Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

nhận thức về hiv aids của người đến tham vấn hiv tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.43 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thu Vân

NHẬN THỨC VỀ HIV/AIDS CỦA
NGƯỜI ĐẾN THAM VẤN HIV TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thu Vân

NHẬN THỨC VỀ HIV/AIDS CỦA
NGƯỜI ĐẾN THAM VẤN HIV TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NGỌC OÁNH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện, dưới sự
hỗ trợ từ Giáo viên hướng dẫn là PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình
nghiên cứu nào trước đây. Các trích dẫn nếu có trong luận văn đều được ghi rất rõ ở phần tài
liệu tham khảo. Nếu vi phạm lời cam đoan trên, người nghiên cứu xin chịu mọi trách nhiệm
theo quy định của phòng Sau đại học, trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.

Tác giả luận văn

1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến:
-

Thầy PGS. TS. BÙI NGỌC OÁNH, người hướng dẫn khoa học, đã luôn hỗ trợ, chỉ

bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn của mình;
-

Quý thầy cô khoa TÂM LÝ GIÁO DỤC đã dạy dỗ, dìu dắt, đóng góp nhiều ý kiến

quý báu trong quá trình học tập và nghiên cứu của tôi;
-

Quý lãnh đạo Văn phòng thường trực Ủy ban phòng chống AIDS thành phố đã tạo


điều kiện hỗ trợ tôi hoàn thành nghiên cứu;
-

Ban lãnh đạo, tham vấn viên của 20 Trung tâm tham vấn và xét nghiệm HIV tự

nguyện, miễn phí trên địa bàn thành phố;
-

Các khách hàng đã tự nguyện tham gia nghiên cứu;

-

Cùng toàn thể bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành luận

văn khoa học này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013

Nguyễn Thị Thu Vân

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................................... 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................6

2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................7
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ..............................................................................7
4. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................................8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................................8
6. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................8
7. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................... 15
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................15
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới ................................................................ 15
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam................................................................. 17
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài ..............................................................21
1.2.1. Lý luận về nhận thức ............................................................................................. 21
1.2.2. Lý luận về tham vấn .............................................................................................. 27
1.2.3. Lý luận về HIV/AIDS ........................................................................................... 35
1.3. Đặc điểm tâm lý của người đến tham vấn HIV.......................................................48
1.4. Những nội dung cơ bản của nhận thức về HIV/AIDS ............................................49
1.4.1. Nhận thức của khách hàng về kiến thức tổng quát liên quan đến HIV/AIDS ...... 50
1.4.2. Nhận thức của khách hàng về các con đường có thể lây truyền HIV ................... 50
1.4.3. Nhận thức của khách hàng về cách phòng tránh lây truyền HIV.......................... 50
1.4.4. Nhận thức của khách hàng về vận dụng các hiểu biết về HIV/AIDS trong cuộc
sống. ................................................................................................................................ 50

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHẬN THỨC VỀ HIV/AIDS CỦA NGƯỜI ĐẾN
THAM VẤN HIV TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................ 52
2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu ..............................................................................52
2.2. Thực trạng nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham vấn HIV tại thành phố
Hồ Chí Minh ......................................................................................................................52
2.2.1. Nhận thức của khách hàng về kiến thức tổng quát liên quan đến HIV/AIDS ...... 52
3



2.2.2. Nhận thức của khách hàng về các con đường có thể lây truyền HIV ................... 61
2.2.3. Nhận thức của khách hàng về cách phòng tránh lây truyền HIV.......................... 63
2.2.4. Vận dụng các hiểu biết về HIV/AIDS trong cuộc sống ........................................ 65
2.3. Thực trạng nhận thức về một số yếu tố liên quan và các yếu tố ảnh hưởng đến
vấn đề nhận thức về HIV/AIDS .......................................................................................68
2.3.1. Kênh thông tin ....................................................................................................... 68
2.3.2. Mối liên quan giữa một số đặc tính của đối tượng nghiên cứu với việc có kiến
thức tổng quát về HIV/AIDS........................................................................................... 69
2.4. Một số biện pháp nâng cao nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham vấn
HIV tại TP.HCM...............................................................................................................70
2.4.1. Cơ sở đề xuất các biện pháp .................................................................................. 70
2.4.2. Một số biện pháp nâng cao nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham vấn HIV
về HIV/AIDS ................................................................................................................... 72

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 80
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 83

4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Viết tắt
BCS


Bao cao su

LQĐTD

Bệnh lây truyền qua đường tình dục

MSM

Nam quan hệ tình dục đồng giới

PNMD

Phụ nữ mại dâm

QHTD

Quan hệ tình dục

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TVXNTN

Tham vấn xét nghiệm HIV tự nguyện

5


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Dịch HIV/AIDS tuy bắt đầu xuất hiện từ đầu những năm 1980 nhưng đã nhanh chóng
lan ra toàn cầu, HIV tấn công vào mọi đối tượng như phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người có
tuổi, người nghiện chích ma tuý, người hoạt động mại dâm, người quan hệ tình dục đồng
giới, người làm các nghề nghiệp khác nhau... Dịch liên tục phát triển cả về không gian, thời
gian và trở thành một đại dịch nguy hiểm. Dịch không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính
mạng của con người mà còn gây tác hại lớn đến sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nòi
giống của một quốc gia nói riêng, trên toàn thế giới nói chung và trở thành hiểm hoạ của
loài người.
Thành phố Hồ Chí Minh - nơi phát hiện trường hợp nhiễm HIV đầu tiên của Việt Nam
vào năm 1990 và luôn được xem là tâm điểm của đại dịch. Qua kết quả ghi nhận từ hệ thống
thống kê các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, cũng như kết quả các cuộc nghiên cứu
đánh giá của các cơ quan chuyên môn của Bộ Y tế kết hợp với các tổ chức quốc tế cho thấy:
thành phố đã đạt được thành quả quan trọng trong phòng chống dịch HIV/AIDS, đã giảm
nhanh số người nhiễm HIV mới hàng năm và số người tử vong do AIDS. Tuy nhiên, dự báo
trong những năm tới, thành phố vẫn phải đối mặt và giải quyết những khó khăn và thách
thức trong cuộc chiến phòng, chống căn bệnh thế kỷ này do dịch vẫn đang ở mức cao trong
các nhóm đối tượng ma tuý, mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) và có xu
hướng tăng trong nhóm MSM. Tệ nạn sử dụng ma túy vẫn còn phức tạp, tệ nạn mại dâm có
xu hướng phát triển. Sự phức tạp của hành vi sử dụng ma túy với quan hệ tình dục không an
toàn và các hành vi nam có quan hệ tình dục đồng giới là một thách thức cho thành phố
[27]. Bên cạnh đó, dịch đã có xu hướng phát triển ra cộng đồng dân cư nói chung chứ không
còn quá tập trung vào nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao như đã nêu trên.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc lây lan và phát triển nhanh chóng của dịch
HIV/AIDS chính là việc nhận thức sai, chưa đầy đủ và hệ thống về HIV/AIDS của người
dân nói chung mà cụ thể là ở những người tìm đến các dịch vụ tham vấn, xét nghiệm HIV tự
nguyện (TVXNTN) tại thành phố Hồ Chí Minh. Qua một số các khảo sát và kinh nghiệm
làm việc trên nhóm đối tượng này, chúng tôi nhận thấy những người tìm đến sử dụng dịch
vụ TVXNTN có nhận thức chưa đầy đủ về HIV/AIDS.


