Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

giao lưu văn hóa việt chăm ở ninh thuận từ 1832 đến 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.14 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Cao Võ Đăng Thanh

GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT - CHĂM Ở
NINH THUẬN TỪ 1832 ĐẾN 2012

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Cao Võ Đăng Thanh

GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT - CHĂM Ở
NINH THUẬN TỪ 1832 ĐẾN 2012

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số
: 66 22 02 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu được trích dẫn trong
luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng. Công trình nghiên cứu này chưa
từng công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Cao Võ Đăng Thanh

1


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Sau Đại học, các
thầy cô giáo Khoa Lịch sử, tổ Lịch sử Việt Nam trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhà nghiên cứu văn hóa Hải Liên, tổ Tư liệu Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm Tỉnh
Ninh Thuận.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến T.S Trần Thị Thanh Thanh đã nhiệt
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè đã động viên
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
TP.Hồ Chí Minh, năm 2013
Tác giả

Cao Võ Đăng Thanh

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................6
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................................7
4. Mục đích nghiên cứu: .................................................................................................. 11
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 11
6. Đóng góp của luận văn: ...............................................................................................12
7. Bố cục luận văn ............................................................................................................12

CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN ........................... 14
1.1. Khái quát về đất nước của người Chăm .................................................................14
1.2. Quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam
thống nhất .............................................................................................................................17
1.3. Về người Chăm ở Ninh Thuận.................................................................................20
1.3.1. Dân cư và địa bàn cư trú ....................................................................................20
1.3.2. Tổ chức cộng đồng.............................................................................................24
1.3.3. Văn hóa Chăm ở Ninh Thuận ............................................................................25

CHƯƠNG 2: GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT - CHĂM Ở NINH THUẬN .......... 52
2.1. Những cơ sở hình thành văn hóa vùng đất Ninh Thuận .......................................52
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của vùng đất Ninh Thuận ....................................................52
2.1.2. Về các thay đổi hành chính của Ninh Thuận .....................................................54
2.1.3. Đặc điểm cư dân Ninh Thuận ............................................................................57
2.2. Đặc trưng văn hóa của cư dân người Việt ở Ninh Thuận .....................................58
2.2.1. Về tôn giáo, tín ngưỡng .....................................................................................59
2.2.2. Về phong tục, tập quán ......................................................................................61
2.2.3. Về đời sống kinh tế ............................................................................................63
2.3. Những biểu hiện của giao lưu văn hóa Việt - Chăm ở Ninh Thuận .....................64

2.3.1. Giao lưu trong tín ngưỡng .................................................................................65
2.3.2. Giao lưu trong phong tục, tập quán ...................................................................69
2.3.3. Giao lưu trong đời sống kinh tế .........................................................................75
3


CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT – CHĂM Ở NINH
THUẬN TRONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM..................................................... 80
3.1. Dấu ấn của văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam .....................................80
3.2. Vai trò của sự giao lưu văn hóa Việt Chăm trong văn hóa Ninh Thuận..............89
3.3. Vai trò của sự giao lưu văn hóa Việt Chăm trong nền văn hóa Việt Nam ..........93

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 104

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là đất nước có nhiều dân tộc sinh sống cùng nhau, mỗi dân tộc đều mang sắc
thái văn hóa riêng biệt. Quá trình lịch sử mở rộng và hoàn thiện lãnh thổ như ngày nay đồng
thời là quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các tộc người, tiêu biểu là giao lưu giữa các
tộc người có dân số đông cư trú trên các vùng miền được mở rộng của Việt Nam như Việt –
Chăm, Việt – Khơme, Việt –Hoa… Những sắc thái văn hóa riêng của các tộc người đã làm
nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Các dân tộc cùng sống chung trên dải đất hình chữ S làm hình thành nên sự giao thoa
văn hóa. Trong quá trình giao lưu và giao thoa văn hóa giữa các tộc người của Việt Nam,
giao lưu văn hóa Việt – Chăm đã góp phần quan trọng vào sự hình thành nền văn hóa Việt
Nam đậm đà bản sắc. Người Chăm có một nền văn hóa rực rỡ từ lâu đời. Theo quá trình

phát triển của quốc gia dân tộc Việt Nam, tộc Chăm đã trở thành một bộ phận không thể
tách rời, người Chăm cùng với người Việt và nhiều tộc người khác đã làm nên cộng đồng
văn hóa các dân tộc anh em của Việt Nam. Văn hóa Chăm trở thành một bộ phận cấu thành
của nền văn hóa Việt Nam đa dạng và thống nhất.
Người Chăm đã từng sinh sống lâu đời trên phần đất miền Trung Việt Nam, từ Đèo
Ngang (Quảng Bình) đến Bình Thuận, khá tập trung ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Ninh
Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, thành phố
Hồ Chí Minh, ở các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh khác. Ngoài ra, người Chăm còn sinh
sống ở đảo Hải Nam (Trung Quốc), Indonesia, Malaysia, Thailand và Cambodia, trong đó
đông nhất ở Cambodia. Những người Chăm này vốn từ Champa di cư từ thế kỷ thứ X đến
thế kỷ XIX, để tránh các cuộc nội chiến và chiến tranh xung đột với bên ngoài, trong đó có
chiến tranh với Đại Việt. Tỉnh Ninh Thuận có số dân người Chăm đông nhất so với các tỉnh
thành khác, hiện nay là 67.274 người 1, chiếm gần 50% người Chăm ở Việt Nam. Ninh
F
0

Thuận cũng là vùng đất cực nam của Champa thuộc tiểu quốc Panduranga, nơi người Chăm
đã xây dựng nên nhiều công trình kiến trúc đặc sắc và kì vĩ trong lịch sử. Người Chăm
chiếm 11,93% dân số Ninh Thuận, có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành cộng
đồng cư dân, là chủ nhân sắc thái văn hóa riêng của vùng đất này. Trong quá trình cư trú, lao
động sản xuất và sinh hoạt cùng nhau, hai cộng đồng cư dân Việt - Chăm đã có sự giao lưu,
1

Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009.

5


tiếp biến trên nhiều lĩnh vực văn hóa vật chất và tinh thần.
Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về người Chăm - văn hóa Chăm, về giao

