Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

những đặc trưng ngôn ngữ học xã hội của hiện tượng song ngữ việt – hoa tại quận 5, tp hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 193 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Bích Ngọc

NHỮNG ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ HỌC
XÃ HỘI CỦA HIỆN TƯỢNG SONG
NGỮ VIỆT – HOA TẠI QUẬN 5,
TP. HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Bích Ngọc

NHỮNG ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ HỌC
XÃ HỘI CỦA HIỆN TƯỢNG SONG
NGỮ VIỆT – HOA TẠI QUẬN 5,
TP. HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành

: Ngôn ngữ học

Mã số

: 60 22 01 02



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN VĂN KHANG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do cá nhân tôi thực hiện. Tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm về những điều mình viết ra ở đây.

Người cam đoan

Nguyễn Thị Bích Ngọc

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học cao học và làm luận văn này tôi đã nhận được sự giúp đỡ của
rất nhiều người. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Các thầy giáo, cô giáo của tôi, đặc biệt là GS.TS Nguyễn Văn Khang đã tận tình
chỉ dạy, hướng dẫn tôi đi đúng đường.
Bạn bè, gia đình đã động viên giúp tôi bước qua những khúc đường khó.
Các cộng tác viên, những người tôi gặp trong quá trình đi điều tra thực tế đã cộng
tác và cho tôi những kiến thức quý báu.
Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi xin
được trân trọng và biết ơn những góp ý chân thành của thầy cô.


Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 18 tháng 10 năm 2013.

Nguyễn Thị Bích Ngọc

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 6
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................ 7
3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 9
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 9
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn .................................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................................. 10

CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN ................................................................................ 11
1.1. Những nét khái quát về hiện tượng song ngữ ........................................................ 11
1.1.1. Song ngữ xã hội .................................................................................................... 11
1.1.2. Nguồn gốc của hiện tượng song ngữ .................................................................... 15
1.1.3. Sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ trong xã hội song ngữ ......................................... 18
1.2. Cảnh huống ngôn ngữ .............................................................................................. 22
1.2.1. Khái niệm cảnh huống ngôn ngữ ........................................................................ 22
1.2.2. Những nét chính về cảnh huống ngôn ngữ ở Việt Nam nói chung và ở Quận 5,

TP. HCM nói riêng ......................................................................................................... 25
1.3. Những nét khái quát về tiếng Hán và phương ngữ Hán liên quan đến đề tài
nghiên cứu ......................................................................................................................... 26
1.3.1. Tiếng Hán ............................................................................................................. 26
1.3.2. Phân loại phương ngữ Hán trong tiếng Hán hiện đại ........................................... 27
1.3.3. Phương ngữ Hán trong cộng đồng người Hoa ở Quận 5, TP. HCM.................... 29
1.4. Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 29

CHƯƠNG 2: TRẠNG THÁI SONG NGỮ VIỆT – HOA CỦA CỘNG ĐỒNG
NGƯỜI HOA Ở QUẬN 5, TP. HỒ CHÍ MINH ..................................................... 31
2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên và xã hội Quận 5, TP. HCM .............................. 31
2.1.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên ....................................................................................... 31
2.1.2. Đặc điểm lịch sử, kinh tế, xã hội .......................................................................... 32
2.2. Người Hoa ở quận 5, TP. HCM ............................................................................... 36
3


2.2.1. Lịch sử di cư và vai trò của người Hoa ở Quận 5 ................................................ 36
2.2.2. Phân bố dân cư ..................................................................................................... 38
2.2.3. Đời sống của người Hoa ở Quận 5, TP. HCM ..................................................... 41
2.3. Những nét cơ bản về tiếng Hoa ở Quận 5, TP. HCM ............................................ 44
2.3.1. Tiếng Hoa của người Hoa ở TP. HCM ................................................................ 44
2.3.2. Tiếng Hoa của người Hoa ở Quận 5, TP. HCM ................................................... 44
2.4. Năng lực ngôn ngữ và tình hình sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp của người
Hoa ở Quận 5, TP. HCM ................................................................................................. 45
2.4.1. Giới hạn đối tượng khảo sát ................................................................................. 45
2.4.2. Ý thức tự giác tộc người và tình hình tự nhận tiếng mẹ đẻ của người Hoa ở Quận
5, TP. HCM .................................................................................................................... 47
2.4.3. Năng lực ngôn ngữ của người Hoa ...................................................................... 51
2.5. Ngôn ngữ chọn dùng trong giao tiếp gia đình của người Hoa ở Quận 5, TP.

HCM .................................................................................................................................. 59
2.5.1. Ngôn ngữ của người Hoa dùng để giao tiếp với người thân theo góc độ giới tính59
2.5.2. Ngôn ngữ của người Hoa dùng để giao tiếp với người thân theo góc độ tuổi tác60
2.5.3. Ngôn ngữ của người Hoa dùng để giao tiếp với người thân theo góc độ nơi sinh62
2.5.4. Ngôn ngữ của người Hoa dùng để giao tiếp với người thân theo góc độ nơi ở ... 63
2.5.5. Ngôn ngữ của người Hoa dùng để giao tiếp với người thân, theo góc độ học vấn65
2.5.6. Ngôn ngữ của người Hoa dùng để giao tiếp với người thân từ góc độ nghề
nghiệp ............................................................................................................................. 65
2.6. Ngôn ngữ chọn dùng trong giao tiếp với khách của người Hoa ở Quận 5, TP.
HCM .................................................................................................................................. 66
2.6.1. Ngôn ngữ người Hoa chọn dùng để giao tiếp với khách theo góc độ giới tính .. 66
2.6.2. Ngôn ngữ người Hoa chọn dùng để giao tiếp với khách theo góc độ tuổi tác ..... 67
2.6.3. Ngôn ngữ người Hoa chọn dùng để giao tiếp với khách theo góc độ nơi sinh .... 68
2.6.4. Ngôn ngữ người Hoa chọn dùng để giao tiếp với khách theo góc độ nơi ở ........ 68
2.6.5. Ngôn ngữ người Hoa chọn dùng để giao tiếp với khách theo góc độ học vấn .... 69
2.6.6. Ngôn ngữ người Hoa chọn dùng để giao tiếp với khách theo góc độ nghề nghiệp70
2.7. Ngôn ngữ được chọn dùng để thể hiện nội tâm của người Hoa ở Quận 5, TP.
HCM .................................................................................................................................. 70
2.7.1. Đặt vấn đề ............................................................................................................. 70
2.7.2. Ngôn ngữ được chọn dùng trong ghi chép riêng .................................................. 71
2.7.3. Ngôn ngữ được chọn dùng để ca hát một mình ................................................... 74
2.7.4. Ngôn ngữ được chọn dùng để cầu cúng, tế lễ ...................................................... 76
2.7.5. Ngôn ngữ được chọn dùng để suy nghĩ................................................................ 77
4