6


Vì vậy, việc mỗi người có nhận thức đúng, đầy đủ và có hệ thống về vấn đề
HIV/AIDS không chỉ giúp mỗi người có suy nghĩ đúng, thái độ đúng mà còn có hành vi
đúng đối với các hiện tượng xấu, hành vi không phù hợp, tức là không chỉ có khả năng tự
bảo vệ bản thân mà còn giúp họ bảo vệ người thân, gia đình mình, giúp giảm tỷ lệ lây truyền
HIV, giảm gánh nặng về kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong xã hội
cũng như hướng đến những suy nghĩ, hành động tích cực cho người khác và đạt mục đích
cuối cùng là chấm dứt đại dịch.
Có nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề nhận thức về HIV/AIDS của mỗi
người, đặc biệt xung quanh vấn đề cung cấp những kiến thức gì về HIV/AIDS, làm sao để
mọi người nhận thức đúng đắn…vẫn là những vấn đề đang được tranh cải. Thế nhưng,
chính những chủ thể của quá trình tiếp nhận việc giáo dục, truyền thông HIV/AIDS nói gì,
họ có nhận thức như thế nào, ở mức độ nào…thì vẫn là vấn đề hết sức cấp bách và cần phải
được tìm hiểu. Đặc biệt đối với những người tìm đến các phòng TVXNTN hay gọi chung là
khách hàng thì dù họ tìm đến đây với bất kỳ lý do gì, họ nhận các thông tin liên quan đến
HIV/AIDS từ nguồn nào, hiểu biết về HIV/AIDS như thế nào… vẫn cần có những nghiên
cứu cụ thể để tìm hiểu.
Xuất phát từ những lý do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài: “Nhận thức
về HIV/AIDS của người đến tham vấn HIV tại thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài
nghiên cứu khoa học.

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm khảo sát thực trạng nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham
vấn HIV tại thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đề xuất hướng hỗ trợ và nâng cao nhận
thức về HIV/AIDS cho họ.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham vấn HIV.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Những người đến tham vấn HIV tại thành phố Hồ Chí Minh.

7


4. Giả thuyết nghiên cứu
4.1. Những người đến tham vấn HIV còn hạn chế nhận thức về HIV/AIDS. Chủ yếu họ
chỉ nhận thức ở mức độ biết và gặp hạn chế nhận thức ở mức độ hiểu và vận dụng
liên quan đến HIV/AIDS. Do đó, cần cung cấp những nội dung về HIV/AIDS phù
hợp để giúp họ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về HIV/AIDS.
4.2. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến thực trạng nhận thức về HIV/AIDS của
người đến tham vấn HIV, trong đó những nguyên nhân chủ yếu là: trình độ học vấn,
nơi cư trú,...
4.3. Có thể nâng cao nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham vấn HIV bằng một số
biện pháp tác động hợp lý như: cung cấp một cách hệ thống, khoa học những kiến
thức về HIV/AIDS;cung cấp các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ một cách toàn diện cho
cộng đồng.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
5.2. Khảo sát thực trạng nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham vấn HIV, một số
nguyên nhân của thực trạng đó.
5.2.1.

Nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham vấn HIV.

5.2.2.


Nguyên nhân thực trạng nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham
vấn HIV.

5.3.

Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về HIV/AIDS cho người

đến tham vấn HIV.

6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nhận thức về HIV/AIDS của người đến tham vấn HIV
tại thành phố Hồ Chí Minh.
6.2. Về phạm vi khảo sát
6.2.1. Về khách thể
Đề tài chỉ nghiên cứu những người đến tham vấn HIV/AIDS tại 20 phòng tham vấn
HIV tự nguyện, miễn phí trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
6.2.2. Về không gian nghiên cứu

8


Đề tài khảo sát 400 người đến tham vấn HIV tại 20 phòng tham vấn HIV tự
nguyện, miễn phí trên địa thành phố Hồ Chí Minh do Uỷ ban Phòng chống AIDS phối hợp
cùng các Trung tâm Y tế Dự phòng Quận/Huyện và Hội liên hiệp phụ nữ thực hiện.
6.2.3. Về thời gian nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2013.

7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, người nghiên cứu sử dụng phối

hợp các phương pháp nghiên cứu như sau:
7.1.

Phương pháp nghiên cứu lý luận

7.1.1. Mục đích
Khái quát hoá, hệ thông hoá một số vấn đề lý luận cơ bản, trên cơ sở đó xây dựng các
bảng hỏi.
7.1.2. Yêu cầu
Đọc các tài liệu, tham khảo một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, tìm
ra những cơ sở nghiên cứu.
7.2.

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.2.1.1. Mục đích:
Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Chúng tôi xây dựng bảng hỏi dành
cho khách hàng đến tham vấn HIV tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm khảo sát nhận thức về
HIV/AIDS của họ.
7.2.1.2. Các giai đoạn thiết kê bảng hỏi:
- Giai đoạn 1: Xây dựng bảng hỏi mở nhằm thu thập ý kiến của chuyên gia và khách
hàng đến tham vấn HIV về nhận thức HIV/AIDS cũng như các vấn đề có liên quan đến
HIV/AIDS.
- Giai đoạn 2: Dựa trên cơ sở lý luận của đề tài và ý kiến thu được từ bảng hỏi mở của
giai đoạn 1, chúng tôi tiến hành xây dựng bảng hỏi làm công cụ nghiên cứu chính của đề tài.
- Giai đoạn 3: Để bảng hỏi có giá trị hơn về mặt khoa học, người nghiên cứu cũng đã
xin ý kiến của một số chuyên gia và nhận được một số lời góp ý để hoàn thiện bảng hỏi.
- Giai đoạn 4: Sau khi có bảng hỏi, người nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu thử
nghiệm trên 40 khách thể nhằm đánh giá độ tin cậy của thang đo. Thử nghiệm thành công

