Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

rèn luyện kỹ năng lập ý cho học sinh phổ thông trung học ở loại bài nghị luận văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.31 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI I

ĐỖ NGỌC THỐNG

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP Ý CHO HỌC SINH
PHỔ THÔNG TRUNG HỌC Ở LOẠI BÀI NGHỊ
LUẬN VĂN HỌC

LUẬN ÁN P.T.S KHOA HỌC SƯ PHẠM - TÂM LÝ

HÀ NỘI 1994



LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành luận án này, ngoài sự cố gắng của bản thân và sự tận tình của người
hướng dẫn là PGS. PTS.Lê A, chúng tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của
các tập thế và cá nhân :
- Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa, Trường PTTH Lam Sơn.
- Ban Giam hiệu, Phòng QLKH, ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn và tổ phương pháp
giảng dạy tiếng Việt, trường ĐHSP Hà Nội I.
- Ban Giám hiệu các trường PTTH Hà Trung, Hoằng Hóa; Lam Sơn (Thanh Hóa),
PTTH Lê Qúy Đôn và PTTH Lý Tự Trọng ( Khánh Hòa ).
- Các GS: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đình Chú, Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử,
Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Trọng Phiến, TS. Cao Đức Tiến, PGS. Vũ Nho, PGS. Bùi
Minh Toán, PTS Lê Phương Nga, PGS Nguyễn Như Ý, PTS Nguyễn Quang Ninh.
- Các giáo viên thực nghiệm: Nguyễn Thành Thi, Trần Thị An, Lê Công Tòng, Lê Thị
Dung, Trần Phước Hòa...
- Bạn bè xa gần và gia đình.


Tác giả xin chân thành cảm tạ.

Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 1994

3


MỤC LỤC
MỤC LỤC ...............................................................................................................................4
30T

T
0
3

PHẦN MỞ ĐẦU .....................................................................................................................6
30T

30T

I – MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI. ......................................................................6
T
0
3

T
0
3

II- LỊCH SỬ VẤN ĐỀ........................................................................................................8

T
0
3

30T

III - NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI. ..........................................................15
T
0
3

T
0
3

IV - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. ..........................................................................16
T
0
3

T
0
3

CHƯƠNG I - THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ DẠY - HỌC LẬP Ý Ở TRƯỜNG PHỔ
THÔNG VIỆT NAM. ...........................................................................................................18
30T

30T


I. NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LẬP Ý CỦA HỌC SINH. ...........................................18
T
0
3

T
0
3

II – PHÂN TÍCH CÁC TÀI LIỆU DẠY HỌC DƯỚI GÓC ĐỘ RÈN LUYỆN KỸ
NĂNG LẬP Ý. ..................................................................................................................32
T
0
3

30T

CHƯƠNG II - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT XUNG QUANH KỸ
NĂNG LẬP
Ý CHO BÀI NGHỊ LUẬN NÓI CHUNG VÀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC NÓI RIÊNG. 38
30T

T
0
3

I - QUAN NIỆM VỀ Ý TRONG MỘT BÀI NLVH. .....................................................38
T
0
3


T
0
3

II – LẬP Ý CHO BÀI NLVH. .........................................................................................40
T
0
3

30T

1. Lập ý là gì ..................................................................................................................40
T
0
3

30T

2- Lập ý cho loại NLVH và lập ý cho NLXH. ............................................................46
T
0
3

T
0
3

3. Căn cứ để lập ý cho bài NLVH. ..............................................................................54
T

0
3

T
0
3

III - YÊU CẦU VỀ MÔ HÌNH Ý Ở BÀI NLVH CHO HS PTTH. .............................60
T
0
3

T
0
3

1) Yêu cầu mô hình ý....................................................................................................60
T
0
3

30T

2. Cách triển khai ý ......................................................................................................62
T
0
3

30T


CHƯƠNG III : CÁC HÌNH THỨC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP Ý CHO HS
PTTH Ở LOẠI BÀI NLVH. ................................................................................................65
30T

30T

I – NHỮNG HÌNH THỨC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP Ý QUA CÁC PHÂN
MÔN LIÊN QUAN...........................................................................................................65
T
0
3

30T

1 . Rèn luyện kỹ năng lập ý qua giờ giảng văn ..........................................................65
T
0
3

T
0
3

2) Rèn luyện kỹ năng lập ý ở giờ văn học sử .............................................................67
T
0
3

T
0

3

3) Rèn luyện kỹ năng lập ý ở giờ LLVH. ...................................................................68
T
0
3

T
0
3

II. NHỮNG HÌNH THỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP Ý Ở PHÂN MÔN LÀM
VĂN: ..................................................................................................................................69
T
0
3

T
0
3

1. Rèn luyện kĩ năng lập ý cho học sinh ở giờ lý thuyết làm văn: ............................69
T
0
3

T
0
3


2. Rèn luyện kỹ năng lập ý trong giờ trả bài cho học sinh. ......................................74
T
0
3

T
0
3

3. Rèn luyện kỹ năng lập ý qua hệ thống bài tập ở nhà ..........................................75
T
0
3

T
0
3

CHƯƠNG IV: THỰC NGHIỆM DẠY HỌC. ...................................................................77
30T

T
0
3

I - MÔ TẢ THỰC NGHIỆM...........................................................................................77
T
0
3


30T

4


II– KẾT QUẢ KIỂM TRA CUỐI ĐỢT THỰC NGHIỆM. .........................................78
T
0
3

T
0
3

III- ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ........................................84
T
0
3

T
0
3

PHẦN KẾT LUẬN ...............................................................................................................88
30T