2.8. Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 78

CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH DẠY VÀ HỌC TIẾNG HOA VỚI TƯ CÁCH LÀ
TIẾNG MẸ ĐẺ TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở QUẬN 5, TP. HỒ CHÍ

MINH .......................................................................................................................... 80
3.1. Đặt vấn đề .................................................................................................................. 80
3.2. Khái quát tình hình dạy và học tiếng Hoa chính qui tại Quận 5, TP. HCM....... 80
3.2.1. Trước 1975 ........................................................................................................... 80
3.2.2. Sau 1975 ............................................................................................................... 84
3.2.3. Những thuận lợi, khó khăn trong việc dạy tiếng Hoa trong nhà trường ở Quận 5,
TP. HCM ........................................................................................................................ 88
3.3. Năng lực song ngữ của học sinh người Hoa ........................................................... 89
3.3.1 Đối tượng khảo sát ................................................................................................ 89
3.3.2. Năng lực ngôn ngữ của HS người Hoa ................................................................ 89
3.3.3. Những khó khăn của HS người Hoa khi học tiếng Việt ...................................... 92
3.4. Ý kiến của học sinh và phụ huynh người Hoa đối với việc sử dụng ngôn ngữ
trong nhà trường .............................................................................................................. 92
3.4.1. Ý kiến của học sinh người Hoa đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường92
3.4.2. Ý kiến của phụ huynh người Hoa với việc sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường. 94
3.4.3. Thực trạng giáo dục tiếng Hoa trong cộng đồng .................................................. 95
3.5. Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 97

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 101
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 107

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CB – CNV

Cán bộ - công nhân viên


ĐHQG

Đại học quốc gia

GS

Giáo sư

HS

Học sinh

HS- SV

Học sinh- sinh viên

KHXH

Khoa học xã hội

Nxb

Nhà xuất bản

SV

Sinh viên

TP. HCM


Thành phố Hồ Chí Minh

TS

Tiến sĩ

TH

Tiểu học

Tr.

Trang

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1) Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc và đa ngôn ngữ. Với chủ
chương bình đẳng dân tộc trong đó có bình đẳng về ngôn ngữ, các ngôn ngữ ở Việt
Nam có sự phân bố về chức năng: Tiếng Việt đảm nhiệm vai trò “quốc ngữ”, làm

phương tiện giao tiếp chung giữa các dân tộc, làm ngôn ngữ chính trong các hoạt
động bộ máy nhà nước, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong khoa học kĩ
thuật, công nghệ và là ngôn ngữ chính thức trong giáo dục. 53 ngôn ngữ của 53 dân
tộc ít người là ngôn ngữ giao tiếp trong nội bộ dân tộc bên cạnh tiếng Việt. “Ở các
vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng đồng thời với tiếng và chữ
phổ thông” (Quyết định 53 CP). Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã tạo đà cho công cuộc bảo vệ, phát triển và hiện đại hóa tiếng Việt; bảo
tồn và phát huy các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Xét ở góc độ ngôn ngữ,
cũng nhờ đó mà tạo nên cảnh huống đa ngữ tại các vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
2) Với tư cách là tiếng mẹ đẻ của dân tộc Hoa, tiếng Hoa ở Việt Nam được bảo
tồn và phát huy, trở thành công cụ giao tiếp của người Hoa bên cạnh tiếng Việt. Vì
thế, trạng thái song ngữ Việt – Hoa là không thể tránh khỏi trong cộng đồng người
Hoa. Theo đó, những hệ quả của trạng thái song ngữ này là tất yếu. Tuy nhiên cho
đến nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
3) Luận văn này, chúng tôi chọn Quận 5 của TP. Hồ Chí Minh, nơi cộng đồng
người Hoa sinh sống tập trung (chiếm tới 41,42% số dân của quận) làm đối tượng
khảo sát: “Những đặc trưng ngôn ngữ học xã hội của hiện tượng song ngữ Việt Hoa tại quận 5, TP. Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Thông qua khảo sát cảnh huống song ngữ Việt – Hoa ở Quận 5TP.HCM, chúng tôi muốn góp phần nghiên cứu trạng thái song ngữ xã hội của người
Hoa ở Việt Nam, như sự phân bố chức năng giữa tiếng Việt với tiếng Hoa; góp phần
vào nghiên cứu trạng thái đa ngữ xã hội của ngôn ngữ học xã hội.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu
7


sau:
- Hệ thống hóa kiến thức về lí luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát đặc điểm về trạng thái song ngữ Hoa - Việt của người Hoa trong
giao tiếp.
- Khảo sát đặc điểm về dạy học tiếng Hoa với tư cách là tiếng mẹ đẻ.

3. Lịch sử vấn đề
Đề tài người Hoa ở miền Nam Việt Nam nói chung và người Hoa ở Chợ Lớn
nói riêng đã thu hút sự quan tâm tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trước 1975 có thể kể đến một số công trình sau:
Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ của Đào Trinh Nhất, xuất bản
năm 1924. Tác phẩm này đã khái quát quá trình di dân của người Hoa và vai trò của
họ trong việc phát triển kinh tế miền Nam.
Người Hoa ở miền Nam Việt Nam của Tsai Maw Kuey (1965), luận án tiến sĩ
Đại học Sorbonne - Pháp. Trong luận án này, tác giả mô tả khá toàn diện về đời sống
xã hội người Hoa ở nhiều mặt: lịch sử di cư, sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội của
người Hoa ở miền Nam Việt Nam; đặc biệt tác giả nhấn mạnh hoạt động kinh tế cũng
như vị trí kinh tế của người Hoa ở miền Nam Việt Nam.
Sau 1975, đặc biệt là từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, vấn đề người
Hoa càng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Với Các nhóm cộng đồng người Hoa
ở Việt Nam, tác giả Châu Hải đã giới thiệu những nét chính về quá trình di cư của
người Hoa đến Việt Nam, các hình thức liên kết, sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội
của người Hoa ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Tuy đề tài người Hoa ở miền Nam Việt Nam được khá nhiều học giả quan tâm
nhưng các tác giả chủ yếu nghiên cứu khía cạnh đời sống văn hóa xã hội. Mãi tới
năm 1994, trong cuốn Xã hội người Hoa ở TP. HCM sau năm 1975, Mạc Đường
mới nhắc vài nét sơ lược tình hình giáo dục của người Hoa.
Thời gian gần đây cũng có nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ ở các trường Đại học
Sư phạm TP.HCM, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, Học viện Ngôn
ngữ… lấy đề tài nghiên cứu liên quan đến người Hoa nhưng chỉ có một luận án
ngành ngôn ngữ học là Những đặc trưng ngôn ngữ học xã hội của hiện tượng song
8