và bảng hỏi được sử dụng là công cụ nghiên cứu chính thức của đề tài.
9


Mô tả bảng hỏi
- Bảng hỏi gồm 62 câu được soạn sẵn dưới nhiều hình thức khác nhau. Có câu hỏi gồm
4 lựa chọn và trong đó khách thể nghiên cứu chỉ được lựa chọn duy nhất một lựa chọn mà
thôi; có loại câu hỏi mà khách thể được quyền chọn lựa những lựa chọn nào mà họ cảm thấy
phù hợp với mình.
- Bảng hỏi được người nghiên cứu chia thành từng phần cơ bản như: thông tin chung
của người được nghiên cứu gồm giới tính, năm sinh, nơi cư trú, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, tình trạng hôn nhân; thực trạng nhận thức; thái độ và hành vi liên quan đến nhận
thức về HIV/AIDS.
7.2.1.3. Quá trình thực hiện
- Xin ý kiến chỉ đạo từ Uỷ ban phòng chống AIDS thành phố cho phép thực hiện
nghiên cứu tại 20 phòng tham vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện mà Uỷ ban đang quản lý.
- Liên hệ với Ban giám đốc các Trung tâm Y tế dự phòng Quận/Huyện, Hội liên hiệp
Phụ nữ của thành phố và Khoa tham vấn và Hỗ trợ cộng đồng để xin phép thực hiện.
- Mời tham vấn viên tham vấn HIV/AIDS của 20 phòng tham vấn, xét nghiệm HIV
tham gia lớp tập huấn hướng dẫn cách phát phiếu hỏi và thu thập dữ liệu.
- Giám sát hoạt động thu thập dữ liệu và tiến hành thu thập dữ liệu.
- Tiến hành nhập liệu, xử lý bằng toán thống kê và bình luận.
7.2.2.

Phương pháp phỏng vấn

7.2.2.1. Mục đích
Nhằm làm rõ thêm nội dung khảo sát nhận thức về HIV/AIDS của khách hàng đến
tham vấn HIV tại TP.HCM.
7.2.2.2. Khách thể

Khách hàng đến tham vấn HIV tại 20 phòng tham vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện,
miễn phí của TP.HCM.
7.2.2.3. Cách thực hiện
Tiến hành phỏng vấn dựa trên bảng câu hỏi đã được soạn sẵn.
7.2.3.

Phương pháp xin ý kiến chuyên gia

7.2.3.1. Mục đích
Xin ý kiến về thực trạng và biện pháp thực hiện nhằm nâng cao nhận thức về
HIV/AIDS cho khách hàng đến tham vấn HIV.
7.2.3.2. Khách thể
10


Một số chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền thông phòng chống
HIV/AIDS, tham vấn xét nghiệm HIV, quản lý chương trình tham vấn HIV, giảng dạy và
nghiên cứu tâm lý –giáo dục.
7.2.3.3. Cách thức
Phiếu phỏng vấn bao gồm một số câu hỏi soạn sẵn có những nội dung hỗ trợ cho kết
quả nghiên cứu đề tài.
7.2.4.

Phương pháp thống kê toán học

7.2.4.1. Mục đích
Người nghiên cứu thiết kế và nhập liệu trên phần mềm Epidata 3.1, xử lý dữ liệu bằng
phần mềm Stata, các chỉ số được tính như: tần số, tỷ lệ phần trăm, sử dụng phép kiểm chi
bình phương, Fisher để so sánh sự khác biệt, làm cơ sở để bình luận số liệu thu được từ
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

7.2.4.2. Cách thực hiện:
Sử dụng phần mềm Stata xử lý kết quả thống kê.
7.3.

Thể thức nghiên cứu

7.3.1.

Mô tả mẫu nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu gồm 400 khách hàng của 20 phòng tham vấn, xét nghiệm HIV tự
nguyện trên địa bàn TP.HCM đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Trong đó có cả khách hàng
nam và khách hàng nữ. Khách hàng tìm đến các phòng TVXNTN rất phong phú và đa dạng,
họ làm nhiều ngành nghề khách nhau trong xã hội. Họ có thể là người bán dâm, người mua
dâm, người có quan hệ tình dục đồng giới, người sử dụng ma tuý, bạn tình của người nhiễm
HIV, người bị phơi nhiễm với HIV như đạp bơm kim tiêm, tai nạn nghề nghiệp…với các
hoàn cảnh khác nhau, trình độ học vấn khác nhau, lứa tuổi khác nhau…nhưng có chung một
mục đích là đến sử dụng dịch vụ TVXNTN.
Tiêu chí chọn mẫu
- Tiêu chuẩn đưa vào: Khách hàng đến tham vấn, xét nghiệm HIV tại 20 phòng tham
vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện ở TP.HCM.
- Tiêu chuẩn loại ra: Khách hàng đến tham vấn, xét nghiệm HIV không làm chủ được
năng lực hành vi (tâm thần, say rượu, khách hàng đến TVXN HIV trong tình trạng sức khỏe
yếu, trẻ em dưới 16 tuổi…)

11


Sử dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng 1 tỷ lệ trong quần thể để tính cỡ mẫu, cụ thể
như sau:


Với:
- p = 0,5
- Độ tin cậy 95%, nên hệ số tin cậy z = 1,96
- Và sai số của ước lượng d = 5%
Nên n = 384.16 ~ 385
Vì vậy cỡ mẫu tối thiểu là 385. Người nghiên cứu làm tròn cỡ mẫu 400 nên sẽ thu
thập trên 400 khách hàng đến tham vấn, xét nghiệm HIV.
Người nghiên cứu tiến hành thực hiện các bước sau đây trước khi tiến hành nghiên
cứu:
- Xác định số lượt khách hàng đến 20 phòng tham vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện,
miễn phí trong năm 2012.
- Xác định tỷ lệ khách hàng đến với mỗi phòng tham vấn, xét nghiệm HIV tự
nguyện, miễn phí trong năm 2012.
- Xác định được cỡ mẫu cần thiết ở mỗi phòng TVXNTN.
- Chọn ngẫu nhiên cỡ mẫu tại mỗi phòng TVXNTN từ tháng 6 năm 2013 cho đến
khi lấy đủ cỡ mẫu cần thiết tại mỗi phòng TVXNTN.
Bảng 1.1. Cỡ mẫu cần thiết tại mỗi phòng TVXNTN
Lượt khách Tỷ lệ

STT Tên phòng VCT

năm 2012

(%)