thoa văn hóa Việt – Chăm. Nhưng theo tác giả luận văn này, riêng sự nghiên cứu về giao
thoa văn hóa Việt -Chăm tại Ninh Thuận, đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu. Với
mong muốn góp một phần vào quá trình làm sáng tỏ sự tiếp biến, giao thoa văn hóa Việt –
Chăm ở Ninh Thuận, góp phần làm rõ bản chất, đặc điểm riêng của văn hóa Chăm ở Ninh
Thuận so với văn hóa Chăm ở các vùng khác trên cả nước và góp phần xác định vai trò của
văn hóa Chăm đối với văn hóa Ninh Thuận nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, tôi đã
chọn đề tài “GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT – CHĂM Ở NINH THUẬN TỪ 1832 ĐẾN
2012” để nghiên cứu và thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học.
Tôi hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ góp phần giáo dục thế hệ trẻ ở Ninh Thuận nói
riêng và của cả nước nói chung về lịch sử dân tộc và tiến trình phát triển của cộng đồng văn
hóa dân tộc Việt Nam, về sự đặc sắc, đa dạng trong văn hóa Việt Nam, bổ sung tư liệu vào
việc dạy và học lịch sử địa phương. Đồng thời, tác giả luận văn này cũng mong muốn qua
quá trình nghiên cứu sẽ tìm ra những bài học, chính sách hữu ích góp phần vào việc giữ gìn,
bảo tồn và phát huy bản sắc của các tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong
đó đặc biệt là văn hóa Chăm, góp phần xây dựng và bảo tồn nền văn hóa đa dạng mà thống
nhất của quốc gia dân tộc Việt Nam.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài nêu rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là giao lưu văn hóa và những
biểu hiện của giao lưu văn hóa Việt-Chăm tại vùng đất Ninh Thuận từ đầu thế kỷ XIX đến
nay.
Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, luận văn tập trung tìm hiểu sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm ở Ninh
Thuận từ năm 1832 đến 2012. Lý do của phạm vi này là: Năm 1832, chính quyền tự trị hạn
chế của người Chăm chấm dứt tồn tại khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ
Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp, từ đó, nước Champa trở thành một đơn vị hành
chính của Việt Nam thống nhất. Từ thời điểm 1832, giao lưu văn hóa của người Việt và
người Chăm ở Ninh Thuận diễn ra như một điều dĩ nhiên và tự nhiên giữa hai bộ phận dân
cư sống trên cùng một vùng lãnh thổ, dưới sự quản lý của một chính quyền.

6


Không gian nghiên cứu của đề tài là tỉnh Ninh Thuận theo phân vùng địa lý hành chính
hiện tại, tuy ngày nay người Chăm sinh sống tập trung chủ yếu ở các khu vực: Ninh Hải,
Ninh Phước, Ninh Sơn, Thành phố Phan Rang Tháp Chàm. Trên các địa bàn này, luận văn
tập trung nghiên cứu văn hóa của những làng người Chăm và người Việt sinh sống đan xen.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Theo cuốn Chămpa – Tổng mục lục các công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu
Văn hóa Nghệ thuật, Phân viện Nam Trung Bộ ở Huế (2002), có 2278 công trình, tác phẩm
có liên quan tới Chămpa và người Chăm của nhiều tác giả trong và ngoài nước, người Chăm
và người Việt.
Về văn hóa Chăm:
Dohanide và Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn: Đây có thể coi là
công trình nghiên cứu về Champa trước năm 1975 đầu tiên do Hiệp hội Chàm Hồi giáo xuất
bản tại Sài Gòn. Đây là công trình khảo cứu lịch sử dân tộc Chăm bằng tiếng Việt đầu tiên ở
Việt Nam mang tính khái quát và hệ thống, trình bày về các triều đại vương quốc Champa.
Đặc biệt, đã cho đăng lại nguyên văn biên niên sử các triều vua Panduranga được dịch từ
văn bản Chăm Akhar thrah.
Tác giả Lê Ngọc Canh có nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh của văn hóa
chăm như: Nghệ thuật múa Chăm (1978), NXB VHDT, Hà Nội; Lê Ngọc Canh, Tô Đông
Hải (1995), Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm, NXB VHDT, Hà Nội; Tư duy âm
nhạc của người Chăm, tạp chí Văn hóa dân gian, số 1/1992; Thử tìm hiểu các giai đoạn của
nghệ thuật múa truyền thống Chăm, số 3/1992; Phong tục cưới của dân tộc Chăm, Tạp chí
Dân tộc học, số 4/1991.
Ngô Văn Doanh (1994), Văn hóa Champa, NXB VHTT, Hà Nội: tác phẩm giới thiệu
một nền văn hóa Champa rất đa dạng và phong phú. Từ đời sống chính trị, ngôn ngữ, chữ
viết, âm nhạc, múa… đến nghệ thuật điêu khắc đều được ghi lại trong cuốn sách này. Ngoài
ra, tác giả trên còn có nhiều công trình nghiên cứu khác về văn hóa Chăm như; Ngô Văn

Doanh (1994), Tháp Chăm sự thật và huyền thoại, NXB VHTT, Hà Nội; Lễ hội Rija Nưgar
của người Chăm, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998.
Bố Xuân Hổ (1995), Truyền thuyết các tháp Chăm, NXB VHDT, Hà Nội: Giới thiệu
lịch sử các tháp cổ của người Chăm ở Ninh Thuận và các tháp khác ở Cực Nam Trung bộ.
Cùng nội dung về các tháp Chăm và nghệ thuật điêu khắc Chăm, có thể nhắc đến tác giả
7


Cao Xuân Phổ với tác phẩm Điêu khắc Chăm (1995), NXB KHXH, Hà Nội.
Dương Văn An ( 1997), Ô Châu Cận Lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội: Tác giả cho
thấy cách nhìn nhận rất sâu sắc tuy có phần phiến diện của một nhà Nho về những ảnh
hưởng của văn hóa Chăm lên văn hóa Việt khi người Việt mở mang bờ cõi về phương Nam.
Bố Xuân Hổ ( 2001), Mẫu hệ Chăm trong thời đại mới, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh
Bình Thuận: Nguồn gốc hình thành và đặc trưng mẫu hệ Chăm. Các phong tục tập quán của
dân tộc Chăm trong thời đại ngày nay như phong tục cưới xin, tang lễ…
Bá Trung Phụ (2001), Gia đình và hôn nhân người Chăm ở Việt Nam, NXB Văn hóa
dân tộc: Cung cấp những kiến thức về gia đình và hôn nhân của người Chăm, đồng thời làm
rõ cấu trúc tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ, phong tục tập quán, lễ nghi và nhất là đặc
trưng hôn nhân của người Chăm khác với các dân tộc anh em khác.
Nguyễn Văn Tỷ với tác phẩm Giáo dục toàn diện vì sự phát triển xã hội (2005), Đời
sống văn hóa và xã hội người Chăm Việt Nam (2010) đã đặt ra nhiều vấn đề về giáo dục và
văn hóa Chăm, bộc lộ nhiều tình cảm, sự trăn trở làm sao để người Chăm có thể dứt bỏ
những tập tục xa xưa không phù hợp với hoàn cảnh sống mới, làm thế nào để sớm đưa
người Chăm hòa nhập vào nhịp sống của xã hội văn minh.
Lương Ninh (2006), Vương quốc Champa, NXB ĐHQG Hà Nội: tác phẩm này được
xem như giáo trình ở các trường Đại học khi nghiên cứu về Champa. Tác giả đã trình bày
một cách hệ thống về lịch sử hình thành Vương quốc Champa từ thời kỳ sơ sử đến khi sụp
đổ, về văn hóa Champa, về sự hội nhập và phát triển của Champa.
Hai tác giả người Chăm quê ở Ninh Thuận là Inrasara và Sakaya cũng có nhiều tâm
huyết trong nghiên cứu văn hóa Chăm. Thông qua các công trình nghiên cứu, hai tác giả

cũng gửi gắm nhiều nỗi niềm của một người con mang dòng máu của dân tộc Chăm. Tác giả
Inrasara có nhiều tác phẩm về văn hóa Chăm như: Văn học Chăm, tập 1(1994), NXB
VHDT, Hà Nội; Inrasara (1996), Văn học Chăm, tập 2, NXB VHDT, Hà Nội; Inrasara
(1995), Ca dao, tục ngữ Chăm, NXB VHDT, Hà Nội; Inrasara (1999), Các vấn đề văn hóa
xã hội Chăm, NXB VHDT, Hà Nội: Cách nhìn tổng thể của tác giả về các vấn đề văn hóa –
xã hội Chăm với một nền văn hóa mang sắc thái độc đáo. Tác giả Văn Món nghiên cứu trên
nhiều lĩnh vực văn hóa, xã hội, con người Chăm như: Lễ hội của người Chăm (2003), NXB
VHDT, Hà Nội; Văn Món (2010), Văn hóa Chăm nghiên cứu và bình luận, NXB Phụ nữ,
Hà Nội: Đây là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của tác giả, thể hiện sự khảo cứu
chuyên sâu và rộng lớn ở nhiều lĩnh vực của văn hóa Chăm, được trình bày thành 7 chủ đề:
8


