Tải bản đầy đủ (.pdf) (252 trang)

ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ nôm bác học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.52 MB, 252 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HỒNG MINH

NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2002



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án:
LÊ THỊ HỒNG MINH

3


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. Nguyễn Lộc và PGS.TSKH. Bùi Mạnh Nhị đã hướng
dẫn tôi thực hiện đề tài này. Xin cảm ơn quý thầy cô giáo, các cấp lãnh đạo, gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp và các sinh viên đã hỗ trợ, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận án.


Tác giả luận án:
LÊ THỊ HỒNG MINH

4


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 3
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 4
MỤC LỤC .................................................................................................................... 5
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................ 8
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 9
1.MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI.............................................................................9
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ......................................................................................................... 11
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...............................................................14
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................................16
5.NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ...............................................................17
6.CẤU TRÚC LUẬN ÁN ..................................................................................................17

CHƯƠNG 1: XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI CỦA
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ...................................... 17
1.1.KHÁI NIỆM ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI ............................................................18
1.2.VẤN ĐỀ CHỌN VĂN BẢN ........................................................................................24
1.2.1.Vấn đề chọn văn bản đối với Truyện Kiều ...........................................................24
1.2.2.Vấn đề chọn văn bản ở các tác phẩm khác ...........................................................29
1.3.XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI CỦA NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC .....................................................................................34
1.3.1. HIỆU ĐÍNH MỘT SỐ CÂU ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI TRÊN CƠ SỞ CÁC
VĂN BẢN ĐÃ CÓ ........................................................................................................39
1.3.1.1.Xác định lại: đối thoại hay độc thoại? ..........................................................39

1.3.1.2.Điều chỉnh lại lời đối thoại, độc thoại ..........................................................40
1.3.2.XÁC ĐỊNH BỔ SUNG NHỮNG CÂU ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI MỚI .........46
TIỂU KẾT .........................................................................................................................49

5


CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN THƠ NÔM
BÁC HỌC................................................................................................................... 50
2.1.TÍNH TRANG NHÃ, UYÊN BÁC TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN
THƠ NÔM BÁC HỌC ......................................................................................................50
2.1.1.NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TẠO NÊN TÍNH TRANG NHÃ,
UYÊN BÁC LÀ MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ........50
2.1.2.NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TRONG
NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC .....................................54
2.1.3.CÁCH THỨC TẠO NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG CHO NHÂN
VẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ..............................................................66
2.2.TÍNH BÌNH DÂN CỦA NGÔN NGỮ SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG, NGÔN NGỮ
DÂN GIAN TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT .............................................................70
2.2.1.NGÔN NGỮ SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG ........................................................72
2.2.2.NGÔN NGỮ VĂN HỌC DÂN GIAN .................................................................83
2.2.2.1.Sự có mặt của thành ngữ, tục ngữ trong lời nói: ..........................................83
2.2.2.2.Ca dao dân ca trong ngôn ngữ nhân vật.......................................................93
TIỂU KẾT .......................................................................................................................100

CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
THƠ NÔM BÁC HỌC ............................................................................................ 102
3.1.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ VÀ KỊCH
..........................................................................................................................................102
3.2.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC

HỌC .................................................................................................................................106
3.2.1.CÁC HÌNH THỨC NGÔN NGỮ NHÂN VẬT .................................................108
3.2.2.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC
HỌC ............................................................................................................................. 112
3.2.3.MỘT SỐ TÍNH CÁCH ĐẶC SẮC THỂ HIỆN RÕ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ
NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM ............................................................................125
6


3.2.3.1.Nhược Hà: ...................................................................................................125
3.2.3.2.Thể Vân: ......................................................................................................131
3.2.3.3.Thúy Kiều: ...................................................................................................138
3.2.3.4.Hoạn Thư: ...................................................................................................153
3.2.3.5.Thúc Sinh: ...................................................................................................164
3.3.MỘT SỐ ĐIỂM HẠN CHẾ: ....................................................................................170
TIỂU KẾT: ......................................................................................................................171

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 173
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ...................................................... 177
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 178
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 188
BẢNG 1.1a: .....................................................................................................................188
BẢNG 1.1b: .....................................................................................................................190
BẢNG 1.3: .......................................................................................................................193
BẢNG 2. la: .....................................................................................................................194
BẢNG 2.2: .......................................................................................................................198
BẢNG 3.2: .......................................................................................................................207
BẢNG 3.3: .......................................................................................................................210
BẢNG 4.1a: .....................................................................................................................212
BẢNG 4. 2: ......................................................................................................................219

BẢNG 5.1a: .....................................................................................................................225
BẢNG 5.3: .......................................................................................................................233
BẢNG 6.1b: .....................................................................................................................246
BẢNG 6.2: .......................................................................................................................247
BẢNG 6.3: .......................................................................................................................251

7


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
(Xếp theo ký tự đầu của chữ viết tắt)
-BK-TTK

- Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim

-ĐDA

- Đào Duy Anh

-Gs.

- Giáo sư

- HT

- Truyện Hoa tiên

- HXH

- Hoàng Xuân Hãn


-HHY

- Hoàng Hữu Yên

- LVT

- Truyện Lục vân Tiên

- LT

- Lửa Thiêng

-NỌT

- Nguyễn Quảng Tuân

- NTG

- Nguyễn Thạch Giang

- NTTX

- Nguyễn Thị Thanh Xuân

- Nxb.

- Nhà xuất bản

- NĐM


- Truyện Nhị độ mai

-PGs.

- Phó giáo sư

-Sđd

- Sách đã dẫn

-ST

- Truyện Song Tinh

-SKTT

- Sơ kính tân trang

-TCVH

- Tạp chí văn học

-TV.

- Tân Việt

-TSKH

- Tiến sĩ khoa học


-Tr.

- Trang

- TK.

- Truyện Kiều

8


PHẦN MỞ ĐẦU
1.MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Truyện thơ Nôm bác học là một thành tựu lớn của văn học Việt Nam, một thách thức
đối với thời gian, đối với lịch sử văn học nước Việt. Với những kiệt tác như Truyện Kiều, Sơ
kính tân trang, Truyện Hoa tiên... truyện thơ Nôm bác học thế kỷ XVIII _ XIX đã góp phần
đưa giai đoạn văn học này lên vị trí đỉnh cao của văn học dân tộc.
Suốt ba thế kỷ qua, đặc biệt kể từ khi Truyện Kiều ra đời, truyện thơ Nôm bác học thu
hút hàng trăm ý kiến của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình văn học lớn, nhỏ
trong nước và cả ngoài nước. Các ý kiến ấy có thể trái ngược hoặc bổ sung cho nhau khi
đánh giá về nhân vật này hay nhân vật kia, nhưng cùng đi đến một sự thống nhất chung:
truyện thơ Nôm bác học là sản phẩm tài hoa của các nhà thơ Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX.
Nhiều công trình đã nghiên cứu hết sức công phu về các mặt tư tưởng, nghệ thuật, ngôn
ngữ... của các tác phẩm truyện thơ Nôm giai đoạn này và đạt được những thành tựu xuất
sắc, góp cho sự đánh giá truyện thơ Nôm bác học thêm chính xác, giúp giá trị các truyện thơ
Nôm giai đoạn này thêm tỏa rộng, lan xa.
Truyện thơ Nôm bác học đặc sắc trên nhiều phương diện, trong đó phải kể đến thành
tựu rực rỡ của ngôn ngữ nhân vật, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều.
Ngôn ngữ nhân vật là yếu tố có tính chất quyết định đối với kịch và có vai trò đặc biệt

