Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

quan hệ ấn độ việt nam trong bối cảnh quan hệ ấn độ asean giai đoạn 1975 1991

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.47 KB, 147 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ÐÀO TẠO
TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

MANG VIÊN NGỌC UYÊN

QUAN HỆ ẤN ĐỘ - VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH QUAN HỆ ẤN ĐỘ - ASEAN
GIAI ĐOẠN 1975 - 1991

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ÐÀO TẠO
TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

MANG VIÊN NGỌC UYÊN

QUAN HỆ ẤN ĐỘ - VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH QUAN HỆ ẤN ĐỘ - ASEAN
GIAI ĐOẠN 1975 - 1991
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN CẢNH HUỆ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích
dẫn trong luận văn là trung thực.

Tác giả luận văn

Mang Viên Ngọc Uyên


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình
của Ban giám hiệu Trường Đại học sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Phòng Khoa
học Công nghệ - Sau Đại học cùng các thầy cô Khoa Lịch Sử.
Đăc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Cảnh Huệ,
thầy đã dành nhiều thời gian và tận tình hướng dẫn em từ lúc bắt đầu cho đến
khi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân đã hỗ trợ vật chất cũng như
tinh thần cho tôi trong suốt thời gian hoc tập và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!!!


1

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC ...................................................................................................................1
BẢNG QUI ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................3

PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................4
CHƯƠNG 1: QUAN HỆ ẤN ĐỘ - ASEAN TỪ 1975 ĐẾN 1991 .........................12
1.1 Quan hệ chính trị.............................................................................................12
1.1.1 Những cơ sở của mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991 .......12
1.1.2 Thành tựu trong quan hệ chính trị Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991 .23
1.2 Quan hệ kinh tế Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991 .....................................37
1.2.1 Khái quát mối quan hệ kinh tế Ấn Độ - Đông Nam Á ............................38
1.2.2 Thành tựu trong quan hệ kinh tế Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991. ...40
Tiểu kết chương 1......................................................................................................67
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ ẤN ĐỘ - VIỆT NAM TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ
TỪ 1975 ĐẾN 1991 ..................................................................................................69
2.1 Những cơ sở của quan hệ chính trị Việt Nam - Ấn Độ từ 1975 đến 1991 .....70
2.1.1 Mối quan hệ truyền thống hữu nghị giữa hai nước. ................................70
2.1.2 Hai nước có nhiều điểm tương đồng, gần gũi. ........................................70
2.1.3 Xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa quan hệ giữa các nước ngày càng được
mở rộng. ............................................................................................................71
2.1.4 Tầm quan trọng của nhau trong chiến lược phát triển mỗi nước. ...........72
2.2 Quan hệ giữa hai Nhà nước, Chính phủ .........................................................74
2.3 Quan hệ giữa Đảng Cộng sản, các tổ chức xã hội Việt Nam với các đảng phái
hàng đầu và các tổ chức xã hội, nhân dân Ấn Độ................................................88
2.4 Nhận xét mối quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh quan hệ Ấn Độ ASEAN trên lĩnh vực chính trị từ 1975 đến 1991 ................................................91
2.4.1 Quan hệ chính trị Ấn Độ - Việt Nam ......................................................92


2

2.4.2 Nhận xét quan hệ chính trị Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh quan hệ Ấn
Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991 .......................................................................93
Tiểu kết chương 2....................................................................................................100
CHƯƠNG 3: QUAN HỆ ẤN DỘ - VIỆT NAM TRÊN CÁC LĨNH VỰC KINH

TẾ, VĂN HÓA TỪ 1975 ĐẾN 1991 ......................................................................103
3.1 Quan hệ về kinh tế ........................................................................................103
3.1.1 Quan hệ thương mại - đầu tư .................................................................103
3.1.2 Sự giúp đỡ của Chính phủ Ấn Độ đối với Việt Nam. ..........................108
3.2 Quan hệ văn hoá, giáo dục ............................................................................110
3.2.1 Quan hệ về văn hoá ...............................................................................110
3.2.2 Quan hệ về giáo dục ..............................................................................113
3.3 Nhận xét quan hệ kinh tế - văn hóa Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh quan hệ
Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991 ....................................................................114
3.3.1 Quan hệ kinh tế, văn hóa Ấn Độ - Việt Nam ........................................115
3.3.2 Nhận xét quan hệ kinh tế, văn hóa Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh
quan hệ Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991 ..................................................116
Tiểu kết chương 3....................................................................................................124
KẾT LUẬN .............................................................................................................126
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................132
PHỤ LỤC ................................................................................................................139


3

BẢNG QUI ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CHOGM

Hội nghị nguyên thủ cấp cao Khối thịnh vượng
chung


COMECON:

Hội đồng tương trợ kinh tế

FICCI:

Liên đoàn Phòng Thương mại và Công nghiệp Ấn
Độ

FIEO:

Liên đoàn các tổ chức xuất khẩu Ấn Độ

GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội

ICC:

Trung tâm Văn hóa Ấn Độ

ICCR:

Hội đồng quan hệ văn hóa Ấn Độ

ITEC:

Hợp tác kỹ thuật và kinh tế Ấn Độ

NAM


Phong trào Không liên kết

NIIT:

Công ty giáo dục máy tính toàn cầu

OECD:

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

ONGC:

Tổng công ty dầu mỏ và khí tự nhiên

UNCTAD :

Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát
triển

UNICEF:

Qũy Nhi đồng thế giới

USD:

Đô la Mỹ


4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Đất nước Ấn Độ, nhìn dọc theo hướng Bắc - Nam, từ dãy núi Hymalaya,
được ví như "lâu đài tuyết" hay "bông sen trắng vĩ đại", quốc gia nổi trội nhất của
khu vực Nam Á cả về lịch sử cũng như tiềm năng kinh tế. Ấn Độ là một trong
những cái nôi văn minh của nhân loại. Văn hoá Ấn Độ ảnh hưởng sâu rộng trên
phần lớn khu vực Đông Nam Á, theo nhận xét của ông G.Coedes trong cuốn "Lịch
sử cổ đại các quốc gia Ấn hoá viễn Đông" thì từ đây bắt đầu sự lan toả của một nền
văn hoá có tổ chức, dựa trên quan niệm Hindu về vương quyền, được xác định đặc
trưng bằng sự tôn thờ Phật giáo.
Ấn Độ là một quốc gia có vị trí địa lý đặc biệt, nằm đúng trên đoạn cuối của
đường trung tuyến lục địa Á - Âu. Với vị trí này, Ấn Độ có thể được coi là một trục
trung chuyển giữa hai lục địa nói riêng và giữa phương Đông và phương Tây nói
chung. Phần mũi đất nhô ra Ấn Độ Dương trông giống như một bệ phóng hướng ra
đại dương và ra 2 hướng Đông - Tây, nhưng đồng thời khi cần, nó cũng có thể là
tấm lá chắn che chở cho cả vùng Nam và Trung Á.
Ấn Độ là một đất nước có địa hình mở ra đại dương: ngoại trừ phần đất nằm
kẹt sâu phía sau Bangladesh, thì biên giới Ấn Độ có tới gần 2/3 chiều dài tiếp giáp
với biển. Ở phía Bắc Ấn Độ có một loạt dãy núi, trong đó có dãy Hymalaya cao
nhất thế giới, án ngữ như một mái nhà che chắn. Với địa hình như vậy, người ta còn
cho rằng cần phải xem xét Ấn Độ trong bối cảnh địa lý của một tiểu lục địa Ấn Độ
độc lập, tức là một tiểu lục địa có khả năng tự cấp tự túc không phụ thuộc vào bên
ngoài. Tiểu lục địa này bao gồm các nước: Ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Buhtan,
Pakistan. Xét về mặt địa lí địa chính trị, với phía Tây - Bắc, Bắc và Đông - Bắc
được che chắn bởi các dãy núi non hiểm trở, phía Đông - Nam, Nam và Tây - Nam
tiếp giáp với đại dương bao la, khu vực tiểu lục địa Ấn Độ này được người ta ví như
một hòn đảo. [2, tr. 228 - 232 - 233]



5

Chính sự gần gũi về mặt địa lí đã tạo mối liên hệ lâu đời giữa quốc gia Nam Á
này với khu vực Đông Nam Á cả về lịch sử văn hóa và thương mại, trở thành những
người bạn láng giềng thân thiết, đối tác thương mại đáng tin cậy. Tuy nhiên, do
những biến cố lớn của lịch sử đã đặt mối quan hệ Ấn Độ với các quốc gia khu vực
Đông Nam Á trước những sóng gió, thử thách và chông gai, tạo nên những nốt trầm
trong lịch sử quan hệ, tiêu biểu nhất là giai đoạn 1975 - 1991.
Ấn Độ - ASEAN giai đoạn 1975 - 1991 dưới tác động của Chiến tranh lạnh, đã
không tìm được tiếng nói chung khi cả hai khác biệt nhau cả về xu thế chính trị và
chính sách phát triển kinh tế, do vậy có thể nói đây là giai đoạn khó khăn nhất trong
lịch sử quan hệ của cả hai phía. Tình trạng này bắt đầu có xu hướng tiến triển tốt
đẹp khi Chiến tranh lạnh bắt đầu đến hồi kết đó là những năm cuối của thập kỷ 80,
xu hướng hòa hoãn Đông - Tây kí kết các hiệp ước nhân nhượng lẫn nhau để cùng
phát triển kinh tế và xu hướng đối thoại hợp tác thay cho đối đầu trở thành xu
hướng chủ đạo trong chính sách ngoại giao của các nước. Cũng từ bước ngoặc này
đánh dấu một trang mới tốt đẹp trong quan hệ ngoại giao Ấn Độ - ASEAN khi cả
hai đã đánh giá đúng tiềm năng vị thế của mỗi bên trong chiến lược phát triển của
nhau.
Điều đặc biệt, trong lịch sử quan hệ của Ấn Độ với các quốc gia Đông Nam Á
bên cạnh những ảnh hưởng xấu do yếu tố khách quan tác động, vẫn tồn tại mối quan
hệ đoàn kết, gắn bó, thủy chung vượt qua bao thác ghềnh để viết tiếp những trang
vàng trong lịch sử quan hệ song phương, đó là tình bạn Ấn Độ - Việt Nam.
Trong nền chính trị quốc tế, quan hệ song phương giữa các quốc gia được quy
định bởi rất nhiều yếu tố, bao gồm cả vị trí địa chính trị, yếu tố lịch sử, sự tương
đồng về văn hóa – xã hội, những tương đồng về quan điểm chính trị - kinh tế,
những tư tưởng về xây dựng đất nước và những tình huống ngẫu nhiên không thấy
trước được ở khu vực, tư duy về tính thiết thực chính trị và mức độ hội nhập của các
nước vào bối cảnh quốc tế chung. Hai nước Việt Nam và Ấn Độ có quan hệ hữu
nghị truyền thống lâu đời, có những mối gắn kết và tương đồng về lịch sử và văn



6

hóa và là những người bạn thân thiết của nhau trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước. Hai nước còn có những quan điểm tương đồng về các
vấn đề khu vực và quốc tế, nhất là về các vấn đề an ninh và phát triển ở khu vực
Đông Nam Á và Nam Á.
Ấn Độ là một nước lớn ở Châu Á, có uy tín lớn, vai trò quan trọng trong phong
trào Không liên kết và trên thế giới. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam
- Ấn Độ là một vấn đề cần thiết và quan trọng nhằm phục vụ cho việc đề ra chính
sách đối ngoại của chúng ta và cho sự phát triển của mối quan hệ lâu dài giữa hai
nước. Nhất là việc tìm hiểu quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh quan hệ Ấn
Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991 là nhằm làm rõ mối quan hệ hai nước dưới sự tác
động của quan hệ Ấn Độ - ASEAN trên lĩnh vực chính trị và kinh tế giáo dục. Từ
đó, có cái nhìn toàn diện hơn, góp phần đánh giá đúng đắn hơn mối quan hệ hai
nước Việt Nam - Ấn Độ trong những giai đoạn khác nhau của lịch sử.
Với mục đích đó, qua việc tìm hiểu đề tài, tác giả mong muốn đóng góp một
phần nhỏ bé của mình vào việc tìm hiểu một mối quan hệ quan trọng của nước ta là
quan hệ chiến lược Việt Nam - Ấn Độ. Đó là lý do mà tôi quyết định chọn đề tài
“Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh quan hệ Ấn Độ - ASEAN giai đoạn
1975 - 1991” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, lịch sử quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đã được nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu, đề cập đến dưới nhiều góc độ,
phạm vi, đánh giá khác nhau.
- Đinh Trung Kiên (1993): Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ (1945 - 1975) (Luận
án Phó Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội). Nội dung luận án trình bày tương đối hệ thống mối
quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong 30 năm (1945 - 1975). Luận án tập trung trình bày
về các mối quan hệ chính trị, ngoại giao còn các quan hệ về kinh tế, văn hóa, khoa

học kỹ thuật mới đề cập một cách khái quát.
- Đinh Trung Kiên (1995): “Ấn Độ hôm qua và hôm nay”. Nxb Chính trị
quốc gia. Nội dung giới thiệu những nét khái quát về đất nước và con người Ấn Độ:


7

Về lịch sử, những giá trị văn hoá truyền thống, quá trình xây dựng nước cộng hoà
Ấn Độ, chính sách đối ngoại của Ấn Độ và quan hệ giữa Ấn Độ với Việt Nam.
- Vũ Dương Ninh (chủ biên) (1995): Lịch sử Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nội dung chủ yếu của công trình là nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ nên quan hệ Việt
Nam - Ấn Độ chỉ được trình bày một cách khái quát từ khi hai nước có quan hệ đến
những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
- Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý (chủ biên) (1997): Ấn Độ xưa và nay, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội. Nội dung của công trình là giới thiệu một cách khái quát
về đất nước, con người, lịch sử và văn hóa Ấn Độ xưa và nay. Dù vậy, trong phần
thứ tư, chương II (từ trang 303 - 348) các tác giả cũng trình bày khái quát về quan
hệ Việt Nam - Ấn Độ từ thời kỳ lịch sử cổ trung đại cho đến đầu những năm 90 của
thế kỷ XX.
- Đỗ Đức Định (1999),“50 năm kinh tế Ấn Độ”, Nxb Thế giới ấn hành năm
1999 đã tổng kết 50 năm phát triển kinh tế của Ấn Độ: Cuộc cách mạng xanh, cách
mạng trắng, công nghiệp hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn, xây dựng chính
sách ngoại thương, đầu tư nước ngoài, công nghiệp, khoa học công nghệ và nông
nghiệp, kinh tế đối ngoại…
- Trần Thị Lý (chủ biên) (2002), “Sự điều chỉnh chính sách của cộng hoà Ấn
Độ từ 1991 đến 2000”, Nxb Khoa học xã hội. Cuốn sách đã trình bày một số
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự điều chỉnh chính sách cải cách kinh tế và chính
sách đối ngoại của cộng hoà Ấn Độ cũng như những thành tựu mà Ấn Độ đạt được
sau 10 năm điều chỉnh chính sách.
- Hoàng Thị Điệp (2006), “Quá trình phát triển của quan hệ Việt Nam - Ấn

Độ từ 1986 – 2004”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Sử học. Nội dung của luận án là
khái quát những điểm tương đồng quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trước năm 1986, tác
giả phân tích quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ giữa thập niên 80 trên các lĩnh vực:
chính trị - ngoại giao, hợp tác an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật từ năm 1986 đến năm 2004. Từ đó, tác giả rút ra những thuận lợi, khó
khăn, thành tựu và triển vọng của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đồng thời nêu lên một


8

số kiến nghị nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ hai nước.
- Nguyễn Thị Phương Hảo (2005 ), “Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ 1991 2000”, Luận văn Thạc sĩ, Trường ĐH KHXH & NV Tp. Hồ Chí Minh. Luận văn
sau khi trình bày một cách khái quát về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trước 1991 đã đi
sâu vào trình bày quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế,
văn hóa - khoa học kỹ thuật, an ninh - quốc phòng từ 1991 - 2001.
Như vậy, điểm qua lịch sử nghiên cứu về vấn đề này cho thấy, từ trước đến
nay đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ; nhưng, có
thể do mục đích, nhu cầu nghiên cứu, họ chỉ đề cập đến giai đoạn này hay giai đoạn
khác, khía cạnh này hay khía cạnh khác của mối quan hệ mà chưa có một công trình
nào nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn từ 1975 đến 1991 trong bối
cảnh quan hệ Ấn Độ - ASEAN. Nhưng, có thể nói, những công trình nghiên cứu
trên đây đã giúp chúng tôi rất nhiều về mặt tư liệu cũng như một số nhận định.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt thời gian: thời gian được xác định là từ 1975 đến 1991. Đây là thời
gian mà ở Đông Nam Á có những biến động phức tạp, nhất là vấn đề Campuchia
(1979 - 1991).
- Về mặt không gian: được giới hạn chủ yếu là ở Việt Nam và Ấn Độ, bên
cạnh đó chúng tôi đặt trong mối quan hệ với ASEAN để làm rõ chính sách của Ấn
Độ với Đông Nam Á nói chung và ASEAN nói riêng từ 1975 đến 1991.
- Về mặt nội dung: tìm hiểu mối quan hệ Ấn Độ - Việt Nam từ 1975 đến
1991 đặt trong bối cảnh quan hệ Ấn Độ với ASEAN, tập trung quan hệ hai nước

trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá - giáo dục.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ quốc tế để xem xét, đánh giá vấn đề cũng
như đánh giá tư liệu; nhìn nhận các sự kiện lịch sử trong mối quan hệ biện chứng.
Đề tài vận dụng những quan điểm cơ bản về đối ngoại, quan điểm của Đảng và Nhà


9

nước Việt Nam về tình hình thế giới, về hoạch định và triển khai đường lối đối
ngoại mới, đây là nguồn cung cấp căn cứ lý luận, định hướng tư tưởng và khoa học
để thực hiện đề tài.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp lịch sử để khôi phục lại bức tranh sinh động
trong quan hệ giữa Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh quan hệ Ấn Độ - ASEAN từ
1975 đến 1991.
Tác giả sử dụng phương pháp lôgic để lí giải những yếu tố thúc đẩy mối
quan hệ Ấn Độ - Việt Nam, khái quát được những vấn đề trong quan hệ Ấn Độ Việt Nam trong sự tác động của quan hệ Ấn Độ - ASEAN.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp liên ngành như phương pháp
nghiên cứu quan hệ quốc tế nhằm tìm hiểu các sự kiện, các vấn đề quốc tế; phương
pháp khu vực học nghiên cứu mối quan hệ giữa Ấn Độ với khu vực Đông Nam Á
và sử dụng những kiến thức địa chính trị, địa văn hóa, địa kinh tế nhằm tìm hiểu rõ
nguồn gốc của các vấn đề liên quan đến quan hệ Ấn Độ - Việt Nam.
5. Nguồn tư liệu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi dựa vào các nguồn tài liệu chính sau
đây:
- Văn kiện, tài liệu của Đảng, Nhà nước Việt Nam có liên quan đến quan hệ
hai nước; tư liệu của Bộ Ngoại giao Việt Nam... Đây là nguồn tài liệu gốc. Nguồn

tài liệu này phong phú, có ý nghĩa rất quan trọng đối với chúng tôi trong việc nghiên
cứu đề tài.
- Các công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu Việt Nam, Ấn Độ có
liên quan đến đề tài được công bố trên các sách, tạp chí, báo, kỷ yếu các cuộc Hội
thảo khoa học về quan hệ hai nước bằng tiếng Việt, Anh. Nguồn tài liệu này cũng
khá phong phú. Nó có ý nghĩa quan trọng, không chỉ cung cấp tư liệu mà còn gợi
mở nhiều vấn đề để chúng tôi đi sâu nghiên cứu.
- Các luận án, luận văn nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Đây là
nguồn tư liệu mà chúng tôi không chỉ kế thừa một nguồn tư liệu phong phú, tin cậy