30T

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ PHỤ LỤC..........................................................................90
30T


T
0
3

5


PHẦN MỞ ĐẦU
I – MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI.
1. Một bài văn nghị luận Văn học (NLVH ) có chất lượng của học sinh (HS) phổ thông
trung học (PTTH) theo chúng tôi cần có 2 yếu tố sau đây :
Một là: Bài viết phải có ý
Hai là: Người viết phải biết diễn đạt những ý đã xác định thành Văn, trình bày
U

U

thành bài văn.
U

U

Cả hai yếu tố trên đều hết sức quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng làm một bài văn
NL cho học sinh. Nếu như ý nghiêng về việc tác động vào lí trí, vào nhận thức, thì Văn
thiên về việc tác động vào tình cảm. Ý thỏa mãn nhu cầu hiểu, Văn đáp ứng nhu cầu cảm.
U

U


U

U

Ý và văn gắn kết với nhau,tạo nên khoái cảm cho người đọc trong việc thưởng thức bài văn.
Muốn có được ý hay người viết phải suy nghĩ, phải động não, tìm ra được các ý rồi
phải lựa chọn, xắp xếp chúng một cách hợp lí để làm sáng tỏ và nổi bật vấn đề cần nghị luận.
Ở đây, người viết phải hình dung ra được mô hình sản phẩm mà mình sẽ tạo ra. Như vậy
việc dạy học kĩ năng lập ý góp phần hình thành và phát triển tư duy cho HS, một nhiệm vụ
mà bất kì môn học nào trong nhà trường cũng phải hướng tới. Rèn luyện kĩ năng lập ý cho
HS cũng chính là góp phần hình thành đầu óc thiết kế, một thứ lao động có ý thức, vốn là
U

U

đặc trưng lao động Người, Các Mác trong bộ Tư bản (1867) viết:
U

U

U

U

"Con nhện thực hiện các thao tác giống các thao tác của người thợ dệt, con ong xây tổ
sáp làm cho mỗi nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng ngay một nhà kiến trúc tồi từ đầu đã
khác một con ong cừ nhất ở chỗ, trước khi dùng sáp xây tổ, nhà kiến trúc đã xây nó trong
đầu của mình rồi. Khi qúa trình lao động kết thúc, nhện được kết quả thì kết quả này đã có
dưới dạng tinh thần trong biểu tượng con người từ lúc qúa trình ấy mới bắt đầu" / 10 / .
Về phương diện lí thuyết, vấn đề quan trọng trên đã được đặt ra từ lâu. Tuy nhiên,cũng

như lí thuyết môn làm văn nói chung, lí thuyết về kĩ năng lập ý nói riêng vẫn còn nhiều lúng
túng, chưa được giải quyết một cách toàn diện, có hệ thống, phù hợp và có tính khả thi cao.
Có rất nhiều tài liệu đề cập tới kĩ năng này nhưng phần lớn chỉ mới đề cập đến văn nghị
luận nói chung, ít có tài liệu viết riêng (về kĩ năng lập ý) cho loại bài NLVH, vốn là loạt bài
U

đa dạng, phong phú ở cấp PTTH.
6

U


Như vậy luận án này nhằm góp phần nhìn nhận lại, đề xuất và bổ sung để có một cách
nhìn hoàn chỉnh, hệ thống và phù hợp hơn về lý thuyết kĩ năng lập ý ở loại bài NLVH cho
U

U

U

U

HS PTTH.
2. Ở một phương diện khác, để hình thành, rèn luyện kĩ năng cho HS, nếu chỉ dừng lại
ở việc nhận thức lí thuyết thì hoàn toàn chưa đủ. Đành rằng đó là điều kiện cần. Điều quan
U

U

trọng để biến những tri thức, khái niệm, thành những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng cho HS,

người giáo viên cần phải xác định được một phương pháp phù hợp với hành động dạy của
U

U

U

U

thầy và hành động học của trò. Về phương diện này, vẫn còn một khoảng trống lớn dành
U

U

cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề lập. Ngay cả khi phần lí thuyết đã hoàn chỉnh và
chuẩn xác về phương diện nội đung thì cũng không có nghĩa là đã giải quết vấn đề phương
pháp dạy và học kĩ năng này một cách trọn vẹn. Trên thực tế có rất nhiều con đường đi đạt
được mục đích. Vấn đề là con đường nào ngắn nhất và có hiệu quả cao hơn. Một vấn đề hết
sức quan trọng và đồng thời cũng hết sức khó đối với cả thầy và trò trên cả 2 phương
diện nội dung và phương pháp, đó là kỹ năng lập ý. Qua thực tế giảng dạy và thực nghiệm
U

U

U

U

U


U

điều tra ở một số trường PTTH bằng những số liệu đã đo được, chúng tôi thấy một trong
những khó khăn và lúng túng nhất cho HS khi viết bài NLVH là làm thế nào để có và sắp
xếp các ý ấy thành một dàn bài hợp lí.
Thực tế cho thấy, phần lớn bài làm của HS thường không có ý, thiếu ý, trùng ý, lạc
U

U

U

U

U

U

U

ý, ý lộn xộn ... Có nhiều lí do dẫn đến tình trạng đó, nhưng chắc chắn có nguyên nhân do
U

U

U

chúng ta chưa xây dựng được một hệ thống các biện pháp rèn luyện kĩ năng này phù hợp
trong dạy và học lập ý.
Luận án này cố gắng góp phần hoàn chỉnh và đề xuất các hình thức rèn luyện kỹ năng

lập ý cho HS PTTH ở loại bài NLVH.
3. Giải quyết tốt vấn đề trên, luận án có ý nghĩa ở cả hai phương diện lí luận và thực
tiễn với những đóng góp thể hiện ở mấy điểm sau :
Thứ nhất: Góp phần bổ sung, hoàn chỉnh và chuẩn hóa lí thuyết về kỹ năng lập ý cho
U

U

bài NL nói chung và đặc biệt là loại bài NLVH nói riêng.
Thứ hai: Đề xuất được một hệ thống các hình thức rèn luyện kỹ năng lập ý cho loại
U

U

bài NLVH một cách có kế hoạch, có hệ thống, toàn diện và đồng bộ trong việc rèn luyện kỹ
năng này cho HS ở trường PTTH.