Cỡ mẫu
nghiên
cứu


1

Phòng TVXN HIV quận 1

1,743

7.8%

31

2

Phòng TVXN HIV quận 2

1,219

5.5%

22

3

Phòng TVXN HIV quận 3

1,217

5.5%

22


4

Phòng TVXN HIV quận 4

1,599

7.2%

29

5

Phòng TVXN HIV quận 5

395

1.8%

7

6

Phòng TVXN HIV quận 6

969

4.4%

17


7

Phòng TVXN HIV quận 7

881

4.0%

16

8

Phòng TVXN HIV quận 8

1,254

5.6%

22

12


9

Phòng TVXN HIV quận 9

393

1.8%


7

10

Phòng TVXN HIV quận 10

2,174

9.8%

39

11

Phòng TVXN HIV quận 12

419

1.9%

8

12

Trung tâm Ánh Dương

1,037

4.7%


19

13

Phòng TVXN HIV huyện Bình Chánh

1,404

6.3%

25

14

Phòng TVXN HIV quận Bình Tân

691

3.1%

12

15

Phòng TVXN HIV quận Bình Thạnh

1,953

8.8%


35

16

Phòng TVXN HIV quận Gò Vấp

1,026

4.6%

19

17

Phòng TVXN HIV huyện Hóc Môn

807

3.6%

15

18

Phòng TVXN HIV quận Phú Nhuận

679

3.0%


12

19

Phòng TVXN HIV quận Tân Bình

1,156

5.2%

21

20

Phòng TVXN HIV quận Thủ Đức

1,252

5.6%

22

Tổng

22,268

100%

400


7.3.2. Công cụ nghiên cứu
Công cụ nghiên cứu là phiếu thăm dò gồm ba phần: lời chào và giới thiệu mục đích
nghiên cứu; phần thông tin cá nhân và cuối cùng là nội dung câu hỏi. Phần nội dung câu hỏi
được cấu trúc gồm năm phần:
- Phần thứ nhất: nhằm tìm hiểu nguồn thông tin về HIV/AIDS mà khách hàng được
tiếp cận. Phần này gồm có 2 câu hỏi (B1 và B2), câu B1 có 6 lựa chọn, câu B2 có 7 lựa
chọn và khách hàng được quyền chọn nhiều lựa chọn nếu họ cảm thấy phù hợp với mình.
- Phần thứ hai: nhằm tìm hiểu nhận thức của khách hàng về kiến thức tổng quát liên
quan đến HIV/AIDS. Phần này gồm có 10 câu hỏi (từ câu B3.1 đến câu B3.10) với các nội
dung như khái niệm về HIV/AIDS, đường lây truyền, cách thức nhận biết một người nhiễm
HIV, hiểu như thế nào về kết quả xét nghiệm HIV, thời điểm tốt nhất để điều trị HIV/AIDS,
chăm sóc và điều trị HIV/AIDS trong bao lâu, tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con, thời
điểm tốt nhất để uống thuốc dự phòng lây truyền mẹ con. Tất cả các câu hỏi đều có 4 lựa
chọn, trong đó chỉ có câu B3.3 là khách hàng được quyền có nhiều lựa chọn còn tất cả các
câu hỏi còn lại chỉ chọn một đáp án duy nhất đúng mà thôi.
Để có thể đánh giá mức độ nhận thức của khách hàng ở mức độ biết trong phần kiến
thức tổng quát liên quan đến HIV/AIDS, người nghiên cứu đưa ra tiêu chí là khách hàng
phải trả lời đúng 6/10 câu thì mới nhận định là khách hàng có nhận thức ở mức độ biết về
HIV/AIDS.
13


- Phần thứ ba: nhằm tìm hiểu nhận thức của khách hàng về các con đường có thể lây
truyền HIV. Phần này gồm có 13 câu hỏi (từ câu B4.1 đến câu B4.13). Mỗi câu hỏi có 3 lựa
chọn là có, không và không biết, khách hàng chỉ chọn duy nhất một lựa chọn mà thôi.
Có thể đánh giá mức độ nhận thức của khách hàng về các con đường có thể lây truyền HIV
ở phần này như sau: khách hàng phải trả lời đúng 10/13 câu hỏi trong phần này thì mới kết luận là
khách hàng có nhận thức về các con đường có thể lây truyền HIV.
- Phần thứ tư: nhằm tìm hiểu nhận thức của khách hàng về cách phòng tránh lây

truyền HIV. Phần này gồm có 9 câu hỏi (từ câu B5.1 đến câu B5.9). Mỗi câu hỏi có 3 lựa
chọn là đúng, sai và không biết, khách hàng chỉ chọn duy nhất một lựa chọn mà thôi. Tiêu
chí để đánh giá khách hàng có nhận thức về cách phòng tránh lây truyền HIV là khách hàng
phải trả lời đúng 7/9 câu hỏi.
Sau khi tiến hành đánh giá qua từng phần nhận thức về HIV/AIDS như đã nêu trên,
khách hàng phải đạt nhận thức ở cả 3 phần là kiến thức tổng quát liên quan đến HIV, kiến
thức về đường lây truyền HIV và kiến thức về cách phòng tránh HIV thì mới được xem là
một người có nhận thức ở mức độ hiểu về HIV/AIDS.
- Phần thứ năm: nhằm tìm hiểu sự vận dụng các hiểu biết của khách hàng về
HIV/AIDS vào trong cuộc sống. Phần này chia làm 2 phần là phần thái độ và phần thực
hành các hành vi an toàn.
Phần thái độ gồm có 10 câu, từ câu C1 đến câu C10, mỗi câu gồm 3 lựa chọn là đồng ý,
không đồng ý và không ý kiến. Trong trường hợp để đo thái độ đúng của khách hàng về
HIV/AIDS ta cho tỷ lệ là 8/10 câu có nghĩa là nếu người có thái độ đúng sẽ trả lời đúng từ 8 câu
trở lên và ta nhận xét là họ vận dụng đúng vào phần thái độ.
Phần hành vi gồm có 12 câu, từ câu D1.1 đến D3.3, mỗi câu gồm 2 lựa chọn là có và
không. Khách hàng sẽ chọn đáp án mà họ cho là đúng và phù hợp với bản thân.

