Tải bản đầy đủ (.pdf) (242 trang)

Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng việt (so sánh với thành ngữ tiếng anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.83 KB, 242 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
--------------

NGUYỄN THỊ BẢO

NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT TRONG
THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
(So sánh với thành ngữ tiếng Anh)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 5 . 12 . 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HOÀNG DŨNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2003

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC ....................................................................................... 2
MỞ ĐẦU ......................................................................................... 4
0.1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 4
0.2. Lòch sử vấn đề nghiên cứu.................................................................... 4
0.3. Đối tượng và phạm vi của luận văn ..................................................... 7
0.4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 8
0.5. Tư liệu nghiên cứu................................................................................. 8
0.6. Đóng góp của luận văn ......................................................................... 9
0.7. Bố cục luận văn ................................................................................... 10



CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THÀNH NGỮ CÓ THÀNH
TỐ CHỈ ĐỘNG VẬT TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
....................................................................................................... 11
1.1.

Khái niệm về thành ngữ .................................................................. 11

1.2. Thành tố chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt ........................... 16
1.3. Thành tố chỉ động vật được dùng trong thành ngữ tiếng Anh ........ 20
1.4. So sánh đối chiếu thành tố chỉ động vật trong thành ngữ Việt-Anh
...................................................................................................................... 21

CHƯƠNG 2 : NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT ....................................... 32
2.1. Khái quát về ngữ nghóa - văn hoá của từ .......................................... 32
2.2. Ngữ nghóa văn hoá của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ ........ 35
2.3. Ngữ nghóa - văn hoá các từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng
Việt và tiếng Anh ........................................................................................ 39
2


2.4. Ngữ nghóa - văn hoá của từ ngữ chỉ bộ phận động vật trong thành
ngữ tiếng Việt và tiếng Anh ....................................................................... 60
2.5. Quan hệ giữa các thành tố chỉ động vật trong thành ngữ ............... 72
2.6. Thành ngữ so sánh có thành tố chỉ động vật trong tiếng Việt ........ 81

KẾT LUẬN................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 92


3


MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
Mỗi ngôn ngữ, thông qua ngôn từ có những cấu trúc tạo nghóa khác
nhau. Những cấu trúc này thể hiện tư duy văn hoá dân tộc, tâm lý, trí thông
minh và sự tài hoa của người bản ngữ. Thành ngữ là một trong những cấu trúc
tạo nghóa ấy. Thành ngữ không chỉ có tác dụng làm cho lời văn hay, hình
tượng đẹp mà còn có tác dụng diễn tả ý tưởng một cách sâu sắc, tế nhò, hàm
súc. Đặc biệt là thành ngữ có thành tố chỉ động vật.

0.2. Lòch sử vấn đề nghiên cứu
Do vò trí quan trọng trong kho từ vựng của một ngôn ngữ, thành ngữ đã
thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu. Thành ngữ không chỉ là đối
tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học mà còn là đối tượng nghiên cứu của các
ngành khoa học xã hội và nhân văn khác.
Việc sử dụng thành tố chỉ động vật trong các kết cấu thành ngữ thể
hiện nét độc đáo của nhân dân lao động, phản ánh tâm lý - văn hoá một dân
tộc, góp phần tạo nên tính dò biệt trong cách diễn đạt bằng ngôn từ, trong cách
nhìn, cách nghó của mỗi dân tộc đối với hiện thực khách quan. Cùng chỉ một
khái niệm, một hiện tượng, một trạng thái tình cảm nhưng mỗi dân tộc sử
dụng những yếu tố động vật khác nhau để diễn đạt. Những yếu tố chỉ động
vật này thể hiện nét ngữ nghóa - văn hoá của từng dân tộc và thường được gọi
là thành tố văn hoá. Thí dụ, để chỉ chuyện ăn nhiều, người Việt Nam dùng
hình ảnh con cọp, con trâu, con rồng (ăn như hùm đổ đó, ăn như trâu, ăn như
rồng cuốn…), người Anh lại dùng hình ảnh con ngựa (eat like a horse). Còn khi
chỉ chuyện ăn ít, người Anh dùng hình ảnh con chim (eat like a bird), người

4



Việt lại dùng hình ảnh con mèo (ăn như mèo). Người Việt Nam dùng hình ảnh
con trâu để chỉ tinh thần làm việc không biết mệt mỏi (hùng hục như trâu
lăn), còn người Anh lại mượn hình ảnh con ngựa (work like a horse) v.v..
Ở Việt Nam, thành ngữ tiếng Việt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan
tâm và đã có rất nhiều công trình có giá trò về thành ngữ. Chẳng hạn Ranh
giới giữa thành ngữ và tục ngữ (Nguyễn Văn Mệnh, 1972) [59]; Về bản chất
của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt (Hoàng Văn Hành, 1976)[19]; Thành
ngữ trong tiếng Việt (Hoàng Văn Hành, 1987) [17]; Biến thể của thành ngữ,
tục ngữ (Vũ Quang Hào, 1993) [111]; Phương pháp trường và việc nghiên cứu
thành ngữ Anh – Việt (Phan Văn Quế, 1994) [87]; Đặc trưng văn hóa dân tộc
nhìn từ thành ngữ, tục ngữ (Nguyễn Xuân Hòa, 1994) [63]; Đặc điểm hình thái
và ngữ nghóa của thành ngữ so sánh tiếng Việt (so sánh với thành ngữ so sánh
tiếng Anh) (Lâm Bá Só, 2002) [27]; So sánh cấu trúc – chức năng của thành
ngữ và tục ngữ tiếng Việt (Hoàng Diệu Minh, 2002) [13].
Riêng về mảng thành ngữ có thành tố động vật trong tiếng Việt, Trònh
Cẩm Lan (1995) khi nghiên cứu Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghóa và những giá
trò biểu trưng của thành ngữ tiếng Việt trên cứ liệu thành ngữ có thành tố cấu
tạo là tên gọi động vật [102] có đề cập đến thành ngữ động vật tiếng Việt
nhưng chưa đi vào miêu tả cụ thể các nghóa khác nhau của mỗi từ ngữ chỉ
động vật trong thành ngữ. Nguyễn Thuý Khanh trong Đặc điểm trường từ vựng
- ngữ nghóa tên gọi động vật (trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga)
(luận án phó tiến só, 1996), đã nghiên cứu khá sâu ngữ nghóa tên gọi các động
vật trong tiếng Việt và có đề cập một phần “ý nghóa biểu trưng của các thành
ngữ so sánh có tên gọi động vật” [57].
Ngoài ra, có một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành
như:
5