ngữ tại An Giang (Trên cứ liệu song ngữ Việt - Hoa) cùa Hoàng Quốc. Tiếp tục con
đường nghiên cứu này trong lĩnh vực ngôn ngữ học, chúng tôi muốn thêm một tiếng

nói, thêm một địa hạt, thêm một cách nhìn về hiện tượng song ngữ xã hội Việt - Hoa .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của luận văn là những người Hoa sống tại Quận 5, TP.
HCM. Hiện nay Quận 5 có 15 phường được đánh theo thứ tự từ 1 đến 15 theo hướng
từ Đông sang Tây, diện tích 4.14 km², dân số 174.154 người (trong đó có 72.142
người Hoa). Chúng tôi tiến hành khảo sát ở một số khu phố, con hẻm ở từng phường
nhưng đặc biệt quan tâm phường 6, 7, 11, 13, 14, 15 vì đây là những phường có đông
người Hoa sinh sống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp điều tra ngôn ngữ học xã hội bằng anket kết
hợp với quan sát và phỏng vấn sâu; phương pháp quy nạp trong nghiên cứu, hệ thống
hóa vấn đề; phương pháp phân tích định lượng, có sử dụng phần mềm quản lý dữ liệu
và thống kê SPSS (Statistic Package for Social Science) trong xử lí số liệu; phương
pháp đối chiếu và thống kê. Bên cạnh đó chúng tôi cũng sử dụng các thủ pháp thu
thập, phân tích tư liệu mà ngôn ngữ học truyền thống thường sử dụng.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn nghiên cứu trạng thái song ngữ Việt – Hoa ở Quận 5 , TPHCM
nhằm mục đích góp thêm một thực tế nghiên cứu hiện tượng song ngữ xã hội từ góc
nhìn của ngôn ngữ học xã hội. Từ đó thêm một tiếng nói làm sáng tỏ những khái
niệm của ngôn ngữ học xã hội như cảnh huống ngôn ngữ, vấn đề giao tiếp trong xã
hội song ngữ, tiếp xúc ngôn ngữ, vay mượn ngôn ngữ. Bên cạnh đó luận văn cũng
mong góp một phần nhỏ giúp những nhà quản lí hoạch định chính sách ngôn ngữ,
định hướng giáo dục song ngữ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn trước tiên là để giúp giáo viên giảng dạy tiếng
Việt ở phổ thông có đối tượng là học sinh người Hoa, hiểu rõ cảnh huống ngôn ngữ,
9



đặc điểm nói năng, thái độ ngôn ngữ của học sinh và phụ huynh người Hoa. Từ đó
nâng cao hiệu quả giảng dạy, nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt của học sinh
người Hoa. Mặt khác, kết quả nghiên cứu này còn giúp những nhà quản lý giáo dục,
lãnh đạo Quận Ủy Quận 5, TP. HCM có cái nhìn đầy đủ hơn về tình hình tiếng nói,
chữ viết của người Hoa ở trên địa bàn. Trên cơ sở đó những người có trách nhiệm
đưa ra những chính sách bảo tồn tiếng nói dân tộc, xem xét đầu tư cho giáo dục song
ngữ một cách phù hợp.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Trình bày những vấn đề lý thuyết làm cơ sở nghiên cứu của luận văn. Bên cạnh
đó giới thiệu những nét khái quát về tiếng Hán, phương ngữ Hán liên quan đến người
Hoa ở Việt Nam.
Chương 2: Trạng thái song ngữ Việt - Hoa của cộng đồng người Hoa ở
Quận 5 - TP. HCM
Giới thiệu khái quát về cộng đồng người Hoa ở quận Quận 5, TP. HCM. Đánh
giá năng lực, thái độ lựa chọn ngôn ngữ của người Hoa trên cơ sở khảo sát đặc điểm
giao tiếp bằng phiếu điều tra.
Chương 3: Tình hình giáo dục tiếng Hoa với tư cách là tiếng mẹ đẻ tại cộng
đồng người Hoa ở Quận 5 - TP. HCM
Lịch sử giáo dục tiếng Hoa của người Hoa ở Quận 5, TP. HCM. Năng lực ngôn
ngữ của học sinh, thái độ ngôn ngữ của học sinh trong nhà trường.

10


CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Những nét khái quát về hiện tượng song ngữ
1.1.1. Song ngữ xã hội


Xã hội ngày càng phát triển, vách ngăn khoảng cách địa lý ngày càng mờ nhạt,
thế giới ngày càng tương thông. Thấu hiểu ngôn ngữ cũng là một trong những lý do
khiến cho người ở quốc gia, dân tộc này gần gũi hơn với người ở quốc gia, dân tộc
khác. Từ giữa thế kỷ XX trở về trước, ngôn ngữ học truyền thống gọi hiện tượng một
người, một cá nhân ngoài biết tiếng mẹ đẻ còn biết thêm một thứ tiếng của dân tộc
hay quốc gia khác là người song ngữ. Vậy nên khái niệm song ngữ xã hội vừa dùng
để chỉ hiện tượng sử dụng hai hay trên hai ngôn ngữ của người song ngữ vừa dùng để
chỉ hiện tượng sử dụng hai hay trên hai ngôn ngữ để giao tiếp trong xã hội. Cuối thế
kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, cục diện chính trị thế giới chuyển từ đối đầu
sang đối thoại, cộng thêm sự ra đời của Internet nên một người ở quốc gia, dân tộc
này dễ dàng học, sử dụng ngôn ngữ của một quốc gia dân tộc khác. Theo thời gian, số
người không chỉ biết thêm một mà nhiều ngôn ngữ khác ngoài tiếng mẹ đẻ ngày càng
tăng. Từ đó nảy sinh khái niệm “đa ngữ” và “người đa ngữ”. Tuy nhiên theo Nguyễn
Văn Khang [40, tr.113] ngay cả trước kia, khi sử dụng thuật ngữ “song ngữ” cũng đã
bao hàm cả “đa ngữ” trong đó. Trong luận văn này chúng tôi chọn cách gọi “song
ngữ” và song không chỉ có nghĩa là hai mà có thể là hơn hai.
Như trên vừa trình bày thì ba khái niệm tiếng mẹ đẻ, người song ngữ và hiện
tượng song ngữ có liên quan mật thiết với nhau.
Bao giờ cũng vậy khi nói đến hiện tượng song ngữ luôn luôn có một ngôn ngữ
được coi là “ngôn ngữ thứ nhất”. Nói đến ngôn ngữ thứ nhất, người ta thường nghĩ
ngay đến tiếng nói đầu tiên, tiếng của cha mẹ nói khi sinh ra con. Đương nhiên
Tiếng mẹ đẻ được dùng để chỉ tiếng của cha mẹ, tiếng của dân tộc. Nếu hiểu như vậy
chúng ta thử giả dụ: anh A người Hoa lấy chị B là người Việt, con họ sinh ra ở Quận
5, TPHCM chỉ biết nói tiếng Việt mà không biết nói tiếng Hoa. Sau đó gia đình
chuyển đến Mỹ sinh sống, đứa bé đi học trường Mỹ nói tiếng Anh Mỹ quên dần tiếng
Việt. Vậy tiếng mẹ đẻ của đứa trẻ là tiếng gì?
11