14


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
Từ 5 trường hợp tử vong do AIDS đầu tiên được Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa
dịch bệnh Hoa Kỳ (Centers for Disease Control and Prevention, viết tắt là CDC) phát hiện
vào năm 1981 tại Mỹ, số người nhiễm trên thế giới đã không ngừng gia tăng và lan rộng
khắp các châu lục, tạo thành đại dịch toàn cầu. Theo số liệu báo cáo của Tổ chức Y tế thế
giới, tính đến cuối năm 2011, trên toàn cầu có khoảng 34 triệu người đang sống chung với
HIV/AIDS, 1,7 triệu người chết vì các bệnh liên quan đến AIDS, hầu hết là ở những quốc

gia có thu nhập trung bình và thấp. Tuy nhiên, với những nổ lực không ngừng nghỉ của toàn
thế giới nhằm khống chế đại dịch trong hơn 30 năm qua, hiện nay số ca nhiễm mới trên toàn
thế giới đang có chiều hướng giảm. Trong số 33 quốc gia có tỉ lệ nhiễm mới giảm trên 25%
(từ năm 2001-2009), có 22 quốc gia thuộc khu vực cận Sahara Châu Phi. Dịch nặng nhất ở
Ethiopia, Nigeria, Nam Phi, Zambia và Zimbabwe cũng có dấu hiệu suy giảm. Tuy nhiên,
có một vài vùng và quốc gia không theo xu hướng này, trong 7 nước có 5 nước thuộc Đông
Âu và Trung Á [38].
- Châu Phi: Cận Sahara Châu Phi là khu vực chịu ảnh hưởng của đại dịch HIV/AIDS
nặng nề nhất trên thế giới. Theo ước tính có khoảng 22,9 triệu người đang sống chung với
HIV, chiếm 2/3 số người nhiễm toàn cầu. Trong năm 2010, có khoảng 1,2 triệu người chết
vì AIDS và 1,9 triệu người bị nhiễm HIV. Từ đầu dịch đến nay đã có 14,8 triệu đứa trẻ bị
mất cha mẹ do HIV/AIDS [33].
Một số nước trong khu vực đã thực hiện các chiến dịch quốc gia để khuyến khích hoạt
động TVXNTN. Botswana, Kenya, Uganda, Malawi và Rwanda là một trong số những quốc
gia đã tiến hành thử nghiệm các chiến dịch tăng số người được TVXNTN trong năm 2010,
cụ thể ở Kenya với gần 6 triệu người ở độ tuổi trên 15 nhận được được dịch vụ này vào năm
2010. Tại các nước Châu Phi như Kenya, Malawi, Mozambique, Namibia, Nigeria và
Zambia, tỷ lệ lây truyền HIV qua quan hệ tình dục tăng do yếu tố không sử dụng bao cao su
và vấn đề đặt ra là cần thiết phải tăng cường hỗ trợ cho những nỗ lực thay đổi hành vi. Năm
2010, trong số 31 quốc gia có bệnh dịch phổ biến thì có 26 quốc gia tiến hành các cuộc điều
tra về kiến thức liên quan đến HIV/AIDS và phát hiện ra rằng dưới 50% phụ nữ trẻ có kiến
thức toàn diện và chính xác về HIV/AIDS, đặc biệt thiếu kiến thức về tác dụng của bao cao
15


su trong phòng ngừa lây nhiễm HIV. Bên cạnh đó, những người đàn ông trẻ cũng có ít hơn
50% kiến thức toàn diện và chính xác về HIV/AIDS [33]
- Châu Á: Tại Châu Á, ước tính có 4,9 triệu người đang sống chung với HIV vào năm
2009. Hầu hết các quốc gia có dịch HIV với hình thái ổn định. Ở nhiều quốc gia trong vùng,
dịch chỉ tập trung chủ yếu ở một số tỉnh/thành. Tại Trung Quốc, số người nhiễm của 5 tỉnh

cộng lại chiếm hơn phân nửa (53%) số người nhiễm trên toàn quốc. Tỉnh Papua của
Indonesia có số người nhiễm cao gấp 15 lần số trung bình của cả nước [38].
Phần lớn người nhiễm HIV trong vùng tập trung ở 11 quốc gia: Campuchia, Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Nepal, Pakistan, Papua New Guinea, Thái
Lan và Việt Nam. Dịch ở Châu Á vẫn tập trung chủ yếu ở người tiêm chích ma túy, mại
dâm và MSM. Ở một vài quốc gia, người tiêm chích ma túy cũng là người mua dâm hay bán
dâm [38].
Thái Lan là nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch với gần 1 triệu người
nhiễm chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn gắn liền với công nghệ du lịch tình dục.
Khởi đầu dịch bùng phát trên gái mại dâm (tỷ lệ nhiễm lên đến 18%, tại Bắc Thái 40%) và
nhanh chóng lan tỏa trong cộng đồng dân cư bình thường. Nhưng với quyết tâm hành động
mạnh mẽ từ chính phủ, chương trình 100% bao cao su (BCS) đã được triển khai thành công
trong ngành công nghiệp mại dâm trực tiếp, tỉ lệ sử dụng BCS trong hoạt động mại dâm
tăng từ 15% lên trên 90% sau 5 năm triển khai chương trình và họ đã đẩy lùi đại dịch HIV
một cách ngoạn mục nhất khu vực [36].
Myanmar đã chứng kiến sự gia tăng đáng lo ngại của HIV/AIDS. Năm 2003, Bộ Y tế
nước này ước tính cả nước có 177.279 người sống chung với AIDS, 67% số ca nhiễm là
thông qua quan hệ tình dục khác giới, 30% là người tiêm chích ma túy. Chính phủ đã đẩy
mạnh chương trình 100% BCS, các cuộc khảo sát cho thấy tỉ lệ sử dụng BCS đã gia tăng từ
60% lên 90% và các tỉ lệ nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục đều giảm xuống
[39]. Ngoài ra, một số nghiên cứu liên quan đến vấn đề nhận thức về HIV/AIDS có thể kể
đến như sau:
Năm 2002, Iran đã tiến hành một nghiên cứu trên đối tượng là học sinh trung học ở
Iran với số lượng 4.641 người để đánh giá kiến thức và thái độ của học sinh về HIV/AIDS.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chỉ có một vài học sinh đã trả lời tất cả các câu hỏi kiến thức
một cách chính xác, và có rất nhiều quan niệm sai lầm về đường lây truyền như muỗi đốt
(33%), bể bơi công cộng (21%), và vệ sinh công cộng (20%)[4].
16