Di tích-lịch sử, Văn hoá-xã hội, Tôn giáo, Lễ hội, Văn chương, Ngôn ngữ, Nghệ thuật biểu
diễn.
Về văn hóa Chăm ở Ninh Thuận:
Nguyễn Đình Tư (1974), Non nước Ninh Thuận, NXB Sống mới, Sài Gòn: tác phẩm
giới thiệu những tư liệu quý giá về lịch sử, địa lí, nhân vật, giai thoại, huyền thoại, di tích,
thắng cảnh cũng như các địa danh năm xưa của tỉnh Ninh Thuận. Theo tác giả thì người
Chăm ở Ninh Thuận đã sinh sống xen lẫn với người Việt và đã Việt hóa, cụ thể là trong giao
tiếp bằng tiếng Việt, ăn Tết Nguyên đán….
Phan Xuân Biên, (1989), Người Chăm ở Thuận Hải, Sở VHTT Thuận Hải
Nhà nghiên cứu Vương Hoàng Trù có hai công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm
Ninh Thuận là: Bước đầu tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở người Chăm tỉnh Thuận Hải,
Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, tập 2, quyển II, Viện Khoa học xã hội tại
Tp. Hồ Chí Minh; Tín ngưỡng dân gian của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận,
Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh.
Ngô Văn Doanh (2002), Ninh Thuận trong lịch sử Chămpa, Viện nghiên cứu văn hóa
dân gian, 2002: Tác giả nêu bật lịch sử của vùng đất Chămpa thuộc tỉnh Ninh Thuận thông
qua các giai đoạn lịch sử: ngoài cõi Lâm Ấp, trong lòng Chămpa, dấu tích cuối cùng của

Ninh Thuận đã giữ vai trò lịch sử đặc biệt đối với lịch sử của vương quốc Chămpa trong
suốt chiều dài lịch sử.
Một số tác phẩm do chính nhà nghiên cứu người Chăm Ninh Thuận là Văn Món viết
như: Lễ hội Ka tê của người Chăm, NXB VHTT, Ninh Thuận; Nghề gốm cổ truyền của
người Chăm Bầu Trúc Ninh Thuận, NXB VHTT, Hà Nội.
Đạt Ngọc Quận, Vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà
nước đối với đồng bào Chăm ở Ninh Thuận: Trường Chính trị tỉnh Ninh Thuận, 2008:
Khẳng định vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đối
với đồng bào Chăm là nhiệm vụ quan trọng, từ đó sẽ cải thiện đời sống, văn hóa truyền
thống luôn gìn giữ và phát triển đa dạng, trình độ dân trí ngày càng nâng cao.
Đình Hy (2008), Bản sắc một vùng đất: Tiểu luận nghiên cứu lịch sử văn hoá, nghệ
thuật Ninh Thuận, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Ninh Thuận: Đề cập những nét văn hoá đặc
trưng của ngư dân Nam Trung bộ. Giới thiệu vể những lễ hội, trang phục dân gian Chăm,
Raglai. Ngược dòng lịch sử hoạt động cách mạng của Ga Tháp Chàm và căn cứ địa Bác Ái
trong chiến tranh giải phóng đất nước.
9


Tuy nhiên, về giao thoa văn hóa Việt-Chăm còn ít tác giả nghiên cứu. Đặc biệt là vấn
đề giao thoa văn hóa Việt-Chăm ở Ninh Thuận. Đa phần các tác giả trình bày tiến trình giao
thoa văn hóa của hai tộc người theo chiều dài lịch sử thông qua các cuộc giao tranh, bang
giao của các triều đại phong kiến của hai nước Đại Việt và Chămpa.
Tân Việt Điểu, Ảnh hưởng và di tích Chiêm Thành trong nền văn hóa Việt Nam, Văn
hóa nguyệt san, số 29 năm 1958: tác giả đề cập tới sự ảnh hưởng, tác động của văn hóa
Champa đến cư dân người Việt về một số lĩnh vực như: ăn mặc, kiến trúc, tín ngưỡng, âm
nhạc.
Lê Văn Hảo (1979), Tìm hiểu quan hệ giao lưu Văn hóa Việt và Chăm, Tạp chí Dân
tộc học số 1 năm 1979.
Theo công trình nghiên cứu Các dân tộc ít người ở Việt Nam ( Các tỉnh phía Nam) do
Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1984) thì dưới chế độ Mỹ - Ngụy, ngay trong nội bộ

người Chăm ở Phan Rang đã xảy ra xung đột đổ máu vì lý do tôn giáo. Nhận định về vai trò
của người Chăm và mối quan hệ bằng hữu của 2 dân tộc Việt – Chăm, các tác giả cho rằng:
người Chăm và người Việt có mối quan hệ tương hỗ khách quan và tất yếu trong cuộc kháng
chiến chống các thế lực phong kiến bành trướng Trung Quốc; đặc biệt là chống quân xâm
lược Nguyên Mông vào thế kỷ XIII. Thế kỷ XVIII, người Chăm đã có mặt trong nghĩa quân
Tây Sơn đánh các lực lượng gây chia cắt đất nước Trịnh – Nguyễn; góp phần đánh tan quân
Xiêm xâm lược (1784 -1785) và quân viễn chinh nhà Thanh (1788 -1789). Người Chăm
cũng đã cùng với các dân tộc anh em ở Việt Nam đi theo Đảng Cộng sản Việt Nam chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Các tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp có công trình nghiên cứu “Văn
hóa Chăm” ((1991), NXB KHXH, Hà Nội: ngoài nội dung nghiên cứu về các yếu tố của
văn hóa Chăm, các tác giả còn cho thấy sự giao lưu về văn hóa Chăm và văn hóa Việt rất rõ
ràng trong việc chế tác đồ gốm, trang phục hay sinh hoạt trong đời sống hằng ngày.
Hà Bích Liên (2000), Quan hệ giữa Vương quốc cổ Champa với các nước trong khu
vực, Luận án tiến sĩ lịch sử: tác giả nêu lên mối quan hệ đầy biến động về chính trị, quân sự,
ngoại giao giữa hai dân tộc Việt – Chăm trước năm 1832. Ngoài ra, Luận án còn nêu lên
mối giao lưu, hội nhập và tiếp biến giữa hai nền văn hóa.
Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt Nhất Thống Địa Dư Chí, NXB Thuận Hóa, Huế:
Tác giả viết về Dinh Bình Thuận, nơi định cư lâu dài của người Chăm. Khi người Việt mở
rộng lãnh thổ về phía Nam, cả hai dân tộc Việt – Chăm đã cùng sinh sống, tiếp nhận tín
10


ngưỡng của nhau như tôn thờ các vị thần Cá Voi, Thần Nông…..
Trần Dũng (2009), Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử,
Luận văn Thạc sĩ lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam: luận văn đã nghiên cứu sự giao
lưu văn hóa và hội nhập về văn hóa Việt – Chăm theo suốt chiều dài lịch sử trong nhiều lĩnh
vực từ sinh hoạt vật chất, kết cấu đời sống xã hội đến phong tục, tập quán, ngôn ngữ, tín
ngưỡng….
Thành Phú Chung (2010), Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam, Luận

văn Thạc sĩ lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam: tác giả luận văn đã đặt văn hóa Chăm
trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam để qua đó thể hiện sự độc đáo của vùng văn hóa
Trung Bộ. Luận văn cũng tìm hiểu những đóng góp và giá trị đặc sắc của văn hóa Chăm đối
với vùng văn hóa Trung Bộ.

4. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, tác giả mong muốn sẽ tổng hợp
được nguồn tư liệu phong phú về văn hóa Chăm nói chung và văn hóa Chăm Ninh Thuận
nói riêng, có sự sắp xếp, hệ thống hóa kết quả nghiên cứu từ trước đến nay, góp phần làm rõ
sự giao lưu văn hóa Việt- Chăm ở vùng đất Ninh Thuận từ năm 1832 đến năm 2012.
Với nguồn tài liệu được tiếp cận, tác giả muốn dựng lại bức tranh màu sắc của văn hóa
vùng đất Ninh Thuận. Trong đó, văn hóa Chăm có vai trò quan trọng trong quá trình hình
thành cộng đồng cư dân, là chủ nhân sắc thái văn hóa riêng của mảnh đất đầy nắng gió này.
Luận văn tập trung nghiên cứu văn hóa người Chăm và văn hóa người Việt ở Ninh
Thuận, qua đó làm rõ sự tiếp biến, giao lưu văn hóa của hai tộc người. Đồng thời, chỉ ra bản
chất, đặc điểm riêng của văn hóa Chăm ở Ninh Thuận so với các vùng khác trên cả nước,
góp phần xác định vai trò của văn hóa Chăm trong bức tranh tổng thể của văn hóa Việt
Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính của chuyên ngành lịch sử là:
Phương pháp lịch sử, Phương pháp logic. Phương pháp lịch sử được dùng nghiên cứu, trình
bày cụ thể và phân tích sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm ở Ninh Thuận trong tiến trình từ
1832 đến nay, trong không gian tỉnh Ninh khi Thuận. Phương pháp logic được dùng kết hợp
với phương pháp lịch sử trong việc khái quát, phân tích và nhận định về những điều kiện
của sự giao lưu và những biểu hiện của tác động qua lại giữa văn hóa Việt và văn hóa Chăm
11


trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

Thực hiện đề tài nghiên cứu về địa phương, cụ thể là tỉnh Ninh Thuận, người viết luận
văn đã sử dụng phương pháp nghiên cứu thực địa để có thể thu thập tư liệu thực tế, tiếp cận
đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Việt-Chăm tại địa phương được nghiên
cứu, làm cho luận văn thêm phần phong phú, sinh động.
Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của một số ngành khoa học như dân tộc học,
ngôn ngữ học, địa lý-kinh tế cũng được chọn lọc, khai thác theo phương pháp chuyên gia,
liên ngành… hỗ trợ quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn.

6. Đóng góp của luận văn:
Khi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu “ Giao lưu văn hóa Việt-Chăm ở Ninh Thuận
từ 1832 đến 2012”, tác giả hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ:
-

Góp phần bổ sung tư liệu vào việc dạy và học lịch sử ở địa phương

-

Góp phần giáo dục thế hệ trẻ ở Ninh Thuận nói riêng và của cả nước nói chung về
lịch sử dân tộc và tiến trình phát triển của cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt nam,
về sự đặc sắc, đa dạng của văn hóa Việt Nam
Góp phần vào công cuộc xây dựng, giữ gìn và phát huy tình đoàn kết giữa các dân tộc

anh em, mà điển hình là tình đoàn kết Việt-Chăm trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Giao lưu văn hóa Việt- Chăm ở Ninh Thuận và kết quả của nó phản ánh quy luật tất
yếu của sự cộng cư hai tộc người trên một địa bàn cư trú. Đồng thời, cũng phản ánh những
đặc điểm, tính chất riêng biệt của hai bộ phận văn hóa Việt-Chăm tại vùng đất Ninh Thuận.

7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1- VÀI NÉT VỀ NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN:

Trong chương này, hai nội dung chính được tập trung nghiên cứu là:
Thứ nhất, quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam
thống nhất, kết quả của quan hệ Đại Việt – Champa từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Quan hệ
của hai nước láng giềng Việt-Chăm trải qua giao tranh, xung đột, có hòa dịu, giao hảo, rồi
tiếp tục xung đội, giao tranh. Quá trình này cũng phản ánh những cơ sở, điều kiện hình
thành nên sự giao lưu, tiếp biến của hai bộ phận văn hóa Việt và Chăm.
Thứ hai, hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận chiếm tỉ lệ đông nhất. Tại vùng đất này,
bản sắc người Chăm và văn hóa Chăm được thể hiện cụ thể và sinh động nhất. Ninh Thuận
12


mang những đặc trưng tiêu biểu về văn hóa, tôn giáo, phong tục tập quán của người Chăm
trên cả nước. Có thể nói, muốn tìm hiểu về người Chăm ở Việt Nam cụ thể và sâu sắc nhất,
cần đến vùng đất này.
Chương 2- GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT – CHĂM Ở NINH THUẬN:
Nội dung chính của chương này chính là trình bày sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm ở
Ninh Thuận.
Sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm ở Ninh Thuận đã diễn ra vào các thế kỷ XVI – XVII
- khi các phần đất của Champa dần dần được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong. Từ đó đến
nay, người Việt và người Chăm cộng cư bên nhau trên một lãnh thổ, cùng trải qua nhiều
biến cố lịch sử, cùng chịu chung một vận mệnh của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam,
thì sự giao thoa, tiếp biến văn hóa càng diễn ra sâu đậm. Trong luận văn này, tôi tập trung
nghiên cứu sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm tại Ninh Thuận từ sau thế kỳ XIX và biểu hiện
giao thoa trên ba mảng nội dung chính: phong tục, tập quán, tín ngưỡng; văn hóa vật chất;
văn hóa tinh thần.
Chương 3-VAI TRÒ CỦA GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT – CHĂM Ở NINH THUẬN
TRONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM.
Dấu ấn của văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam, đặc biệt là trong vùng văn hóa
Trung bộ là rất đậm nét. Văn hóa Chăm đã góp phần to lớn tạo nên sự đặc sắc, phong phú
cho nền văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa Ninh Thuận nói riêng. Tìm hiểu, nghiên

cứu sự đóng góp của văn hóa Chăm đối với sự đa dạng mà thống nhất của văn hóa Việt Nam
sẽ có được cơ sở khoa học cho những chính sách hữu ích và phù hợp để bảo tồn và phát huy
bộ phận văn hóa này, góp phần vào công cuộc giữ gìn và phát huy văn hóa Việt Nam đa
dạng, phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc.