Theo định nghĩa rộng thì bất cứ thứ tiếng nào mà không có truyền thống chữ
viết thì đều được coi máy móc là phương ngữ của một ngôn ngữ địa phương và đứa
trẻ mà nói thứ ngôn ngữ địa phương nhóm nhỏ chưa có chữ viết đó lập tức sẽ
được coi là tiếng mẹ đẻ của nó (cho dù đứa trẻ ấy không biết nhiều lắm về ngôn ngữ
này).
Theo định nghĩa hẹp, tiếng mẹ đẻ là tiếng nói dùng trong gia đình (bất kể
trình độ phát triển của thứ tiếng ấy như thế nào). Đây là cách nhìn nhận tiếng mẹ đẻ
từ tình hình ngôn ngữ ở Ấn Độ. Ấn Độ là quốc gia có tới 200 ngôn ngữ được xếp loại
(còn thực tế có khoảng 1625 ngôn ngữ và phưong ngữ). Ấn Độ lại là một quốc gia có
lập trường đa nguyên về giáo dục song ngữ vì thế cần phải có một khái niệm mang
tính thực tế về tiếng mẹ đẻ.
Từ một cách nhìn nhận khác, U. Weinreich cho rằng, nhóm người nói tiếng mẹ
đẻ là nhóm người trong điều kiện song ngữ chỉ học được một trong các ngôn ngữ là
ngôn ngữ thứ nhất.
Theo A. Martinet, nếu chỉ lấy cảm giác để gán cho một ngôn ngữ nào đó là
ngôn ngữ thứ nhất thì đó là một việc làm không hợp chuẩn, vì các cảm giác này
không ổn định theo thời gian. Có thể, khi người ta còn bé thì họ cho ngôn ngữ này là
ngôn ngữ thứ nhất, nhưng khi lớn lên, do hàng loạt các nhân tố xã hội trong đó chủ
yếu là môi trường ngôn ngữ, người ta lại có thể cho ngôn ngữ khác là ngôn ngữ thứ
nhất. Từ đó. A.martinet đi đến kết luận, cần kiên quyết gạt bỏ quan điểm cho rằng,
khái niệm tiếng mẹ đẻ được bảo tồn ở vị trí thống trị của một con người từ thời thơ ấu
cho đến lúc chết.
Một số nhà nghiên cứu khác như V.Page lại cho rằng, trong xã hội đa ngữ mà
một người từ lúc biết đến hai hoặc hơn hai ngôn ngữ thì khái niệm tiếng mẹ đẻ chỉ có
giá trị tương đối không ổn định. Vì: Một là việc xác định tiếng mẹ đẻ sẽ dựa trên cảm
giác của người nói, hai là coi tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ thứ nhất thì tiếng mẹ đẻ được
học trước tiên so với các tiếng khác.
Nhiều khi tiếng mẹ đẻ còn phụ thuộc vào nhóm, tộc người nhất định, tức là liên
quan đến ý thức tộc người, đó là ý thức tự xưng, tự nhận dân tộc, và cũng vậy, đó là ý
thức tự nhận tiếng mẹ đẻ. [40, tr.118-119].

12


Với một hiện tượng, một khái niệm tưởng như đơn giản, nhưng ở trong xã hội
song ngữ, con người phải di chuyển, thay đổi môi trường sống, thay đổi ngôn ngữ,
hội nhập thế giới nên theo thời gian việc xác định tiếng mẹ đẻ cho thế hệ sau (thế hệ
tiếp theo) là điều không hề đơn giản. Chính vì vậy tổ chức giáo dục và văn hóa của
Liên hợp quốc (UNESCO) khi xem xét vấn đề giáo dục bằng bản ngữ đã đưa ra khái
niệm tiếng mẹ đẻ:
Tiếng mẹ đẻ “là ngôn ngữ mà con người được học trong những năm đầu của
đời mình và thường trở thành công cụ tư duy và truyền thống tự nhiên”. “Tiếng mẹ
đẻ không cần phải là thứ tiếng mà cha, mẹ đứa bé dùng cũng không cần phải là ngôn
ngữ ngẫu nhiên mà đứa trẻ học để nói, bởi vì có những hoàn cảnh đặc biệt làm cho nó
vào một tuổi rất sớm đã bỏ một phần hay bỏ hoàn toàn ngôn ngữ đó” (UNESCO
1968). Với định nghĩa này thì chúng ta đã có thể tìm được câu trả lời cho trường hợp
giả dụ ở trên. Ngoài ra, UNESCO cũng đưa ra khái niệm Tiếng bản xứ và Người
không có tiếng mẹ đẻ để nói rõ hơn một số vấn đề liên quan đến tiếng mẹ đẻ.
Tiếng bản xứ (Vernacular - cách gọi khác là thổ ngữ): “Đó là tiếng mẹ đẻ của
một nhóm bị một nhóm khác nói một thứ tiếng khác thống trị về xã hội hay chính trị.
Chúng tôi không coi ngôn ngữ của một nhóm thiểu số trong một nước là bản ngữ nếu
đó là ngôn ngữ chính thức của nước khác” (UNESCO 1968).
SWONAL (speakers without a native language; người không có tiếng mẹ đẻ).
Năng lực ngôn ngữ chủ yếu của người không có tiếng mẹ đẻ không phải là ở tiếng mẹ
đẻ của họ cũng không phải ở ngôn ngữ thứ hai mà họ học được mà là ở ngôn ngữ
trung gian. Người không có tiếng mẹ đẻ thường sống ở xã hội mà ngôn ngữ thứ hai
của họ đang thịnh hành trong giao tiếp. Ví dụ, đối với hậu duệ của người Hoa ở Bắc
Mĩ thì ngôn ngữ thứ nhất của họ là tiếng Hán nhưng hầu như không có ai biết tiếng
Hán mà chỉ biết tiếng Anh theo kiểu pha trộn.
Người song ngữ là nhân tố trung tâm của hiện tượng song ngữ xã hội. Người
song ngữ là người ngoài tiếng mẹ đẻ còn biết và có thể sử dụng một hoặc nhiều ngôn

ngữ khác trong quá trình giao tiếp. Làm sao để đánh giá mức độ “biết” của “người
song ngữ”?
Quan điểm thứ nhất, các nhà ngôn ngữ học Mỹ cho rằng, song ngữ là việc nắm
13