quan trọng đối với truyện, nhất là thể loại tiểu thuyết. Những thiên tài, những nhà văn lớn
khi xây dựtig hình tượng nhân vật, đều hết sức chú ý phương diện này. M.Bakhtin đã chứng
minh: qua ngôn ngữ nhân vật và chủ yếu bằng ngôn ngữ nhân vật, Đôxtôjêvxki đã sáng tạo
ra tiểu thuyết phức điệu, tạo nến sự cách tân vĩ đại cho văn học Nga và cho tiểu thuyết hiện
đại thế giới.
Thế nhưng, ở nước ta, ngôn ngữ nhân vật chưa được cả người sáng tác lẫn người
nghiên cứu quan tâm đúng mức. Trong văn học Việt Nam, các tác giả thực sự xây dựng
được ngôn ngữ nhân vật không nhiều. Theo Phan Ngọc thì cho đến cuối thế kỷ XX, mới chỉ
có ba tác giả làm được việc này: Nguyễn Du, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao [98, tr.131].
Công trình nghiên cứu về ngôn ngữ nhân vật lại càng ít ỏi, mặc dù ngôn ngữ nhân vật chiếm
một phần không nhỏ trong tác phẩm. Các truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu đều có tỉ lệ
ngôn ngữ nhân vật từ 1/3 đến 1/2 dung lượng số câu thơ. Có thể thấy rõ điều này qua:

9


Tỉ lệ ngôn ngữ nhân vật như vậy là rất lớn. Hơn nữa, ngôn ngữ nhân vật là một yếu tố
quan trọng để khu biệt thể truyện thơ với ngâm khúc, là một thành phần thi pháp, một phong
cách nghệ thuật có thể góp phần khu biệt truyện thơ nôm bác học với truyện thơ Nôm bình
dân, có vai trò không nhỏ trong việc phát triển tình tiết câu chuyện, xây dựng tính cách nhân
vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm. Thế nhưng, có rất ít bài nghiên cứu về ngôn ngữ nhân
vật. Có thể đơn cử về tác phẩm của Nguyễn Du: cả một khối lượng đồ sộ hàng trăm đầu
sách và hàng mấy trăm bài viết về Truyện Kiều, trong đó, có nhiều công trình, bài viết lấy
dẫn chứng, ví dụ từ ngôn ngữ nhân vật để làm rõ những luận điểm văn học: tính cách nhân
vật, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, vấn đề điển hình hoá v.v..., nhưng hầu hết các bài viết
ấy chỉ dùng ngôn ngữ nhân vật như một phương tiện phục vụ cho một hướng nghiên cứu
nào đó, chứ chưa xem nó thực sự là đối tượng nghiên cứu, mặc dù tác giả có những đoạn
phân tích về ngôn ngữ nhân vật rất đặc sắc.
Như vậy, theo chúng tôi, việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá về vai trò và những đóng
góp của ngôn ngữ đối thoại và độc thoại cho sự thành công của tác phẩm là một việc cần

10


thiết, không chỉ trên bình diện lý luận, phê bình mà còn có thể giúp ích cho những người
sáng tác.

2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Có lẽ bài viết Về ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Lộc đăng trên Tạp
chí Văn học (tháng 11/1965) - 14 trang - là công trình đầu tiên đề cập đến hướng khai thác
này. Hơn mười năm sau mới có một bài viết 13 trang tiếp nối đề tài trên, với cùng một tiêu
đề: Về ngôn ngữ nhân vật "Truyện Kiều" (TCVH số 3 - 1977). Sau đó, tác giả Đặng Thanh
Lê đã hoàn chỉnh bài viết thành một phần của chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện
Nôm (1979). Về sau, trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều
(1985), tác giả Phan Ngọc cũng đã dành một phần ương chuyên luận để nói tới đối thoại và
độc thoại cửa nhân vật. Năm 1997, Đinh Thị Khang có bài "Ngôn ngữ nhân vật trong truyện
Hoa Tiên" [143].
Trong bài viết của mình, tác giả Nguyễn Lộc đề cập đến hai vấn đề chủ yếu của ngôn
ngữ nhân vật: đặc điểm ngôn ngữ nhân vật và chức năng biểu hiện tính cách của ngôn ngữ
nhân vật trong Truyện Kiều.
Về đặc điểm, Nguyễn Lộc đã chỉ ra: ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều một mặt có "yếu
tố hiện thực chủ nghĩa", mặt khác, "có khá nhiều yếu tố có tính ước lệ" [88, tr.62] - một đặc
điểm phổ biến của ngôn ngữ văn học thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Giáo sư lý giải
các yếu tố hình thành tính chất ước lệ của ngôn ngữ nhân vật - một đặc điểm loại hình có
tính chất loại biệt trong nghệ thuật biểu hiện của văn học phong kiến. Đó là sự cách điệu của
thơ lục bát, sự cố định hóa đối tượng so sánh của thể tỷ trong ca dao, nhưng, chủ yếu vẫn là
phương thức diễn đạt qua những công thức biểu hiện của ngôn ngữ văn học đương thời. Từ
thực tiễn tác phẩm, Nguyễn Lộc rút ra nhận xét: nhân vật chính diện thiên về tính chất lý
tưởng hóa, thuộc phạm trù cao cả, nên thường sử dụng ngôn ngữ ước lệ. Nhân vật phản diện
khi ra vẻ chính diện cũng dùng nó. Đối với thành phần ngôn ngữ có tính chất hiện thực chủ
nghĩa, ông chủ yếu phân tích về đặc điểm sử dụng: nó phần lớn được dùng cho nhân vật

phản diện. Nhân vật chính diện lúc rơi vào những mâu thuẫn gay gắt, những biến cố phức
tạp của cuộc đời, ngôn ngữ cũng tăng cường yếu tố này - khi mà những phương tiện nghệ
thuật mang tính ước lệ không đủ sức dung nạp, biểu hiện. Tuy nhiên, giáo sư chưa chú trọng
đi sâu vào những nhân tố làm nên tính chất hiện thực này.