 Một vài nhận xét về thành ngữ so sánh có tên gọi động vật tiếng Việt
(Nguyễn Thúy Khanh, Ngôn ngữ, số 3, 1994).
 Các con vật và một số đặc trưng của chúng được cảm nhận từ góc độ dân
gian và khai thác để đưa vào kho tàng thành ngữ tiếng Việt (Phan Văn Quế,
Ngôn ngữ, số 4, 1995).
 Chú chuột trong kho thành ngữ, tục ngữ, ca dao tiếng Việt (Phương Trang,
Ngôn ngữ và đời sống, số 1, 1996).
 Trường nghóa của một thực từ ( Dương Kỳ Đức, Ngữ học trẻ, 1996).
 Mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ qua hình ảnh trâu bò trong thành
ngữ Việt – Nga – Anh (Huỳnh Công Minh Hùng, Hội thảo ngôn ngữ và văn
hóa, Hà Nội, 2000).
 Hình ảnh gấu trong thành ngữ (trên cứ liệu tiếng Việt-Nga-Anh-Pháp và
một số tiếng Châu Âu khác) (Huỳnh Công Minh Hùng, T/c Khoa học
ĐHSP-TP.HCM, số 24, 2000).
 Ngựa trong thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Phong Hoá, Ngôn ngữ và đời
sống, số 1+2, 2002)
…………
Về tiếng Anh, công trình nghiên cứu thành ngữ có thành tố chỉ động vật
trong tiếng Anh tại Việt Nam được xem là tương đối bao quát nhất cho đến
bây giờ có lẽ là luận án phó tiến só của Phan Văn Quế: Ngữ nghóa của thành
ngữ – tục ngữ có thành tố chỉ động vật trong tiếng Anh (trong sự so sánh đối
chiếu với tiếng Việt) [86]. Luận án này đã đề cập đến thành tố chỉ động vật
trong thành ngữ tiếng Việt khi phân tích bình diện ngữ nghóa và so sánh, đối
chiếu sự khác biệt về nghóa giữa thành tố chỉ động vật trong thành ngữ - tục

6


ngữ tiếng Anh và tiếng Việt nhưng không vì mục đích nghiên cứu nó mà chỉ

nhằm làm sáng tỏ ngữ nghóa những thành ngữ có thành tố động vật trong tiếng
Anh.
Ngoài ra, có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành có đề
cập đến thành tố chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Anh:
 Sơ bộ tìm hiểu các sắc thái ngữ nghóa của những từ chỉ động vật trong thành
ngữ tiếng Anh (Phan Văn Quế, Nội san Đại học Ngoại ngữ – Đại học quốc
gia Hà Nội, số 1/1996).
 Thành ngữ tiếng Anh và dạng đặc biệt của nó: cụm động từø - giới từ (Lê
Hồng Lan, Ngôn ngữ và đời sống, số 2/1996).
 Gà, khỉ, chuột, ngựa trong tục ngữ và thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt
(Phan Văn Quế, Ngôn ngữ và đời sống, số 2, năm 2000).
 Hình ảnh con chó trong thành ngữ và tục ngữ tiếng Anh (Phan Văn Quế,
Ngôn ngữ và đời sống, số 2, năm 2000).
……………
Về tác giả nước ngoài nghiên cứu thành ngữ tiếng Anh, do hạn chế
ngoại ngữ nên chúng tôi chưa tiếp cận được mảng tài liệu này.
Như vậy luận văn này tuy không phải là công trình nghiên cứu đầu tiên,
nhưng lại là công trình nghiên cứu bao quát nhất về thành ngữ tiếng Việt có
chứa thành tố chỉ động vật trong sự đối chiếu với tiếng Anh.

0.3. Đối tượng và phạm vi của luận văn
Việc nghiên cứu toàn bộ hệ thống thành ngữ của một ngôn ngữ là một
công việc đòi hỏi nhiều công sức của nhiều người trong một thời gian dài.
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ giới hạn đối tượng và phạm vi
7


nghiên cứu của luận văn ở những thành ngữ có chứa thành tố chỉ động vật
trong tiếng Việt và trong tiếng Anh. Và trong các thành ngữ này, chúng tôi chỉ
quan tâm chủ yếu đến mặt ý nghóa văn hoá của các từ ngữ chỉ động vật mà

thôi.

0.4. Phương pháp nghiên cứu
Do tính chất và nhiệm vụ khoa học của đề tài, chúng tôi sử dụng tổng
hợp nhiều phương pháp như:
 Phương pháp thống kê, nhằm thống kê tất cả những thành ngữ có chứa từ
ngữ chỉ động vật, từ ngữ chỉ bộ phận động vật, thành ngữ so sánh có thành
tố chỉ động vật, thành ngữ chứa nhiều hơn một thành tố chỉ động vật trong
tiếng Việt và tiếng Anh. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng phương pháp này
để thống kê tất cả những nghóa có thể có ở mỗi thành tố chỉ động vật.
 Phương pháp phân tích, để phân tích những đặc trưng ngữ nghóa có thể có
của những từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ.
 Phương pháp đối chiếu cũng được sử dụng để so sánh đối chiếu ngữ nghóa
của thành ngữ có thành tố động vật trong hai ngôn ngữ Việt – Anh. Qua
việc so sánh đối chiếu này, những nét tương đồng và dò biệt về ngôn ngữ –
văn hoá – xã hội giữa hai ngôn ngữ sẽ được nhìn thấy một cách rõ ràng.
Cả ba phương pháp kể trên đều có tầm quan trọng như nhau và được
vận dụng kết hợp xuyên suốt luận văn.