như nhau hai ngôn ngữ. Theo Fishman, J.A (1966), song ngữ là phản ánh sự biết nói
năng trong giao tiếp nhờ vào phương tiện của hơn một ngôn ngữ. Khi năng lực ngôn
ngữ của cá nhân sử dụng ngôn ngữ thứ hai (gồm một hay hơn một ngôn ngữ) đạt đến
trình độ thuần thục (co-ordinated) thì được coi là người song ngữ hoàn toàn. Thuần
thục có nghĩa là khả năng nắm bắt một cách chủ động, tự do như nhau hai ngôn ngữ
đến mức có thể tư duy trực tiếp bằng từng ngôn ngữ mà không cần tư duy chuyển
dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác [40, tr.115]. Đạt đến trình độ như vậy, thì
các cá nhân song ngữ có thể sử dụng các ngôn ngữ một cách tự nhiên tùy vào bối
cảnh giao tiếp cụ thể mà không cảm thấy có sự chênh lệch về khả năng sử dụng giữa
các ngôn ngữ có nghĩa là không cần phải trải qua khâu dịch lại trong giao tiếp hoặc
trong tư duy. Trên thực tế không nhiều người có khả năng nắm vững một cách hoàn
hảo hai ngôn ngữ.. Với tiêu chí này thì người song ngữ hoàn toàn rất ít. Theo
Holmogrob A.I (1972), ở Liên Xô (cũ) trước đây số người có năng lực song ngữ như
vậy chỉ chiếm khoảng 2 đến 5%. Theo Gai Xing Zhi (1997) - giáo sư ở Học viện Dân
tộc Vân Nam –Trung Quốc, chỉ có những trẻ em ngay từ khi sinh ra ở môi trường
song ngữ thì mới hy vọng là người song ngữ hòan toàn [40.tr 116]. Trẻ em người Hoa
ở Quận 5 TPHCM có hoàn cảnh song ngữ khá thuận lợi để trở thành người song ngữ
hoàn toàn nhưng thực tế điều tra cho thấy không nhiều trẻ em và người lớn có năng
lực song ngữ đạt đến mức thuần thục. Vậy nên cách đánh giá trên chỉ là một cái nhìn
mang tính lý tưởng hóa, những cá nhân có năng lực sử dụng thuần thục hai ngôn ngữ
được coi là “người song ngữ lý tưởng”.
Nếu chỉ căn cứ vào tiêu chí “thuần thục” thì chúng ta sẽ bỏ qua nhiều hiện
tượng đa ngữ mang tính phổ biến trên thế giới. Trên thực tế, có rất nhiều người song
ngữ trừ ngôn ngữ thứ nhất được coi là “có kỹ năng tự phát”, đối với các ngôn ngữ

còn lại chỉ cần hiểu biết và nắm vững ở một trình độ nhất định ở mức độ hạn định
(Osgood,1965). Như vậy yêu cầu đối với người song ngữ là ngoài tiếng mẹ đẻ thì các
ngôn ngữ khác phải đạt đến mức độ sử dụng để giao tiếp được trong lĩnh vực mà
mình quan tâm. Kiểu người song ngữ này được gọi là người song ngữ không hoàn
toàn (người song ngữ bộ phận, người song ngữ có điều kiện). So với người song ngữ
hoàn toàn, năng lực hay trình độ song ngữ của người song ngữ không hoàn toàn ở
14


mức độ thấp hơn nhiều, nhưng nó lại chính là hiện tượng song ngữ phổ biến. Ví dụ,
trong những trẻ song ngữ ở Quận 5, TP. HCM, có trẻ khi ở nhà vừa dùng tiếng Việt
vừa dùng tiếng Hoa phương ngữ để nói chuyện với người trong gia đình, khi đến
trường thì hoàn toàn dùng tiếng Việt để trao đổi với thầy cô, bạn bè. Kết quả những
trẻ em này không biết chữ Hoa mà chỉ có khả năng giao tiếp nói bằng tiếng Hoa
phương ngữ khi có điều kiện hoàn cảnh phù hợp. Chính vì thế năng lực tiếng Việt của
các em trội hơn hẳn so với năng lực tiếng Hoa. Một số phụ nữ người Hoa ở Quận 5,
TP. HCM thuộc lứa tuổi từ 50 tuổi đến 80 làm nghề nội trợ hoặc buôn bán nhỏ lẻ thì
ngược lại, họ nói tiếng Hoa phương ngữ khi ở nhà, khi ra đường, và cả khi buôn bán.
Họ chỉ dùng tiếng Việt khi khách hàng là người Việt nên khả năng nói và viết tiếng
Việt rất hạn chế.
Ngôn ngữ học xã hội nhìn nhận hiện tượng song ngữ không chỉ ở cá nhân
song ngữ mà quan trọng hơn đó là cộng đồng song ngữ. Trong xã hội có nhiều cá
nhân song ngữ, khi họ tiến hành giao tiếp với nhau thì hình thành nên xã hội song
ngữ, và ngược lại xã hội song ngữ cũng chỉ có thể hình thành và tồn tại khi có các cá
nhân song ngữ tương tác với nhau. Vậy nên song ngữ xã hội chính là hiện tượng
trong một xã hội sử dụng hai hoặc trên hai ngôn ngữ để giao tiếp. Nói cách khác, đó
là hiện tượng các ngôn ngữ cùng hành chức trong một xã hội [40, tr.114]. Khái niệm
“xã hội” trong ngôn ngữ học xã hội là một khái niệm rộng. Xã hội có thể là cả một
thế giới, một khu vực, một quốc gia, một dân tộc nhưng có khi nó lại chỉ bó gọn trong
một phạm vi hẹp hơn nhiều với ý nghĩa khác nhau như xã hội - nghề nghiệp, xã hội –

giới… Ví dụ: xã hội song ngữ ở Quận 5 hiện nay rất phong phú nhưng tựu trung và
dễ thấy nhất là trạng thái song ngữ giữa tiếng Hoa phương ngữ và tiếng Việt; tiếng
Hoa phương ngữ và tiếng Hoa phổ thông. Vì vậy trong đa số cuộc họp mặt của
người Hoa đều được tiến hành bằng ba ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Hoa phương ngữ
và tiếng Hoa phổ thông.
1.1.2. Nguồn gốc của hiện tượng song ngữ

Có quá nhiều nhân tố mà người nghiên cứu phải nghĩ đến khi truy tìm nguồn
gốc của hiện tượng song ngữ xã hội. Thực tế, song ngữ là kết quả của sự tương tác
qua lại của nhiều nhân tố xã hội. Nổi bật là một số nhân tố sau:
15


