam với các nước, góp phần thực hiện thắng
lợi đường lối đối ngoại của Đảng ta trong tình hình mới.
Để đáp ứng được nhu cầu của người học trong việc học tiếng và đảm bảo được mục
tiêu học TV của người học, trong những năm qua đội ngũ giáo viên dạy TV cho người nước
ngoài nói chung và học viên Campuchia tại Trường SQLQ 2 nói riêng đã có nhiều thay đổi
về phương pháp (PP) trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên kết quả mang lại vẫn chưa được
như mong muốn của người dạy cũng như người học. Cụ thể qua một khóa học TV nhưng
6


các kĩ năng giao tiếp của người học chưa được vận dụng một cách thuần thục, hoặc còn vận
dụng một cách lúng túng trong giao tiếp. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy nguyên nhân
dẫn đến tình trạng trên là do nội dung thời lượng của chương trình, kỹ năng, phương pháp,
tài liệu, hoạt động ngoại khóa và môi trường giao tiếp... Qua những nguyên nhân đó, chúng
tôi thấy rõ một số bất cập như: cán bộ và GV đều chưa phát huy được hiệu quả tối đa của
môi trường giao tiếp; quá trình tự rèn luyện ngôn ngữ trong việc tự học, tự ôn ở đơn vị của
HV qua giao tiếp còn hạn chế. Nhận xét chung về tình hình DH TV trong nhà trường hiện
nay, Lê A cho rằng: "Chọn hoạt động giao tiếp làm đối tượng DH chẳng những không bỏ
qua những tri thức Việt ngữ mà còn góp phần làm cho những tri thức ấy linh hoạt, phong
phú hơn và gần với thực tế cuộc sống hơn" ("Dạy TV là dạy một hoạt động" – Tạp chí Ngôn
ngữ số 4/2001).
Giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ. Chỉ đặt trong hoạt động giao tiếp thì
giá trị của ngôn ngữ mới được xác định. Và chỉ có trong hoạt động giao tiếp, trong mối quan
hệ giữa các ngôn ngữ với các yếu tố giao tiếp nằm ngoài ngôn ngữ thì người học mới có

điều kiện hiểu chắc, hiểu sâu TV và biết cách sử dụng phù hợp, hiệu quả. Để phát huy tính
tích cực, sáng tạo của người học trong học tập, quan điểm giao tiếp trong DH rất được coi
trọng. Quan điểm giao tiếp chi phối toàn bộ quá trình DH như: xác định mục tiêu, nội dung
DH tới việc lựa chọn hình thức, PP DH và kiểm tra, đánh giá… Mặc dù vậy, GV vận dụng
quan điểm giao tiếp vào dạy THTV với tư cách là một ngoại ngữ còn có nhiều khó khăn và
hạn chế nhất định. Về lí luận, chưa có công trình nghiên cứu đúng theo yêu cầu thực tiễn.
Về thực tiễn dạy và học, GV vẫn chưa thực sự ý thức được mục đích của dạy THTV là dạy
cho học viên kĩ năng giao tiếp. Vì vậy việc lựa chọn hình thức, cách tổ chức và phương
pháp DH còn chưa phù hợp, mang hiệu quả không cao.
Tư tưởng chủ đạo của việc dạy học THTV theo quan điểm giao tiếp chính là lấy giao
tiếp làm môi trường, cách thức và mục đích cho toàn bộ quá trình DH.
Là cơ sở quan trọng cho những môn học tiếp theo nên môn THTV phải được tổ chức
DH theo quan điểm giao tiếp một cách có hiệu quả. Việc DH TV theo hướng giao tiếp thực
chất là đưa HV vào tình huống giao tiếp, tạo nên môi trường giao tiếp cụ thể để thúc đẩy
nhu cầu sản sinh lời nói, ngôn bản, rèn luyện cho học viên kĩ năng định hướng, dùng từ, đặt
câu, viết đoạn… phù hợp với các tình huống giao tiếp. Dạy TV theo hướng giao tiếp tức là
dạy phát triển lời nói cho từng cá nhân người học. Trong việc rèn luyện lời nói, cần sử dụng

7


triệt để phương pháp hỏi đáp. Hỏi có thể yêu cầu người học thực hiện một hành vi hồi đáp
mà còn có thể là nêu vấn đề để người học trình bày vấn đề đó theo nhận thức của mình.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là "Dạy tiếng Việt
thực hành cho học viên Campuchia tại Trường Sĩ quan Lục quân 2 theo quan điểm giao
tiếp" nhằm áp dụng vào quá trình DH, làm cơ sở để nâng cao chất lượng giảng dạy đáp ứng
nhu cầu thực tiễn, thực hiện tốt nhiệm vụ của Bộ quốc phòng giao.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc dạy học theo quan điểm giao tiếp, vận dụng ngôn ngữ vào hoạt động dạy đã