0.5. Tư liệu nghiên cứu
Một trong những nhiệm vụ của luận văn là nhằm thống kê càng nhiều càng
tốt những thành ngữ có thành tố chỉ động vật trong tiếng Việt, nên chúng tôi cố
chọn lựa một số tài liệu tiêu biểu về thành ngữ làm cơ sở cho mọi sự tập hợp và
đối chiếu khác. Tài liệu mà chúng tôi chọn là: Thành ngữ – tục ngữ Việt Nam do

8


Bùi Hạnh Cẩn, Bích Hằng, Việt Anh biên soạn; Từ điển thành ngữ và tục ngữ
Việt Nam của Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào; Từ điển thành ngữ Việt

Nam của Nguyễn Văn Khang; Thành ngữ tiếng Việt của Lương Văn Đang,
Nguyễn Lực. Nhưng tài liệu chủ yếu là cuốn Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ
thông do Nguyễn Như Ý chủ biên. Đây là cuốn từ điển mới nhất và tương đối
đầy đủ về thành ngữ tiếng Việt (xuất bản năm 2002). Tuy nhiên, chính tác giả
cũng không dám khẳng đònh tất cả những đơn vò trong từ điển này là thành ngữ.
Theo ông, trong đó “bao gồm một vài đơn vò chưa xác đònh rõ là thành ngữ hay
tục ngữ, một vấn đề hiện còn để ngỏ trong Việt ngữ học”[43, tr.7].

Về thành ngữ tiếng Anh, chúng tôi sử dụng cuốn Oxford Learner’s
Ditionary of English Idioms của H. Warren, (Oxford University Press, 1994);
Từ điển thành ngữ Anh Việt của Trần Thanh Giao (Đà Nẵng, 1995); Từ điển
Anh Việt của Viện Ngôn ngữ học (Tp. HCM, 1993).

0.6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận:
Thành ngữ chứa thành tố chỉ động vật là mảng đề tài rất phong phú và
lý thú được nhiều người quan tâm. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hy vọng
đóng góp một phần công sức của mình vào việc xây dựng bộ môn thành ngữ
học. Ngoài ra, đề tài còn nhằm góp phần chứng minh bản sắc văn hoá riêng
biệt ở mỗi dân tộc cũng như tính phổ quát văn hoá ở nhiều dân tộc thông qua
so sánh đối chiếu thành ngữ có thành tố chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng
Anh.
Về thực tiễn:
Luận văn tập hợp được một khối lượng tư liệu lớn hơn so với những
công trình có trước: 1555 thành ngữ động vật tiếng Việt và 463 thành ngữ

9


động vật tiếng Anh, so với số liệu tương ứng của Trònh Cẩm Lan là 904 thành

ngữ động vật tiếng Việt và của Phan Văn Quế là 368 đơn vò gồm cả thành ngữ
và tục ngữ động vật tiếng Anh (dẫn theo Phan Văn Quế [86]). Trên cơ sở đó,
kết quả nghiên cứu sẽ bao quát hơn, phục vụ tốt cho việc học tập, giảng dạy
và sử dụng thành ngữ. Đề tài còn giúp chúng ta hiểu biết thêm về cái chung
và cái riêng của hai nền văn hoá Việt – Anh trên cơ sở đối chiếu thành ngữ có
chứa thành tố động vật ở hai ngôn ngữ, hỗ trợ đắc lực cho việc dạy và dòch
tiếng Anh.

0.7. Bố cục luận văn
Tuy chỉ nghiên cứu một bộ phận của thành ngữ tiếng Việt, nhưng để tạo
cơ sở cho việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà nội dung luận văn yêu cầu,
chúng tôi vẫn phải bắt đầu từ việc tìm hiểu thành ngữ nói chung, sau đó mới
đi vào từng khía cạnh của đề tài. Nội dung đầu tiên cung cấp cái nhìn tổng
quan về thành ngữ có thành tố động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh
(chương một). Phần chủ yếu của luận văn nằm ở chương hai: khảo sát ngữ
nghóa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt. Ở chương này,
ngoài việc thống kê, luận văn tiến hành miêu tả ngữ nghóa văn hoá một số
từ ngữ chỉ động vật có tần số xuất hiện cao trong thành ngữ tiếng Việt, miêu
tả ngữ nghóa các từ chỉ bộ phận động vật, phân tích mối quan hệ giữa các
thành tố động vật trong một thành ngữ. Đồng thời luận văn cũng dành một
phần thích đáng để trình bày về thành ngữ so sánh chứa thành tố động vật.
Luận văn cũng chú ý đến việc so sánh đối chiếu với thành ngữ tiếng Anh
trên cơ sở những số liệu thu thập được.
Ngoài 87 trang chính văn, 12 trang danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn dành 132 trang cho 6 phụ lục .

10


CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THÀNH NGỮ CÓ

THÀNH TỐ CHỈ ĐỘNG VẬT TRONG TIẾNG VIỆT VÀ
TIẾNG ANH
1.1.