1.1.2.1. Song ngữ do di dân

Cuối thế kỷ thứ XVII, Trần Thượng Xuyên cùng binh lính đến xin tị nạn chính
trị ở Việt Nam liền được Chúa Nguyễn đưa đến Cù Lao Phố. Trước lúc này ở đây đã
có người Việt từ miền Trung vào sinh sống, rồi sau còn có người Chăm, người Khơme qua lại trao đổi hàng hóa. Để việc trao đổi được thuận lợi bắt buộc hai bên phải
học ngôn ngữ của nhau. Lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận nhiều đợt di dân của người
Việt ra nước ngoài. Năm 1937 ở Cao Miên có 191.000 người Việt Nam, giai đoạn
1975- 1995 cũng có hàng trăm nghìn người Việt Nam nhập cư vào Mỹ, hiện nay
trung bình mỗi năm từ Việt Nam có khoảng 80.000 người đi hợp tác lao động, 60.000
du học sinh và hàng chục ngàn người kết hôn với người nước ngoài… Dù di dân vì
bất cứ lí do gì, học hành, hôn nhân, chính trị, kinh tế hay chiến tranh thì người di dân
vẫn luôn sống trong môi trường song ngữ giữa tiếng dân tộc mình và tiếng của nước
sở tại. Cho nên, tình trạng di dân là một nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn đến
hiện tượng song ngữ .
Các nhóm người Hoa đến Việt Nam rồi ở lại sống xen với người Việt, không
riêng gì Quận 5 mà cả TP. HCM, phường nào, khu phố nào cũng có người Hoa.
Trong quá trình sinh sống chung không chỉ người Hoa học tiếng Việt mà cả người

Việt cũng học tiếng Hoa phương ngữ. Theo số liệu thống kê dân số năm 2009, thành
phần dân tộc ở TP. HCM và nhiều thành phố lớn khác trên cả nước có đủ 54 dân tộc
anh em và rất đông người nước ngoài cùng cư trú(bảng 1.1). Chính đặc điểm này làm
cho trạng thái song ngữ ở Việt Nam nói chung, TP.HCM nói riêng trở nên đa dạng và
phức tạp.

16


Bảng 1.1. Thống kê thành phần dân tộc ở TP. HCM năm 2009
(Nguồn: Tổng cục thống kê 2009)
STT

DÂN TỘC/DÂN SỐ

TỔNG

NAM

NỮ

Toàn thành phố

7.162.864

3.435.736 3.727.130

1.

Kinh


6.699.124

3.204.464 3.494.660

2.

Hoa

414.045

208.768

205.277

3.

Tày

4.514

2.119

2.422

4.

Thái

2.390


787

1.603

5.

Mường

3.462

1.526

1.936

6.

Khơ me

24.268

10.853

13.416

7.

Nùng

2.517


1.195

1.376

8.

Hmông

252

131

121

9.

Dao

306

139

167

10. Gia Rai

163

65


98

11. Ê đê

367

160

207

12. Ba na

92

45

47

13. Sán Chay

266

111

155

14. Chăm

7.819


3.864

3.955

15. Cơ Ho

247

109

138

16. Xơ Đăng

53

19

34

17. Sán Dìu

224

118

106

18. Hrê


78

34

44

19. RaGlai

75

26

49

1128

659

469


55. Người nước ngoài
1.1.2.2. Song ngữ do chính trị

Đầu thế kỷ XX, Liên Xô là cánh chim đầu đàn của Chủ nghĩa Cộng sản, là một
siêu cường quốc có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Vì vậy nửa thế giới, trong đó có Việt
Nam chọn tiếng Nga là ngoại ngữ dạy trong nhà trường, đặc điểm này tạo nên trạng
17



thái song ngữ tiếng dân tộc và tiếng Nga. Năm 1991, Liên Xô tan rã, Việt Nam kiên
định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội nhưng nhận thức rõ thời kỳ quá độ với
những cơ hội và thách thức mới. Việt Nam ra nhập WTO đồng nghĩa với hội nhập thế
giới, đa số nhà trường Việt Nam chuyển môn ngọai ngữ từ tiếng Nga sang tiếng Anh,
trạng thái song ngữ mới giữa tiếng Việt và tiếng Anh được hình thành. Thế kỷ XVII
ở Trung Hoa vì lí do thay vua đổi chủ đã tạo ra làn sóng người Trung Hoa bỏ quê
hương di cư đến các nước Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam). Từ đó tạo ra trạng
thái song ngữ của tiếng nước sở tại với tiếng dân tộc của những người mới đến. Hai
ví dụ trên đã chứng minh chính trị cũng là một nguyên nhân có tác động đến hiện
tượng song ngữ xã hội.
1.1.2.3. Song ngữ do giáo dục song ngữ

Học sinh người Hoa ở Quận 5, TP. HCM bên cạnh chương trình chính khóa
bằng tiếng Việt còn được học tăng cường thêm tiếng Hoa để bảo tồn và phát huy
tiếng dân tộc thiểu số. Nguyên nhân này tạo nên trạng thái song ngữ Hoa - Việt. Hơn
thế nữa tiếng Anh với vai trò là ngôn ngữ quốc tế có ảnh hưởng lớn đến đời sống
kinh tế, chình trị đương nhiên sẽ trở thành một ngoại ngữ chính thức được chọn dạy
trong trường phổ thông. Từ đây sẽ tạo thành trạng thái song ngữ giữa tiếng Anh với
tiếng Việt, tiếng Anh với tiếng Hoa hoặc tiếng Anh với tiếng các dân tộc thiểu số
khác. Chính chính sách giáo dục song ngữ trong nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển trạng thái song ngữ.
1.1.3. Sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ trong xã hội song ngữ
1.1.3.1. Tiếp xúc ngôn ngữ

Theo ngôn ngữ học truyền thống, ngôn ngữ tồn tại trong bộ não của con người,
do đó khi hai hoặc hơn hai ngôn ngữ cùng tồn tại trong bộ não của một con người sẽ
tạo ra tiếp xúc.
Tiếp xúc ngôn ngữ trước hết xảy ra ở một số cá nhân đơn lẻ với tư cách là
thành viên cộng đồng. Kết quả của sự tiếp xúc này sẽ được các thành viên xã hội đa

ngữ mở rộng ra toàn xã hội. Như vậy sự nảy sinh tiếp xúc ngôn ngữ được hình thành
từ việc học thêm một thứ tiếng khác. Ví dụ tiếp xúc giữa tiếng Hoa phương ngữ ở
18