10

mà còn cả những nhận định khoa học.
- Báo chí ở Việt Nam (Bản tin TTX, Báo Nhân dân, Quốc tế…)
- Tư liệu trên internet (trang Web Bộ Ngoại giao Việt Nam). Nguồn tư liệu
này cũng khá phong phú.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước và tư liệu
có chọn lọc thu thập được từ nhiều nguồn, công trình này có một số đóng góp chính
sau đây:
1. Thông qua công trình nghiên cứu góp phần dựng lại một cách hệ thống,
toàn diện, cụ thể, chân thực về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong bối cảnh quan hệ
Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991.
2. Có nhiều công trình liên quan đến đề tài nhưng chưa có công trình nào
xem xét một cách toàn diện mối quan hệ Ấn Độ - Việt Nam từ 1975 đến 1991, đặc
biệt là xem xét mối quan hệ hai nước đặt trên mối quan hệ của Ấn Độ với ASEAN.
Do đó công trình đưa đến một cái nhìn toàn diện mối quan hệ song phương trong
mối quan hệ tổng thể khu vực. Đồng thời, công trình nghiên cứu cũng đưa ra những
kết luận mới về quan hệ của Ấn Độ - Đông Nam Á giai đoạn 1975 - 1991 mặc dù

chịu nhiều tác động từ tình hình thế giới và khu vực nhưng không vì thế mà hoàn
toàn đóng băng, nốt trầm trong quan hệ thời kỳ này.
3. Những nhận xét, kết luận được rút ra, có thể góp phần giúp các cơ quan
chức năng tham khảo trong việc đẩy mạnh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước.
Từ đó, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự hợp tác thắng lợi của đối tác chiến lược
quan trọng, người bạn đặc biệt đã được thử thách qua thời gian.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc làm 3 chương:
Chương 1: Quan hệ Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991
Tác giả phân tích quan hệ Ấn Độ - ASEAN trên lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa - khoa học kỹ thuật. Tuy quan hệ chính trị Ấn Độ - ASEAN giai đoạn này


11

mờ nhạt do mỗi bên lựa chọn con đường phát triển khác nhau nhất là chịu sự chi
phối của Chiến tranh lạnh nhưng một xu thế không thể đảo ngược là truyền thống
quan hệ lâu đời và xuất phát từ những yêu cầu khách quan của lịch sử, yêu cầu phát
triển nội tại mỗi quốc gia mà cuối cùng xu hướng hợp tác kinh tế, văn hóa – khoa
học cũng đạt được những thành tựu. Chương 2: Quan hệ chính trị Ấn Độ - Việt
Nam từ 1975 đến 1991
Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam từ 1975 đến 1991 là sự tiếp nối mối quan hệ
truyền thống tốt đẹp mà hai Nhà nước, Chính phủ và nhân dân hai nước đã dày
công vun đắp. Mục đích làm rõ mối quan hệ chính trị tốt đẹp hai nước đã đạt được
trong thời gian này, tác giả đã đặt quan hệ chính trị Ấn Độ - Việt Nam trong bối
cảnh quan hệ chính trị Ấn Độ - ASEAN để nhìn nhận đúng đắn hơn về mối quan hệ
hai nước dù chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài nhưng quan hệ hai nước
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước.
Chương 3: Quan hệ kinh tế, văn hóa – giáo dục giữa Ấn Độ - Việt Nam từ

1975 đến 1991.
Song song với những thành tựu về quan hệ chính trị, giai đoạn này quan hệ
Ấn Độ – Việt Nam cũng đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, văn hóa – giáo dục.
Đó là sự giúp đỡ về vật chất của Ấn Độ giúp Việt Nam khôi phục và phát triển kinh
tế, quan hệ hợp tác và đầu tư bước đầu được khởi động tuy còn khá khiêm tốn. Các
chương trình trao đổi hợp tác văn hóa – giáo dục giúp hai nước thêm hiểu nhau và
thắt chặt tình đoàn kết.
Trên cơ sở đó, tác giả rút ra nhận xét những thành tựu hai nước đã đạt đạt
được trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - giáo dục từ 1975 đến 1991, nhất là đặt
trong bối cảnh quan hệ Ấn Độ - ASEAN thời kỳ này.


12

CHƯƠNG 1
QUAN HỆ ẤN ĐỘ - ASEAN TỪ 1975 ĐẾN 1991
1.1 Quan hệ chính trị
1.1.1 Những cơ sở của mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN từ 1975 đến 1991
1.1.1.1 Quan hệ lâu đời Ấn Độ - Đông Nam Á
Cùng với văn minh Trung Hoa, nền văn minh Ấn Độ ảnh hưởng sâu sắc đến
hầu hết các quốc gia châu Á, nhất là các nước khu vực Đông Nam Á bao gồm ảnh
hưởng của Phật giáo, Hồi giáo và Ấn Độ giáo cũng như ảnh hưởng của chữ viết Ấn
Độ (tiếng Pali và Sanskrit).
Ấn Độ có ảnh hưởng rõ rệt đến sự hình thành nhà nước cổ đại Đông Nam Á.
Cư dân Đông Nam Á ở những vùng thung lũng và đồng bằng, do yêu cầu
phải chinh phục thiên nhiên để trồng lúa nước (như làm thủy lợi), họ buộc phải liên
minh với nhau. Liên minh ấy ngày càng rộng lớn hơn, chặt chẽ hơn và dần dần trở
thành những tổ chức tiền quốc gia vững mạnh. Và giữa các tổ chức tiền quốc gia ấy
có sự giao lưu thương mại với nhau trong khu vực cũng như mở rộng hoạt động
thương mại các thương nhân ngoại quốc, với Ấn Độ là một ví dụ tiêu biểu.