Một nghiên cứu tại tỉnh Andhra Pradesh, Ấn Độ liên quan đến nhận thức của phụ nữ
mại dâm (PNMD) năm 2007 chỉ ra rằng 73,3% người có kiến thức đúng về xét nghiệm
HIV, 37,3% người biết muỗi cắn không lây, 97,9% người trả lời đúng sử dụng bao cao su để
phòng ngừa HIV khi quan hệ tình dục, 97,7% người biết phải sử dụng bơm kim tiêm riêng
khi tiêm chích ma túy [35].
Theo một nghiên cứu tại tỉnh Shandong, Trung Quốc năm 2009 liên quan đến kiến
thức, thái độ, hành vi về HIV của PNMD cho thấy có đến 50% PNMD không sử dụng BCS
thường xuyên với khách hàng, kiến thức về HIV/AIDS và hành vi sử dụng BCS có liên
quan với trình độ học vấn [41]
Một nghiên cứu khác về kiến thức, thái độ, hành vi tại Haiti trên đối tượng PNMD, độ
tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu là 27 tuổi, 80% có trình độ cấp 1 hoặc cấp 2. Kiến
thức về đường lây truyền: 100% PNMD có kiến thức đúng về sử dụng bơm kim tiêm và
100% PNMD có kiến thức đúng về việc một người trông khỏe mạnh vẫn có thể lây HIV
nhưng chỉ có 20% người trả lời đúng không lây truyền HIV khi ăn uống chung với người
nhiễm. Về thái độ: 71% có thái độ kỳ thị người nhiễm. Kết quả cũng cho thấy tại Haiti,
PNMD có kiến thức về việc sử dụng BCS trong quan hệ tình dục cao nhưng thực hành lại
rất thấp do tính sẵn có của BCS không cao [5].
Tóm lại, thông qua một số nghiên cứu như đã nêu trên, phần lớn các nghiên cứu về
kiến thức, thái độ, hành vi liên quan đến HIV/AIDS chủ yếu tập trung vào các nhóm nguy
cơ cao dễ lây nhiễm HIV như mại dâm, ma tuý và được tài trợ bởi các tổ chức quốc tế. Vậy
các nghiên cứu về HIV/AIDS tại Việt Nam như thế nào?
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tính đến hết năm 2012 cả nước có 210.703 người nhiễm HIV hiện còn
sống, số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 61.699 và 63.372 người tử vong do AIDS, tỷ lệ
nhiễm HIV toàn quốc là 239 người trên 100.000 dân [11]. Toàn quốc đã phát hiện được
người nhiễm HIV ở 79,1% xã/phường/thị trấn,98% quận/huyện và 63/63 tỉnh/thành. Trong
đó, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là địa phương có tổng số người nhiễm cao nhất,
chiếm gần 1/3 số người nhiễm được phát hiện trên toàn quốc [13]. Tính đến hết tháng 5 năm
2013, phân bố người nhiễm HIV chủ yếu tập trung ở nhóm tuổi từ 20-39 tuổi, chiếm khoảng
78,6% số người nhiễm HIV trên địa bàn cả nước. Nếu trước đây, Việt Nam có tỷ lệ người

nhiễm HIV được phát hiện lây truyền qua đường máu mà chủ yếu ở nhóm người nghiện
chích ma túy cao nhất thì đây là năm đầu tiên báo cáo cho biết tỷ lệ người nhiễm HIV được
17


phát hiện lây truyền qua đường tình dục ngày càng gia tăng, lây truyền qua đường máu có
xu hướng giảm dần [12]. Bên cạnh đó, tại TP.HCM, dịch đã có xu hướng phát triển ra cộng
đồng dân cư nói chung chứ không còn quá tập trung vào nhóm đối tượng có hành vi nguy
cơ cao. Số người nhiễm HIV giảm nhưng vẫn còn ở mức 4.000 đến 5.000 trường hợp nhiễm
mới mỗi năm [27]. Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2013, thành phố hiện có 57.876 người
nhiễm HIV, 32.527 người chuyển sang giai đoạn AIDS và 9.755 người tử vong [31].
Sau hơn 20 năm đấu tranh chống lại đại dịch, TP.HCM đã ứng phó với dịch bằng việc
thực hiện nhiều chương trình hành động trên quy mô toàn thành như Chương trình thông
tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV/AIDS; Chương trình
can thiệp giảm tác hại; Chương trình hỗ trợ điều trị cai nghiện ma túy, điều trị thay thế bằng
Methadone và tái hòa nhập cộng đồng; Chương trình tham vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện;
Chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con; Chương trình chăm sóc và hỗ trợ
người nhiễm; Chương trình chăm sóc, điều trị bệnh nhân HIV/AIDS; Chương trình theo dõi,
giám sát và đánh giá. Mỗi chương trình có một mục đích, phương pháp, đối tượng can thiệp
cụ thể nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn là khống chế tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư
dưới 1% vào năm 2015 và không tăng sau năm 2015, khống chế tỷ lệ nhiễm HIV mới trong
cộng đồng dân cư dưới 0,08% vào năm 2015, góp phần giảm tác hại của HIV/AIDS đối với
sự phát triển kinh tế của xã hội [27].
Cụ thể, năm 1993, nhiều mô hình truyền thông về phòng chống HIV/AIDS ra đời và
được nhân rộng trên cả nước như mô hình cà phê bao cao su, mô hình giáo dục phòng chống
HIV/AIDS trong trường học, mô hình phòng chống HIV/AIDS tại nơi làm việc. Cũng trong
thời gian này, TP.HCM thành lập 07 phòng tham vấn HIV/AIDS tại Trung tâm truyền thông
giáo dục sức khoẻ, Thành Đoàn thanh niên cộng sản, Hội liên hiệp phụ nữ, Liên đoàn lao
động, hội Chữ thập đỏ, trung tâm Y tế dự phòng thành phố và bệnh viện Da Liễu để tiếp cận
trực tiếp người dân hoặc qua điện thoại nhằm cung cấp và hướng dẫn người dân cách dự

phòng lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, các phòng tham vấn HIV/AIDS này chủ yếu chỉ tham vấn
qua điện thoại và cung cấp các kiến thức cơ bản nhất về HIV/AIDS.
Năm 2001, phòng Tham vấn, xét nghiệm HIV/AIDS tự nguyện, miễn phí đầu tiên của
TP.HCM do Uỷ ban phòng chống AIDS phối hợp với Trung tâm Y tế dự phòng quận Bình
Thạnh được thành lập và đi vào hoạt động tại số 53 Vũ Tùng, quận Bình Thạnh dưới sự tài
trợ của trường đại học California, San Francisco. Thời gian này vẫn chưa có thuốc điều trị
kháng vi rút bằng ARV. Tuy nhiên, đây là một bước tiến rất lớn của thành phố vì người dân
18