11


Nói về vai trò chính của ngôn ngữ nhân vật, qua sự phân tích các đối tượng: Thuý
Kiều, Tú Bà, Hoạn Thư, Thúc Sinh... Nguyễn Lộc đã chứng minh: ngôn ngữ nhân vật là
một phương tiện vô cùng quan trọng để bộc lộ tính cách, góp phần cá thể hoa nhân vật, thể
hiện đặc sắc hình tượng tác phẩm. Ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều vừa kế thừa và phát huy
truyền thống của thể loại truyện thơ Nôm, vừa là một bước phát triển cao so với truyện Nôm
đương thời.
Về hạn chế, Nguyễn Lộc cho rằng: ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều còn hạn chế về
phương diện cá thể hóa nhân vật; vai trò thuyết minh của tác giả khá lớn, có khi đã xâm
nhập vào ngôn ngữ nhân vật.
Ở công trình Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, khi đề cập đến "nghệ thuật xây dựng
Truyện Kiều", Đặng Thanh Lê đã giành hai mục nhỏ để nói về ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại. Đặt ngôn ngữ đối thoại của Truyện Kiều trong cái nền ngôn ngữ đối thoại của truyện
Nôm nói chung, tác giả khẳng định: nó đóng vai trò quan trọng trong "biểu hiện cảm nghĩ
và quyết định hành động của nhân vật đứng trước một tình huống, một mâu thuẫn", và trong
"trình bày bước phát triển của sự kiện, tình tiết" [81, tr.232].
Theo Đặng Thanh Lê, ngôn ngữ đối thoại Truyện Kiều có hai đặc điểm lớn. Sự thống
nhất cao giữa nội dung tư duy cảm xúc với hình thức ngôn ngữ là đặc điểm chi phối chủ thể
sử dụng ngôn ngữ (nhân vật chính diện hay phản diện) và tính chất ngôn ngữ hội thoại
(ngôn ngữ quý tộc hay ngôn ngữ nhân dân, ngôn ngữ công thức ước lệ hay ngôn ngữ có
màu sắc hiện thực chủ nghĩa). Đặc điểm thứ hai là tính nhân dân ương ngôn ngữ nhân vật.
Tính chất này được hình thành từ ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ văn học dân gian. Nó có
mặt trong lời nói của hầu hết các nhân vật Truyện Kiều.

Về ngôn ngữ độc thoại miêu tả nội tâm nhân vật, Đặng Thanh Lê xem đây là một yếu
tố quan trọng để xây dựng tính cách, là nguyên nhân sự phát triển hành động của nhân vật,
phát triển tình tiết diễn biến cốt truyện. Nó thường được Nguyễn Du sử dụng "ở nhữĩig
chặng đường có ý nghĩa bước ngoặt đối với vận mệnh nhân vật, ở những trường hợp kịch
tính cao của tình huống, của sự bộc lộ tính cách" [81, tr.251].
Công trình của Đặng Thanh Lê là một bổ sung quan trọng, thú vị đối với bài báo của
Nguyễn Lộc.
Ở chuyên luận Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan Ngọc xem
Truyện Kiều là một tiểu thuyết tâm lý, thể hiện qua ba yếu tố: ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ
12


nhân vật và ngôn ngữ thiên nhiên. Phan Ngọc cho rằng trước Nguyễn Du chỉ có lời nói mà
chưa có ngôn ngữ nhân vật - với tính cách là một phạm trù mỹ học. Ngay cả tuồng cũng chỉ
mới xây dựhg được ngôn ngữ tính cách.
Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều ít dùng để làm những việc giao tiếp hàng ngày
như chào hỏi, kể chuyện... Nó là ngôn ngữ tâm trạng biểu lộ thái độ của nhân vật. Nó xuất
hiện như một kiểu lựa chọn, có cấu trúc nghệ thuật, lớp từ vựhg và kiểu cú pháp riêng,
ngoài sự giao tiếp thực tiễn còn là phương tiện bộc lộ tính cách.
Sự thể hiện quá trình diễn biến chủ quan của nội tâm nhân vật là một thành tựu xuất
sắc của Truyện Kiều. Theo Phan Ngọc, Nguyễn Du đã dùng "lối phân tích tàn nhẫn" - học ở
Phật giáo - để đi sâu phân tích đời sống tâm lý của họ. Kết quả là các nhân vật của ông
"không nằm gọn trong bất kỳ khung đạo lý nào có sẩn" [98, tr.139], trở thành nơi tập trung
mọi mâu thuẫn, khiến cho mọi ý kiến bàn cãi trái ngược nhau về họ mãi không có điểm
dừng.
Tuy nhiên, có chỗ, theo chúng tôi, Phan Ngọc dường như đã nhầm giữa ngôn ngữ nhân
vật và ngôn ngữ tác giả. Chẳng hạn ông phân tích rất hay về tâm trạng nhân vật Mã Giám
Sinh lúc tính toán việc "nước trước bẻ hoa", nhưng lại không xem đó là ý nghĩ của nhân vật
họ Mã mà là "sự phân tích nội tâm do ngôn ngữ tác giả đảm nhiệm" [98, tr.113].
Dù có đôi điều cần lưu ý thêm như đã nêu, có thể nói, công trình của các giáo sư

Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Phan Ngọc đều có nhữlig khái quát và những phân tích, kiến
giải sâu sắc đối với ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, đặt cơ sở nền móng cho những
người nghiên cứu đi sau tiếp tục khai thác về ngôn ngữ đối thoại, độc thoại.
Ngoài ra, trong chuyên luận, trong bài viết của các tác giả nêu trên và của nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình, nhiều nhà vãn, nhà thơ có tên tuổi khác như Hoài Thanh, Lê Trí Viễn,
Xuân Diệu, v.v... có nhiều đoạn phân tích rất thành công về ngôn ngữ nhân vật để làm sáng
tỏ những giá trị khác của tác phẩm. Đáng chú ý có công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Lê Đình Kỵ (1992). ở mục "Nhân vật và tính cách", Lê Đình Kỵ coi độc thoại
nội tâm của Truyện Kiều không phải dùng để giải thích hay báo trước sự diễn biến của câu
chuyện mà là "sự lên tiếng của tâm tình", là "tâm hồn tự soi bóng" [74, tr. 228], "làm cho sự
thể hiện thấm nhuần cảm xúc", "qua đó vấn đề xã hội đặt ra trở thành sinh động và ám ảnh"
[74, tr. 231]. Bên cạnh đó, giáo sư đã có những đoạn phân tích hết sức đặc sắc lời nói nhân
vật khi làm rõ "con người của Truyện Kiều".