không còn là vấn đề mới mẻ. Ở Nga, vấn đề này đã được nói tới từ những năm 60 của thế kỉ
XX. Từ những năm 70 hướng dạy học theo quan điểm giao tiếp này được phát triển rộng rãi
ở Anh và Mĩ. Còn ở Việt Nam, quan điểm này được quan tâm từ những năm 80 của thế kỉ
XX. Cải cách giáo dục năm 1989 – 1990 đã có những định hướng và nhấn mạnh về vấn đề
này. Từ đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến vấn đề dạy
học theo quan điểm giao tiếp. Tính đúng đắn của quan điểm này càng thể hiện rõ khi các nhà
nghiên cứu đưa giao tiếp trở thành một trong những nguyên tắc và phương pháp dạy học tiếng
Việt cơ bản. Trong giáo trình "Phương pháp dạy học tiếng Việt" (Dùng cho sinh viên Khoa
Ngữ văn các trường Đại học Sư phạm trong cả nước), tác giả Lê A đã nêu rõ: "Ngôn ngữ là hệ
thống hoạt động chức năng, tách khỏi hoạt động chức năng thì nó không còn sức sống, trở
thành một hệ thống khô cứng. Nói cách khác, ngôn ngữ phải được thể hiện trong các dạng lời
nói khác nhau, mọi quy luật, cấu trúc và hoạt động của hệ thống ngôn ngữ chỉ được rút ra trên
cơ sở nghiên cứu lời nói sinh động. Mặt khác, muốn hình thành kĩ năng, kĩ xảo ngôn ngữ, học
sinh phải trực tiếp tham gia vào các hoạt động giao tiếp" [tr3, 57].
Trên phương diện là một phương pháp (PP) dạy học TV quan trọng, phương pháp giao
tiếp "hướng dẫn học sinh vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình
giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp. Phương pháp
này có thể được áp dụng khi dạy từ, câu…" [tr3, 70].
Khi bàn về những quan điểm tâm lí học hoạt động có liên quan đến việc dạy và học
ngôn ngữ, Trương Dĩnh đã đề cao quan điểm DH cho người bản ngữ dựa trên lí thuyết hoạt
động lời nói. Ông khẳng định: "Trên quan điểm coi hoạt động lời nói trong giao tiếp như
mục đích dạy học, dạy ngôn ngữ, đặc biệt là bản ngữ, phải thông qua hoạt động giao tiếp
giữa thầy và trò để tổ chức cho học sinh phân tích mẫu hành vi lời nói trong giao tiếp, quan
sát hành vi lời nói giao tiếp trong thực tiễn, nghiên cứu các văn bản giao tiếp trích dẫn để
8


nâng cao ý thức, quy tắc về giao tiếp bản ngữ, mặt khác trên cơ sở đã có ý thức về năng lực
giao tiếp, tổ chức cho học sinh sáng tạo các hành vi lời nói trong giao tiếp […] tức là dạy
cho học sinh ứng xử sáng tạo trong giao tiếp ở môi trường có tính thực tiễn nhất của đời

sống" (Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy học tiếng Việt ở trường trung học, Thành phố
Hồ Chí Minh, 1998). Đồng thời, tác giả cũng coi trọng việc xây dựng các bài tập tình huống
để rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh. Đây cũng là một trong những cơ sở góp phần
định hướng cho việc dạy và học TV đạt hiệu quả cao hơn.
Giáo trình Phương pháp dạy học tiếng Việt (tập 2, Nxb Giáo dục, 2001) do nhóm tác
giả: Nguyễn Trí - Lê A - Lê Phương Nga biên soạn có tất cả 8 chương, trong đó, tác giả
dành hẳn một chương để nói về quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt. Trong chương
một này các tác giả đã nói khá rõ về: Giao tiếp và hoạt động giao tiếp. Những cơ sở của
quan điểm dạy học giao tiếp trong dạy học tiếng Việt. Sự thể hiện của quan điểm giao tiếp
trong dạy học tiếng Việt. Nội dung của chương này là một trong những cơ sở khoa học cho
đề tài nghiên cứu "Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học tiếng Việt thực hành cho học
viên Campu chia tại trường sĩ quan lục quân 2" của chúng tôi.
Vấn đề giao tiếp cũng được Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San đề cập trong Giáo
trình tiếng Việt (tập 3, NXB Giáo dục, 2002) với nội dung cụ thể như: Các chức năng của
ngôn ngữ – chức năng giao tiếp; hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ; các yếu tố của hệ thống
ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp: những sự biến đổi và chuyển hóa. Vai trò của các quan
hệ hệ thống trong hoạt động giao tiếp. Nguyên tắc hệ thống và quan điểm giao tiếp trong
việc dạy – học ngôn ngữ xuất phát từ đặc trưng, bản chất của đối tượng và phù hợp với đối
tượng. Ngôn ngữ cần phải hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động
giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp.
Bàn về độ phổ biến của quan điểm giao tiếp, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Thị
Ly Kha cho rằng: Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và
phương pháp dạy học. Về nội dung dạy học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở chỗ: Cách
bố trí thời lượng, sắp xếp các đơn vị kiến thức và các kiểu bài đều không tập trung vào việc
nhận diện các hiện tượng ngôn ngữ mà chú trọng rèn luyện khả năng sử dụng từ ngữ phục
vụ cho hoạt động giao tiếp . Về phương pháp dạy học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở
điểm: Các kiến thực và kĩ năng trong phân môn luyện từ và câu được rèn luyện thông qua
nhiều bài tập gắn với yêu cầu về tập làm văn lớp 5 hoặc với các tình huống giao tiếp tự
nhiên. Kèm theo nội dung trình bày là những ví dụ cụ thể. Do trình bày dưới dạng hỏi – đáp,
9