7


Thứ ba:Với những đóng góp trên, luận án sẽ góp phần khắc phục tình trạng yếu kém
U

U

của HS trong việc lập ý cho loại bài NLVH nói riêng và văn NL nói chung. Kết quả nghiên
cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung cho việc biên soạn giáo trình làm văn ở các trường sư
phạm và sách giáo khoa bậc PTTH hoàn chỉnh hơn.
II- LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.
Văn NL là loại văn có lịch sử lâu đời, nhưng nếu chỉ tính riêng những bài nghiên cứu,

những tài liệu dạy học về kĩ năng lập ý cho loại bài NLVH thì không phong phú. Bởi vì tuy
có phân biệt hai loại NLXH và NLVH, nhưng trong thực tế kĩ năng lập ý bao giờ cũng chỉ
được trình bày trong phần kĩ năng làm văn nói chung, vì thế nhìn lại lịch sử vấn đề này chỉ
có thể xem xét kĩ năng lập ý nói chung, từ đó "bóc tách" ra cho loạt bài NLVH. Để luyện kĩ
năng lập ý cho HS các tài liệu thường đi theo ba hướng sau:
1. Rèn luyện lập ý bằng việc cho dàn bài mẫu.
U

U

Văn nghị luận là loại văn đã có từ xưa. Một loại hình thành qua chế độ khoa cử phong
kiến như: Văn sách, Kinh nghĩa và một loại được dạy trong nhà trường Pháp Việt sau này
như Composition và Dissertation... vấn đề dạy lập ý cũng đã được đặt ra nhưng chủ yếu là
bằng việc cung cấp những dàn ý mẫu, có sẵn hầu như lí thuyết về lập ý chưa được chú ý
khai thác.
1.1. Thời phong kiến cách dạy lập ý cho văn nghị luận chủ yếu là việc thầy đưa ra các
bài văn mẫu của một thể loại nào đó. Từ những bài văn mẫu này, thầy giáo căn cứ vào đặc
điểm về nội dung và hình thức (thi pháp) của từng loại mà phân tích và giảng giải cho trò.
Học trò cứ thế mà luyện tập theo. Đặc điểm nổi bật của các loại văn nghị luận thời phong
kiến là tính khuôn mẫu và công thức. Mỗi loại có một yêu cầu rõ về hình thức cũng như nội
dung. Có thể thấy rõ cách học và dạy lập ý ở trên qua cuốn Việt Hán văn khảo (1918) /8
U

U

Phan Kế Bính và cuốn Việt Nam văn học sử yếu (1941) / 48 / của Dương Quảng Hàm. Kĩ
U

U


năng lập ý được Phan Kế Bính đề cập đến ở mục thể cách văn chương và luận về pháp làm
U

U

U

văn. Ông nêu lên 3 bước trước khi viết bài văn: lập định chủ ý, cấu tứ và bố cục.
U

Dương Quảng Hàm cũng để hẳn chương 9 ở cuốn Việt Nam văn học sử yếu để nêu
U

U

những đặc điểm và cách thức làm các lối văn cử nghiệp viết bằng chữ nho. Ở đó ta thấy rõ
dàn ý của một bài kinh nghĩa với những yêu cầu cụ thể về nội dung và cách thức viết. Người
U

U

viết cứ thế mà làm, mà luyện tập theo mẫu đã có. Như vậy, có thể thấy rõ thực chất của việc
dạy cho "sĩ tử" thời phong kiến cách lập ý ở một bài văn nghị luận là giúp họ nắm vững
8


được đặc điểm và những yêu cầu về bố cục của từng loại văn mà thôi.
1.2. Pháp xâm lược nước ta, nhà trường Pháp - Việt dần dần được hình thành. Ở đó
Văn nghị luận được dạy với 2 dạng: nghị luận nói chung (Composition - Trần Thanh Đạm
dịch là môn Kết cấu) và bình luận (Dissertation).

U

U

Ngoài ra theo Thẩm Thệ Hà / 46 / còn có 3 loại khác cũng được coi là văn nghị luận,
đó là Thư luận (Dissertetion - lettre), bút chiến luận ( Dissertation - polémique ) đối thoại
U