13


Đối với Truyện Kiều, một tác phẩm được nói đến nhiều, mà số bài viết về ngôn ngữ
nhân vật mới chỉ có chừng ấy thì đối với các tác phẩm khác của giai đoạn này, sự nghiên
cứu về ngôn ngữ nhân vật lại càng ít ỏi hơn. Chúng tôi chỉ gặp một bài của Đinh Thị Khang
viết về ''Ngôn ngữ nhân vật trong truyện Hoa Tiên". Một số nhận xét về chức năng của đối
thoại trong Hoa Tiên có phần trùng hợp với ý kiến của Đặng Thanh Lê đối với Truyện Kiều
nên chúng tôi không nhắc lại ỏ đây. Song, Đinh Thị Khang cũng đã có những phát hiện khá
thú vị: yếu tố quyết định tính chất và hình thức biểu đạt của ngôn ngữ đối thoại là nội dung
đối thoại và chức năng của nhân vật đối thoại. Bên cạnh đó, Đinh Thị Khang đã chú ý tới sự
phân bổ của ngôn ngữ đối thoại và chỉ ra: "ngôn ngữ đối thoại chỉ thực sự xuất hiện tập
trung vào cuộc gặp gỡ và cuộc tình" của hai nhân vật chính. Tác giả bài viết cũng đã đề cập
đến ngôn ngữ nhân vật đã góp phần cá thể hoa nhân vật như thế nào: Phương Châu chủ
động đến với tình yêu nên dùng những từ mang sắc thái chủ động; Dao Tiên thường nói
những điều hợp với đạo đức, lễ giáo... Tuy nhiên, ý kiến này theo chúng tôi là chưa thoả

đáng. Không phải vì Đinh Thị Khang nhận xét không tinh mà là vì đây là đặc điểm chung
của hầu hết các nhân vật chính diện trung tâm của truyện thơ Nôm bác học chứ không riêng
gì của Hoa Tiên. Và thực sự là, các nhân vật Truyện Hoa Tiên hầu như ngôn ngữ không thể
hiện rõ màu sắc cá tính. Vì vậy, theo chúng tôi, đây là ngôn ngữ của loại nhân vật hơn là
ngôn ngữ "cá thể hoá" nhân vật.
Như vậy, vấn đề ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ Nôm
bác học thế kỷ XVIII - XIX không phải là một "điểm trắng trong khoa học" mà là một vấn
đề mới được xem xét một cách tản mạn, cần được tìm hiểu sâu hơn, đầy đủ và có hệ thống
hơn. Thực hiện đề tài "Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học", chúng tôi cũng
nhằm mục đích ấy.

3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Một vấn đề khá hóc búa đặt ra đối với chúng tôi là: dùng tiêu chí nào để phân biệt giữa
truyện thơ Nôm bác học và truyện thơ Nôm bình dân! Đã có rất nhiều ý kiến xung quanh
vấn đề này [61, tr.23-49]. Có thể xem truyện thơ Nôm bác học là loại truyện thơ có cốt
truyện lấy từ truyện hoặc tiểu thuyết Trung Quốc, có tên tác giả, ngôn ngữ có tính chất uyên
bác, được gọt giũa, trau chuốt hơn, còn truyện thơ Nôm bình dân có cốt truyện phần lớn lấy
từ truyện cổ tích, truyện dân gian Việt Nam, không có tên tác giả, ngôn ngữ mộc mạc, có
tính chất kể chuyện..? Nếu dựa vào những tiêu chí đó thì sẽ lý giải như thế nào đây về

14


những truyện thơ Nôm có tính chất tự truyện như Sơ kính tân trang, Lục Vân Tiên hay về
Phan Trần, Nhị độ mai - những truyện Nôm khuyết danh mà cốt truyện dựa theo truyện
Tàu, văn phong vừa có chất bác học, vừa đậm chất dân dã? Cũng thật khó phân loại Quan
Âm Thị Kính lấy đề tài từ tích Phật hay Bích câu kỳ ngộ lấy tích truyện dân gian với những
chi tiết dã sử nhưhg nhiều câu thơ rất mực cao sang. Và chắc chắn một điều là người sáng
tác ban đầu của các truyện thơ Nôm khuyết danh phải là các nhà nho, thậm chí là những nhà
nho hay chữ. Không có trình độ học vấn, không thể kiến thiết nên những tòa lâu đài bằng

văn chương như thế được. Như vậy, sự khoanh vùng văn chương bác học nói chung, truyện
thơ Nôm bác học nói liêng, ở đây, chỉ có tính chất tương đối.
Thành tựu của truyện thơ Nôm bác học chủ yếu tập trung ở giai đoạn thế kỷ XVIII XIX nên chúng tôi cũng tập trung nghiên cứu ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của các nhân
vật trong những tác phẩm của giai đoạn văn học này. Do hạn chế về trình độ, thời gian và tư
liệu, chúng tôi chỉ chọn một số tác phẩm tiêu biểu như: Truyện Song Tinh (ST), Truyện Kiều
(TK), Sơ kính tân trang (SKTT), Truyện Hoa tiên (HT), Truyện Nhị độ mai (NĐM). Nguyễn
Đình Chiểu có nhiều truyện thơ, nhưng chúng tôi chỉ chọn Truyện Lục Vân Tiên (LVT) để
khảo sát vì nó chẳng những là tác phẩm truyện thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ đất Ba Tri mà
còn vì nó có đề tài phù hợp với cái mạch chung của các truyện thơ Nôm giai đoạn này.
Chúng tôi không phủ nhận tính chất bình dân của Lục Vân Tiên, nhưng theo chúng tôi quan
niệm thì đây là một truyện thơ Nôm bác học vì nó có tên tác giả (hai tiêu chí chủ yếu lâu
nay vẫn dùng để phân biệt truyện Nôm bác học với truyện Nôm bình dân là: tác giả và hình
thức nghệ thuật [61, tr.43]). linh chất dân gian của tác phẩm là tính chất dân gian của một
truyện thơ Nôm bác học. Dù được lưu truyền ương dân gian, được truyền tụng, hát xẩm, nói
thơ... nhưng không phải vì thế mà quyền sở hữu tác giả của Nguyễn Đình Chiểu cũng như
dấu ấn con người của Nguyễn Đình Chiểu bị mất đi. Ta có thể thấy dấu ấn ấy qua ngôn ngữ
đầy cá tính của các nhân vật Hớn Minh, thầy pháp... Bản thân nội dung nghệ thuật thi pháp
của Lục Vân Tiên cũng phản ánh được một số đặc điểm chung của thi pháp truyện thơ Nôm
bác học. Và, vì tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm có tính chất bản lề, khép lại
một giai đoạn của truyện thơ Nôm trung đại, manh nha những yếu tố cận đại, mở đường cho
tiểu thuyết hiện đại ra đồi, nên chúng tôi xem đây là tác phẩm để tham khảo thêm, chứ
không coi là đối tượng khảo sát chính.
Do yêu cầu của tính chính xác, khoa học trong nghiến cứu, chúng tôi thấy trước hết
cần “Xác định ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ Nôm bác
15


học”. Hơn nữa, xác định ngôn ngữ nhân vật còn góp phần giúp chúng ta tìm hiểu về phong
cách, thi pháp của các nhà thơ. Vậy nên, chúng tôi có thêm một chương nói về vấn đề này.
Trong các truyện thơ Nom bác học được chọn khảo sát, Truyện Kiều là tác phẩm có