13


CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN
1.1. Khái quát về đất nước của người Chăm
Vương quốc Champa : Campapura - đô thị Chăm; hay Nagara Campa - xứ sở Chăm),
là một quốc gia tồn tại qua các thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832 qua các tên gọi Lâm
Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành và cuối cùng là Panduranga-Chăm Pa trên phần đất nay
thuộc Nam miền Trung Việt Nam. Cương vực của Champa lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy
Hoàng Sơn ở phía Bắc cho đến Bình Thuận.
Theo Lương Ninh trong Vương quốc Champa thì: “Người dân Champa có nguồn
gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2
trước Công nguyên”[45, tr.7].
Theo sử liệu Trung Hoa, vương quốc Champa đã được biết đến đầu tiên là vương quốc
Lâm Ấp bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân
địa phương chống lại Nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Hoa đã nhiều lần
cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công.
Từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền
văn minh Ấn Độ. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Champa là thế kỷ thứ 4 sau
Công nguyên, khi quá trình Ấn hóa đang diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã
bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có "Chữ
viết Chăm" để ghi lại tiếng nói của người Chăm.
Theo Lương Ninh trong Vương quốc Champa cũng như nhiều nhà nghiên cứu nhận
định rằng:
Trước thế kỷ X, Champa trải qua các thời kỳ:

Thời kỳ Sinhapura (193 -750): kinh đô là Sinhapura (thành phố Sư Tử, phế tích còn ở
làng Trà Kiệu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam), bờ nam sông Thu Bồn. Đây là
thời kỳ xây dựng chính quyền, quân đội hùng mạnh, thường đi đánh các lân bang, tấn công
cả quận Cửu Chân.
Thời kỳ Virapura (750 -850): kinh đô chuyển vào phía Nam Đèo Cả. Các vua cho xây
nhiều đền tháp, gây chiến tranh với Chân Lạp, quấy phá vùng phía nam An Nam đô hộ phủ
(nước ta thời thuộc Đường), không chịu cống nạp cho nhà Đường. Thư tịch cổ Việt Nam
chép tên hiệu các vua Chăm thường có chữ Phạm (Varman: vua Phật), Chế (Sri: tôn quý),
14


Bà, Bố (Po: vua)
Từ cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X là các thời kỳ:
Thời kỳ Indrapura (850 -982): Vua Indravarman II cho lập kinh đo mới ở Đồng dương
(Quảng Bình, Quảng Nam), cách Trà Kiệu 20km về phía nam. Champa nhiều lần giao chiến
với Chân Lạp từng đẩy lùi quân Chân Lạp đến tận kinh đô Sambhupura của Chân Lạp. Tiếp
thu Phật giáo, nhà Vua xưng hiệu là Phật: Sri parama Buddaloka (vua Phật tôn quý).
Thời kỳ Vijaya (từ cuối thế kỷ X): Vua Sri Vijaya lập kinh đô mới, lấy tên hiệu của
mình là Vijaya, đặt cho kinh đô 2.
1F

Thư tịch cổ Trung Hoa có nhiều ghi chép về sự ra đời của nước Champa. Theo Tấn thư
thì một người là Khu Liên đã giết quan lệnh rồi tự lập làm vua, lập nước có tên là Lâm Ấp,
đời Hán gọi là tượng Lâm, cuối đới Hán gọi là nước Lâm Ấp. Nhà nước Champa là nhà
nước quân chủ chuyên chế, có vua đứng đầu nắm mọi quyền hành về chính trị, kinh tế, quân
sự và ngoại giao. Dưới vua có bộ máy quan lại giúp việc.
Từ cuối thế kỷ IX, vương triều mới lấy Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) làm
kinh đô. Sử sách Trung Quốc gọi Champa là Chiêm Thành. Đây cũng là tên gọi của Champa
trong sử sách Đại Việt.
Champa hưng thịnh nhất vào thế kỷ thứ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu vì các cuộc

giao tranh với các vương triều Đại Việt ở phía Bắc và với đế quốc Khơ me ở phía Nam.
Năm 1471, Champa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ ở miền
bắc.
Phần đất còn lại của Champa từ sau năm 1471 mà sách sử người Việt gọi là Chiêm
Thành chỉ từ Đèo Cả ngày nay trở về Nam gồm hai địa khu Kauthara và Panduranga. Trong
các cuộc giao tranh với quân đội chúa Nguyễn cai trị xứ Đàng Trong của Đại Việt vào các
năm 1611 và 1653, Champa mất vùng Kauthara. Năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tấn
công vào Panduranga, bắt vua Po Sout đưa về Cố đô Huế và đưa em trai của Po Sout là Po
Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) lên làm vua, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn
và vua Chăm được gọi là Trấn Vương cai trị Thuận Thành Trấn với sự giám sát chặt chẽ của
các quan lại của chúa Nguyễn. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến năm 1832 qua các đời
chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu vương triều Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa
Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa
2

Theo Tài liệu học tập chuyên đề "Quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong lịch sử “ của TS. Trần Thị Thanh Thanh.

15


Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận.
Năm 1832 người Chăm nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc nổi dậy
của Lê Văn Khôi ở phía Nam nhưng không thành công. Chính quyền tự trị hạn chế của
người Chăm chấm dứt vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận Thành thành
phủ Ninh Thuận và đặt quan lại trực tiếp quản lý

 Thể chế chính trị và tổ chức xã hội của Champa
“Thế kỉ thứ III, Champa đã chú ý xây dựng bộ máy chính quyền, quân đội, lấy dãy
Hoành Sơn làm cương giới phía Bắc, xây dựng thành Khu Túc để phòng ngự”[45, tr.18].
“Sự thống nhất của Champa còn lỏng lẻo do điều kiện giao lưu đi lại giữa các vùng

trong vương quốc còn rất khó khăn và trong một tình trạng phân tán quyền lực khó tránh
khỏi giữa Bắc và Nam Champa” [36, tr.34].
Nhiều sử liệu cũng đã từng chứng minh rằng Champa không phải là một vương quốc
có một thể chế chính trị “trung ương tập quyền” mà là một quốc gia liên bang. Mỗi tiểu
vương quốc có một thể chế chính trị tự trị và có quyền li khai ra khỏi liên bang Champa để
xây dựng một vương quốc độc lập riêng biệt. Champa bắt đầu dùng chính sách hữu nghị để
bang giao với các nước láng giềng. Nước này đã nhiều lần gởi những quà cống cũng như
phái bộ ngoại giao sang Trung Quốc và tiếp tục phát triển việc trao đổi kinh tế và tôn giáo.
Chính những chuyến du hành của nhiều tu sĩ Phật giáo từ Trung Quốc sang Ấn Độ thường
hay ghé qua hải cảng Champa là nguyên nhân chính đưa đến sự hiện diện của đạo Phật đại
thừa ở nước này.
Các đời vua Champa mang tên hiệu khác nhau, theo thể thức cha truyền con nối.
Xã hội Chăm đã chuyển sang chế độ phong kiến nhưng vẫn còn tàn dư của chế độ thị
tộc bộ lạc. Theo Đặng Nghiêm Vạn trong Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam thì về cơ
bản xã hội Chăm có hai thị tộc:
"Thị tộc Cau (Pi năng) ở phía Nam, nay thuộc tỉnh Phú yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận. Thị tộc Dừa (Li u) ở phía Bắc, nay là Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng
Ngãi" [65, tr. 313]
Thị tộc là bộ phận tổ chức xã hội cao nhất của người Chăm. Dưới thị tộc là các chiết
atâu – dòng họ, tộc họ. Các chiết atâu được tổ chức quây quần trong thôn xóm. Mỗi chiết
atâu cư trú trong một địa vực nhất định, có ranh giới rõ ràng. Mỗi chiết atâu có khoảng 50
đến 150 gia đình. Đây là một hình thức tập trung quần tụ dòng họ gần nhau sống với nhau.
16