U

luận ( Dissertstion Dialogue ). Tuy nhiên 3 loại sau này ít được đề cập tới. Căn cứ vào các
tài liệu về các sách làm văn của nhiều tác giả được sống, được học và làm văn nghị luận
dưới thời Pháp thuộc, / 31/ / 46 / / 49 / / 55/ . /75 / / 76 / /77 / /8 1 / / 112 / /109 / / 116 / ...
Khi soạn sách làm văn các tác giả đều dựa vào tài liệu làm văn của Pháp, chúng tôi thấy
rằng:
- Tài liệu làm văn thời kỳ này không có nhiều, đúng như Nguyễn Đăng Thư đã nhận
xét: "Sách luyện về luận viết văn các lớp trên ban trung học còn rất hiếm" / 109 / ( tất nhiên
là tài liệu tiếng Việt ).
- Lý thuyết làm văn không được chú ý: "ở nhà trường xưa và nay, trong giờ luận pháp
và Việt văn, các giáo sư chỉ cho đầu bài, có khi làm theo một dàn ý sơ lược rồi để mặc ta
thao túng" / 109 /.
- Việc dạy lập ý ở thời kỳ này chủ yếu là cung cấp những bài mẫu, những dàn ý mẫu,
HS cứ theo đó mà làm, mà luyện tập. Các dàn bài mẫu cũng chủ yếu là loại NLXH - luân lí,
ít đưa ví dụ loại NLVH.
2. Rèn luyện lập ý có chú ý đến lí thuyết lập ý nói chung nhưng chủ yếu dừng lại ở loại
U

bài NLXH.
U


Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, văn nghị luận được dạy trong nhà trường dần dần
có hệ thống hơn, các soạn giả bắt đầu chú ý hơn tới cách làm bài văn nghị luận, cũng như
các kĩ năng viết bài trong đó có kỹ năng lập ý.
2.1. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954) có thể kể đến một số cuốn
sách dạy làm văn tiêu biểu như: Luận văn thị phạm của Nghiêm Toản / 112 /, Nghị luận
U

U

U

luân lí của Phan Ngô / 75 / / 76 /, Nghị luận khái quát của Nguyễn Đăng Thư / 104 /,Nghị
U

U

U

U

luận văn chương của Phạm Việt Tuyền / 116 /…
U

Đáng chú ý là cuốn Luận văn thị phạm của Nghiêm Toản. Ở đây tác giả đã giới thiệu
U

U

9



các bước tìm ý ( ông gọi là cấu tứ ). Từ 7 đề cụ thế, Nghiêm Toản đã nêu lên 4 nhận xét về
các trường hợp khó khăn khi phân tích đề và 7 điểm cần chú ý trong quá trình để tìm ý /112,
27-37 /.
Có thể nói vào những năm 50-54 cuốn Luận văn thị phạm là cuốn làm văn dạy cho HS
U

U

cách lập ý chi tiết và công phu nhất. Phương pháp lập ý của ông có những điểm cho đến nay
vẫn có giá trị như phương pháp phân tích khái niệm, đặt câu hỏi…
U

U

U

U

Nhưng cuốn sách còn lại ( đã nêu ) phần lớn là sách dạy thực hành từ các đề, các dàn
bài mẫu, cũng có cuốn đề cập đến lí thuyết kĩ năng lập ý /109/, nhưng không có gì mới so
với Nghiêm Toản, thậm chí sơ sài hơn và cũng chỉ ở NLXH.
2.2. Giai đoạn 1954 - 1975, sách làm văn xuất hiện khá nhiều. Có thể kể một số cuốn
tiêu biểu như: Phương pháp làm văn nghị luận (1959 ) của Thẩm Thệ Hà / 46 /, Nghị luận
U

U

U


luân lí và văn chương (1960) của Nguyễn Duy Nhường / 8 1 /, Luận phổ thông (1962) của
U

U

U

Lê Thái Ất, Nghị luận luân lí và phổ thông (1964) của Minh Văn và Xuân Tước /118/, Bài
U

U

U

Viết văn thi tú tài (1967) của Phạm Thế Ngữ /77/, Luận văn chương và giải đề (1971) của
U

U

U

Vũ Ký / 55/,…
Trong các cuốn làm văn nói trên, kỹ năng lập ý ít nhiều đều được đề cập tới. Mỗi cuốn
đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Thẩm Thệ Hà trình bày kĩ năng thành 3 phần kĩ
năng nhập đề, kĩ năng diễn đề và kĩ năng kết luận. Việc ý, lập ý chủ yếu khai thác từ cách
thức của các thao tác chứ không phải nội dung, vấn đề.
Trong cuốn Nghị luận Luân lí và văn chương , kĩ năng ý chỉ được đề cập đến ở loại
U

U


NL luân lí. Mặc dù để hẳn chương 4 và chương 5 để nêu cách tìm ý và dàn ý nhưng về cơ
bản cách tìm ý của tác giả Lê Thái Ất trong cuốn Luận phổ thông có nhiều điểm giống
U

U

Nghiêm Toản. Cuốn sách làm văn trực tiếp đề cập đến Nghị luận văn chương là cuốn của
Vũ Ký. Ở phần kỹ năng lập ý, tác giả nêu ra 2 bước :
Bước 1: Hiểu rõ các danh từ trong đề để hiểu đề / 5 /
Bước 2: Hiểu xong phải lục soát tất cả những kiến thức văn chương nằm trong tiềm
thức của mình, những hiểu biết thu thập được ở trường, ở tự đọc sách, ở sự nghiên cứu của
mình để ứng phó với đề. Theo vũ Ký, muốn hiểu đề cần trả lời 2 câu hỏi: đề muốn gì?
U

U

Và Ta biết gì ?
U

U

2.3. Từ sau 1975 Nhà xuất bản giáo dục ấn hành cuốn Tài liệu hướng dẫn giảng dạy
U

10


TLV cấp III. /62/ / 26 /. Trong tài liệu này, các tác giả gợi ý kĩ năng làm bài bằng những
U