có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ tham vấn, xét nghiệm, điều trị nhiễm HIV/AIDS miễn phí
và được cung cấp kiến thức cũng như cơ hội tham gia vào các chương trình truyền thông
phòng chống HIV/AIDS một cách sâu rộng. Dù vậy, sự thiếu hiểu biết đầy đủ và sâu về
HIV/AIDS, nhất là về sự lây nhiễm qua các tiếp xúc thông thường nên người dân ngại đến
sử dụng dịch vụ và có thái độ kỳ thị.
Dự báo trong những năm tới, thế giới vẫn chưa tìm ra vacxin và các thuốc đặc hiệu để
điều trị dứt hẳn AIDS, do vậy biện pháp quan trọng nhất trong phòng, chống HIV/AIDS
hiện nay vẫn là thông tin, giáo dục và truyền thông nhằm giúp mỗi người nâng cao nhận
thức, thay đổi thái độ và thực hành các hành vi an toàn phòng lây nhiễm HIV/AIDS [9]. Đối
tượng can thiệp của chương trình thông tin, giáo dục và truyền thông bao gồm tất cả người
dân nói chung, trong đó có cả nhóm có hành vi nguy cơ cao và nhóm có hành vi nguy cơ
thấp với các hoạt động như tổ chức sự kiện truyền thông ngoài cộng đồng, tập huấn/nói
chuyện chuyên đề, phát tờ rơi, treo pano, các chương trình truyền thông trên báo, đài, tivi,
internet…
Bên cạnh chương trình thông tin, giáo dục và truyền thông về HIV/AIDS thì chương
trình TVXNTN được xem là “cửa ngõ” giúp mọi người biết được tình trạng HIV của mình
thông qua hoạt động tham vấn, xét nghiệm HIV cũng như tiếp cận với các chương trình dự
phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS khi có nhu cầu. Với số lượng mỗi năm có hơn
23.000 lượt khách hàng đến sử dụng dịch vụ TVXNTN [29]. Đây được xem là chương trình
bổ trợ thêm cho hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông ngoài cộng đồng bởi nó còn

cung cấp thêm các kiến thức liên quan đến HIV/AIDS cho người đến sử dụng dịch vụ và
giúp họ lên kế hoạch thay đổi từ hành vi không an toàn sang hành vi an toàn, có lợi cho bản
thân. Đối tượng tìm đến phòng tham vấn, xét nghiệm HIV rất phong phú và đa dạng, họ có
thể là người nghiện chích ma túy, người hoạt động mại dâm, người có quan hệ tình dục
đồng giới, người chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS, trẻ em, phụ nữ, người lớn tuổi…Một số
nghiên cứu tại Việt Nam có thể kể đến như:
Nghiên cứu “Kiến thức, thái độ, hành vi của phụ nữ mang thai nhiễm HIV” của bác sĩ
Hồ Thị Ngọc, bệnh viện Hùng Vương trên 216 thai phụ nhiễm HIV trong giai đoạn từ tháng
6 năm 2004 đến tháng 5 năm 2005 đã cho biết rằng, phụ nữ nhiễm HIV có học vấn thấp (mù
chữ và cấp I :39,4%, cấp II), họ làm những nghề ít tiếp xúc với các chương trình giáo dục
sức khoẻ, thiếu kiến thức về đường lây truyền HIV (68.1%), có hơn 20% người trả lời kiến
thức về đường không lây HIV như ngồi ghế, bắt tay, ăn uống chung là sai hoặc không biết,
19


gần 70% người được phỏng vấn cho rằng vợ chồng không cần sử dụng bao cao su nếu đều
nhiễm HIV. Tác giả cũng đề xuất một số giải pháp để nâng cao kiến thức, thái độ, hành vi
như cần có biện pháp giáo dục sức khoẻ sâu rộng để người dân tự nhận biết về nguy cơ bị
lây nhiễm HIV của mình để xét nghiệm tự nguyện và cần có đội ngũ tham vấn viên hùng
mạnh về lượng và chất để tham vấn trước và sau xét nghiệm mới giảm được gia tăng lây
nhiễm trong cộng đồng....Các nghiên cứu còn lại trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào
nghiên cứu hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV, nghiên cứu tỷ lệ lây nhiễm HIV, phân tích các
đặc điểm lâm sàng và điều trị nhiễm HIV/AIDS ngoại trú tại bệnh viện…[3].
Từ năm 2006 đến năm 2010, nhiều công trình nghiên cứu về HIV/AIDS tiếp tục ra
đời, trong đó, các nghiên cứu về “Kiến thức, thái độ, hành vi liên quan đến HIV/AIDS”
được đề cập nhiều hơn giai đoạn đầu, cụ thể như: nghiên cứu “Đánh giá kiến thức, thái độ,
hành vi về phòng chống nhiễm HIV/AIDS trên người dân 15 – 49 tuổi tại tỉnh Khánh Hoà”
của Trương Quốc Minh, năm 2008 trên 1040 người. Nghiên cứu chỉ ra rằng, người dân
nghe, biết về HIV/AIDS trên 95% và nguồn nhận thông tin nhiều nhất là qua tivi. Tuy
nhiên, nghe và biết ở đây chỉ là đặt câu hỏi khách hàng đã nghe về HIV/AIDS chưa với 2

lựa chọn là có hay không, 39.6% đối tượng nghiên cứu cho rằng muỗi đốt có thể lây truyền
HIV, 12,6% cho rằng HIV có thể lây truyền qua các giao tiếp thông thường, các câu hỏi
nhận thức về đường lây truyền chỉ dừng lại ở việc HIV lây qua mấy đường với ba lựa chọn
là HIV lây qua 3 đường, HIV lây qua 2 đường và HIV lây qua 1 đường. Phần lớn các nghiên
cứu về kiến thức, thái độ, hành vi chỉ dừng lại ở những câu hỏi cơ bản là người nghiên cứu
đã nghe nói về HIV/AIDS hay chưa, lây qua mấy đường, những tiếp xúc nào không
lây…với những câu hỏi mang tính chất “biết” nhiều hơn [6].
Một nghiên cứu khác nữa được thực hiện trên nhóm phụ nữ mang thai và phụ nữ tuổi
sinh đẻ tại TP.HCM năm 2009 về “Kiến thức, thái độ, hành vi về HIV/AIDS và dự phòng
lây truyền HIV từ mẹ sang con” với số mẫu là 400 người, được Trương Trọng Hoàng và
nhóm cộng sự thực hiện đã cho kết quả như sau: đối với kiến thức về cách nhận biết tình
trạng nhiễm HIV thì không có ai cho rằng có thể dự đoán qua vẻ bề ngoài nhưng chỉ có 53%
cho rằng xét nghiệm máu là biện pháp để xác định tình trạng HIV. Có 42% phụ nữ mang
thai cho rằng có thể dự phòng làm giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con, kênh truyền
thông được phụ nữ mang thai đánh giá là hiệu quả nhất chính là truyền hình với tỷ lệ 70%
lựa chọn.
Tóm lại, các nghiên cứu về kiến thức, thái độ, hành vi tại Việt Nam chủ yếu do các tác
20