Khái niệm về thành ngữ
Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ (Nguyễn Văn Mệnh [60], Hồ Lê

[11], Nguyễn Văn Tu [62], Đỗ Hữu Châu [71]) và những nhà nghiên cứu văn
học Việt Nam (Vũ Ngọc Phan [110], Dương Quảng Hàm [10], các tác giả
cuốn Lòch sử văn học Việt Nam [30]), thành ngữ là cụm từ cố đònh mà các từ
trong đó đã mất tính độc lập, kết hợp lại với nhau thành một khối vững chắc,
hoàn chỉnh, khó có thể thay đổi (ví dụ: Thành ngữ mẹ tròn con vuông không
thể đổi thành Mẹ vuông con tròn hay Mẹ cũng tròn con cũng vuông hay Mẹ
tròn lắm con vuông lắm...). Cũng theo các nhà nghiên cứu, thành ngữ thường
biểu hiện một khái niệm tương tự như đơn vò từ, dùng để tạo thành phần câu
như từ, nói cách khác, nó có chức năng như từ; người ta có thể thay thế một
thành ngữ bằng một từ tương ứng với nó trong câu. Đây là một quan niệm phổ
biến nhưng không thật thuyết phục. Khái niệm là câu chuyện tư duy, còn về
mặt ngôn ngữ, biểu hiện khái niệm bằng từ hay ngữ là vấn đề khác. Ta có thể
thay Tôi đi guốc trong bụng nó bằng Tôi rất hiểu nó thì rất hiểu là ngữ, chứ
không phải từ.
Trong khoảng vài chục năm gần đây, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ và
nghiên cứu văn học Việt Nam rất quan tâm đến việc phân biệt thành ngữ và
tục ngữ, song ranh giới giữa chúng vẫn chưa được xác đònh rõ rệt. Bởi lẽ giữa
chúng có rất nhiều điểm giống nhau: cả hai đều là những đơn vò có sẵn, cố
đònh, cấu trúc chặt chẽ, giàu hình ảnh, giàu sắc thái biểu cảm và được tái hiện
trong giao tiếp. Thậm chí có nhiều người cho rằng không cần thiết tách riêng

11



thành ngữ và tục ngữ. Chẳng hạn như Trương Đông San, ông gọi chung thành
ngữ và tục ngữ là ngữ vò. Theo ông “ngữ vò là đơn vò ngôn ngữ trên cấp độ từ
vò gồm hai từ vò trở lên được tái hiện trong lời nói dưới dạng có sẵn, cố đònh
về hình thức và nội dung” [105].
Ý kiến đầu tiên đáng chú ý về sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ
là của Dương Quảng Hàm [10]. Ông viết: “Một câu tục ngữ tự nó phải có một
ý nghóa đầy đủ, hoặc khuyên răn hoặc chỉ bảo điều gì; còn thành ngữ chỉ là
những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý gì hoặc tả một trạng
thái gì cho màu mè”. Còn theo Vũ Ngọc Phan thì: “Tục ngữ là một câu tự nó
diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một công
lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là
một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không
diễn đạt được một ý trọn vẹn” [110]. Nguyễn Văn Mệnh trong bài Ranh giới
giữa thành ngữ và tục ngữ [59] cho rằng “có thể nói nội dung của thành ngữ
mang tính chất hiện tượng, còn nội dung của tục ngữ nói chung mang tính chất
quy luật. Từ sự khác nhau cơ bản về nội dung dẫn đến sự khác nhau về hình
thức ngữ pháp, về năng lực hoạt động trong chuỗi lời nói… Về hình thức ngữ
pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Tục
ngữ thì khác hẳn. Mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu”. Cù Đình Tú cho rằng ý
kiến của Nguyễn Văn Mệnh chưa thật xác đáng vì theo ông: “Thành ngữ là
một hiện tượng ngôn ngữ. Tục ngữ cũng là một hiện tượng ngôn ngữ. Giải
quyết các hiện tượng ngôn ngữ phải căn cứ ngôn ngữ học”. Giáo sư cho rằng
sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác nhau về chức năng:
“Thành ngữ là những đơn vò có sẵn mang chức năng đònh danh… là những đơn
vò tương đương như từ… Tục ngữ cũng như các sáng tạo khác của dân gian như
ca dao, truyện cổ tích, đều là những thông báo… Nó thông báo một nhận đònh,
12



một kết luận về một phương diện nào đó của thế giới khách quan. Do vậy mỗi
tục ngữ đọc lên là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng…” [7].
Tuy nhiên, theo các tác giả của cuốn Tục ngữ Việt Nam, cần phải xét sự khác
nhau của thành ngữ và tục ngữ chủ yếu ở chỗ “như là một hiện tượng ngôn
ngữ và một hiện tượng ý thức xã hội” và các tiêu chí mà các tác giả đưa ra để
phân biệt là nhận thức luận. Với tiêu chí đó thì tục ngữ chủ yếu là một hiện
tượng ý thức xã hội, còn thành ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ. Và sự
khác nhau về nội dung của thành ngữ và tục ngữ chính là sự khác nhau về nội
dung của hai hình thức tư duy khác nhau: nội dung của thành ngữ là những
khái niệm, nội dung của tục ngữ là những phán đoán. Sự khác nhau về hình
thức tư duy tất yếu sẽ dẫn đến sự khác nhau về chức năng, về cấu tạo ngữ
pháp và vò trí trong lời nói của hai hình thức ngôn ngữ đó (Chu Xuân Diên,
Lương Văn Đang, Phương Tri, Tục ngữ Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội,
1993)[6]. Như vậy việc phân đònh ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ tuy khó
khăn nhưng không phải là không thể. Chúng tôi rất đồng tình với ý kiến của
tác giả Nguyễn Văn Mệnh: “Ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ không phải
là một đường kẻ thẳng băng, song trên đại thể vấn đề có thể tìm ra những đặc
điểm khác biệt khá rõ ràng ở hai phương diện: nội dung và hình thức” [59].
Trên thực tế, nội dung và hình thức của thành ngữ và tục ngữ là hết sức
đa dạng, phong phú và phức tạp. Về hình thức, không phải lúc nào thành ngữ
cũng là những cụm từ cố đònh. Một số không nhỏ các thành ngữ có kết cấu
chủ vò, như nước đổ đầu vòt; ếch ngồi đáy giếng … Hình thức có kết cấu chủ vò
này thường là nguyên nhân gây khó khăn trong việc phân biệt thành ngữ và
tục ngữ. Về mặt nội dung, cả hai đều là những sản phẩm nhận thức của nhân
dân về các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan, đều chứa đựng và