nên tài liệu này chỉ dừng lại ở giới hạn cung cấp những gợi ý có tính chất định hướng cơ bản
về nội dung, hình thức tổ chức dạy học môn tiếng việt ở lớp 5 theo quan điểm giao tiếp. Mặt
khác, do tính chất đồng tâm và tính phổ quát của vấn đề, những gợi ý có tính phổ quát đó
không chỉ giới hạn ở một lớp, một bậc học mà còn có tác dụng định hướng cho việc dạy
tiếng Việt nói chung theo quan điểm giao tiếp (Hỏi - đáp về dạy học tiếng Việt lớp 5).
Hoạt động giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở tiểu học (NXB Đại học Sư phạm, 2009)
là một giáo trình có ích cho những giáo viên, những nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề
dạy học tiếng Việt như thế nào cho hiệu quả. Phan Phương Dung và Đặng Kim Nga đã
nghiên cứu khá sâu và làm rõ ràng về những vấn đề về hoạt động giao tiếp trong việc dạy
tiếng Việt ở bậc tiểu học. Giáo trình gồm 3 chương: Chương 1 đề cập đến vấn đề giao tiếp
và hoạt động giao tiếp; chương 2 đi sâu vào từ và câu trong hoạt động giao tiếp; chương 3
là chương trọng tâm, có ý nghĩa thực tiễn – Dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp.
Giáo trình đã vạch ra hướng đi cụ thể cho hoạt động dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao
tiếp: từ việc lựa chọn các tri thức tiếng Việt, xác định các kĩ năng sử dụng tiếng Việt cần rèn
luyện cho học sinh; lựa chọn, sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức… Tuy giáo trình
chỉ giới hạn trong việc dạy học ở tiểu học nhưng đối với giáo viên dạy tiếng Việt thì tìm thấy ở
giáo trình này những định hướng làm cơ sở cho việc dạy tiếng Việt một cách có hiệu quả theo
quan điểm giao tiếp.
Hai vấn đề: Dạy cái gì? Dạy như thế nào? Được Lê A bàn đến trong bài viết Dạy
tiếng Việt là dạy một hoạt động và bằng hoạt động (Tạp chí ngôn ngữ số 4/2001). Tác giả
chú ý đến vấn để sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, trình tự dạy tiếng Việt và một số thao
tác cơ bản khi dạy học (thao tác phân tích - phát hiện; thao tác phân tích – chứng minh; thao
tác phân tích – phán đoán); Giới thiệu về phương tiện dạy học Grap (sơ đồ mạng để trình
bày những vấn đề cần truyền đạt). Sau khi trình bày các vấn đề trên, tác giả nhấn mạnh: Tri
thức về tiếng Việt chỉ hoàn chỉnh và chắc chắn khi các em đã thực sự vận dụng vào hoạt
động giao tiếp, vì "giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ. Có thể nói bài viết này là
một gợi ý cho việc tổ chức các hoạt động dạy học, lựa chọn sử dụng các phương pháp,
phương tiện dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp.

Trong bài viết Từ khái niệm năng lực giao tiếp đến vấn đề dạy và học tiếng Việt
trong nhà trường phổ thông hiện nay (Tạp chí Ngôn ngữ số 4/2006), Vũ Thị Thanh Hương
đã đề cập và phân tích khá sâu khái niệm "năng lực giao tiếp", đã dẫn ra những ý kiến khác
nhau của các học giả (Chomsky, Campbell & Wales, Hymes, Murby¸Canale & Swain,
10


Bachman) xoay quanh khái niệm này. Tác giả bài viết so sánh đối chiếu các nội dung kiến
thức tiếng Việt được trình bày trong các chương trình tiếng Việt hiện hành (Bộ Giáo dục và
Đào tạo) với các nội dung của mô hình lí thuyết về năng lực giao tiếp. Từ khái niệm "năng
lực giao tiếp", người viết chương trình dạy tiếng Việt trong nhà trường phổ thông đầu thế kỉ
21 nhận xét: Có thể nói, trong tất cả các tài liệu về chương trình mà chúng tôi được tiếp cận
cho đến bây giờ, quan điểm giao tiếp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mục tiêu giảng dạy tiếng Việt.
Trịnh Thị Lan cũng đề cập đến vấn đề Yêu cầu đối với việc thiết kế bài tập tiếng
Việt dưới ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp: "Theo quan điểm dạy học tiếng Việt
hướng vào hoạt động giao tiếp, việc thiết kế bài tập tiếng Việt phải bảo đảm phục vụ cho
việc phát triển khả năng giao tiếp cho học sinh. Dạy học tiếng Việt sử dụng phương pháp
giao tiếp như là phương pháp tổ chức quan trọng nhất. Phương pháp giao tiếp là phương
pháp hướng dẫn học sinh vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá
trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp"
().
Có thể nói cuối năm 2001 và đầu năm 2002, bên cạnh quan điểm tích hợp, quan điểm
giao tiếp đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo xem là một trong những nguyên tắc chỉ đạo của
việc xây dựng chương trình và sách giáo khoa. Đây là sự ứng dụng các thành tựu ngôn ngữ
học hiện đại vào việc dạy tiếng, đặc biệt là kết quả nghiên cứu của lí thuyết giao tiếp ngôn
ngữ và lí thuyết hội thoại. Nguyên tắc này hiện nay đã được thực hiện rộng rãi trong chương
trình dạy tiếng cho học sinh tất cả các nước trên thế giới. Quan điểm này đã chi phối mạnh
mẽ đến sự lựa chọn và sắp xếp nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Nguồn
dữ liệu dạy tiếng đã được mở rộng, đó là những vấn đề mang tính thời sự và có liên quan
mật thiết đến đời sống của HV. Nội dung của những đề tài này chính là sự gợi ý để định

hướng nguồn dữ liệu cho học viên trong quá trình giao tiếp – nghĩa là người học không chỉ
rèn luyện những kĩ năng nghe – nói – đọc – viết mà qua đó còn có vốn hiểu biết nhất định
để áp dụng vào thực tiễn.
Ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, một số giáo trình, tài liệu về tiếng
Việt được biên soạn với sự đa dạng về trình độ, về mục đích, phạm vi đào tạo, chẳng
hạn Giáo trình Tiếng Việt cho người nước ngoài (nhiều quyển), Thực hành Tiếng Việt 1,
2, 3, 4, Tiếng Việt nâng cao, Tiếng Việt đọc hiểu, Truyện đọc Tiếng Việt, Tiếng Việt
trong giao dịch, thương mại, Tiếng Việt du lịch, Tiếng Việt căn bản (dùng cho
người Trung Quốc ở Đài Loan)… Hầu hết tác giả của các giáo trình này đều là những
11