ngôn ngữ nhân vật thành công hơn cả, vì vậy, chúng tôi sẽ tập trung phân tích chủ yếu ngôn
ngữ đối thoại và độc thoại của tác phẩm này.
Ngồn ngữ nhân vật có ý nghĩa đối với nhiều phương diện của tác phẩm, nhưng nổi bật
nhất vẫn là vai trò quan trọng của nó trong việc xây dựng tính cách nhân vật. Do đó, khi nói
về vai trò của ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, chúng tôi chủ yếu xem xét nó ở phương diện
nêu trên. Mục tiêu của chúng tôi không phải là phân tích tính cách nhân vật, mà qua một vài
gương mặt của Truyện Kiều và một số truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu, tìm hiểu ngôn ngữ
nhân vật đã có đóng góp gì trong việc xây dựng tính cách, qua đó, làm rõ một số nét đặc
sắc, những đóng góp của đối thoại, độc thoại trong thành tựu chung của tác phẩm.
Một vài vấn đề khác, chẳng hạn: ngôn ngữ đối thoại và độc thoại tạo tình huống kịch,
chúng tôi có điểm qua trong luận án, nhưng không viết thành chương mục riêng, vì đặc
điểm này không phổ biến trong các tác phẩm.

4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành văn
học và ngôn ngữ, chủ yếu là thống kê, phân tích và so sánh. Cụ thể như sau:
_ Dùng phương pháp phân tích cấu trúc câu kết hợp với phân tích nội dung và phân
tích một số nét tiêu biểu trong phong cách tác giả để xác định câu đối thoại, độc thoại trong
các tác phẩm truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu trên cơ sỏ tham khảo những văn bản đã có.
_ Phân tích tính chất, vai trò, chức năng ngôn ngữ nhân vật dựa trên những dữ liệu
thống kê ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của từng tác phẩm.
_ Đối chiếu, so sánh ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật Truyện Kiều với ngôn
ngữ nhân vật của Kim Vân Kiều truyện. Đối chiếu ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của các
truyện thơ Nôm bác học cùng thời để thấy được thành tựu, sự sáng tạo và những đóng góp
của các tác giả trên phương diện này.

16


5.NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Trong khả năng có hạn của mình, tác giả luận án cố gắng xác định lại đường biên một
số câu đối thoại và độc thoại của nhân vật truyện thơ Nôm bác học; bổ sung thêm một số
câu mới mà các nhà làm văn bản chưa xác định; định danh cho một số dạng thức đối thoại
và độc thoại của tác phẩm văn học mà các nhà ngôn ngữ chưa đề cập đến.
Trên cơ sở các bài nghiên cứu, phê bình của những người đi trước, chúng tôi hệ thống
lại các vấn đề cơ bản của đối thoại và độc thoại như vai trò, đặc điểm của ngôn ngữ nhân
vật; và phân tích tính cách nhân vật dưới góc độ ngôn ngữ đối thoại và độc thoại như một sự
minh họa về những đóng góp của ngôn ngữ nhân vật trong việc làm nên thành công của các
tác phẩm và của giai đoạn văn học.

6.CẤU TRÚC LUẬN ÁN
PHẦN MỞ ĐẦU NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Xác định ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ
Nôm bác học.
Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học.
Chương 3: Vai trò của ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học.
KẾT LUẬN

NỘI DUNG CHÍNH

CHƯƠNG 1: XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC
THOẠI CỦA NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC
Lời văn của một tác phẩm văn học thường được cấu tạo bởi hai thành phần: ngôn ngữ
nhân vật và ngôn ngữ tác giả.
Ngôn ngữ nhân vật tồn tại dưới hai hình thức: đối thoại và độc thoại.
Với yếu cầu của đề tài: tìm hiểu về "Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác
học", việc đầu tiên chúng tôi quan tâm là: xác định trong văn bản Truyện thơ Nôm bác học,

17



đâu là ngôn ngữ độc thoại, đâu là ngôn ngữ đối thoại của nhân vật? Xác định đối tượng
nghiên cứu càng chính xác thì càng có cơ sở để tìm hiểu, đánh giá đối tượng một cách đúng
đắn, khoa học.
Công việc này không đơn giản. Bởi Truyện thơ Nôm bác học được các nhà thơ viết ra
bằng chữ Nôm. Sau đó, được các học giả sao chép, truyền tụng trước hết cũng bằng chữ
Nôm.
Cũng như các văn bản chữ Hán cổ, các văn bản chữ Nôm không có hệ thống dấu câu
(chấm, phẩy, hai chấm, ba chấm, ngoặc đơn, ngoặc kép, v.v...) như hệ thống ký hiệu chữ
viết hiện đại. Chỉ đến khi Truyện thơ Nôm bác học được phiên âm ra chữ quốc ngữ, những
người làm văn bản, tùy cách hiểu, cách cảm của mình, mà sử dụng dấu câu định ra các đoạn
dừng, ngắt khác nhau. Bởi vậy, cách sử dụng dấu câu để xác định phạm vi ranh giới lời độc
thoại, đối thoại của nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học cũng thiếu sự thống nhất:
dường như có bao nhiêu người nghiên cứu văn bản Truyện thơ Nôm bác học là có bấy nhiêu
cách xác định ngôn ngữ nhân vật.
Tuy nhiên, việc xác định lời đối thoại trong các văn bản, cơ bản vẫn là nhất trí. Sự
khác biệt chỉ tập trung ở khu vực xác định ngôn ngữ độc thoại. Hầu hết văn bản các truyện
thơ Nôm bác học cho đến nay đều chưa được chú ý thích đáng về vấn đề này. Đây là một
vấn đề khá phức tạp: trong Truyện thơ Nôm bác học, đặc biệt là Truyện Kiều có rất nhiều
đoạn sử dụng ngôn ngữ "pha" giữa lời độc thoại thể hiện ý thức của nhân vật với sự miêu tả,
phân tích thế giới bên trong nhân vật của tác giả.
Như vậy, việc xác định ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật trong Truyện thơ
Nôm bác học liên quan chặt chẽ tới việc dùng dấu câu và phân đoạn tác phẩm. về mặt này,
các văn bản đều có nhữỉig điểm chưa hợp lý. Song, nó không thuộc phạm vi đề tài nên
chúng tôi chỉ đề cập đến chỗ nào liên quan đến câu độc thoại, đối thoại mà thôi.
Để xác định được chính xác ngôn ngữ nhân vật, chúng tôi dựa vào ý kiến của các nhà
ngôn ngữ để đưa ra những khái niệm về đối thoại và độc thoại, làm cơ sở cho việc xem xét.