13


phản ánh tri thức của nhân dân, đều là sự đúc kết kinh nghiệm, là kết tinh trí

tuệ của quần chúng, đều từ sự khái quát hiện thực để rút ra bản chất, quy luật.
Chúng ta có thể rút ra một số nét khu biệt giữa thành ngữ và tục ngữ
như sau:
Về mặt ý nghóa:
Thành ngữ miêu tả một sự vật, một hoạt động, một tính chất hay
một trạng thái. Chẳng hạn: cao như sếu; nói hươu nói vượn; lờ đờ như gà ban
hôm... Ngược lại, tục ngữ đúc kết một kinh nghiệm, một quy luật, một chân
lý của cuộc sống, hoặc nêu lên một bài học ở đời. Thí dụ: gần mực thì đen,
gần đèn thì sáng; ở hiền gặp lành; thuốc đắng dã tật; nồi nào vung ấy; một con
sâu làm rầu nồi canh; ăn ít no lâu, cày sâu tốt lúa;…
Nội dung của thành ngữ thường thiên về việc thể hiện những cái có
tính chất ngẫu nhiên và riêng lẻ. Còn nội dung của tục ngữ lại thể hiện
những cái có tính bản chất, khái quát, mang tính tất yếu, quy luật.
Về mặt ngữ pháp:
Mỗi thành ngữ, nhìn chung, chỉ là một ngữ, chưa phải là một câu hoàn
chỉnh vì thành ngữ chỉ nhằm nêu lên một hình ảnh, một hiện tượng, chẳng hạn
như: mèo mả gà đồng; dốt đặc cán mai; đánh rắn giữa khúc… Ngược lại, tục
ngữ là một câu hoàn chỉnh, là một thông báo trọn vẹn, một kết luận cụ thể,
một nhận đònh chắc chắn, một bài học kinh nghiệm. Thí dụ: Con không chê
cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo,...
Phần lớn thành ngữ tiếng Việt có kết cấu một trung tâm, thường là
những thành ngữ dạng so sánh: chậm như rùa, lừ đừ như ông từ vào đền, nhớn
nhác như gà phải cáo, lúng túng như gà mắc tóc, cao như sếu… Một bộ phận

14


nhỏ các thành ngữ có kết cấu hai trung tâm: nước đổ đầu vòt, ếch ngồi đáy
giếng… Tuy nhiên những thành ngữ này cũng chỉ là một phần của câu, vẫn
dùng để gọi hành động, tính chất sự vật. Thí dụ: nước đổ đầu vòt “phí công,

không có tác dụng”, áo gấm đi đêm “tốn kém mà không ai biết đến”, ếch ngồi
đáy giếng “không nhìn xa thấy rộng”, miệng ngậm hột thò “ở vào thế không
thể nói được”.
Về mặt chức năng:
Đứng về mặt ngôn ngữ học, tục ngữ có chức năng khác hẳn so với
thành ngữ. Tục ngữ cũng như các sáng tác dân gian khác như ca dao, dân ca,
đều có chức năng thông báo. Tục ngữ là một thông báo ngắn gọn, súc tích,
còn thành ngữ có chức năng đònh danh, biểu hiện sự vật, tính chất, hành
động tương tự như từ. Một thành ngữ dù lớn đến đâu cũng không thể nêu lên
một thông báo. Ngược lại một câu tục ngữ dù nhỏ đến mấy cũng đảm nhiệm
chức năng này một cách hoàn hảo. (Thành ngữ: lợn trong chuồng thả ra mà
đuổi; ăn ốc nói mò, ăn măng nói mọc, ăn cò nói leo; vạ vòt chưa qua, vạ gà đã
đến; voi đú, chó đú, lợn sề cũng hộc. Tục ngữ: ao sâu tốt cá; người roi, voi
búa; tức nước vỡ bờ, v.v.).
Vì thành ngữ không đảm nhiệm chức năng thông báo nên với bất kỳ
thành ngữ nào ta cũng có thể đặt câu hỏi về những vấn đề cơ bản xoay quanh
nội dung của thành ngữ đó. Chẳng hạn khi ta nêu thành ngữ chấp chới như
thầy bói cúng thánh thì trong suy nghó của người nghe sẽ nảy ra một câu hỏi
“ai có dáng điệu chấp chới đó ?”. Hoặc với thành ngữ việc nhà thì nhác, việc
chú bác thì siêng, người nghe sẽ nẩy ra câu hỏi “ai là người lười biếng việc
nhà và siêng làm việc người?”, v.v.. Đối với các tục ngữ thì tình hình không
như vậy. Mỗi tục ngữ là một câu thông báo trọn vẹn, nên trước bất kỳ tục ngữ

15


nào người ta không đặt ra câu hỏi kiểu như vậy. Chẳng hạn khi ta nói ở hiền
gặp lành thì không ai cần hỏi “ai ở hiền gặp lành?”. Bởi vì tục ngữ đã nêu lên
một quy luật chung cho tất cả mọi người.
Sự khác nhau về mặt chức năng như đã nói ở trên dẫn đến sự khác nhau

trong cách vận dụng hai loại đơn vò này trong giao tiếp. Một thành ngữ không
thể độc lập tạo thành câu. Trái lại, một tục ngữ hoàn toàn có thể có khả năng
đó. Rõ ràng là giữa thành ngữ và tục ngữ có một đường ranh giới thực tế. Tuy
nhiên ranh giới này không phải là ngăn cách tuyệt đối, không phải là đường
kẻ thẳng băng. Chính vì vậy mà có những đơn vò được tác giả này cho là
thành ngữ, tác giả khác lại cho là tục ngữ. Chẳng hạn kiến tha lâu cũng đầy tổ
được rất nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học xếp vào tục ngữ, trong đó có
Phạm Văn Bình, tác giả của cuốn Tục ngữ Việt Nam [76], chó treo mèo đậy
được Hoàng Diệu Minh cho là tục ngữ [13], vắng chúa nhà gà vọc niêu cơm
theo Phan Văn Quế là tục ngữ [86]. Nhưng Nguyễn Như Ý lại đưa tất cả các
câu trên vào trong cuốn Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ thông [43], v.v..