nhà nghiên cứu Việt ngữ, những giảng viên giảng dạy ngôn ngữ học và Việt ngữ học.
Theo Đề án Hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài của Bộ
Giáo dục và Đào tạo 2006, hai bộ giáo trình Tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài
(một cho đối tượng là người lớn, một cho đối tượng là thanh thiếu niên) đã được
biên soạn với sự tham gia của nhiều giảng viên, chuyên viên của nhiều trường đại
học, viện nghiên cứu trong cả nước; bộ sách cũng đã được dạy thử nghiệm ở một số
nước trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn rất cần những bộ giáo trình tiếng Việt có hệ
thống, cập nhật những từ ngữ thuộc nhiều lĩnh vực của cuộc sống hiện đại cũng như
văn hóa truyền thống Việt, những kiến thức ngữ pháp, vận dụng những thành tựu
về phương pháp dạy tiếng trên thế giới; đặc biệt là giáo trình nâng cao hoặc chuyên sâu.
Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học đối chiếu
hoặc mang tính ứng dụng nghiên cứu việc dạy và học tiếng Việt đã được công bố:
“Về việc dạy và học tiếng Việt tại Hàn Quốc” của Kim Ki Tae (Tạp chí Ngôn ngữ
1996), “Trật tự từ trong tiếng Hàn so sánh với tiếng Việt” của Ahn Kyong Hwan
(Nxb Giáo dục 1997), “Dạy tiếng Việt với tư cách một ngoại ngữ” của Mai Ngọc Chừ
(Tạp chí Ngôn ngữ 2002), “Lỗi loại từ trong tiếng Việt của người nước ngoài”
(Trong Những vấn đề Ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006)… Công trình
tập thể “Tiếng Việt như một ngoại ngữ” của Trung tâm nghiên cứu Việt Nam– Đông

Nam Á, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 1995 gồm 50 bài viết của
những nhà nghiên cứu và giảng dạy Việt ngữ trong nước và nước ngoài (từ Hội nghị “Tiếng
Việt cho người nước ngoài”) chủ yếu là những đúc kết kinh nghiệm dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài, phân tích, đề xuất hướng giảng dạy tiếng Việt; một vài bài trong số đó
đã tiếp cận với lí thuyết dạy tiếng. Trong một bài viết, chúng tôi đã thử vận dụng lí thuyết
ngôn ngữ trung gian (interlanguage heory) để phân tích lỗi ngữ pháp thường thấy của
người nước ngoài học tiếng Việt. Có thể nói những thành tựu về lí luận và thực tiễn của
ngôn ngữ học đối chiếu, ngôn ngữ học ứng dụng và các liên ngành ngôn ngữ học như đã
nói ở trên là những cơ sở cho những công trình nghiên cứu khoa học, những đúc kết
kinh nghiệm và đây cũng là yếu tố thúc đẩy ngành giảng dạy Tiếng Việt như một ngoại
ngữ phát triển.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có những nghiên cứu đi sâu vào việc dạy học
THTV cho học viên Campuchia và vẫn chưa có một công trình nào cung cấp cho chúng ta
một bức tranh toàn cảnh về DH TV cho HV Campuchia theo quan điểm giao tiếp. Vì thế,
12


việc triển khai đề tài: "Dạy tiếng Việt thực hành cho học viên Campuchia tại Trường Sĩ
quan Lục quân 2 theo quan điểm giao tiếp" theo chúng tôi là cấp thiết.
Mặc dù các giáo trình, tài liệu và các bài viết trên không đề cập trực tiếp đến vấn đề
mà đề tài quan tâm nhưng chính các công trình trên là những định hướng, những gợi ý quý
báu giúp chúng tôi thực hiện đề tài "Dạy tiếng Việt thực hành cho học viên Campuchia tại
Trường Sĩ quan Lục quân 2 theo quan điểm giao tiếp" triển khai thực hiện các nội dung
nghiên cứu về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tiếng Việt theo quan điểm
giao tiếp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trước những yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, việc "Dạy tiếng Việt thực
hành cho học viên Campuchia tại trường Sĩ quan Lục quân 2 theo quan điểm giao tiếp"
nhằm hướng đến mục đích là nâng cao chất lượng dạy học môn THTV. Để đạt được mục

đích trên, luận văn hướng tới hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Trình bày cơ sở lí thuyết cũng như thực tiễn của việc vận dụng quan điểm giao tiếp
vào dạy tiếng Việt thực hành cho học viên Campuchia.
- Thiết kế các hoạt động dạy học và một số giáo án dạy học tiếng Việt theo hướng
vận dụng quan điểm giao tiếp nhằm phát huy tinh thần tự học, tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của HV trong học tập và rèn luyện.
- Thực nghiệm và đánh giá hiệu quả của việc vận dụng quan điểm giao tiếp vào
THTV cho học viên Campuchia, từ đó rút ra những ưu, khuyết điểm và đề xuất những giải
pháp có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn THTV cho HV Campuchia tại
trường SQLQ 2.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vận dụng quan điểm giao tiếp để dạy THTV
cho HV Campuchia tại trường SQLQ 2.
Phạm vi nghiên cứu: Do giới hạn về thời gian nên chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu
vấn đề vận dụng quan điểm giao tiếp để dạy THTV cho HV Campuchia tại trường SQLQ 2.
Đề tài giới hạn ở phạm vi khảo sát về hoạt động dạy THTV của GV và hoạt động học
của HV. Bao gồm các khía cạnh sau: mức độ truyền đạt nội dung lí thuyết, nội dung thực
hành TV của GV trên lớp và mức độ hiểu, vận dụng lí thuyết vào thực hành TV của HV;

13


khả năng HV vận dụng những kiến thức TV đã học vào trong sinh hoạt hàng ngày và khả
năng sử dụng linh hoạt tiếng Việt vào từng hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp cụ thể.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về quan điểm giao tiếp. Khảo sát thêm các tài

liệu viết về hoạt động giao tiếp trong hoạt động dạy và học. Trên cơ sở lí thuyết để vận dụng
vào thực tiễn dạy và học TV cho HV Campuchia.
5.2. Phương pháp thống kê, so sánh, phân loại
Thống kê và phân loại một số tài liệu nghiên cứu. Lập bảng số liệu, xử lí kết quả thực
nghiêm bằng cách so sánh kết quả đạt được theo từng lĩnh vực, trên cơ sở phân tích, lí giải,
tìm hiểu nguyên nhân, đề xuất cách thức thực hiện nhằm đạt được mục đích đề ra của đề tài.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
Dạy thực nghiệm một số bài trong chương trình môn học gồm 3 bài, tại Trường SQLQ 2
cũng như dự giờ các lớp khác để rút ra kinh nghiệm và kiểm chứng các giả thiết khoa học về
quá trình giảng dạy TV cho HV Campuchia tại Trường SQLQ 2.
Tóm lại, phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh, phân
loại; phương pháp thực nghiệm được xem là những phương pháp nghiên cứu chính của luận
văn. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác bổ sung trong
quá trình thực hiện nhằm góp phần hoàn chỉnh luận văn.