1.1.KHÁI NIỆM ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI
Xoay quanh ngôn ngữ nhân vật có khá nhiều tên gọi và khái niệm: đối thoại, hội thoại,

đàm thoại, bàng thoại, đối bạch, độc bạch, độc thoại, độc thoại nội tâm, tự thoại, lời trực
tiếp, lời nội tâm... Trong hội thoại, một số nhà ngôn ngữ lại chia nhỏ hơn: song thoại, tam

18


thoại, đa thoại... Nhưng, tất cả, quy lại, có thể gói trong hai khái niệm chính: đối thoại (hay
hội thoại) và độc thoại.
Đối thoại và độc thoại gần đây đã trở thành "điểm nóng", trở thành vấn đề trung tâm
của ngữ dụng học, tâm lý học, triết học về ngôn ngữ v.v...
Từ khi ngữ dụng học được các nhà ngôn ngữ Việt Nam quan tâm, vấn đề lý thuyết hội
thoại cũng dược họ lưu tâm tới nhiều hơn trước. Đáng chú ý có "Đại cương ngôn ngữ học",
tập 2 (1993) của Đỗ Hữu Châu và "Ngữ dụng học" tập I (1998) của Nguyễn Đức Dân.
Đỗ Hữu Châu có một chương nói về "Lý thuyết hội thoại" (chương IV). Ông xem "hội
thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ."
[14, tr.276]. Tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể về đối thoại và độc thoại, nhưng khi đề
cập đến "các vận động hội thoại", ông cho rằng "vận động giao tiếp thông thường bao gồm
ba vận động: sự trao lời, sự trao đáp và sự tương tác" [14, tr.277]. Giáo sư xem "sự trao lời
(allocutíon) là vận động người nói A nói ra và hướng lời nói của mình về phía người nhận
B. Bình thường, A khác người nhận B, trừ trường hợp độc thoại (monologique). Tuy vậy,
ngay cả trong trường hợp độc thoại, ở người nói cũng có sự phân đôi nhân cách: anh ta vừa
là A vừa là B, và khi hoạt động theo nhân cách A hay nhân cách B, điều này diễn ra đồng
thời, anh ta vẫn là hai nhân vật khác nhau, tuân theo hai loại quy tắc hoạt động khác nhau
(...). Tình thế giao tiếp trao lời ngầm ẩn rằng người nhận B tất yếu phải có mặt, "đi vào
trong diễn ngôn của A".
Ở phần "sự trao đáp" (échange), giáo SƯ Đỗ Hữu Châu khẳng định: "diễn ngôn sẽ trở
thành hội thoại khi người nghe B đáp lời", "sự đáp lời là một nhu cầu bức thiết của sự nói
năng" [14, tr.278]. Ông cho rằng "có những diễn ngôn loại trừ sự đáp lời như diễn ngôn viết
(nhưng không phải là hình thức thư tín) hoặc diễn ngôn miệng (tuyên án, truyền thanh,
truyền hình...). Nhiùig, như đã nói, đây là sự loại trừ sự đáp lời trực tiếp, tức thời. Trong

chiều sâu nhữiig diễn ngôn trên vẫn cần đến sự hồi đáp nào đó hoặc ở một, hoặc ở những
người nghe.
Nguyễn Đức Dân trong "Ngữ dụng học" cũng có một chương nói về hội thoại (chương
III), nhưng quan niệm về đối thoại và độc thoại của ông có phần khác với Đỗ Hữu Châu.
Ông cho rằng "trong giao tiếp có giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Trong giao tiếp
một chiều, chỉ có một bên nói còn bên kia tiếp nhận. Hình thức này gặp trong những mệnh
lệnh quân sự, trong những diễn văn, trong lời của xướng ngôn viên truyền hình hoặc truyền

19


thanh... đó là độc thoại. Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên kia nghe và phản hồi trở
lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở
thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con
người là hội thoại." [21, tr.76].
Như vậy, cả Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Đức Dân đều rất xem trọng vai trò của hội
thoại. Tuy nhiên, cái mà Nguyễn Đức Dân gọi là "giao tiếp một chiều", ví dụ lời xướng
ngôn viên truyền hình, truyền thanh..., và ông quan niệm đó là độc thoại thì Đỗ Hữu Châu
lại xem đó là hội thoại "loại trừ sự đáp lời trực tiếp, tức thời" nhưng "trong chiều sâu những
diễn ngôn ữên vẫn cần đến sự hồi đáp nào đó" [14, tr.278].
Những quan niệm khác nhau về đối thoại và độc thoại như trên cũng được thể hiện
trong các từ điển.
Một số từ điển không có định nghĩa về độc thoại, chỉ có khái niệm về đối thoại - mặc
dù "độc thoại" là một từ được dùng khá phổ biến trong văn chương, nghệ thuật và cũng
không xa lạ đối với đời sống hàng ngày, như "Từ điển tiếng Việt" của Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội (1997) do Văn Tân chủ biên, hoặc "Từ điển tiếng Việt - tường giải và liên tưởng
của Nguyễn Văn Đạm (1999).
Lại có những từ điển mà khái niệm độc thoại được đưa ra rất chung chung và có thể
gây nhiều tranh cãi: Độc thoại là "Nói một mình, trái với đối thoại" -như "Từ điển tiếng
Việt" của Viện Ngôn ngữ học (1998) do Hoàng Phê chủ biên [161, tr.326].

Có khái niệm rõ ràng hơn là cuốn "Đại từ điển tiếng Việt" của Bộ Giáo dục và đào tạo,
Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam (1999) do Nguyễn Như Ý chủ biên: Độc thoại là:
Nói một mình, tự mình nói với mình mà không có người đối thoại; Độc thoại nội tâm: Lời
nhân vật trong tác phẩm tự nói với mình về bản thân mình [10, tr.656]; Đối thoại: 1. Nói
chuyện qua lại với nhau. 2. Bàn bạc, thương lượng giữa hai hoặc các bên có vấn đề tranh
chấp [10, tr. 658].
Ngoài ra, "Từ điển Hán - Việt - Hán ngữ cổ đại và hiện đại" của Trần Văn Chánh
(1999) còn có những khái niệm cụ thể hơn, xem độc bạch là nói một mình trên sân khấu
[151, tr.1326], đối bạch là đối thoại giữa các vai ương tuồng, kịch và điện ảnh [151, tr.612].
Các khái niệm trên hoặc là khái quát cho ngôn ngữ hội thoại nói chung, hoặc là chuyên
biệt cho một dạng của ngôn ngữ hội thoại (sân khấu, điện ảnh).