1.2. Thành tố chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt
Thành ngữ chứa thành tố chỉ động vật (thành ngữ động vật) được hiểu
là những thành ngữ mà trong thành phần của chúng có những từ ngữ chỉ con
vật, thí dụ cao như sếu; lẩn như chạch; ăn như mèo; chuột chạy cùng sào.
Những từ ngữ này được chúng tôi gọi là “thành tố chỉ động vật” (sếu, chạch,
mèo, chuột). Qua tìm hiểu các từ điển thành ngữ, các bài báo, bài nghiên cứu
thành ngữ, chúng tôi thấy số lượng thành ngữ động vật tiếng Việt ở các tài
liệu khác nhau là rất khác nhau. Nhưng điều chắc chắn là loại thành ngữ này
chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong toàn bộ vốn thành ngữ tiếng Việt.

16


Theo kết quả thống kê được miêu tả trong luận án thạc só của Trònh
Cẩm Lan [102], mức độ sử dụng các thành tố động vật trong thành ngữ tiếng
Việt theo thứ tự như sau: chim (157, kể cả các loài chim cụ thể), cá (113, kể
cả các loài cá cụ thể), chó (110), gà (79), bò (40), chuột (37), ngựa (30), mèo
(23), ong (11), ruồi (9), lợn (8), khỉ (6), vòt (5), sói (2), sư tử (2), thỏ (2)… (Trònh

Cẩm Lan, luận án thạc só, 1995) [102]. Theo Phan Văn Quế thì mức độ sử
dụng các thành tố động vật trong thành ngữ tiếng Việt có khác: chó (123), gà
(90), cá (68), trâu (54), voi (53), mèo (52), cọp (51), ngựa (49) chim (39), bò
(37), chuột (30), cò (24), vòt (23), cua (22), cóc (18), đỉa (16), lợn (16), ong
(16), rắn (14), ruồi (12) [81].
Trong khuôn khổ khối tư liệu về thành ngữ đã tiếp cận và xử lý, tác giả
luận văn tổng kết được trong tiếng Việt có 1555 thành ngữ động vật với 157
thành tố chỉ động vật (kể cả tên của 29 loại cá, 34 loại chim).
Danh sách cụ thể được sắp xếp theo ABC như sau:
 Ba ba, beo, bò, bò cạp, bọ, bọ chó, bọ mạt, bọ ngựa, bọ xít, bướm (ngài)
 Cá (cá bống, cá chày, cá cháy, cá chép, cá chi chi, cá chuối, cá diếc, cá
đối, cá gáy, cá kình, cá lăng, cá lóc, cá lòng tong, cá mài mại, cá mè, cá
mòi, cá ngão, cá nghê, cá nheo, cá rô, cá săn sắt, cá sấu, cá thia, cá thờn
bơn, cá trắm, cá trê, cá trôi, cá vàng, cá vược), cà cuống, cáo, cáy, cầy
hương, chạch, châu chấu, chấy, chẫu chuộc, chim ( bìm bòp, bồ câu, bồ
nông, chào mào, chèo bẻo, chim chích, choi choi, cò, cú, chim cuốc, giẻ cùi,
dẽ, diệc, diều hâu, én, hạc, hét, hồng, chim két, khứu, nhạn, ó, oanh / hoàng
anh, phượng, loan, quạ, sáo, chim sẻ, sếu, tu hú, uyên ương, vạc, vẹt, yến),
chó, chuồn chuồn, chuột, cóc, cọp, cốc, công, cua, cun cút
 Dã tràng, dê, dơi
 Đỉa, đom đóm, đười ươi
17


 Ếch, ễnh ương
 Gà, gấu, giải, giun
 Hến, hươu
 Khỉ, kiến
 Lợn, lừa, lươn
 Mang, mèo, muỗi

 Nai, nắc nẻ, nghêu (sò), ngỗng, ngựa, nhái, nhện, nhộng, nòng nọc
 Ong, ốc
 Rái, rắn, rận, rết, rồng, rùa, ruồi (nhặng), rươi
 Sâu, sên, sóc, sói, sư tử, sứa
 Tằm, tê giác, tép, thằn lằn, thần trùng, thiêu thân, thỏ, thuồng luồng, tò vò,
tôm, trai, trâu
 Ve, vích, vòt, voi, vờ, vượn.
Tần số xuất hiện của các thành tố động vật trong thành ngữ tiếng Việt
như sau. Chim và các loại chim xuất hiện nhiều nhất với hơn 232 thành ngữ.
Thứ hai là cá và các loại cá: 149. Tiếp theo là chó: 149; trâu: 123; gà: 113;
mèo: 61; bò: 73; voi: 61; ngựa: 58; cọp: 55; chuột: 47; rắn: 33; lợn: 28; cóc:
25; cua: 28; vòt: 26; rồng: 23; ong: 21; ếch, nhái, ễnh ương: 31; ruồi: 18;
kiến: 14; tôm: 17; cáo: 12; hươu: 12; ốc: 12; khỉ: 12; tằm: 15; dê: 10; lươn: 9;
thỏ: 10; đom đóm: 9; rận: 9; rươi: 8; đỉa: 9; chuồn chuồn: 8; dơi: 7; chạch: 8;
ngỗng: 6; chấy: 7, cáy: 6, muỗi: 6; sói: 11; châu chấu: 4; nai: 3; gấu: 5; ve: 6;
vích: 4; sâu: 3 …
So với số liệu thống kê của Trònh Cẩm Lan và Phan Văn Quế, kết quả
thống kê của chúng tôi có số lượng thành ngữ và thành tố động vật chứa trong
các thành ngữ lớn hơn nhiều. Có lẽ do nguồn tài liệu dựa vào khác nhau,
phương pháp thống kê cũng như quan điểm phân đònh thành ngữ – tục ngữ
18