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ có những đóng góp sau:
- Thiết kế được các hoạt động dạy học và một số giáo án dạy học tiếng Việt thực
hành theo hướng giao tiếp, nhằm giúp giáo viên dụng tốt quan điểm giao tiếp vào dạy tiếng
Việt thực hành góp phần nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt thực hành cho học viên
Campuchia tại Trường Sĩ quan Lục quân 2.
- Tích cực hóa các hoạt động học tập của HV, phát huy tinh thần tự học, tạo hứng
thú, duy trì hứng thú học tập và nâng cao thành tích học tập của HV.
- Nêu được những ưu, khuyết điểm trong việc vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy
THTV cho HV Campucgia và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy
học TV cho HV Campuchia tại Trường SQLQ 2.
14


7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và ba chương:
Chương1: Cơ sở lí luận và thực tiễn. Chương này, chúng tôi trình bày ngắn gọn lí
thuyết về giao tiếp, dạy THTV theo quan điểm giao tiếp, cơ sở thực tiễn của việc dạy học
THTV cho HV Campuchia tại Trường SQLQ 2. Đồng thời, trình bày phương DH hiện nay ở
nhà trường làm cơ sở thực tiễn cho vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thiết kế một số bài tập và giáo án dạy – học các bài THTV theo quan
điểm giao tiếp. Chương này, chúng tôi tiến hành triển khai ý đồ sư phạm. Cụ thể là chỉ ra
cách khai thác dạy học theo quan điểm giao tiếp.
Chương 3: Thực nghiệm.
Ngoài phần nội dung chính, luận văn còn kèm theo một số phụ lục (1) Giáo án đối
chứng. (2) Thiết kế giáo án thực nghiệm. (3) Đề thi và kiểm tra. (4) Phiếu tham khảo ý kiến
HV (5) Phiếu tham khảo ý kiến GV. (6) Kết quả thu nhận từ phiếu tham khảo ý kiến GV.
(7) Kết quả thu nhận từ phiếu tham khảo ý kiến HV. (8) Một số hình ảnh về hoạt động của
lớp thực nghiệm. (9) Một số kết quả bài tập của học vên. (10) Bài tập vui, trò chơi.

15


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Quan điểm giao tiếp và việc dạy thực hành tiếng Việt theo quan điểm giao
tiếp
1.1.1.1. Lí thuyết về giao tiếp
Giao tiếp được hiểu là hoạt động trao đổi thông tin nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu
biết, cộng tác… giữa các thành viên trong xã hội. Hoạt động giao tiếp gồm các hành vi giải
mã (nhận thông tin) và kí mã (phát thông tin). Trong ngôn ngữ, mỗi hành vi này đều có thể
thực hiện được bằng hai hình thức: khẩu ngữ (nghe, nói) và bút ngữ (đọc, viết).
Giao tiếp là một hoạt động liên cá nhân giữa người nói với người nghe, ở đó diễn ra
sự trao đổi về tư tưởng, tình cảm, nhận thức của con người.
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là một cấu trúc động gồm có bốn giai đoạn: định

hướng, lập chương trình, hiện thực hóa và kiểm tra. Các giai đoạn này được thực hiện kế
tiếp nhau một cách liên tục.
Giao tiếp là nhu cầu thường xuyên không thể thiếu của con người. Hoạt động giao
tiếp có đặc thù là sự tương tác, diễn ra khi có ít nhất hai người tiếp xúc, trao đổi với nhau về
một nội dung nào đó. Sản phẩm của hoạt động giao tiếp là ngôn bản. Ngôn bản là chuỗi
ngôn từ được sắp xếp theo một quy tắc nhất định để thể hiện nội dung được trao đổi trong
giao tiếp.
Cơ chế của hoạt động (HĐ) giao tiếp.
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ chịu sự chi phối của các nhân tố giao tiếp bao
gồm: đối tượng – mục đích – nội dung – hoàn cảnh – phương tiện (cách thức) giao tiếp với
mối quan hệ như sau:

16


Hoàn cảnh giao tiếp
Mục đích giao tiếp
Nội dung giao tiếp

Người nói
(Người viết)

Tạo lập

Văn bản
(Ngôn bản)

Lĩnh hội

Người nghe

(Người đọc)

Giải mã

Mã hóa

Phương tiện giao tiếp

Hiệu quả giao tiếp

Sơ đồ 1.1. Cơ chế hoạt động giao tiếp
Từ sơ đồ trên cho thấy việc hình thành của ngôn bản chịu sự tác động rõ rệt của các
yếu tố giao tiếp khách quan (hoàn cảnh giao tiếp, phương tiện giao tiếp) và chủ quan (mục
đích giao tiếp, đối tượng giao tiếp). Ngôn bản được tạo lập phải thỏa mãn mong muốn bộc
lộ hiểu biết, tình cảm, tâm tư của người nói (người viết) nhưng cũng phải đáp ứng được
những nhu cầu cơ bản là phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, có khả năng tác động và tạo ra
phản ứng ở người nghe. Tạo lập ngôn bản và tiếp nhận ngôn bản thành công có nghĩa là HĐ
giao tiếp đã đạt được mục đích.