điều chung chung trong những gợi ý ở ba phần: đặt vấn đề giải quyết vấn đề và kết thúc vấn
đề.
Cuốn Tập làm văn và ngữ pháp / 115 / có đặt ra vấn đề rèn luyện kỹ năng lập ý,
nhưng chủ yếu cũng chỉ lấy dẫn chứng từ các đề NLXH. Trong những năm 1970 - 1976
xuất hiện nhiều bộ sách “Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi vào các trường đại học, Cao đẳng
U

và trung học chuyên nghiệp”. Trong các bộ sách ôn thi ấy đều có phần kĩ năng làm văn
U

trong đó có kĩ năng lập ý. Ví dụ cuốn ôn thi văn học /72 / để hẳn một mục (V): xây dựng
U

U

luận điểm – lập dàn ý – Kết cấu. Các tác giả cũng đã chú ý tới việc hướng dẫn HS cách triển
khai luận điểm, tìm ý và sắp xếp các ý / 72. 54 -59).
Trong quá trình xử lí đề tài, chúng tôi có tham khảo một số tài liệu nước ngoài, dĩ
nhiên là chưa đầy đủ, nhưng cũng soi sáng thêm được ít nhiều vấn đề mà luận án đặt ra.
Vấn đề rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận trong nhà trường cũng đã đặt ra từ lâu ở
Liên Xô (cũ), trong một số công trình mà chúng tôi có tham khảo /128 / /138 / /141 / / 129 //
140/ / 137/ / 124/ /130 / /133/ /132/ /125/ 136 / ...
Có thể lấy ý kiến của M.I. Bôi Cơ sau đây làm nhận xét chung : "Vấn đề yêu cầu của
đề cương bài luận được các nhà phương pháp giải quyết theo nhiều cách khác nhau tùy
thuộc vào chỗ họ nhìn nhận theo những quy luật nào trong đề cương. V.A.Nhicônxki xem
xét việc phân chia khái niệm và đối tượng chỉ như là những trường hợp riêng lẻ của việc sắp
xếp khái niệm theo đề tài và đồng thời đặt ra những qui tắc xây dựng đề cương. P.P.pháplốp
cho rằng, nhũng điểm của đề cương liên quan đến đề tài như một bộ phận liên quan đến toàn
thể và đề ra những qui tắc xác định cho việc xây dựng đề cương. Có ý kiến cho rằng dàn bài

nghị luận phản ánh nội dung khái niệm, vì vậy khi xây dựng đề cương phải dựa vào những
qui tắc xác định khái niệm. Một vài nhà phương pháp mở rộng những qui tắc phân chia khái
niệm trong tất cả các trường hợp xây dựng dàn bài. Trong những năm 1950, A.I.Uemob đã
đưa ra giải pháp đó một cách chắc chắn" // 123// 58 /.
Về phương pháp dạy học kĩ năng này, các tác giả chủ yếu đề ra những qui tắc hình
thành các luận điểm trong đề cương sau đó cho ví dụ và phân tích. Trong cuốn Phương pháp
U

làm bài nghị luận /142 / Joy.M.Reid đã giới thiệu toàn bộ qui trình làm một bài luận từ
U

những nguyên tác cơ bản đến cách viết đoạn văn, kĩ thuật chứng minh và phương pháp phát
triển. Về kĩ năng lập ý, tác giả đề cập đến ở phần tổ chức bài luận, ở đây joy nêu vai trò, tác
U

11

U


dụng và nhũng quy tắc logic của đề cương. Để tìm ý –lập ý tác giả chủ yếu vận dụng
phương pháp nêu câu hỏi như : ai ? cái gì ? khi nào ? Tại sao ? Ở đâu ? Thế nào ?... Nhìn
chung phương pháp trình bày ở đây rất sáng sủa, ngắn gọn. Tuy vậy tác gỉa chỉ bàn tới loại
NLXH mà thôi.
3. Rèn luyện lập ý chú ý tới loại bài NLVH.
U

U

Do nhu cầu cần đổi mới việc dạy và học văn trên tất cả các bình diện, môn làm văn

cũng có nhiều chuyển biến. Điều chuyển biến rõ nhất là các tác giả cố gắng đi tìm và xác
lập cho làm văn những cơ sở lí luận, tránh tình trạng kinh nghiệm chủ nghĩa, làm mò mẫm,
được chăng hay chớ. Hơn nữa lí thuyết lập ý đã bắt đầu chú ý tới loại bài NLVH. Biểu hiện
ở việc các đề đưa ra phân tích có nhiều đề là NLVH và ở một vài kiểu bài NLVH, các soạn
giảđã có mục định hướng - lập ý. /94 / /81 / .
U

U

Tất nhiên không thể tránh được những nhược điểm nhất định, nhưng sách làm văn và
các tài liệu dạy học phân môn này ở giai đoạn CCGD đã được viết theo tinh thần ấy. Cuốn
giáo trình Làm văn /11/ /12/ đã vận dụng những thành tựu nghiên cứu của lí thuyết hoạt
U

U

động lời nói và lí luận dạy tiếng, lí luận dạy đại học vào soi sáng cho các vấn đề của làm
văn nói chung cũng như kỹ năng lập ý nói riêng. Kỹ năng này được các tác gỉa trình bày
trong phần kỹ năng xây dựng luận điểm và lập chương trình biểu đạt. /11,139 -160 /. Nhìn
U

U

U

U

chung cách xây dựng luận điểm ở đây được triển khai qui mô lớn, khoa học hơn, tuy vậy
vẫn thấy rất lúng túng nếu đem cách xây dựng luận điểm ở đây vận dụng vào để giải quyết
một đề NLVH nhất là loại phân tích, bình giảng tác phẩm văn học.