khác nhau. Có một điều lý thú là dù kết quả khá khác biệt về tần số xuất hiện
của các thành tố động vật, nhưng những thành tố có tần số xuất hiện cao ở ba
kết quả thống kê khá giống nhau. Những thành tố đó là: chim, chó, cá, gà, lợn,
trâu, bò, voi, mèo, chuột, ngựa, … Hãy xem bảng đối chiếu kết quả dưới đây
của ba tác giả:

TRỊNH CẨM LAN


PHAN VĂN QUẾ

NGUYỄN THỊ BẢO

Tên động vật

SL

Tên động vật

SL

Tên động vật

SL

Chim

157

Chim

39

Chim

232




113



68



149

Chó

110

Chó

123

Chó

149

Trâu

54

Trâu

123




79



90



113



40



37



73

Voi

53

Voi


61

Mèo

23

Mèo

52

Mèo

61

Ngựa

30

Ngựa

49

Ngựa

58

Cọp

51


Cọp

55

Chuột

30

Chuột

47

Chuột

37

Bảng 1

19


1.3. Thành tố chỉ động vật được dùng trong thành ngữ tiếng Anh
Kết quả thống kê của chúng tôi cho thấy có 463 thành ngữ động vật
tiếng Anh với khoảng 74 tên các con vật được sử dụng.
Danh sách cụ thể xếp theo trật tự ABC như sau:
 Ant (kiến), ape (đười ươi), ass (lừa cái)
 Badger (lửng), bat (dơi), bear (gấu), bee/hornet (ong), bird (chim), bug
(rệp), bull (bò đực), butterfly (bướm)
 Calf (bê), camel (lạc đà), cat (mèo), chicken (gà con), cock (gà trống), cow

(bò cái), crocodile (cá sấu), crow (quạ)
 Dog (chó), donkey (lừa), dove/pigeon (bồ câu), duck/drake (vòt), duckling
(vòt con)
 Eagle (đại bàng), eel (lươn), elephant (voi)
 Fish (cá), flea (bọ chét), fly (ruồi), fox (cáo)
 Goat (dê), goose (ngỗng)
 Hare (thỏ rừng), hawk (diều hâu), hen (gà mái), herring (cá trích), horse
(ngựa)
 Jackdaw (quạ xám), kitten (mèo con)
 Lamb (cừu non), lark (sơn ca), leech (đỉa), leopard (báo), lion (sư tử),
lobster (tôm)
 Mackerel (cá thu), mare (ngựa cái), magpie (chim ác là), monkey (khỉ),
mouse/rat (chuột), mule (la)
 Owl (cú), ox (bò thiến), oyster (sò, hàu)
 Parrot (vẹt), peacock (công), pig (lợn)
 Rabbit (thỏ)

20


 Sardine (cá mòi), sheep (cừu), snail (sên), snake/serpent (rắn), sprat (cá
trích cơm), stag (nai đực, hươu đực), swallow (én), swan (thiên nga).
 Tiger (hổ), toad (cóc), turkey (gà tây)
 Vixen (chồn cái), whale (cá voi), wolf (chó sói), worm (giun, sâu).
Những thành tố động vật có tần số xuất hiện nhiều nhất:
Dog (chó): 64; bird (crow (jackdaw), dove (pigeon), eagle, hawk, lark,
magpie, owl, parrot, peacock) (chim và các loại chim): 58; fish (herring,
mackerel, sardin, sprat, whale) (cá và các loại cá): 46; horse, mare (ngựa,
ngựa cái): 36; cat, kitten (mèo): 37; bull, ox, cow, calf (bò các loại bò): 24;
cock, chicken, hen (gà các loại): 24; sheep, ram (cừu): 13; pig (lợn): 15;

mouse, rat (chuột): 13; duck, duckling, drake (vòt): 12; fly (ruồi): 11; lamb
(cừu non): 8; ass, (lừa): 9 ; pig (lợn): 15; rabbit, hare (thỏ, thỏ rừng): 10; lion
(sư tử): 11, wolf (chó sói): 9; bear (gấu): 8; goose (ngỗng): 7; fox (cáo): 6;
flea (bọ chét): 6; monkey (khỉ): 4; goat (dê): 4; …

1.4. So sánh đối chiếu thành tố chỉ động vật trong thành ngữ Việt-Anh
Xét về số lượng thành ngữ chứa thành tố động vật, trong tiếng Việt có
1555 thành ngữ, nhiều hơn gấp ba lần so với tiếng Anh (463 thành ngữ). Xét
về số lượng con vật được nhắc đến trong thành ngữ: tiếng Việt có 157 con vật,
gấp đôi so với tiếng Anh (74 con vật).
Trong luận án phó tiến só của mình, Phan Văn Quế thống kê từ nhiều
nguồn tài liệu khác nhau và cho rằng trong thành ngữ tiếng Anh có khoảng
368 đơn vò có thành tố chỉ động vật với hơn 85 con vật (bao gồm cả thành ngữ
và tục ngữ) [86]. Còn theo Trònh Cẩm Lan thì tiếng Việt có khoảng 904 thành
ngữ có thành tố chỉ động vật và chỉ có 64 con vật [102].

21


Qua phần trình bày trên, ta thấy có động vật cùng xuất hiện ở thành
ngữ của cả hai ngôn ngữ, có động vật chỉ xuất hiện ở thành ngữ của ngôn ngữ
này hoặc thành ngữ của ngôn ngữ kia.