17


Dựa trên cơ chế của hoạt động giao tiếp, chúng tôi nhận thấy hoạt động DH trong
nhà trường cũng là một hoạt động giao tiếp song hoạt động này có một số điểm khác với
HĐ giao tiếp thông thường trong đời sống.
Thứ nhất, tuy cả hai dạng HĐ giao tiếp đều có chung một bối cảnh giao tiếp rộng
(thời đại, lịch sử, phong tục…) nhưng HĐ giao tiếp trong DH luôn diễn ra ở một hoàn cảnh
giao tiếp, không đổi là lớp học, trường học trong khi hoàn cảnh giao tiếp của xã hội lại rất
phong phú và đa dạng.
Thứ hai, HĐ giao tiếp trong đời sống xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau, tùy vào

nhu cầu của người tham gia vào giao tiếp nhưng mục đích giao tiếp của dạy học được xác
định rõ và hầu như không thay đổi (giúp người học chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng,
kĩ xảo, xây dựng phương pháp học tập; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm
sống cho người học).
Thứ ba, đối tượng giao tiếp trong đời sống thuộc nhiều thành phần; lứa tuổi, trình độ
khác nhau còn đối tượng giao tiếp trong DH là GV và học viên. HĐ DH là một cuộc trao
đổi, tương tác giữa GV và HV với nhau nhằm hướng tới mục đích giao tiếp đã đề ra.
Với cách hiểu như trên HĐ DH là HĐ giao tiếp đặc biệt. Chính vì thế, mọi HĐ DH
cần được tổ chức trên nền tảng của lí thuyết giao tiếp.
Như vậy, theo quan điểm giao tiếp, dạy TV là dạy một HĐ giao tiếp trong giao tiếp
và bằng hoạt động giao tiếp. Quan điểm này xác định dạy TV là dạy một hoạt động giao
tiếp, tức là xác định mục đích của việc dạy THTV là hình thành cho người học năng lực sử
dụng tiếng trong giao tiếp cho phù hợp với các nhân tố giao tiếp. Chính mục tiêu này quy
định nội dung cơ bản của việc dạy THTV. Dạy tiếng Việt cho người nước ngoài chủ yếu là
dạy các kĩ năng nói – nghe – đọc – viết, mà muốn có kĩ năng thì học viên cần phải có những
tri thức TV cần thiết. Nghĩa là người dạy phải cung cấp những kiến thức về những quy tắc
của các đơn vị ngôn ngữ, trên cơ sở đó mà dần dần rèn luyện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ
cho người học. Quan điểm giao tiếp còn xác định việc dạy tiếng Việt phải "dạy trong giao
tiếp và dạy bằng giao tiếp" để nhấn mạnh cách thức và phương pháp dạy học.
Khi dạy theo quan điểm giao tiếp, GV phải dạy cho HV được học, được tập giao tiếp
ở trong bài học, ở lớp cao hơn là biết vận dụng nó trong giao tiếp trong thực tế cuộc sống
hàng ngày. Biết nói năng, quan hệ ngôn ngữ đúng vai trò, đúng mục đích với người xung
quanh, biết nêu nhận xét, đánh giá trước sự vật, sự việc... mà không phải chỉ nhằm tới mục
đích là biết làm văn như trước đây.
18


Quan điểm giao tiếp quán triệt tư tưởng giao tiếp vừa là điểm xuất phát lại vừa là
đích hướng tới, vừa là nội dung lại vừa là định hướng phương pháp và môi trường tổ chức
DH của tất cả các đơn vị kiến thức. Bởi vì TV không chỉ tuân theo quy luật hệ thống của nó

mà còn bị chi phối bởi các nhân tố giao tiếp, vì vậy nếu không đặt tiếng Việt vào HĐ giao
tiếp thì không thể thấy được bản chất, quy tắc sử dụng tiếng Việt. Hơn nữa, chức năng của
một ngôn ngữ là để giao tiếp và ngay khi giao tiếp ngôn ngữ sẽ thể hiện được những nét bản
chất của nó. Vì vậy, đặt ngôn ngữ vào chính môi trường hoạt động của nó để xem xét là một
cách làm tối ưu.
1.1.1.2. Dạy THTV theo quan điểm giao tiếp
Một trong những nguyên tắc của dạy học theo quan điểm giao tiếp là đặt đơn vị
ngôn ngữ cần nghiên cứu vào hệ thống hành chức của nó. Theo đó khi dạy một đơn vị ngôn
ngữ cần phải đặt nó vào một đơn vị bậc cao hơn để xem xét, ví dụ khi dạy từ, ta đặt từ vào
trong câu; khi dạy câu, ta đặt câu trong đoạn; khi dạy đoạn, ta đặt đoạn trong bài… Đồng
thời, đơn vị ngôn ngữ khi xem xét cũng cần được đặt trong mối quan hệ với các nhân tố
giao tiếp (nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp,
phương tiện giao tiếp). Ngoài ra, việc áp dụng PP giao tiếp trong dạy học THTV là thật sự
cần thiết. Đây là một trong những PP đặc thù của việc dạy tiếng. PP này nhằm rèn luyện cho
người học kĩ năng giao tiếp thông qua việc thực hiện một vai giao tiếp trong một tình huống
cụ thể. Nếu cho HV trực tiếp sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp thì việc hình thành,
rèn luyện kĩ năng sẽ có hiệu quả hơn, chưa kể là người học sẽ hứng thú hơn bởi những điều
được học được gắn liền với những giao tiếp trong đời thường. DH theo quan điểm giao tiếp
rất quan trọng đối với việc DH nói chung và nó càng quan trọng hơn đối với việc dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài.
Quan điểm giao tiếp trong việc dạy – học ngôn ngữ TV xuất phát từ đặc trưng bản
chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng. Vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người, có chức năng cơ bản nhất là chức năng giao tiếp. Ngôn ngữ vừa tồn
tại trong trạng thái tĩnh như một hệ thống – kết cấu tiềm ẩn trong năng lực ngôn ngữ của mỗi
người, đồng thời nó cần phải hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động
giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp.
Dạy học ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp chính là dạy về phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người.