Lúc bấy giờ, để phục vụ cho nhu cầu của các hoàng đế Đông và Tây, của các
tầng lớp giàu có, việc buôn bán những sản phẩm quý như hương liệu, châu ngọc, tơ
lụa…giữa Nam Á và Châu Âu ngày càng tấp nập. Các nhà buôn Ấn Độ đã đến vùng
phía đông sông Hằng, tức là Đông Nam Á mua hương liệu, gia vị, long não, xạ
hương, gỗ mun…để mang đi bán ở các vùng Tiểu Á, Ba Tư, La Mã. Ngoài ra, chính
sự giàu có của khu vực Đông Nam Á là điểm đến thu hút đối với thương nhân
người Ấn. Trong sử thi Ramayana, họ gọi khu vực Đông Nam Á là Suvarnabhumi
(đất vàng), Suvarnadvipa (đảo vàng), Narikeladvipa (Hòn đảo của dừa),
Karpuradvipa (đảo long não), và Yavodvipa (đảo lúa mạch). Chính vì thế đã nảy
sinh mối quan hệ giao lưu Ấn Độ - Đông Nam Á. Và cũng chính sự có mặt của cư
dân Ấn Độ ở đây mà bản thân các bộ lạc, các liên minh bộ lạc Đông Nam Á có điều
kiện liên kết với nhau, tạo ra một điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự ra đời của một


13

loạt các nhà nước sơ khai Đông Nam Á. Có thể nói, sự hình thành các quốc gia
Đông Nam Á có ảnh hưởng không nhỏ của văn hóa Ấn Độ.
Khác với Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ dễ dàng được tiếp nhận ở Đông Nam
Á, quá trình Ấn Độ mở rộng văn hóa trong khu vực Đông Nam Á được thực hiện
bằng biện pháp hòa bình, không phải là sự cưỡng bức hay ách đô hộ. Chính vì vậy,
đối với các quốc gia Đông Nam Á, việc tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, hay nói một cách
chính xác hơn, sự giao lưu văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á gần như là tự nhiên.
Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ sang khu vực Đông Nam Á được thể hiện ở
rất nhiều mặt, nhiều khía cạnh, ảnh hưởng đó khá toàn diện và sâu sắc.
Trước hết, đó là sự phổ biến của chữ viết Pali - Sanscrit ở rất nhiều quốc gia
Đông Nam Á như Campuchia, Lào, Thái Lan…Thêm nữa, hàng loạt các từ Ấn Độ
cũng đã được du nhập vào ngôn ngữ các nước Đông Nam Á như vào tiếng Melayu
(ngôn ngữ quốc gia của bốn nước Đông Nam Á hiện nay là Malaysia, Indonesia,
Brunei, Singapore), tiếng Việt, tiếng Khmer, tiếng Thái…Trong tiếng Việt chẳng

hạn, một số từ chỉ cây cối (như “mít”, “lài”) và một loạt từ thuộc về Phật giáo
(“Bụt”, “Bồ đề”, “Bồ tát”, “Phù đồ”…) đều có gốc từ Ấn Độ.
Về phương diện văn học, hai bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ là Ramayana và
Mahabharata được truyền sang nhiều vùng Đông Nam Á, và thậm chí ở một số nơi,
chẳng hạn ở đảo Java (Indonesia), dựa theo cốt truyện gốc này, người ta đã tạo ra
những biến thể khác tương tự. Sự thâm nhập của hai bộ sử thi Ấn Độ vừa nêu vào
Java sâu đến mức cư dân địa phương đã không biết chúng có nguồn gốc Ấn Độ, họ
vẫn quan niệm đó là của chính họ.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của Ấn Độ được thể hiện rất rõ nét ở các
đền tháp, chùa chiền được xây dựng ở khắp Đông Nam Á, mà tiêu biểu hơn cả là
quần thể kiến trúc Ăngco Vat (Campuchia), hệ thống các tháp ở Campuchia, chùa
Burobudur (Indonesia), Thạt Luổng (Lào). Đối với các công trình kiến trúc đồ sộ
này, ảnh hưởng của quan niệm nghệ thuật kiến trúc tôn giáo Ấn Độ rất đậm đà: đó
là kiến trúc Hindu giáo (Ăngco Vat, tháp Champa) và kiến trúc Phật giáo
(Burobudur, Thạt Luổng).


14

Qua những kết quả khai quật được của ngành khảo cổ cũng là một minh
chứng cho thấy sự tương tác giữa Ấn Độ - Đông Nam Á. Trên cao nguyên Korat
(Thái Lan), các nhà nghiên cứu đã tìm thấy những chuỗi hạt đá, thủy tinh thuộc các
thiên niên kỷ trước Công nguyên; một số đồ tạo tác, gốm các loại tìm thấy ở
Madhya Pradesh, Gilmanuk Bali, Prajekan thuộc đảo Java (Indonesia) và Đông Sơn
(Việt Nam). Một loại vàng lá mỏng của Ấn Độ tìm thấy ở Arikadmedu, trung tâm
thương mại quan trọng Ấn Độ - La Mã. Tại Óc Eo (Việt Nam) các nhà khảo cổ đã
tìm thấy các chuỗi hạt màu, con dấu với chữ viết tiếng Phạn.
Nhưng ảnh hưởng có thể coi là rõ rệt nhất, đậm nét nhất của văn hóa Ấn Độ
vào Đông Nam Á là việc phổ biến đạo Phật và đạo Bà la môn giáo. Các tôn giáo
này, đặc biệt là đạo Phật, có một ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa tinh

thần của người dân bản địa Đông Nam Á. Một số quốc gia sau này Phật giáo trở
thành quốc giáo.
Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến Đông Nam Á còn biểu hiện ở chính trị xã hội. Nhiều nhà nước Đông Nam Á được hình thành trong thời kỳ này tuân theo
mô hình chính trị - xã hội kiểu Ấn Độ, trong đó nhà nước Champa, một trong những
vương quốc cổ đại ra đời sớm nhất ở Đông Nam Á là một ví dụ điển hình. Có thể
nói, mô hình của Ấn Độ về tổ chức chính trị và vương quyền đã được người
Champa áp dụng triệt để.
Những ảnh hưởng về mặt văn hóa của Ấn Độ đến Đông Nam Á còn biểu
hiện ở lĩnh vực thương mại. Trước hết như đã nói, thương gia Ấn Độ đến các vùng
ở Đông Nam Á để mua hương liệu, gia vị…Hoạt động có tính chất thương mại này
của họ đã góp phần thúc đẩy kinh tế Đông Nam Á phát triển, đồng thời từ Ấn Độ
các nhà truyền đạo cũng theo các thuyền buôn để vào Đông Nam Á truyền đạo, văn
hóa Ấn Độ theo đó du nhập vào Đông Nam Á. Một thực tế là không chỉ người Ấn
Độ đến Đông Nam Á mà bản thân những người Đông Nam Á cũng đến Ấn Độ với
mục đích thương mại và nhờ đó tiếp thu văn hóa Ấn Độ.
Theo ghi chép trong sử thi Ramayana thì Java và Sumatra có thể là nơi ở của
nữ thần Sita. Sử học Hàng hải đã tìm thấy bằng chứng về sự giao thương của người