20


Khái niệm ngôn ngữ đối thoại và độc thoại mà chúng tôi muốn nêu ra ở đây là khái
niệm ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật văn học.
Trong Lý luận văn học Tập 2 (1987), Trần Đình Sử đã nói khá sâu về "lời trực tiếp"
của nhân vật nhưng không đưa ra một khái niệm cụ thể nào..
"Từ điển thuật ngữ văn học" của Nhà xuất bản Giáo dục do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1992) định nghĩa:
"Lời đối thoại (đối đáp) là lời trong cuộc giao tiếp song phương mà lời này xuất hiện
như là phản ứng đáp lại lời nói trước. Lời đối thoại bộc lộ thuận lợi nhất khi hai bên đối
thoại có sự tiếp xúc phi quan phương và không công khai, không bị câu thúc, trong không
khí bình đẳng về mặt đạo đức của người đối thoại. Lời đối thoại thường kèm theo các động
tác cử chỉ biểu cảm và tạo nên bởi phát ngôn của nhiều người.
Lời độc thoại không đòi hỏi sự đáp lại, độc lập với phản ứng của người tiếp nhận và
được thể hiện thoải mái cả trong hình thức nói lẫn viết. Bề ngoài, lời độc thoại không bị ai
ngắt quãng, nhưtig cũng có khi bị ngắt bởi "người đối thoại" tưởng tượng. Lời nói này
thường xuất hiện trong tình trạng con người cô đơn và bị biệt lập về mặt tâm lý, hoặc giao

tiếp với thần linh, người chết, mang tính ước lệ rõ rệt. Văn nhật kí, hồi lá, văn chính luận
đều có tính chất độc thoại. Hoạt động giao tiếp tưởng tượng này sẽ chuyển hoá thành độc
thoại nội tâm.
Trong tác phẩm văn học, hai dạng lời này có thể thâm nhập vào nhau như trong kịch.
Lời độc thoại trần thuật có thể bao hàm đối thoại.
Trong khoa học hiện đại, khi đối thoại được xem là bản chất bao trùm quan trọng nhất
của hoạt động lời nói thì cả đối thoại và độc thoại đều là các dạng thể hiện khác nhau của
đối thoại ỹ thức trong bối cảnh đời sống." [152, tr.128,129].
Một định nghĩa giải thích khá kỹ lưỡng với đầy thuật ngữ, đôi khi hơi khó hiểu, nhưng
nó phản ánh thêm được một vấn đề: đường biên giữa đối thoại và độc thoại hết sức nhạt
nhòa, mong manh. So với các định nghĩa đã nêu trên, một lần nữa nó cho thấy quan niệm về
đối thoại và độc thoại của các nhà ngôn ngữ cũng như các nhà nghiên cứu văn học chưa
phải đã thống nhất.
Cũng trong từ điển này, thuật ngữ "độc thoại nội tâm", một khái niệm khá đặc trưng
của văn học viết, đã được nêu ra một cách chi tiết:

21


Độc thoại nội tâm là "lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp
quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động của cảm xúc, suy nghĩ của con người trong
dòng chảy trực tiếp của nó.
Hiện tượng đ.th.n.t. đã thấy xuất hiện trong kịch cổ đại và nhất là kịch sếcxpia. Trong
văn tự sự cận đại, đ.th.n.t. vẫn còn mang tính chất sân khấu, một sự "tự bộc lộ" "chân
thành", "khách quan". Bắt đầu từ sự sáng tác của L.Stớcnơ, đ.th.n.t. có chức năng mới:
truyền đạt hoạt động nội tâm. Trong tiểu thuyết sử thi của L.Tônxtôi, đ.th.n.t. được truyền
đạt gần như không có sự can thiệp của tác giả, phản ánh được cả ý thức lẫn vô thức của
nhân vật. Dòng ý thức là một sự biểu hiện đặc biệt, cực đoan của đ.th.n.t. trong tiểu thuyết
thế kỷ XX." [152, tr.87,88].
Trong "150 thuật ngữ văn học" do Lại Nguyên Ân biên soạn năm 1999, khái niệm

"độc thoại nội tâm" nhắc lại ý kiến trên nhưng được minh họa bằng các dẫn chứng cụ thể,
kỹ lưỡng hơn [3, tr.126 - 133].
Độc thoại được nhiều người hiểu là nói một mình. Nhưng nói một mình, theo chúng
tôi, thực ra, có hai loại khác nhau: loại nói thành lời và loại tư duy thầm (nghĩ thầm). Khi
nói thành lời, lại cũng có hai dạng: một loại là nói với chính mình. Còn loại kia, cũng là nói
một mình, nhưng là để nói với người khác. Ở đây, người nghe không hồi đáp trực tiếp
(trong một số trường hợp của phát thanh viên đài truyền thanh, truyền hình, đọc diễn văn
mít-tinh...), hoặc người nghe không hiện hữu (trong trường hợp người nói cầu khấn Thần,
Phật, Đất, Trời...). Mà, ngôn ngữ mình nói với mình và ngôn ngữ mình nói với người khác
là hai ngôn ngữ có trường từ vựng, phong cách và mục đích khác nhau. Vì nói một mình và
nói với chính mình không phải lúc nào cũng là một nên theo thiển ý của chúng tôi thì độc
thoại là nói với chính mình.
Chúng tôi dựa vào quan niệm của Đỗ Hữu Châu [14] và của Trần Đình Sử [115, tr.143
- 150] khi nêu ra khái niệm này.
Đối thoại là hoạt động giao tiếp căn bản sử đụng hình thức nói năng giữa người này
với người khác. Nó thường gồm hai yếu tố đặc trưng: trao lời và đáp lời (trong một số
trường hợp, yếu tố đáp lời có thể vắng mặt, hoặc được thể hiện bằng một sự im lặng). Lời
nói có sự tương tác qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức, tình cảm,
hành động, cách ứng xử của từng người qua quá trình hội thoại. Từ đó, có thể làm thay đổi
con người, thay đổi sự kiện...

22


Có sự tác động này là bởi giao tiếp luôn luôn có mục đích: để hình thành, củng cố hay
phá vỡ quan hệ giữa người này với người kia, để giải trí hoặc để đưa đến sự biến đổi về
nhận thức, tình cảm, hành động... Giao tiếp được xem là có hiệu quả khi đối thoại đạt được
mục đích.
Tùy năng lực sử dụng ngôn ngữ (ngữ năng) của mỗi người và điều kiện giao tiếp cụ
thể mà sự tương tác của ngôn ngữ đối thoại có cường độ mạnh-yếu và có phạm vi ảnh

hưởng về không gian (rộng-hẹp), thời gian (ngắn-dài), số lượng đối tượng (ít-nhiều)... khác
nhau. Nhiều khi, lời nói có tác động khôn lường.
Độc thoại là một dạng đặc biệt của ngôn ngữ nhân vật, là hình thức nói với chính
mình. Độc thoại có dạng nói thành lời gọi là nói một mình, nhưng phổ biến hơn là dạng ý
nghĩ - tư duy bằng ngôn ngữ thầm (còn gọi là độc thoại nội tâm).
Độc thoại nội tâm thể hiện trực tiếp quá tình tâm lý và những cảm xúc, suy nghĩ của
nhân vật. Ở đây, những biểu tượng âm thanh không được hiện thực họa, không trao đổi với
ai nhưng trong bộ óc con người vẫn diễn ra những quá trình giống như quá trình phát ngôn.
Trong trường hợp này, tuy không có người nghe, nhưng đối tượng nghe vẫn hiện hữu.
Ngôn ngữ thầm không bộc lộ ra nên người khác không thể biết hoặc khó lòng biết
được. Nhưng nó tác động tới chính bản thân chủ thể dòng độc thoại, nhiều khi trở thành
động lực có tính chất quyết định đối với cử chỉ, thái độ, lời nói, việc làm... biểu hiện ra bên
ngoài. Do đó, nó cổ một nội lực rất lớn, đồng thời cũng là một bí ẩn kỳ diệu của con người.
Đối thoại và độc thoại là những hoạt động thể hiện hai chức năng cơ bản của ngôn
ngữ: giao tiếp và tư duy. Cùng một chất liệu ngôn ngữ cấu tạo nên, cùng vận hành dưới sự
chỉ đạo của não bộ của cùng một chủ thể, đối thoại và độc thoại có mối quan hệ hết sức chặt
chẽ.
Mối quan hệ này thường biểu hiện ra dưới nhiều hình thức thiên hình, vạn trạng,
phong phú, đa dạng vô cùng do mối tương quan của lời nói ngoài và ý nghĩ thầm kín bên
trong tạo nên. Nó do nhiều yếu tố chi phối: tính cách người nói, hoàn cảnh xung quanh, tình
cảm và mối quan hệ đối với đối tượng người nghe, người được nói tới... Chẳng hạn, kẻ thâm
trầm khác người nông cạn, lúc nguy cấp khác lúc bình thường, nói với người thân tín khác
nói với kẻ thù...