Song song với việc cải tiến vấn đề dạy học - Làm văn bậc đại học, ở cấp PTTH đã tiến
hành triển khai sách CCGĐ. Với 2 bộ sách làm văn, 1 do trường ĐHSP Hà Nội biên soạn
(gọi tắt là trường) và một do Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP Hồ Chí Minh biên
soạn (gọi tắt là sách Hội),kĩ năng lập ý đã được đề cập đến nhiều hơn, cụ thể hơn, nhất là
sách Trường. Hai bộ sách này / 14/ / 64 / /94/ / 38/ / 39 / / 40 mỗi cuốn đều có những ưu
điểm và những hạn chế nhất định vì việc rèn luyện kĩ năng lập ý. Chúng tôi xin được trình
bày điều đó ở phần phân tích các tài liệu dạy học hiện hành ở chương I luận án này.
Cùng với bộ sách giáo khoa làm văn cho HS, Bộ GD và Đào tạo còn cho ra hàng loạt
loại sách khác kèm theo như: sách giáo viên, hướng dẫn dạy các bài trong sách giáo khoa
học sinh / 41 / / 23 / / 65 / / 95 /; sách bồi dưỡng giáo viên dạy môn làm văn do trường
ĐHSP Hà Nội biên soạn / 1 // 66 / /33 /; Tài liệu bồi dưỡng dạy sách giáo khoa CCGD một
12


làm văn do Vụ giáo viên biên soạn /21/ /99/ /96/; Sách bài tập làm văn và dàn bài tập làm
văn /24/ /67/. Các tài liệu trên nhằm mở rộng, nâng cao và rèn luyện nội dung cũng như
phương pháp dạy và học môn làm văn. Tuy vậy các tài liệu ấy cũng chỉ xoay quanh những
gì sách gíao khoa làm văncủa HS mà chúng tôi cũng sẽ điểm qua cả ưu điểm lẫn hạn chế về
kĩ năng lập ý ở chương I luận án này.
Năm 1993 trong tài liệu giáo khoa thực nghiệm phân ban làm văn 10 / 15/ / 16 /, kĩ
năng lập ý tiếp tục được lưu ý và đề cập đến trong phần lập dàn ý nói chung cho văn nghị
luận /15/, 25 - 26 /. Tuy nhiên đó cũng chỉ là những hướng dẫn còn rất khái quát. Phần
NLVH sách đưa ra 4 kiểu bài nhưng không đè cập đến kĩ năng lập ý cho từng kiểu bài,
Cũng trong thời gian này, chúng tôi đã đưa ra quan niệm của mình về kĩ năng lập ý
cho bài NLVH / 71 /. Tuy vậy do nằm trong cấu trúc chung của cuốn sách, nhiều vấn đề về
kĩ năng này chưa được triển khai triệt để và toàn diện.
Như vậy, có thể thấy rõ, kỹ năng lập ý nói riêng và kĩ năng làm văn nói chung chủ
yếu là được đề cập ở các tài liệu dạy học trong nhà trường ( từ phổ thông đến đại học).Ngoài
ra trên một số tạp chí chuyên ngành đã đăng tải ít nhiều các bài nghiên cứu về vấn đề rèn
luyện kỹ năng làm văn nói chung /37/ /27/ /51/ / 50/ /52/ /103/ / 106/ /108 / /107/ /105 /104

/ ...
Tuy vậy không có bài viết nào bàn bạc riêng về kỹ nănglập ý mà chủ yếu là đưa ra
những vấn đề kĩ năng làm văn nghị luận nói chung. Trong một số tài liệu nước ngoài mà
chúng tôi đọc được tình hình cũng như vậy. Ví dụ:
- Ở cuốn “Văn nghị luận văn học trong nhà trường phổ thông” /123/ của Bôicơ, sau
khi nêu lên các dạng NLVH, tác giả đề cập đến kỹ năng này ở phần yêu cầu của bài luận.
Tác giả cho rằng, việc lập đề cương cho bài viết phải căn cứ vào các qui luật logic. Bôi Cơ
cũng đã nêu lên 4 nguyên tắc xây dựng đề cương từ các qui luật logic và 4 qui tắc buộc HS
phải tuân thủ khi xây dựng đề cương /123, 53 - 73/.
Như vậy, ở đây cũng chỉ dừng lại những nguyên tắc chung nhất mà bất kỳ một bài
nghị luận nào cũng phải theo. Trong khi loại bài NLVH có rất nhiều dạng phong phú, đòi
hỏi cần có những phương pháp hình thành đề cương tương ứng, thích hợp. Các loại NLVH
mà Bôi Cơ chia ra ( 5 loại ) là : phân tích đặc điểm nhân vật, so sánh nhân vật, phân tích
nhóm nhân vật, phân tích tác phẩm, phân tích nhóm tác phẩm. Rõ ràng sự phân loại này so
với thực tế các dạng đề NLVH ở Việt Nam là chưa đủ. Trong cuốn "Viết một bài NLVH
13