Dưới chiết atâu tộc họ là các chiết Parô (chi tộc). Trong một chiếc atâu có nhiều chiết
Parô, mỗi chiếc Parô có từ 10 đến 15 gia đình thành Mun Pa rô. Người đúng đầu và có khả
năng tập hợp những người cùng một chiếc atâu là bà “Tôn mẫu”. Bà là người chăm lo tổ
chức, thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên trong dòng họ. Bà là người có uy tín trong họ, luôn
quan tâm đến dòng họ, giữ được những quy chế tổ tiên đã quy định nên được bầu làm “Tôn

mẫu” của chiếc atâu.
Cơ cấu và thiết chế xã hội Chăm trước đây đã chi phối 4 tầng lớp xã hội:


Bahama – tăng lữ



Kosatrios – vũ sỹ



Valoyas – lao công



Cudra – cùng đinh 3[63, tr58].
2F

1.2. Quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam
thống nhất
Dựa trên tư liệu khảo cổ về văn hóa Sa Huỳnh, có thể nói rằng ở vùng Trung Bộ Việt
Nam đã có mặt tổ tiên của người Chăm. Theo nhiều nguồn sử liệu “người Chăm là một dân
tộc có một quá trình hình thành và phát triển lâu đời. Người Chăm thuộc chủng tộc Nam Á,
tiếng nói của họ rất gần gũi với các dân tộc Raglai, Churu, Jarai, Ê đê, thuộc nhóm ngôn
ngữ Malayo – Polinesien” [41, tr.23]. Trong lịch sử hình thành và phát triển, người Chăm đã
sáng tạo một nền văn hóa đa dạng, phong phú mang giá trị đặc sắc.
Quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam gắn liền
với quá trình sáp nhập vương quốc Champa vào lãnh thổ Đại Việt. Quá trình này biểu hiện
qua các cuộc chiến tranh và các mối quan hệ ngoại giao giữa hai chính quyền Champa và

Đại Việt.
Sự kiện mở đầu cho quá trình này là việc Ngô Nhật Khánh chạy sang Champa cầu
viện chống lại nhà Đinh. Nhận lời, năm 979 vua Champa đưa quân sang đánh Đại Cồ Việt,
3

Cũng theo tác giả này: Trước đây trong dân gian Chăm họ còn phân biệt 4 đẳng cấp sau:
1.

Đẳng cấp tu sĩ Bala môn – Ha lâu D’aming ( cội nguồn vững chắc)

2.

Đẳng cấp quý tộc – A kha patio Bomao mưh (gốc vui núi vang)

3.

Đẳng cấp bình dân – Bal la ca hoa hawai (dân cày kéo roi)

4.

Đẳng cấp nô lệ - Hu lin, Hu lac (tôi tớ, sâu bọ)
17


nhưng thủy quân của Champa bị tan vỡ vì gặp cơn bão lớn, Nhật Khánh bị chết. Đó là sự
kiện mở đầu cho mối bang giao Việt – Chăm với tư cách là hai nhà nước đã không mấy hòa
hảo và thuận lợi, nó như điềm báo trước cho những chuỗi sự kiện xảy ra liên tiếp với nhiều
biến cố phức tạp ở nhiều thế kỷ sau này. Trong các thế kỷ X-XV, giao tranh liên tục xảy ra
giữa Champa và Đại Việt, các vương triều Lý, Trần, Lê đã nhiều lần tấn công vào sâu vùng
đất của Champa, quân đội Chăm pa cũng vài lần tiến đánh tận kinh đô Thăng Long của Đại

Việt.
Dưới thời Lý, Đại Việt hai lần tấn công Champa, lần đầu là vào năm 1044 dưới thời
Vua Lý Thái Tông và, lần thứ hai là vào năm 1069 dưới thời vua Lý Thánh Tông. Cả hai vị
vua đều thân chinh đi đánh Champa và thắng lợi. Sau hai sự kiện này, vua Lý đã cho di dân
vào khai khẩn vùng đất mới chiếm, đặt lại tên mới cho ba châu là Lâm Bình, Ma Linh, Bố
Chính, ba châu này hiện nay là các tỉnh Quảng Bình và phần phía bắc tỉnh Quảng Trị, đến
sông Thạch Hãn.
Tuy nhiên, quan hệ giữa hai chính quyền Champa và Đại Việt trong lịch sử, cũng có
những thời kỳ hòa hiếu, bang giao thân thiện. Những thời điểm hòa bình đan xen với các
cuộc chiến tranh là thời kỳ của mối quan hệ chính trị đặc biệt, như cuộc hôn nhân giữa công
chúa Đại Việt và quốc vương Champa. Năm 1306, hôn lễ giữa vua Champa là Chế Mân
cùng công chúa Huyền Trân được tổ chức long trọng, Kết quả là một quá trình hòa bình, yên
ổn lâu dài và quan hệ bang giao giữa hai quốc gia trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết. Sính lễ
dẫn cưới của vua Chế Mân rất hậu gồm “vàng bạc, vật lạ, hương liệu quý và vùng đất hai
châu Ô, Lý”. Hai châu này đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu, sáp nhập vào Đại Việt, nay
là vùng đất phía Nam thuộc tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Quan hệ tốt đẹp giữa Champa và
Đại Việt được củng cố và tăng cường, tạo điều kiện cho cư dân Việt, Chăm cùng hòa đồng,
cộng cư sinh sống với nhau.
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, và trong vòng 7 năm, đã đem quân đánh
Champa 4 lần, vua Chămpa là Ba Đích Lai đã cắt vùng đất hai châu Chiêm Động và Cổ Lũy
để cầu hòa. Về sau đất này bị Champa chiếm lại.
Trong sự kiện năm 1471, vua Lê Thánh Tông đích thân đem 26 vạn quân đi đánh
Champa, chiếm được kinh đô Viiaya, bắt vua Chămpa là Trà Toàn 4.
F
3

Khi tấu cáo Thái miếu để xuất quân, nhà vua nói rõ lý do đánh Chiêm Thành là để trị tội quân giặc
liên tục cướp phá và cấu kết với nhà Minh hòng xâm lấn nước ta:"Thần là kẻ ít tuổi bất tài, vào nối
nghiệp lớn, chỉ mong yên dân giữ nước đâu dám dùng nhảm việc binh. Chỉ vì giặc Chiêm Thành
18