19



Quan điểm giao tiếp cũng phù hợp với mục tiêu của môn học: môn ngôn ngữ nói
chung và phân môn TV nói riêng không phải chỉ có mục đích trang bị kiến thức khoa học
về ngôn ngữ TV cho HV, mà điều quan trọng là rèn luyện và nâng cao năng lực sử dụng
TV trong các hoạt động tư duy, giao tiếp.
Ngay trong lĩnh vực kiến thức thì tiếng Việt cũng không chỉ cung cấp những kiến
thức có tính chất lí thuyết về cơ cấu tổ chức, về hệ thống ngôn ngữ, về nguồn gốc và sự
phát triển lịch sử, về loại hình ngôn ngữ tiếng Việt… mà còn không thể thiếu được những
hiểu biết về quy tắc sử dụng, về các thao tác và đặc biệt là kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Do
đó, quan điểm giao tiếp rất phù hợp với mục tiêu của môn học. Quan điểm giao tiếp được
thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương pháp dạy học. Về nội dung, phân môn
TV tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc để HV mở rộng vốn từ theo định hướng,
trang bị những tri thức nền và phát triển các kĩ năng sử dụng TV trong giao tiếp. Về phương
pháp dạy học, các kĩ năng được hình thành thông qua nhiều bài tập mang tính tình huống,
phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên. các kĩ năng sử dụng TV trong giao tiếp.
Về phương pháp dạy học, các kĩ năng được hình thành thông qua nhiều bài tập mang tính
tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.
DH ngoại ngữ nói chung và DH tiếng Việt cho HV Campuchia nói riêng nó có những
nét đặc thù riêng. Đó là dạy TV với tư cách là một ngoại ngữ sẽ dạy từ cái chưa biết do GV
tiến hành tổ chức, điều khiển hoạt động học của HV. Còn hoạt động học của HV là hoạt
động tự giác, tức có mục đích, chương trình, nội dung, kế hoạch, biện pháp tổ chức và được
chủ thể ý thức rõ ràng. Nói cách khác học ngoại ngữ là lĩnh hội ngoại ngữ cần học, làm phát
triển ngoại ngữ đó ở người học. Chúng ta có thể tóm tắt một số đặc điểm riêng của hoạt
động dạy và hoạt động học ngoại ngữ như sau:

20


Bảng 1.1. Một số đặc điểm riêng của hoạt động dạy và hoạt động học ngoại ngữ

Hoạt động dạy ngoại ngữ
Hoạt động học ngoại ngữ
(1) Tuy vận hành theo cơ chế sáng (1) Hoạt động học ngoại ngữ là hoạt động có
tạo

đối tượng.

(2) Tái tạo thứ ngoại ngữ đã và (2) Đối tượng của hoạt động học ngoại ngữ
đang được các dân tộc nào đó sử được người học ý thức rõ ràng.
dụng nhưng không phải để cho (3) Hoạt động học ngoại ngữ hướng vào làm
mình mà để tổ chức quá trình tái thay đổi chính chủ thể của người học (làm
tạo này ở người học.

phát triển ngôn ngữ ở người học).
(4) Vận hành theo cơ chế lĩnh hội.
(5) Hoạt động học ngoại ngữ không chỉ nhằm
vào việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo lời
nói tiếng nước ngoài, mà còn lĩnh hội cả
phương pháp học ngoại ngữ (không có trong
học ngoại ngữ tự phát).

1.1.1.3. Đặc trưng của việc dạy và học ngoại ngữ
Hoạt động dạy và học ngoại ngữ là hoạt động đặc thù. Vì vậy đối tượng của hoạt
động dạy là thứ ngôn ngữ cần học, cụ thể là hoạt động lời nói bằng tiếng nước ngoài. Đối
với GV dạy THTV cho người nước ngoài thì đó là ngôn ngữ tiếng Việt.
Học tiếng mẹ đẻ, người học luôn luôn tiếp xúc với nó, nói cách khác đó là môi
trường tiếng để giao tiếp rất rộng và thường xuyên xảy ra ở mọi lúc mọi nơi. Đây là một
điều kiện tốt để người học có thể vận dụng những kiến thức đã được học vào môi trường
giao tiếp cụ thể để từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo và sử dụng ngôn ngữ một cách sáng tạo.
Trong khi đó, học tiếng nước ngoài không có môi trường tiếng, cơ hội giao tiếp ít, khó vận

dụng được những kiến thức đã được học vào trong giao tiếp hàng ngày. Do vậy, học ngoại
ngữ trở nên khó khăn hơn nhiều khi bản thân người học không thường xuyên luyện tập và
tìm môi trường giao tiếp để có thể vận dụng các kiến thức đã học một cách thuần thục.
Nghĩa là người học phải thường xuyên giao tiếp, gắn liền kiến thức lí thuyết được học với
việc thực hành trên lớp học và trong thực tế cuộc sống và phải làm cho nhu cầu giao tiếp
bằng ngoại ngữ mình đang học trở thành nhu cầu bức thiết của bản thân. Đây chính là lí do
tại sao lại cần thiết phải dạy học ngoại ngữ theo quan điểm giao tiếp.
21