như thế nào?" / 136 /, B.A.Orlôp lưu ý học sinh rằng: "Lập đề cương là 1 trong những kĩ
năng phức tạp nhất khi viết bài luận". Sau đó tác giả gợi ý cách lập đề cương bằng cách đặt
câu hỏi và trả lời câu hỏi. Căn cứ vào đâu để lập đề cương, theo tác giả là phải căn cứ vào:
- Kết quả phân tích tác phẩm
- Kiến thức lí luận văn học
- Kiến thức lịch sử văn học
- Kiến thức lịch sử và triết học.
Chúng tôi cho rằng đây là những gợi ý hết sức quan trọng cho việc lập một đề cương
bài NLVH. Tuy vậy nó cũng chỉ dừng lại những yêu cầu chung, ở đây chỉ có thế tiếp thu
những nguyên tắc và các qui tắc chung nhất để soi sáng cho vấn đề của luận án đặt ra.
Trên đây chúng tôi đã trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và giảng dạy kĩ năng
lập ý cho loại bài NLVH trong nhà trường ( chủ yếu là Việt Nam) từ trước tới nay. Từ tình

hình trên có thể nêu mấy nhận xét sau đây :
1. Kỹ năng lập ý cho bài NL nói chung là một kỹ năng rất cơ bản, thiết yếu đối với HS.
Chính vì thế mà kĩ năng này được đề cập tới rất sớm và cũng là kĩ năng được nhiều sách chú
ý tới. Thống kê 22 cuốn sách làm văn bàn về kỹ năng, chúng tôi thấy có tới 16 cuốn đề cập
đến kĩ năng này /107/.
2. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân, kĩ năng này phần lớn chỉ được đề cập đến ở loại đề
NLVH. Hầu hết các tài liệu chưa vận dụng kĩ năng lập ý nói chung vào từng dạng đề của
loại NLVH để luyện tập cho HS, trong khi NLVH là loại bài thể hiện rõ nhất năng lực văn
học của HS.
3. Một số tài liệu đề cập đến kĩ năng này (chủ yếu là sách CCGD) ở loại bài NLVH,
nhưng các dạng đề đưa ra phân tích, minh họa cho phần lí thuyết của kĩ năng này hầu hết là
các đề rõ ý, dễ khai thác và chưa bao quát hết được các dạng đề tiêu biểu của loại NLVH.
Ví dụ: dạng đề phân tích, bình giảng tác phẩm văn học ít thấy được đưa ra phân tích ở kỹ
năng này.
4. Kĩ năng lập ý có liên quan nhiều đến các vấn đề của lí thuyết làm văn, nhưng bản
thân các vấn đề lí thuyết ấy cũng chưa được giải quyết trọn vẹn, vì thế vấn đề này cũng chưa
được khai thác đầy đủ: cơ sở lập ý, cách triển khai ý, giới hạn và cấp độ ý, mối quan hệ giữa

14


kĩ năng này với các kĩ năng khác.
5. Ai cũng thấy văn nghị luận là loại văn yêu cầu kiến thức tổng hợp liên ngành,
Nhưng phần lớn chỉ chú ý tới sự tổng hợp liên ngành về phương diện nội dung ít ai thấy để
U

U

hình thành được kĩ năng làm văn nghị luận nói chung và kĩ năng lập ý nói riêng cần phải
chú ý tới tính chất tống hợp liên ngành về phương pháp nữa.Có nghĩa là việc rèn luyện kĩ

U

U

năng lập ý không thể chỉ tiến hành đơn phương ở mình phân môn làm văn, mà các phân
môn khác cũng phải góp phần rèn luyện kĩ năng này. Tư tưởng này rất quan trọng đối với
giáo viên PTTH, khi họ được đào tạo để dạy cùng một lúc tất cả các phân môn trong bộ
môn văn ở cả khóa học ( 3 năm ). Như vậy, vấn đề đặt ra là phải tập trung nghiên cứu vấn
đề lập ý cho loại bài NLVH trên cả 2 phương diện nội dung và phương pháp dạy học, đề ra
các biện pháp rèn luyện kỹ năng này một cách toàn diện, đồng bộ và có kế hoạch.
III - NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI.
A– Nhiệm vụ:
U

U

Xuất phát từ tình hình nghiên cứu ở trên, với khả năng và tư liệu cho phép, chúng tôi
xác định cho luận án những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
1. Tìm hiểu thực trạng vấn đề dạy và học lập ý của HS trong nhà trường Việt nam,
bằng cách :
1.1. Thực nghiệm điều tra khả năng lập ý của HS, làm rõ nhưng hạn chế cơ bản của HS
ở kĩ năng này.
1.2. Phân tích các tài liệu dạy học dưới góc độ hình thành kỹ năng lập ý trên tất cả các
phân môn từ cách trình bày bài văn học sử, bài giảng văn đến lí thuyết lập ý, bài tập lập ý
v.v.v…
2. Nghiên cứu các cơ sở lí thuyết về kinh nghiệm dạy học của nhà trường Việt Nam và
các nước bạn (nếu có thể) để tìm ra những phương pháp, biện pháp hợp lý có thể vận dụng
trong việc rèn luyện kĩ năng lập ý cho HS ở nhà trường Việt Nam.
3. Soạn thảo và đề xuất những chỉ dẫn để tiến hành dạy lập ý, xây dựng, các hình thức
dạy - học nhằm rèn luyện kĩ năng này cho HS một cách hệ thống, đồng bộ và toàn diện.