23


Có khi, suy nghĩ và lời nối thống nhất làm một: nhân vật nghĩ sao nói vậy. Trong
trường hợp này, lời nói là sự phản ánh tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, tính cách nhân vật. Nó
chuyển tải một lượng thông tin lớn về con người trong tác phẩm. Có lúc, suy nghĩ và lời nói

không phù hợp với nhau: nhân vật nghĩ nhiều nói ít, nghĩ ít nói nhiều, lời nói mâu thuẫn với
ý nghĩ, lời nói được dùng để che đậy ý nghĩ... Và như vậy, muốn hiểu được nhân vật, không
thể chỉ căn cứ vào ngôn ngữ bên ngoài mà còn phải đối chiếu với thái độ, hành động, phải
thám hiểm thế giới tinh thần bên ương, phải suy luận cả những vấn đề đằng sau ngôn ngữ.
Dựa vào khái niệm trên, chúng tôi tiến hành xác định lại ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại của nhân vật trong một số truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu.

1.2.VẤN ĐỀ CHỌN VĂN BẢN
Trong quá trình tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học, về mặt văn bản,
chúng tôi đã xem xét nhiều bản chữ quốc ngữ của các học giả xuất bản trong nhiều thời kỳ
khác nhau.
Có những tác phẩm, trong mấy trăm năm qua, văn bản được in đi, in lại không chỉ vài
chục mà tới gần cả trăm lần, như Truyện Kiều, một tác phẩm văn học cổ điển ưu tú, đặc sắc
được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thạch Giang trong Nguyễn
Du - tác phẩm và lịch sử văn bản xuất bản năm 2000, cho biết: "đã sưu tầm được ngót 50
bản Kiều Nôm và chữ quốc ngữ... không kể các bản chép tay"[46, tr.43]. Những năm gần
đây, do cơ chế mở của thị trường, Truyện Kiều được in lại với một số lượng khổng lồ hơn
bao giờ hết...Lại có những tác phẩm, văn bản được in rất hạn chế, và sau mỗi lần sao chép,
lại được điều chỉnh theo chủ kiến của người sưu tầm, hiệu đính. Song, do yêu cầu của đề tài,
người viết luận án này chỉ chọn ra các văn bản quốc ngữ phổ biến nhất đã được một số nhà
nghiên cứu dày công hiệu đính, chú thích để làm căn cứ khảo sát.
1.2.1.Vấn đề chọn văn bản đối với Truyện Kiều
Đối với Truyện Kiều, chúng tôi chọn ba văn bản chính làm cơ sở để đối chiếu, so sánh
khi xác định câu đối thoại, độc thoại của nhân vật. Đó là:
1.Truyện Thúy Kiều (Đoạn trường tân thanh) - Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo In lần thứ ba -Vĩnh Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1934, (gọi tắt là bản BK-TTK).
2.Truyện Kiều- Hà Huy Giáp giới thiệu - Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích
- Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972, (gọi tắt là bản NTG).

24



3.Truyện Kiều - Đào Duy Anh khảo chứng, hiệu đính và chú giải - Nxb. Văn học, Hà
Nội, 1984 (gọi tắt là bản ĐDA).
Sau khi đối chiếu kỹ ba văn bản trên, chúng tôi nhận thấy văn bản do Đào Duy Anh
khảo chứng, hiệu đính, chú giải với sự góp ý, hiệu đính của một số nhà văn, nhà thơ và sự
chỉnh sửa của Nhà xuất bản Văn học là bản có nhiều điểm ưu trội hơn cả trong việc xác định
ngôn ngữ nhân vật.
Thứ nhất, cách trình bày lời đối thoại và lời độc thoại trong bản ĐDA có sự phân định
rõ ràng, hợp lý và khoa học hơn các văn bản khác: mở đầu lời đối thoại bao giờ cũng có
gạch ngang ( _ ) trước khi dẫn ngôn bản, giống như cách trình bày hội thoại ương phần lớn
văn bản các tác phẩm văn học hiện đại. Ngoài ra, người làm văn bản còn để dấu mở ngoặc
kép chạy suốt chiều dài lời nói nhân vật, giúp ta dễ phân biệt được lời nói bên ngoài và lời
nói bên trong nhân vật:
355.

Rằng: _ "Trăm năm cũng từ đây,
"Của tin gọi một chút này làm ghi."

Còn đối với lời độc thoại, tác giả chỉ dùng một lần dấu đóng, mở ngoặc kép làm ký
hiệu phong tỏa nội dung một diễn ngôn.
Bản BK-TTK và bản NTG cũng như nhiều văn bản khác không có dấu hiệu phân biệt
này: ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại của nhân vật đều để trong một lần đóng, mở
ngoặc kép, hình thức hoàn toàn chẳng khác gì nhau. Thậm chí, đôi khi chính tác giả văn bản
có sự nhầm lẫn giữa độc thoại và đối thoại, nhưng do cách trình bày giống nhau, nên khó
phát hiện ra. Đoạn lời nói Hoạn Thư (từ câu 1609 đến 1620): "Nghĩ rằng: "Ngứa ghẻ hờn
ghen... Sao cho để một trò cười về sau" là một trường hợp như vậy (chúng tôi sẽ nói cụ thể
ở phần tiếp theo).
Thứ hai, trong bản ĐDA, việc xác định đối thoại, độc thoại chặt chẽ, kỹ lưỡng, chính
xác, tính tường hơn bản NTG và bản BK-TTK. Chẳng hạn các đoạn:
-Thúy Kiều trước lầu Ngưng Bích (câu 1039-1046).

- Thúy Kiều nhớ nhà, tự thương mình (câu 1253-1264)
- Kiều nghĩ về thân phận mình trước nanh vuốt của Hoạn Thư (câu 1873 - 1882).

25


×