15

Đông Nam Á cổ với toàn bộ vùng biển Ấn Độ Dương có niên đại khoảng 1000 năm
TCN. Người Andhra và Orrissa đã thúc đẩy hoạt động giao lưu hàng hải với những
người Đông Dương đặc biệt Mauryas và Andhras khuyến khích di dân đến quần
đảo Indonesia và các vùng lân cận. Người ta tin rằng cách đây khoảng 600 năm, các
vị vua Saka của Gujrat ra khơi và đã đến bờ biển phía tây đảo Java.[55,tr 2]
Theo nhà sử học Sridharan, "Đây là làn sóng đầu tiên của những người dân
từ bờ biển phía tây của Ấn Độ đã đến Java và đóng góp lớn trong việc truyền bá văn
hóa Ấn Độ đến Đông Nam Á. Cả hai tộc người Dravidian và người Aryan đã có
tiếp xúc với người dân của khu vực Đông Á. Triều đại Kalinga đóng vai trò quan

trọng nhất trong việc thúc đẩy di cư tới Đông Nam Á. Các nhà sử học tin rằng điều
này đánh dấu sự khởi đầu của quá trình ảnh hưởng của "Hindu" trong khu vực. Hòn
đảo Bali cho đến ngày nay vẫn còn ảnh hưởng đậm nét văn hóa Hindu.
Rõ ràng là trước khi có sự xuất hiện của thương nhân Ả Rập ở Ấn Độ
Dương, các thương nhân Ấn Độ đã chiếm độc quyền thương mại trong vùng biển
Ấn Độ Dương. Thời kỳ đầu Cholas với sức mạnh hải quân của mình họ đã ngăn
chặn sự can thiệp của người Ả Rập vào khu vực Đông Nam Á. Sau đó, Cholas suy
yếu dần và sự suy đồi của đế quốc Sri Vijaya tạo ra một khoảng trống trong thương
mại ở bên ngoài, người Ả Rập đã can thiệp và cạnh tranh có hiệu quả với người
Trung Quốc. Lúc này các thương nhân Ả Rập trên những chiếc thuyền buồm chất
đầy hàng hóa buôn bán tấp nập ở cả phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, điều
này đã không làm suy yếu ảnh hưởng nền văn hóa Ấn Độ với các nước Đông Nam
Á. Học giả nổi tiếng Abdul Rachman người Indonesia cho rằng:
“Từ Ấn Độ, các tôn giáo lớn như Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Phật giáo đã đến
Indonesia, sau đó trộn lẫn với các niềm tin bản địa để trở thành một nét đặc trưng
văn hóa Indonesia. Trong thời gian dài quá trình thích ứng, hợp nhất và phát triển
ở Indonesia đã tạo nên một nét văn hóa - tôn giáo riêng như đền, miếu, các lễ
nghi…”[56, tr 4]
Chính vì thế một học giả người Indonesia, Soedjate Djiwandono, trích lời
Tổng thống Sukarno rằng:


16

“ Máu trong mỗi tĩnh mạch của tôi đang chảy là máu của tổ tiên Ấn Độ; văn
hóa chúng tôi có được thông qua những ảnh hưởng của Ấn Độ. Hai ngàn năm
trước, người dân từ quốc gia của bạn đến Jawadvipa và Suvarnadvipa trong tinh
thần của tình huynh đệ. Chúng tôi học được cách tôn thờ các vị thần và văn hóa mà
ngay cả ngày hôm nay phần lớn là giống hệt với của nước bạn”. [56]
Tuy nhiên, trong quá trình đón nhận các yếu tố văn hóa Ấn Độ, các nước

Đông Nam Á tiếp nhận một cách chủ động, chọn lọc và có sáng tạo riêng. Do vậy,
mặc dù mang đậm nét dấu tích văn hóa Ấn Độ nhưng chỉ là sự tiếp nhận có chọn
lọc, đồng thời trên nền tảng văn hóa Ấn Độ cư dân bản địa cũng có những sáng tạo
độc đáo dựa vào những yếu tố phù hợp với đặc trưng phong tục tập quán, cư dân
Đông Nam Á.
Trong một công trình nghiên cứu của mình, sử gia nổi tiếng người Pháp,
Fernand Braudel khi nhận định về mối quan hệ giữa Ấn Độ và Đông Nam Á ông
coi đây như "cuộc đàm phán lớn nhất của tất cả các nền kinh tế thế giới".
Qua những phân tích ở trên có thể nói chính sự gần gũi, ảnh hưởng đậm nét
yếu tố văn hóa Ấn Độ là một yếu tố thuận lợi để Ấn Độ phát triển quan hệ mọi mặt
với khu vực Đông Nam Á.
1.1.1.2 Sự gần gũi về địa lý và sự phát triển kinh tế năng động của khu
vực Đông Nam Á.
Sự giao lưu tiếp xúc giữa Ấn Độ - Đông Nam Á hình thành từ rất sớm do vị
trí địa lý tự nhiên thuận lợi.
Đông Nam Á có vị trí chiến lược trên bản đồ chính trị, quân sự và kinh tế của
thế giới do nằm ở ngã tư đường nối các khu vực Đông Bắc Á, Nam Á, Châu Úc, nối
liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương.
Ấn Độ không những có chung đường biên giới phần đất liền với Mianmar
mà về khoảng cách địa lí, Ấn Độ cũng rất gần với các quốc gia Đông Nam Á khác
như: nếu tính từ Coco Island, quần đảo Nicobar ở Vịnh Bengal thuộc Ấn Độ thì chỉ
cách đảo Sumatra của Indonesia 163 km, cách Thái Lan là 450 km và cách
Malaysia là 700 km và thực tế là ở mũi phía nam Ấn Độ có nhiều tuyến đường biển