giả làm việc trong ngành y tế thực hiện và chủ yếu nghiên cứu trên nhóm đối tượng có hành
vi nguy cơ cao như người tiêm chích ma tuý, hoạt động mại dâm, bạn tình của người có
HIV. Tại TP.HCM vẫn chưa tìm thấy các nghiên cứu về nhận thức về HIV/AIDS trên đối
tượng người dân nói chung cũng như những người tìm đến các phòng tham vấn, xét nghiệm
HIV nói riêng.
Bên cạnh đó, một vấn đề mà người nghiên cứu bức xúc là những khách hàng đến sử
dụng dịch vụ TVXNTN thì nhận thức của họ về HIV/AIDS như thế nào, họ đã có những
hiểu biết gì về HIV/AIDS, những hiểu biết đó là đúng hay sai, đủ hay chưa, họ đã biết cách
vận dụng những hiểu biết đó để bảo vệ bản thân hay không…chính là những vấn đề chúng
ta cần tìm hiểu để góp phần cải thiện, nâng cao nhận thức của khách hàng và đề xuất các

giải pháp đối với chương trình phòng chống HIV/AIDS hiện tại của thành phố.

1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
1.2.1. Lý luận về nhận thức
1.2.1.1. Khái niệm nhận thức
Nhận thức, tình cảm và hành động là ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người bởi
vì để có thể sống và hoạt động, con người phải nhận thức, tỏ thái độ và hành động đối với
thế giới khách quan. Một công việc mà con người luôn phải thực hiện là nhận thức thế giới
khách quan để từ đó hình thành những tình cảm tích cực cũng như tiêu cưc, từ những tình
cảm đó nó quyết định đến hành động tương ứng của con người. Nhận thức là tiền đề của
tình cảm và hành động ý chí nhưng đồng thời lại có mối liên hệ gắn bó, mật thiết và chặt
chẽ với tình cảm và hành động.
Hoạt động nhận thức là một hoạt động rất đặc trưng của con người nói chung và của mỗi
cá nhân nói riêng. Vì vậy, khi tìm hiểu về nhận thức cần xem xét ở nhiều góc độ khác nhau.
Chính vì điều này mà nhận thức vẫn đang được rất nhiều nhà khoa học trên thế giới và ở Việt
Nam quan tâm nghiên cứu. Khi tìm hiểu về khái niệm nhận thức, tác giả đã bắt gặp một số
khái niệm, định nghĩa về nhận thức như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện
hiện thực vào trong tư duy, quá trình con người nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan
hoặc kết quả của quá trình đó” [21].
Theo Từ điển Giáo dục học: “Nhận thức là quá trình hay là kết quả phản ánh và tái tạo
hiện thực vào trong tư duy của con người” [18].Như vậy, nhận thức được hiểu là một quá
21


trình, là kết quả phản ánh. Nhận thức là quá trình con người nhận biết về thế giới, hay là kết
quả của quá trình nhận thức đó.
Theo Từ điển Triết học: “Nhận thức là quá trình tái tạo lại hiện thực ở trong tư duy con
người, được quyết định bởi quy luật phát triển xã hội và gắn liền cũng như không thể tach
tời khỏi thực tiễn, nó phải là mục đích của thực tiễn, phải hướng tới chân lý khách quan”

[24].
Theo quyển “Giải thích thuật ngữ Tâm lý – Giáo dục học”: “Nhận thức là toàn bộ
những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc được chuyển hoá, được mã hoá, được
lưu giữ và sử dụng” [15].
Theo Triết học Mác – Lênin: “Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn” [2].
Theo tác giả Vũ Dũng trong quyển “Từ điển Tâm lý học”: “Nhận thức là hiểu được
một điều gì đó, tiếp thu được những kiến thức về điều nào đó, hiểu biết những quy luật về
hiện tượng, quá trình nào đó...” [17].
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: “Nhận thức là một hoạt động chủ thể hướng vào đối
tượng nhằm mục đích biết và hiểu đối tượng cũng như biết và điều chỉnh chính mình” [25].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực xung quanh,
hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động đối với thế
giới xung quanh và đối với bản thân mình” [3].
Tóm lại, có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về nhận thức nhưng tập trung
lại người ta thường đề cập đến những ý cơ bản sau:
- Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực xung quanh vào bản thân con người. trên
cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân
mình.
- Nhận thức mang bản chất xã hội, lịch sử.
- Nhận thức là một quá trình hoạt động, nhận thức gắn liền với mục đích và động cơ
và một hệ thống thao tác phù hợp của con người.
Thông qua quá trình nhận thức, con người phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thế giới
khách quan và bản thân con người dựa trên cơ sở thực tiễn nhằm mục đích biết và hiểu đối
tượng cũng như biết, hiểu và điều chỉnh chính mình [23].
Hoạt động nhận thức là một hoạt động bao gồm nhiều quá trình khác nhau, thể hiện
những mức độ phản ánh khác nhau và mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực
22



khách quan. Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành
hai giai đoạn lớn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
1.2.1.2. Các mức độ của nhận thức
a. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu, sơ đẳng trong toàn bộ hoạt động nhận thức của
con người. Đặc điểm chủ yếu của nhận thức cảm tính là chỉ phản ánh những thuộc tính bề
ngoài, cụ thể của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người.
Nhận thức cảm tính gồm có 2 mức độ: cảm giác và tri giác [26]
- Cảm giác: là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẽ của sự vật và
hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
- Tri giác: là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài
của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
b. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của nhận thức cảm tính. Nhận thức lý tính phản
ánh những mối liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con
người chưa biết. Do vậy mà nhận thức lý tính có vai trò rất quan trọng việc hiểu bản chất,
những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng tạo điều kiện để con người làm
chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình.
Nhận thức lý tính bao gồm hai mức độ: tư duy và tưởng tượng [26]
- Tư duy: là một quá trình phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và
quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta
chưa biết.
- Tưởng tượng: là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng
đã có.
Tóm lại, nếu nhận thức cảm tính chỉ phản ánh những thuộc tính bên ngoài của sự vật,
hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta thì quá trình nhận
thức lý tính phản ánh được những thuộc tính bên trong, bản chất, quy luật của sự vật, hiện
tượng và phản ánh được cả những sự vật hiện tượng không trực tiếp tác động vào các giác
quan của ta. Nhận thức cảm tính cung cấp cho con người vốn hiểu biết bên ngoài của sự vật,

hiện tượng còn nhận thức lý tính thì cung cấp cho ta vốn hiểu biết về thuộc tính bên trong
của sự vật, hiện tượng. Từ đó có thể biến đổi được các sự vật, hiện tượng vì đã nắm được
23


×