4


Sau chiến thắng, vua Lê chiếm lại Chiêm Động và Cổ Lũy và nhân đó chiếm luôn
vùng đất Vijaya. Theo Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục thì đến tháng 6-1471, vua Lê đặt
đạo thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa gồm 3 phủ (Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài
Nhơn), 9 huyện, riêng phủ Tư Nghĩa có 3 huyện: Mộ Đức, Nghĩa Giang, Bình Sơn” [25,
tr.43]. Vùng đất này ngày nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí còn ghi thêm rằng: “Từ đó lại quy vào
bản đồ. Đất đã mở mang, phong thổ mỗi ngày một phồn thịnh, đồng ruộng rộng rãi, các thứ
lúa xanh tốt….” [14, tr.136]. Lê Thánh Tông tiến công vào Chămpa giành thắng lợi, đã cho
vẽ lại bản đồ, đặt lại tên gọi, thiết chế những vùng đất của người Chăm thành ty, trấn hành
chính...
Sau khi một phần lãnh thổ Champa sáp nhập vào Đại Việt, chính sách của Đại Việt
thực sự tạo cơ hội cho cư dân Champa sống chung với những di dân người Việt đến từ châu
Hoan, châu Ái của Đại Việt…Người Chăm thấy rằng họ còn cần phải canh tác trên những
cánh đồng ít nhiều cũng rộng rãi, trù phú hơn vùng đất phía nam vốn khô khan, đầy nắng
gió như Phan Rang, Phan Rí. Về việc người Chăm ở vùng đất này, G.S Trần Quốc Vượng
cho rằng: “có chiến tranh là có chết chóc nhưng không thể và không hề có sự tiêu diệt và
khu trục người Chăm ra khỏi vùng đất này” [66, tr. 91].
Sau sự kiện 1471, vương quốc Chămpa suy yếu dần, tiếp đến là sự thất thủ của
Kauthara và Panduranga, nay là vùng đất thuộc các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận. Đó là sự hòa nhập cuối cùng của Chămpa và người Chăm vào quốc gia dân tộc Việt
Nam.
Quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam gắn liền
với quá trình cộng cư Việt – Chăm trên vùng đất miền Trung Việt Nam. Sự cộng cư này đã
nói lên bản chất hiền hòa của cư dân nông nghiệp, họ luôn thông cảm, chia sẻ những khó
khăn với nhau trong lao động sản xuất cũng như trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Quá
trình cộng cư lâu dài cũng làm nảy sinh các cuộc hôn nhân Chăm-Việt. Những chính sách

của nhà nước và sự cộng cư lâu dài đã dẫn tới một bộ phận cư dân ở miền Trung Việt Nam
có sự pha trộn hai dòng máu Việt và Chăm. Quý tộc thời Lý, Trần đã coi những mỹ nữ
Chăm là “chiến lợi phẩm” sau mỗi cuộc chinh phạt, chẳng hạn sự kiện năm 1046, vua Lý
ngu xuẩn, nó điên cuồng nhòm ngó nước ta. Không sợ trời tạm bợ cho qua, với nước ta nó gây
thù địch, trước thì đánh cướp châu Hóa để hòng chiếm đoạt đất đai, sau lại sang báo nhà Minh, âm
mưu diệt hết tông miếu [Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, tr. 445]
19


dựng cung Ngân Hán dành riêng cho mỹ nữ Chiêm Thành hoặc việc hàng ngàn tù binh
Chăm bị bắt trong các cuộc giao tranh được an tháp, rải rác từ vùng Thanh Nghệ ra tới
Thăng Long đã khiến quá trình hôn nhân Việt –Chăm diễn ra mạnh mẽ. Vào năm 1499, vua
Lê ban chiếu cấm lấy vợ Chiêm Thành. Đây phải chăng là một minh chứng của sự giao thoa
giữa hai cộng đồng cư dân, hai nền văn hóa trên một lãnh thổ. Ở Phú Gia, Phú Thượng, Tây
Hồ, Hà Nội hiện nay vẫn còn những dòng họ như Công (Ông), Bố (Hy)…có nguồn gốc
Chăm và đã có vài người đỗ đạt được khắc tên trong bia Văn Miếu, Quốc Tử Giám. Từ quá
trình hôn nhân đến quá trình thay tên đổi họ sao cho phù hợp với hoàn cảnh là việc thường
thấy trong lịch sử Việt Nam thời cổ trung đại.
Quá trình cộng cư và giao thoa văn hóa Việt - Chăm trong quá trình người Chăm hòa
nhập vào cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam là một hệ quả tất yếu của lịch sử hai dân tộc
cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay.

1.3. Về người Chăm ở Ninh Thuận
1.3.1. Dân cư và địa bàn cư trú
Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận có số dân đông nhất (67.274 người), chiếm gần
50% người Chăm ở Việt Nam. Họ sống tập trung thành từng palei riêng biệt và bảo lưu đậm
nét nhiều tập tục truyền thống như nghi lễ, hội hè, tục cúng tế đền tháp, tục cưới gả, tang
ma, tín ngưỡng, tôn giáo, luật tục, văn chương, làng nghề…mang bản sắc văn hoá riêng.



Palei Chăm:

Người Chăm ở Ninh Thuận có tất cả 22 làng (palei) thuộc 13 xã và 4 huyện thị (Ninh
Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn, thị xã Phan Rang - Tháp Chàm), được phân chia thành hai cộng
đồng: Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo) và Chăm Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi
giáo). Mỗi cộng đồng tôn giáo lại sinh sống thành từng palei riêng biệt. Trong tổng số 22
làng (palei) thì có 15 làng Chăm Ahiêr và 7 làng Chăm Awal. Là một tộc Chăm nhưng phân
chia làm hai nhóm Chăm, ảnh hưởng đạo giáo khác nhau (Ahiêr và Awal), sống tách biệt
nhau. Tuy vậy hai nhóm này vẫn cùng mang một đặc trưng văn hoá chung.
Trong Tên gọi và địa bàn cư trú của làng Chăm ở tỉnh Ninh Thuận, tác giả Vija Nhàn
đã dựa vào kết quả điều tra dân số 2009 của Tỉnh Ninh Thuận để đưa ra bảng thống kê về
địa bàn phân bố các palei Chăm như sau:


CÁC PALEI CHĂM Ở NINH THUẬN PHÂN THEO ĐỊA BÀN

Theo hướng phân bố từ bắc xuống nam, danh mục 22 palei Chăm ở Ninh Thuận lần
20


lượt như sau:
1. Palei Bal Riya: làng Bình Nghĩa, thuộc xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc.
2. Palei Pa-mblap Klak: thôn An Nhơn, thuộc xã Xuân Hải, huyện Ninh Hải.
3. Palei Pa-mblap Biraw: thôn Phước Nhơn, được tách ra từ palei Pamblap Klak,
thuộc xã Xuân Hải, huyện Ninh Hải.
4. Palei Cang: thôn Lương Tri, thuộc xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn.
5. Palei Tabeng: làng Thành Ý, thuộc xã Thành Hải, thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm.
6. Palei Baoh Bini: làng Hoài Trung, thuộc xã Phước Thái, huyện Ninh Phước.
7. Palei Dara: trước là làng Như Ngọc, nay là làng Như Bình, thuộc xã Phước Thái,

huyện Ninh Phước.
8. Palei Baoh Dana: làng Chất Thường, thuộc xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước.
9. Palei Mblang Kacak: thôn Phước Đồng, thuộc xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước.
10. Palei Cauk: làng Hiếu Lễ, thuộc xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước.
11. Palei Baoh Deng: thôn Phú Nhuận, thuộc xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước.
12. Palei Hamu Tanran: làng Hữu Đức, thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước.
13. Palei Thuer: làng Hậu Sanh, thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước.
14. Palei Hamu Craok: làng Vĩnh Thuận (Bầu Trúc), thuộc thị trấn Phước Dân,
huyện Ninh Phước.
15. Palei Caklaing: làng Mỹ Nghiệp, thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước.
16. Palei Bal Caong: làng Chung Mỹ, thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước.
17. Palei Cuah Patih: làng Thành Tín, thuộc xã Phước Hải, huyện Ninh Phước.
18. Palei Patuh: làng Tuấn Tú, thuộc xã An Hải, huyện Ninh Phước.
19. Palei Ram: làng Văn Lâm, thuộc xã Phước Nam, huyện Thuận Nam.
20. Palei Aia Li-u: thôn Phước Lập, thuộc xã Phước Nam, huyện Thuận Nam.
21. Palei Palao: thôn Hiếu Thiện, thuộc xã Phước Nam, huyện Thuận Nam.
22. Palei PaBha: làng Vụ Bổn, thuộc xã Phước Nam, huyện Thuận Nam. [44]
Phần lớn các tên palei bằng tiếng Chăm đều có nghĩa từ vựng gắn với địa bàn. Chẳng
hạn Palei Thuer/Thuer tức làng Hậu Sanh, thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, có
nghĩa là "làng Vườn" / "làng Thiên Đàng, Linh Thiêng". Palei Cuah Patih tức làng Thành
Tín, thuộc xã Phước Hải, huyện Ninh Phước, có nghĩa là "làng Cát Trắng".