17

quan trọng của Ấn Độ Dương nối liền với Đông Nam Á (Đông Á) với Tây Á và
châu Âu.
Hơn nữa, an ninh cũng như thương mại trên biển của Ấn Độ lại gắn trực tiếp

với những eo biển nằm ở khu vực Đông Nam Á như Sunda, Lombok, đặc biệt là eo
biển Malacca, nơi có lượng tàu thuyền qua lại mỗi năm gần gấp đôi lượng tàu
thuyền qua kênh đào Suez và gần gấp ba lần kênh đào Panama.
Các nhà phân tích Ấn Độ cho rằng, khu vực châu Á - Thái Bình Dương là
bàn đạp của Ấn Độ để tiến vào thị trường toàn cầu, tương lai của Ấn Độ có được
phồn thịnh hay không là nhờ vào khu vực quan trọng này. Mặt khác, các nhà kinh tế
cho rằng, thông qua việc hợp tác với ASEAN, Ấn Độ có thể đảm bảo rằng họ sẽ
không bị cô lập khi mà các thỏa thuận mậu dịch mang tính khu vực đang trở thành
xu thế chung. Xu thế này sẽ bao gồm việc liên kết về mặt kinh tế với những nền
kinh tế năng động tại Đông Á. Trên thực tế, nhà nước Ấn Độ hy vọng mối quan hệ
kinh tế chặt chẽ với ASEAN sẽ giúp nước này hòa nhập vào một kinh tế lớn hơn
bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Ấn Độ xác định rõ ASEAN là mắt
xích trung tâm, là khâu đột phá nhằm tăng cường hợp tác kinh tế, ngoại giao với
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Thực tế, Ấn Độ có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ ở châu Á bởi mối quan hệ
truyền thống văn hóa và kinh tế, nơi mà Ấn Độ muốn xây dựng một vị thế nhất định
của mình trong tương lai của khu vực cũng đồng nghĩa với việc Ấn Độ cũng sẽ
chống lại sự cạnh tranh của bất kỳ nước nào khác hay tập đoàn của họ mục đích
thống trị châu Á. Từ quan điểm địa chiến lược của Ấn Độ, Châu Á rõ ràng có hai
mặt trận: Thế giới Ả Rập, khu vực Vịnh Ba Tư và Trung Á ở phía Tây và Đông
Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương ở phía đông.
Đông Nam Á đã luôn luôn chiếm một vị trí nổi bật trong quan điểm chiến
lược phát triển của Ấn Độ độc lập, một kết quả của quá trình giao lưu tiếp xúc nền
văn minh và thương mại lâu đời giữa Ấn Độ với các nước Đông Á.
Từ những năm 1930, Thủ tướng Ấn Độ J.Nehru đã có ý tưởng hình thành
"Đông Liên đoàn", trong đó Trung Quốc, Miến Điện (Myanmar), Malaya


18


(Malaysia), và Siam (Thái Lan) là những thành viên tiềm năng. Tháng 3 -1947, tại
Hội nghị Quan hệ châu Á khai mạc tại New Delhi, Nehru một lần nữa nhắc lại tầm
quan trọng của khu vực Đông Nam Á trong chiến lược tinh thần đoàn kết châu Á
của Ấn Độ.
Tuy nhiên, ý tưởng châu Á đoàn kết của Nehru đã bị cản trở bởi Chiến tranh
lạnh và những tranh chấp phát sinh trong quan hệ giữa Ấn Độ với các nước láng
giềng gần như Trung Quốc và Pakistan. Trong khi đó, các nước Đông Nam Á tập
hợp lại vào Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) (1967). Điều này đồng nghĩa
với việc phạm vi hợp tác của chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á hình thành và càng
được mở rộng thông qua các Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS).
Đối với Ấn Độ, «không có khu vực nào trên thế giới có thể bao gồm các thị
trường năng động hơn các thị trường ở phương Đông ».
Năm 1944, với tầm nhìn xa của mình, một lần nữa Nehru đã viết trong cuốn
sách “The Discovery” cho rằng: «Thái Bình Dương có khả năng thay thế Đại Tây
Dương với tư cách là một trung tâm đầu não của thế giới trong tương lai. Tuy
không phải là một quốc gia ở Thái Bình Dương nhưng Ấn Độ sẽ phải có được ảnh
hưởng quan trọng ở đó ».
Tháng 6 - 2000, Ngoại trưởng Ấn Độ trong bài phát biểu tại Singapore cũng
khẳng định: “Ở khu vực này chúng ta có thể tìm được gần như những tồn tại vốn có
của các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật, ASEAN và Ấn Độ”.
[37]
Như vậy, Ấn Độ đã coi mình là một trong sáu lực lượng lớn ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương.
Là một nước lớn cả về diện tích lẫn dân số, nhưng đến đầu những năm 90
của thế kỷ XX, Ấn Độ vẫn bị coi là một nước kém phát triển. Nằm tại tiểu khu vực
Nam Á lạc hậu, song Ấn Độ lại gần kề với các quốc gia Đông Á vốn có sự biến
chuyển mạnh mẽ về kinh tế. Những năm 1980, các nền kinh tế như Singapore, Đài
Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc được mệnh danh là những con rồng châu Á. Cuối