1.4.1. Các thành tố động vật xuất hiện trong cả hai thành ngữ Việt- Anh
 Beo/ báo (leopard), bồ câu (pigeon), bướm (butterfly)
 Cá (fish), cá sấu (crocodile), cá mòi (sardine), cá voi/ cá kình (whale), cáo
(fox), cầy hương (civet cat), chim (bird), chó (dog), chó săn (hound), chó
sói (wolf), chuột (mouse, rat), cọp (tiger), công (peacock), cú (owl)
 Dê (goat), dơi (bat), diều hâu (hawk)
 Đỉa (leech), đười ươi (ape)

 Én, nhạn (swallow)
 Gà con (chicken), gà mái (hen), gà trống (cock), gấu (bear), giun (worm).
 Hàu (sò) (oyster)
 Kiến (ant), khỉ (monkey)
 Lợn (pig), lươn (eel)
 Mèo (cat)
 Ngỗng (goose)
 Ong (bee)
 Quạ (crow, jassdow)
 Rắn (snake), ruồi (fly)
 Sâu (worm), sên (snail), sư tử (lion)
 Tôm (lobster)
 Vẹt (parrot), vòt (duck), voi (elephant)
22


Có 46 tên con vật cùng xuất hiện trong cả hai thành ngữ Việt – Anh, nhiều
hơn so với 33 con vật theo thống kê của Phan Văn Quế [86].

1.4.2. Các thành tố động vật chỉ có trong thành ngữ tiếng Việt
 Ba ba, bò, bò cạp, bọ, bọ chó, bọ mạt, bọ ngựa, bọ xít
 Cá chép, cá chuối, cá diếc, cá đối, cá gáy, cá nghê, cá mè, cá rô, cá thia,
cá chày, cá lóc, cá trôi, cá vàng, cá lăng, cá vược, cá ngão, cá trê, cá nheo,
cá lòng tong, cá săn sắt, cá cháy, cá bống, chi chi, cá mại, cá thờn bơn, cá
trắm
 Cà cuống, cáy, chạch, châu chấu, chấy, chẫu chàng
 Chim bìm bòp, bồ nông, chào mào, chèo bẻo, chim chích, cò, chim cuốc, dẽ,
giẻ cùi, hạc, hét, chim két, khướu, loan, ó, oanh, phượng, sáo, sẻ, sếu, vạc,
yến
 Chuồn chuồn, cóc, cốc, cua, cun cút

 Dã tràng
 Đom đóm
 Ếch, ễnh ương
 Gà, giải, giòi
 Hến
 Liu điu, lừa
 Mang, muỗi
 Nai, nắc nẻ, nhái, nhện, nhộng, nòng nọc
 Ốc
 Rái cá, rận, rồng, rùa, rươi
 Sứa
 Tằm, tép, thỏ, trai, trâu
 Ve, vượn

23


Tổng cộng có 98 con vật (kể cả tên của các loài cá và tên của các loài
chim) chỉ xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt mà không xuất hiện trong
thành ngữ tiếng Anh (theo Phan Văn Quế chỉ có 58 con vật) [86].
1.4.3. Các thành tố động vật chỉ xuất hiện trong thành ngữ tiếng Anh
 Ass (lừa cái),
 Badger (lửng), bug (rệp), bull (bò đực)
 Calf (bê), camel (lạc đà), cow (bò cái)
 Eagle (chim đại bàng)
 Flea (bọ chét)
 Hare (thỏ rừng), herring (cá trích)
 Lamb (cừu non), lark (sơn ca)
 Magpie (ác là), mare (ngựa cái), mule (la)
 Ox (bò thiến)

 Rabbit (thỏ nhà)
 Sardine (cá mòi), sheep / ram (cừu), sprat (cá trích cơm), swan (thiên nga)
 Turkey (gà tây)
 Vixen (chồn cái)
24 con vật chỉ có trong thành ngữ tiếng Anh, không thấy xuất hiện
trong thành ngữ tiếng Việt (theo thống kê của Phan Văn Quế, có 31 con vật
(cả thành ngữ và tục ngữ)) [86].
1.4.4. Một số nhận xét từ phần trình bày trên
1.4.4.1. Các loài chim, cá, côn trùng, sâu bọ xuất hiện trong thành ngữ tiếng
Việt nhiều hơn so với trong tiếng Anh. Cụ thể:
Trong thành ngữ tiếng Anh chỉ có 6 loại cá và đa số là cá biển: cá trích
(herring), cá cơm (sprat), cá thu (markerel), cá mòi (sardine), cá voi (whale).
24


Trong tiếng Việt thì tình hình hoàn toàn ngược lại: có rất nhiều loại cá xuất
hiện, hầu hết là cá nước ngọt với hơn 29 loại khác nhau.
Dưới đây là bảng liệt kê các loài cá xuất hiện trong thành ngữ và môi
trường nước của chúng (việc xác đònh môi trường nước dựa vào Từ điển tiếng
Việt do Hoàng Phê chủ biên, 1997)[14]:
TT

TÊN CÁ

T.VIỆT

T. ANH

MÔI TRƯỜNG


1

cá bống

+



nước ngọt

2

cá chày

+



nước ngọt

3

cá cháy

+



biển


4

cá chép

+



nước ngọt

5

chi chi

+



nước ngọt

6

cá chuối

+



nước ngọt


7

cá cơm



+

biển

8

cá diếc

+



nước ngọt

9

cá gáy

+



nước ngọt


+

+

biển

10

cá kình/ cá
voi

11

cá lăng

+



nước ngọt

12

cá lòng tong

+



nước ngọt


13

cá lóc

+



nước ngọt

14

cá mài mại

+



nước ngọt

15

cá mè

+



nước ngọt


16

cá mòi

+

+

biển

17

cá ngão

+



nước ngọt

18

cá nghê

+



biển


25


×