miền Nam Việt Nam và tiếng Việt đã tạo ra những âm tiếng Việt mô phỏng tiếng Hoa
phương ngữ như: Đậu hũ ki (món ăn chay làm từ đậu nành - mô phỏng tiếng Hẹ), Hủ
tiếu (bánh làm từ gạo dạng sợi vuông nhỏ dài dùng để ăn với nước súp - mô phỏng
tiếng Tiều), xí quách (xương heo đã ninh lấy nước súp - mô phỏng từ tiếng Quảng
Đông).
Ngôn ngữ học xã hội xem xét ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của cả cộng đồng
và cá nhân là một thành viên trong đó. “Tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng các ngôn
ngữ cùng tồn tại trong một cộng đồng với các thành viên sử dụng chúng trong giao
tiếp và do đó giữa chúng có ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra các hệ quả về ngôn ngữ” [40,
tr.146].
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, tiếp xúc ngôn ngữ là một hiện tượng phổ
biến. Trước hết, hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ thể hiện ở cá nhân người học ngôn ngữ
mới, với bất cứ người nào trong thời kỳ đầu học ngoại ngữ sẽ chịu ảnh hưởng của
cách phát âm và ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ. Ví dụ, người Việt khi mới học tiếng Anh
thường dùng phụ âm /t’/, /d/ trong tiếng Việt thay cho phụ âm /θ/. Khi người học
ngoại ngữ đã đạt đến một trình độ nhất định sẽ xảy ra hiện tượng tiếp xúc về mặt ứng
dụng đó là hiện tượng chuyển mã hay trộn mã trong giao tiếp.
Ví dụ, Ngày nay trong các cuộc trò chuyện của người Việt chúng ta rất dễ gặp
nhưng câu nói như:
- Em book vé 8g sáng mai cho anh rồi đó. (book - đặt)
- Ok, thanks em. (ok - ừ, thanks - cảm ơn)
- Tối nay anh có đi gặp ông Trần không?
- Chết, tí anh quên, em gọi điện cancel giúp anh nhé. (cancel - hủy ).
(ảnh hưởng về khẩu ngữ)
Hoặc :

- Nỉ đi một mình đi, ngổ về. (ảnh hưởng về khẩu ngữ)
Chính hệ quả của hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ này trong cộng đồng ngôn ngữ
của người Hoa ở Quận 5, TP. HCM đã làm cho trạng thái song ngữ ở đây rất phức tạp.
Khi nói đến hệ quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ, người ta hay bàn đến hướng ảnh hưởng,
tức là ngôn ngữ nào sẽ ảnh hưởng đến ngôn ngữ nào, hay nói cách khác là “hướng tác
19


động” giữa các ngôn ngữ. Về lý thuyết khi hai ngôn ngữ tiếp xúc với nhau thì sự ảnh
hưởng thường xảy ra ở cả hai chiều , có chiều đi có chiều lại, có chiều mạnh, có chiều
yếu, hai bên tương hỗ, tác động đến nhau.
Một là dựa trên nhân tố xã hội, nghĩa là nói đến tính cộng đồng xã hội khi hai
dân tộc nói hai ngôn ngữ khác nhau mà có tiếp xúc với nhau thì xu hướng chung là:
- Ngôn ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trị cao hơn sẽ ảnh hưởng
đến ngôn ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trị thấp hơn.
- Ngôn ngữ của dân tộc có trình độ văn hóa cao hơn sẽ ảnh hưởng đến ngôn
ngữ của dân tộc có trình độ văn hóa thấp hơn (thường qua các kênh giáo dục, văn hóa
nghệ thuật, văn học…)
- Ngôn ngữ có số lượng người nói đông hơn sẽ ảnh hưởng tới ngôn ngữ có số
lượng người nói ít hơn. [40,tr.148]
Hai là dựa trên nhân tố ngôn ngữ nghĩa là nói đến bản thân ngôn ngữ cũng
đóng vai trò quyết định hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ:
- Hai ngôn ngữ có quan hệ gần gũi hoặc cùng, gần nhau về loại hình thì quá
trình ảnh hưởng, vay mượn diễn ra dễ dàng hơn. Ví dụ tiếng Việt ảnh hưởng sâu sắc
và vay mượn một số lớn những từ tiếng Hán vì tiếng Việt và tiếng Hán cùng loại hình
ngôn ngữ đơn lập.
- Ngôn ngữ có chữ viết ảnh hưởng ngôn ngữ không hoặc chưa có chữ viết. Ví
dụ, trong một ngàn năm Bắc thuộc, tiếng Việt là ngôn ngữ chưa có chữ viết, đã mượn
văn tự Hán, vì vậy tiếng Việt đã mượn rất nhiều từ từ tiếng Hán.
Tiếp xúc ngôn ngữ không chỉ diễn ra thông qua con đường tiếp xúc thường

xuyên giữa các thành viên của các cộng đồng nói các ngôn ngữ khác nhau (ảnh
hưởng khẩu ngữ) mà còn xảy ra và ảnh hưởng sâu sắc từ sách vở, phim ảnh… Ví dụ
thông qua những bản dịch sách cổ Trung Hoa, phim cổ trang người Việt hay mượn
những từ như: tướng quân, thê tử, huynh, đệ, tỷ, muội…
1.1.3.2. Giao thoa ngôn ngữ

Hệ quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ là rất lớn, biểu hiện ở nhiều mặt và nhiều
mức độ khác nhau, giao thoa ngôn ngữ cũng là một trong những hệ quả của sự tiếp
xúc trực tiếp giữa các ngôn ngữ trong xã hội song ngữ.
20


Giao thoa (interference) vốn là thuật ngữ vật lí học “chỉ hiện tượng hai hay
nhiều sóng cùng tần số làm tăng cường hay làm suy yếu lẫn nhau khi gặp nhau tại
cùng một điểm” [40, tr.171]. Ngôn ngữ học dùng thuật ngữ này để chỉ hai hay hơn
hai ngôn ngữ tiếp xúc với nhau ở các cá thể hay cộng đồng thì hệ thống ngôn ngữ này
sẽ chịu ảnh hưởng của hệ thống ngôn ngữ khác tạo nên sự lan tỏa, tiếp biến và
chuyển thành các hiện tượng như mô phỏng hay vay mượn.
Giao thoa ở cá nhân người song ngữ tạo ra những hiện tượng lệch chuẩn hay
còn gọi là lỗi, trường hợp dễ thấy nhất là hiện tượng lệch chuẩn của ngôn ngữ thứ hai
dưới sự tác động của tiếng mẹ đẻ, (cũng có khi là sự lệch chuẩn của tiếng mẹ đẻ dưới
sự tác động của ngôn ngữ thứ hai-nhưng hiện tượng này ít hơn). Sự lệch chuẩn này
diễn ra ở cả bình diện cấu trúc hệ thống, bình diện giao tiếp và bình diện ngôn ngữ
văn hóa.
- Ở cấp độ ngữ âm, những người Hoa lớn tuổi, không thạo tiếng Việt, khi nói
thường thay tất cả trợ từ cuối câu “đây”, “rồi”, “hả”, “à”, “nhé”, “nha”… bằng “a”
hoặc “à” và âm “a”, “à” thường được kéo dài.
Ví dụ:
+ Ngổ tới rồi a. (đây)
+ Nỉ về a. (a)