19

thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ XX, hầu hết các nước trong khu vực, đặc biệt là các
nước thành viên ASEAN đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
Do vậy, sự tăng trưởng kinh tế nhanh và quá trình hội nhập kinh tế ở khu vực
Đông Nam Á đã trở thành một lực hút quan trọng đối với Ấn Độ.
Những thành công về phát triển kinh tế của các nước ASEAN cũng như
những thành công của mô hình hợp tác khu vực của ASEAN trái ngược với sự trì
trệ trong tiến trình hợp tác khu vực của Hiệp hội các quốc gia khu vực Nam Á
(SAARC), đã thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách từ Ấn Độ đối
với khu vực Đông Nam Á. Ấn Độ nhận thấy rằng, việc tăng cường hợp tác với các
nước ASEAN sẽ giúp Ấn Độ khôi phục và phát triển kinh tế.
Đông Nam Á là khu vực giàu có về nguyên liệu thô và năng lượng, mà Ấn
Độ rất “khát” cho sự phát triển trong tương lai của mình. Đặc biệt, chiến tranh vùng
Vịnh (1990-1991) gây nên cuộc khủng hoảng về nguồn cung dầu mỏ đối với nền
kinh tế Ấn Độ. Theo thống kê kinh tế của Bộ Tài chính Ấn Độ, chỉ trong hai năm
1990 - 1991, giá dầu nhập khẩu của Ấn Độ đã tăng 21,9% (tính bằng đồng rupi)[80,
tr.3]. Trước nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của nền kinh tế, sự không ổn định
về nguồn cung và giá dầu cao buộc Ấn Độ phải tìm kiếm các nguồn cung mới và
Đông Nam Á được coi là một khu vực có nhiều tiềm năng.
Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Ấn Độ khiến các nhà lãnh đạo xem
xét nghiêm túc nhu cầu nhập khẩu năng lượng và việc đảm bảo an ninh năng lượng
và sự an toàn cho các tuyến đường biển trong biển Ấn Độ Dương trở thành một
trong những ưu tiên cao nhất trong chương trình an ninh của Ấn Độ. Đây là cơ sở
quan trọng cho việc xây dựng quan hệ an ninh mới với một trong những nội dung
cơ bản là tập trận chung và hoạt động chung trong tạm thời. [59]
1.1.1.3 Những yêu cầu khách quan và chủ quan
Lí do đầu tiên phải kể đến là trong quan hệ nội bộ khu vực Nam Á. Do giữa
lúc những căng thẳng trong quan hệ Ấn Độ - Pakistan trở nên trầm trọng hơn Ấn Độ
lại đang ủng hộ phe của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đồng thời Ấn Độ vẫn



20

đang tiếp tục với chính sách công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, do đó nhu cầu
thương mại với các nước Nam Á là không nhiều.
Hơn nữa, mặc dù từ năm 1985 hầu hết các nước Nam Á đã cùng tham gia
vào Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC), tuy nhiên, ngay từ khi mới ra đời,
cơ chế hợp tác này đã có nhiều hạn chế. Ấn Độ lo ngại các nước sử dụng diễn đàn
này để chỉ trích và cô lập Ấn Độ trong những vấn đề tranh chấp song phương, còn
Pakistan thì sợ thông qua tổ chức hợp tác khu vực, Ấn Độ sẽ nắm vai trò lãnh đạo,
không có lợi cho Pakistan. [9]
Chính vì vậy, một nguyên tắc trong hiến chương của SAARC là không tranh
luận những vấn đề gây bất đồng trong quan hệ song phương tại các cuộc họp của
Hiệp hội. Thêm vào đó, hầu hết các nước Nam Á là những nước đang phát triển ở
trình độ thấp, cần nhiều vốn và kỹ thuật trong khi Ấn Độ tuy là nước có trình độ
phát triển vào bậc nhất khu vực Nam Á nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, không đủ
khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn và kỹ thuật cho các nước trong tổ chức.
Do vậy, Ấn Độ bắt đầu hướng tới khu vực Đông Nam Á- người láng giềng
thân thuộc và đầy tiềm năng hơn.
Lí do thứ hai thuộc về vấn đề an ninh. Đông Nam Á là khu vực láng giềng
với Ấn Độ, song khu vực này luôn nóng bỏng, tập trung mâu thuẫn và tranh giành
ảnh hưởng, vai trò khống chế giữa các nước lớn, nhất là Mỹ, Nhật, Trung Quốc,
Liên Xô.
Từ sau thắng lợi của nhân dân Việt Nam 1975 góp phần tạo nên những thay
đổi to lớn, cơ bản và lâu dài cho tình hình Đông Nam Á và thế giới, mở ra một thời
kỳ mới trong quan hệ quốc tế - thời kỳ sau Việt Nam. Cũng từ sau thắng lợi của ba
nước Đông Dương buộc Mỹ phải rút hết quân khỏi lục địa Đông Nam Á, giảm bớt
cam kết ở khu vực, xu hướng hòa bình, độc lập, trung lập ngày càng phát triển ở
khu vực Đông Nam Á. Từ giữa năm 1978, Trung Quốc công khai chống cách mạng

Đông Dương, câu kết với Mỹ, Đông Dương trở thành địa bàn chính của sự câu kết
này.


21

Bắt đầu từ cuối những năm 1970 trở đi, Trung Quốc đã nỗ lực đáng kể tăng
cường ảnh hưởng chính trị và kinh tế trong khu vực Đông Nam Á, thiết lập quan hệ
ngoại giao với gần như tất cả các quốc gia Đông Nam Á, nỗ lực lôi kéo các nước
ASEAN vào một mặt trận chống lại cái mà Trung Quốc gọi là « chủ nghĩa bá
quyền của Liên Xô », [53]
Theo quan điểm của Ấn Độ, những hành động Trung Quốc có khả năng cô
lập ngoại giao Ấn Độ. Do đó, các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ cho rằng, chỉ
khi Ấn Độ hạn chế được ảnh hưởng của Trung Quốc cũng như giải pháp tốt nhất để
làm giảm sự tăng lên của quan hệ chiến lược Trung - Mỹ là làm giảm sự khác biệt
giữa Việt Nam và ASEAN. Từ đây, Ấn Độ đã phối hợp với Việt Nam để giải quyết
vấn đề Campuchia và Ấn Độ trở thành cầu nối giữa Việt Nam và ASEAN. [52]Vì
thế hơn lúc nào hết, Ấn Độ tính đến giải pháp tăng cường hơn nữa quan hệ với
Đông Nam Á nói chung và ASEAN nói riêng để bảo đảm duy trì lợi ích của mình
tại khu vực.
Chính sách của Ấn Độ với ASEAN bao gồm chính sách chung cho toàn khu
vực, đồng thời cũng có chính sách riêng và biện pháp cụ thể đối với từng nước. Đó
là :
-

Ủng hộ hoạt động của Liên Hiệp Quốc, các nước trong khu vực nhằm
biến Đông Nam Á thành khu vực độc lập, hòa bình, trung lập, hữu nghị
và hợp tác.

-


Chủ trương giải quyết mọi vấn đề trong khu vực thông qua thương lượng
hòa bình, không có sự can thiệp bên ngoài.

-

Cam kết với Nghị quyết được thông qua tại Hội nghị Ngoại trưởng các
nước Không liên kết tại New Delhi (2 - 1981) về việc làm giảm căng
thẳng ở khu vực là cần thiết.

-

Tăng cường quan hệ buôn bán, hơp tác với tất cả các nước ASEAN,
nhưng cũng yêu cầu các nước nới lỏng thuế cước, kiểm soát nhập khẩu
của Ấn Độ vào các nước ASEAN.


×