CÁC PALEI CHĂM Ở NINH THUẬN PHÂN THEO TÔN GIÁO
21


* Các palei Chăm Ahiêr:
1. Palei Bal Riya: làng Bình Nghĩa, thuộc xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc.
2. Palei Tabeng: làng Thành Ý, thuộc xã Thành Hải, thành phố Phan Rang - Tháp

Chàm.
3. Palei Baoh Bini: làng Hoài Trung, thuộc xã Phước Thái, huyện Ninh Phước.
4. Palei Dara: làng Như Bình, thuộc xã Phước Thái, huyện Ninh Phước.
5. Palei Baoh Dana: làng Chất Thường, thuộc xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước.
6. Palei Mblang Kacak: thôn Phước Đồng, thuộc xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước.
7. Palei Cauk: làng Hiếu Lễ, thuộc xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước.
8. Palei Hamu Tanran: làng Hữu Đức, thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước.
9. Palei Thuer: làng Hậu Sanh, thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước.
10. Palei Hamu Craok: làng Vĩnh Thuận (Bầu Trúc), thuộc thị trấn Phước Dân,
huyện Ninh Phước.
11. Palei Caklaing: làng Mỹ Nghiệp, thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước.
12. Palei Bal Caong: làng Chung Mỹ, thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước.
13. Palei Aia Li-u: thôn Phước Lập, thuộc xã Phước Nam, huyện Thuận Nam.
14. Palei Palao: thôn Hiếu Thiện, thuộc xã Phước Nam, huyện Thuận Nam.
15. Palei PaBha: làng Vụ Bổn, thuộc xã Phước Nam, huyện Thuận Nam. [44]
Bộ phận người Chăm Ahier ở Ninh Thuận có 3 khu đền tháp làm nơi thờ tự chính:
- Tháp Po Klaong Garai: ở đồi Trầu, cách Phan Rang 9km, được xây dựng từ thế kỷ 13
dưới thời vua Chế Mân III (Jaya Shimhavarman III).
- Tháp Po Rômê: ở xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, được xây dựng vào cuối thế kỷ
16 và đầu thế kỷ 17.
- Tháp Hòa Lai: ở xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, có từ thế kỷ thứ 9.
* Các palei Chăm Awal:
1. Palei Pa-mblap Klak: thôn An Nhơn, thuộc xã Xuân Hải, huyện Ninh Hải.
2. Palei Pa-mblap Biraw: thôn Phước Nhơn, thuộc xã Xuân Hải, huyện Ninh Hải.
3. Palei Cang: thôn Lương Tri, thuộc xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn.
4. Palei Baoh Deng: thôn Phú Nhuận, thuộc xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước.
5. Palei Cuah Patih: làng Thành Tín, thuộc xã Phước Hải, huyện Ninh Phước.
6. Palei Patuh: làng Tuấn Tú, thuộc xã An Hải, huyện Ninh Phước.
7. Palei Ram: làng Văn Lâm, thuộc xã Phước Nam, huyện Thuận Nam. [44]
22



Palei Baoh Deng (thôn Phú Nhuận, xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước) là một
trường hợp đặc biệt. Nơi đây, có cả người Chăm Ahier và người Chăm Awal, cư trú xen kẽ
với nhau.
Palei Ram (làng Văn Lâm, xã Phước Nam, huyện Thuận Nam) cũng là một trường hợp
đặc biệt. Nơi đây, có cả người Chăm theo Hồi giáo Bàni và người Chăm theo Hồi giáo Islam
mới du nhập gần đây.
Người Chăm Awal ở Ninh Thuận có 7 thánh đường Bàni ở 7 làng: An Nhơn, Phước
Nhơn, Lương Tri, Phú Nhuận, Thành Tín, Tuấn Tú, Văn Lâm.
Những tên gọi của các làng Chăm trên đây theo cấu trúc ngôn ngữ Hán – Việt chỉ mới
xuất hiện từ năm 1832 dưới thời Minh Mạng. Thực ra, mỗi làng của người Chăm đều có
một tên gọi cổ truyền theo tiếng Chăm với ý nghĩa khá rõ rệt. Thường thường, tên làng được
gọi theo đặc điểm lịch sử hình thành làng hoặc cảnh quan địa lý nơi làng phân bố, mà đại bộ
phận gọi theo tên ruộng, cây trái… Làng Mỹ Nghiệp theo tiếng Chăm là palei Caklin để ghi
nhớ ông bà On Pasa Mu Cahklin đã có công nuôi ông vua Po Klaong Garai, làng Hữu Đức –
palei Hamu Tanran – làng ở vùng đồng bằng; làng Như Bình – palei Padra – làng ở vùng
núi; làng Vĩnh Thuận – palei Hamu Craok – làng trũng, nhô ra ở phần cuối của triền sông;
làng Thành Tín – Palei Cuah Patih – làng có động cát trắng; làng Phú Nhuận – có nhiều loại
cây cổ thụ cho quả baoh hadeng, dùng quả nhuộm vải đen nên được gọi là palei Baoh Deng;
làng Phước Đồng – palei Mbang Kack- làng có đất bằng phẳng trồng cây gai.
Ngoài ra theo vị trí địa lý, đặc điểm cảnh quan…, nhiều làng Chăm còn được người
Việt trong vùng gọi bằng một tên khác như làng Vĩnh Thuận ở trên một gò đất cao, cạnh bầu
nước mọc nhiều cây trúc nên gọi là làng Bầu Trúc; làng Văn Lâm có thế đất giống hình quả
bầu – làng Bầu; làng Phú Nhuận – làng Mương Chai vì cạnh làng có con mương lớn tên
Mương Chai.
Palei Chăm thường định cư trên những vùng gò đất cao, xung quanh là ruộng lúa và
nương rẫy. Mỗi palei có khoảng từ 300-400 hộ gia đình, tập hợp bởi nhiều tộc họ sinh sống
với nhau. Các khuôn viên nhà ở được bố trí theo hướng Bắc – Nam.
“Làng người Chăm có quy mô dân số không đồng đều, có làng có tới hàng ngàn hộ,

khoảng 5000 – 6000 người; có làng nhỏ chỉ khoảng 1000 người. Phần lớn làng Chăm chỉ có
thuần túy dân tộc Chăm cư trú. Một số ít làng Chăm có người thuộc dân tộc khác sinh sống,
chủ yếu là người Việt và người Ra –glai là do hôn nhân, hoặc do nguyên nhân kinh tế -xã
hội….nhưng số lượng cũng không nhiều, thường chỉ chiếm trên dưới 5 % dân số làng, chỉ
23


×