1.1.2. Mục tiêu dạy học THTV
Việc dạy học tiếng Việt bao gồm: Dạy tiếng Việt cho người Việt, dạy tiếng Việt cho
người dân tộc với tư cách là ngôn ngữ thứ hai, dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Với ba
đối tượng này phương pháp dạy và học bên cạnh những nguyên tắc chung, nó vẫn có những
nguyên tắc đặc thù. Nhưng dù dạy học tiếng cho đối tượng nào thì mục tiêu cơ bản vẫn là
giúp người học nâng cao các kĩ năng nói – nghe – đọc – viết.
Mục tiêu của dạy học tiếng Việt cho người nước ngoài là cung cấp vốn từ ngữ, ngữ
pháp, văn bản để giao tiếp bao gồm: từ ngữ thông dụng trong việc giao tiếp hàng ngày, từ
ngữ quân sự, khoa học xã hội và nhân văn…., giúp người học có khả năng: nói- nghe - đọc viết tiếng Việt một cách thuần thục. Các kĩ năng ấy được rèn luyện bằng cách tổ chức cho
HV tham gia hoạt động giao tiếp thông qua các tình huống giao tiếp cụ thể mà các giờ học
tạo ra. Trong quá trình học, GV phải cung cấp cho người học những kiến thức về lịch sử,
văn hóa, đất nước Việt Nam nhằm tăng cường sự đoàn kết hữu nghị giữa hai nước, hai dân
tộc.
Xuất phát từ mục tiêu trên, có thể xác định nhiệm vụ của việc dạy THTV là phát triển
cho HV Campuchia các năng lực sau đây:
Thứ nhất là năng lực ngôn ngữ: các kiến thức về hệ thống ngôn ngữ, như kiến thức
về ngữ âm, chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp… làm cơ sở để thực hiện giao tiếp dưới hình thức
văn bản nói cũng như viết.
Thứ hai là năng lực hành động lời nói: khả năng biểu đạt ý định bằng hình thái ngôn ngữ
thích hợp dựa trên kiến thức về chức năng ngôn ngữ và hành động lời nói.

Thứ ba là năng lực văn hóa- xã hội: khả năng biểu đạt hành động lời nói một cách
phù hợp trong bối cảnh văn hóa – xã hội cụ thể.
Mỗi năng lực trên đều bao gồm hai khía cạnh tạo lập và tiếp nhận văn bản hoặc diễn
ngôn. Đó là những năng lực cần hình thành khi dạy ngoại ngữ cũng như dạy tiếng mẹ đẻ.
Tuy nhiên, dạy THTV cho người bản ngữ và người nước ngoài có những điểm khác nhau rõ
rệt. Dạy TV cho người nước ngoài với tư cách là một ngoại ngữ thì chúng ta chủ yếu là dạy
để họ có thể giao tiếp tốt. Dạy TV cho người nước ngoài là dạy các kiến thức mà họ chưa
biết đến biết sử dụng và vận dụng TV vào trong giao tiếp hàng ngày. Dạy TV cho người bản
ngữ là dạy các kiến thức về TV mà người học đã biết. Trên cơ sở những kiến thức đã biết
ấy, người dạy giúp người học hiểu sâu hơn về tiếng bản ngữ và vận dụng nó một cách thuần
thục trở thành kĩ năng, kĩ xảo trong việc lựa chọn từ ngữ vào trong giao tiếp.
22


Các mục tiêu trên quy định nhiệm vụ của dạy học TV trong nhà trường: thứ nhất là
giúp người học nhận biết được âm, từ, cấu trúc ngữ pháp, cách sử dụng các loại từ tiếng
Việt… Thứ hai, việc dạy THTV phải giúp học sinh thực hành được các nội dung đã học
nghĩa là giúp họ có thể giao tiếp, từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình sử dụng
tiếng Việt nói cách khác, giúp người học có thể vận dụng những kiến thức được học vào
trong các tình huống, giao tiếp cụ thể. Nhiệm vụ này đòi hỏi GV phải tổ chức tốt các hoạt
động học tập để học sinh thực hành vận dụng ngôn ngữ, kiến thức tiếng Việt, kĩ năng sử
dụng vốn từ… vào trong thực hành giao tiếp. Như vậy, mục tiêu của môn học được triển
khai từ chính bản chất của nó: lấy thực hành làm trọng tâm khi hướng dẫn người học hoàn
thành quá trình giao tiếp.
Qua hoạt động thực hành, những mảng kiến thức tách rời được gắn kết hài hòa,
những kĩ năng riêng lẻ được phối hợp nhuần nhuyễn, những thao tác tư duy được vận dụng
một cách khéo léo để đưa đến sản phẩm cuối cùng là quá trình giao tiếp thành công. Vì vậy,
bản chất của quá trình DH THTV là đi sâu vào thực hành, tổ chức các hoạt động thực hành
cho HV trở thành ngườu chủ động, tự tin trong quá trình giao tiếp.
1.1.3. Nhiệm vụ của việc DH THTV

Tiếng Việt là một trong những môn có tầm quan trọng đặc biệt trong môn khoa học
xã hội – nhân văn, có vai trò trọng yếu trong việc giữ gìn phát huy tiếng nói của dân tộc.
Quan trọng hơn, tiếng Việt chính là phương tiện để giao tiếp của người Việt. Muốn giao tiếp
có hiệu quả phải vận dụng tốt các kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Chính vì vậy, môn Tiếng Việt
trong nhà trường có nhiệm vụ sau:
- Cung cấp tri thức về tiếng Việt, từ đó hình thành, phát triển các kĩ năng sử dụng
tiếng Việt cho người học để họ thuận tiện trong việc học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động. Giúp người học hình thành các kĩ năng nói – nghe – đọc - viết. Đồng thời
cung cấp cho họ những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội,
tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngoài. Giúp người học hình
thành năng lực nói và viết đúng chuẩn mực tiếng Việt, biết làm cho ngôn bản của mình
thích hợp với mục đích, hoàn cảnh và điều kiện xã hội của giao tiếp, biết tự đánh giá, tự
điều chỉnh cách viết, cách nói của mình hợp với phong cách ngôn ngữ.
- Hình thành cho người học năng lực tư duy ngôn ngữ theo hướng làm cho họ biết tích
lũy cho mình vốn tri thức ngày càng phong phú, biết huy động và tổ chức những tri thức cần

23


×