- Ở cấp độ ngữ pháp, vì trong cấu trúc cú pháp tiếng Hoa thành phần phụ
thường đứng trước, thành phần chính đứng sau, ngược lại, trong tiếng Việt, thành
phần chính đứng trước thành phần phụ đứng sau nên nhiều người Hoa (không riêng
gì người Hoa ở Quận 5, TP. HCM) vẫn nhầm lẫn khi đặt câu.
Ví dụ:
+ Một người Hoa mua đồ ăn ở chợ Hòa Bình (Quận 5) hỏi giá hột vịt bắc thảo :
“Tiền bao nhiêu một bắc thảo hột vịt?”(Có nghĩa là: Bao nhiêu tiền một hột vịt bắc
thảo?
+ Hoặc khi chúng tôi hỏi: “Nam, nữ người Hoa ở các nhóm ngôn ngữ khác
nhau, hoặc nam, nữ người Hoa và người Việt có kết hôn với nhau không? Một vị cao
niên người Hải Nam trả lời như sau: “19 thế kỷ thì không chứ 20 thế kỷ thì có nhiều,

21


chẳng phân biệt gì nữa” (Nghĩa là: ở thế kỷ 19 thì không chứ thế kỷ 20 thì có nhiều,
chẳng phân biệt gì nữa.)
Tóm lại, chỉ khi trong một môi trường giao tiếp có sự hành chức của hai ngôn
ngữ trở lên mới xảy ra hiện tượng giao thoa, nói cách khác không có môi trường song
ngữ thì không có giao thoa .
1.1.3.3. Vay mượn ngôn ngữ

Vay mượn ngôn ngữ là hệ quả tất yếu của sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ. Lịch
sử hơn một ngàn năm Bắc thuộc cộng thêm đặc điểm địa lí tiếp giáp đã làm cho tiếng
Việt và tiếng Hán có sự tiếp xúc lâu dài. Vì vậy mà hơn 65% từ mượn trong tiếng
Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán. Hệ quả của gần 100 năm tiếp xúc giữa tiếng Việt và
tiếng Pháp là khoảng 3000 từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Vay mượn ngôn
ngữ là quá trính du nhập của các yếu tố từ ngôn ngữ cho vay sang ngôn ngữ đi vay.
Từ “vay mượn” trong đời sống hàng ngày dùng với nghĩa thiếu nên vay, mượn để
dùng tạm, sau đó có thì phải trả lại. Trong ngôn ngữ thì không hoàn toàn như vậy, có

lúc thiếu thì vay, sau đó có rồi vẫn không trả lại mà dùng cả hai. Người Việt thường
gọi tên những máy móc, hoặc bộ phận máy móc hiện đại nhập từ nước ngoài bằng
cách phiên âm, phỏng âm tiếng nước ngoài sau đó mới tạo ra từ mới. Lúc này cả hai
hoặc ba từ cùng gọi tên một sự vật vẫn được phép cùng tồn tại. Ví dụ: khi chiếc vô
tuyến lần đầu xuất hiện ở Việt Nam, tiếng Việt chưa có từ để gọi nên phải mượn từ
gốc tiếng Anh /television/ theo dạng phỏng âm là /ti vi/, sau đó xuất hiện các từ mới
tạo ra trong tiếng Việt để gọi tên đồ vật này là vô tuyến, hoặc máy thu hình. Sau đó cả
ba từ trên cùng tồn tại. Trường hợp thứ hai, có rồi nhưng vẫn vay, ví dụ: đàn bà/phụ
nữ, đẻ/sinh, chết/hi sinh/từ trần…Theo Nguyễn Văn Khang (2007) “chính hình thức
vay mượn này đã làm nên sự phân hóa về ngữ nghĩa của cả từ vay mượn và các từ
đồng nghĩa với chúng trong bản ngữ”[39,tr.25]. Tóm lại vay mượn ngôn ngữ là một
hiện tượng rất phổ biến, lớp từ vay mượn có mặt ở hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới.
1.2. Cảnh huống ngôn ngữ
1.2.1. Khái niệm cảnh huống ngôn ngữ

22


Nghiên cứu hiện tượng song ngữ trên bình diện ngôn ngữ xã hội thực chất là
khảo sát sự phân bố về mặt chức năng xã hội giữa các ngôn ngữ trong xã hội song
ngữ. Để làm được điều này trước tiên cần phải nắm được cảnh huống ngôn ngữ.
Cảnh huống ngôn ngữ (Language sitiuation) là tình hình tồn tại và hành chức của
các ngôn ngữ trong phạm vi cộng đồng hay lãnh thổ. [40, tr.58]. Cảnh huống ngôn
ngữ có thể chỉ giới hạn trong phạm vi của một ngôn ngữ hay một biến thể của ngôn
ngữ (phương ngữ địa lý hay phương ngữ xã hội), cũng có thể là của nhiều phương
ngữ hay nhiều biến thể.
Cùng với mục tiêu chính trị, cảnh huống ngôn ngữ là cơ sở quan trọng cho việc
hoạch định và thực hiện chính sách ngôn ngữ. Nói cách khác thông qua nghiên cứu
ngôn ngữ sẽ có được các thông số cần thiết làm cơ sở khoa học để giải quyết các vấn
đề ngôn ngữ của quốc gia, dân tộc như các vấn đề về chính sách ngôn ngữ, kế hoạch

hóa ngôn ngữ, lập pháp ngôn ngữ…
Có nhiều tiêu chí từ nhiều góc độ khác nhau để xác định cảnh huống ngôn ngữ
trong đó tiêu biểu là ba tiêu chí sau:
Một là, từ góc độ chung cho các ngôn ngữ, theo B.H Mikhalchenko, cảnh
huống ngôn ngữ gồm bốn nhân tố là:
- Nhân tố dân tộc-nhân khẩu: Thành phần dân tộc của cư dân trong một khu
vực, cách cư trú của những người thuộc các dân tộc khác nhau, sự phân hóa xã hội,
trình độ học vấn của họ, v.v.
- Nhân tố ngôn ngữ học: Trạng thái cấu trúc và chức năng của một ngôn ngữ
như sự hiện hữu ở ngôn ngữ này các phong cách chức năng, hệ thống thuật ngữ,
truyền thống chữ viết, v.v.
- Nhân tố vật chất: các cuốn từ điển, sách hội thoại, tài liệu, hệ thống lớp học
ngôn ngữ, v.v.
- Nhân tố con người: Những định hướng có giá trị của người bản ngữ có tài
năng về ngôn ngữ, v.v.
Hai là, nhìn nhận từ các xã hội đa ngữ, R.Hall cho rằng, khi nghiên cứu cảnh
huống song ngữ trong các nước song ngữ cần tập trung vào:

23


×