4. Tiến hành thực nghiệm dạy học để kiểm tra hiệu qua của những hình thức mà luận
án đã đề xuất.
B - Giới hạn của đề tài :
U

U

15


1. Trong nhà trường PTTH hiện nay văn nghị luận đã và đang được học 2 loại lớn: Đó
là NLXH và NLVH. Mỗi loại có tầm quan trọng riêng. Tuy vậy, luận án này chỉ quan tâm
đến loại NLVH. Sở dĩ như vậy vì:
1.1. Đây là loại văn bản rất đa dạng và phong phú mang đặc thù văn chương rõ nhất.
Bài văn viết của HS trước hết vẫn là căn cứ quan trọng để đánh giá năng lực văn học
U

U

của HS.
1.2. Từ trước tới nay, như trong phần lịch sử vấn đề chúng tôi đã trình bày kĩ năng lập
ý chủ yếu chỉ được triển khai ở phần kĩ năng làm văn nghị luận nói chung. Phần lớn các tài
liệu chỉ chú ý khai thác loại đề NLXH. Luận án này chú ý tới NLVH nhằm bổ sung cho sự
khiếm khuyết đó.
2. Luận án cũng chỉ giới hạn sự xem xét loại văn bản NLVH trong nhà trường PTTH.
có nghĩa là mọi yêu cầu tính chất, mức độ trong việc xây dựng loại văn bản này cần và chỉ
cần: cơ bản, tiêu biểu, phù hợp với cấp học ( lứa tuổi ) và có tính khả thi. Để làm được việc
đó, luận án phải dựa trên một cơ sơ lí luận vững chắc của bộ môn và các khoa học liên
ngành. Rèn luyện kĩ năng lập ý cho loại bài NLVH cần xuất phát từ những căn cứ khoa học
tránh kinh nghiệm chủ nghĩa,tránh mò mẫm nhưng cũng không phải vì thế mà đưa ra những

lí thuyết quá cao siêu phức tạp không thể áp dụng cho việc dạy và học gây chán nản cho
U

U

thầy và trò. Với tinh thần đó luận án chỉ chú ý xem xét và đề xuất những biện pháp nhằm
rèn luyện nhưng bước tập dượt ban đầu rất cơ bản và quan trọng để sau này các em có thế
vươn tới viết được những bài NLVH có chất lượng cao hơn. Cấp PTTH là những lớp cuối
cùng của giai đoạn học phổ thông, các em sắp bước vào đời, vì thế luận án cũng chú ý đến
đặc điểm này để đưa ra được những định hướng và những sự chuẩn bị cần thiết.
3. Để viết được bài NLVH có chất lượng, người HS cần phải rèn luyện rất nhiều kĩ
năng. Luận án này tập trung vào kĩ năng lập ý: Lập ý ở đây được hiểu là việc tìm ra được
U

U

các ý, định ra được nội dung cơ bản của bài viết, tổ chức sắp xếp các nội dung ấy một cách
hợp lý để làm sáng tỏ mục đích cần nghị luận
IV - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1.Phương pháp hệ thống.
U

U

Phương pháp này cho phép ta xem xét kĩ năng này một cách toàn diện từ cấu trúc nội
dung của kĩ năng lập ý đến mối quan hệ giữa nó với các yếu tố khác trong việc xây dựng
một văn bản hoàn chỉnh. Phương pháp này thể hiện trong luận án ở sự phân loại : phân loại
16



văn nghị luận, phân loại kiểu và dạng đề NLVH, phân loại ý và các cấp độ của ý, phân loại
dàn ý... phương pháp này cũng giúp chúng tôi xem xét kỹ năng này trong mối quan hệ với
hàng loạt các yếu tố khác như: ý và hệ thống ý trong việc tạo ra một văn bản, quan hệ giữ
kỹ năng, lập ý với các kỹ năng làm văn khác, kỹ năng lập ý trong mối quan hệ với các quy
luật logic học, tâm lí học, ngôn ngữ học ... quan hệ giữa nội dung, lí thuyết kỹ năng, lập ý
với phương pháp rèn luyện kỹ năng này, quan hệ giữa các phân môn trong việc rèn luyện kỹ
năng lập ý...
2) Phương pháp thực nghiệm khoa học.
U

U

Luận án đã tiến hành 2 loại thực nghiệm :
2.1. Thực nghiệm điều tra: Đối tượng điều tra khảo sát chính là bài làm và việc làm
dàn ý củs HS. Mục đích điều tra là xác định thực trạng, của vấn đề dạy - học lập ý bằng
những số liệu từ những phép đo cụ thể
2.2. Thực nghiệm dạy học: loại thực nghiệm này nhằm đưa những hình thức rèn luyện
kỹ năng lập ý mà luận án đề xuất vào dạy học cụ thể ở một số trường PTTH để kiểm tra
hiệu quả của chúng.
3) Các phương pháp khác: Ngoài hai phương pháp trên,trong qúa trình xử lí đề tài,
U

U

chúng tôi còn vận dụng một số phương pháp khác như phương pháp thống kê - phân loại:
U

U

thống kê, phân loại kết qủa điều tra các loại lỗi về lập ý mà học sinh thường mắc.

Phương pháp phân tích: phân tích nguyên nhân và kết quả thực nghiệm điều tra và
thực nghiệm dạy học.
Phương pháp đối chiếu - so sánh: Đối chiếu so sánh kếtquả giữa lớp TN và lớp ĐC,
U

U

giữa lớp TN và kết qủa thực trạng ban đầu (TTBĐ), giữa lớp ĐC và kết qủa TTBĐ. . . để
thấy được hiệu quả của các hình thức rèn luyện kỹ năng lập ý mà luận án đề xuất.

17


CHƯƠNG I - THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ DẠY - HỌC LẬP Ý Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG VIỆT NAM.
I. NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LẬP Ý CỦA HỌC SINH.
1. Mục đích : Bằng phép đo, xác định được năng lực lập ý của HS PTTH đối với loại
U

U

bài NLVH.
2. Phép đo: Chúng tôi đã tiến hành hai cách đo như sau:
U

U

2.1. Cách thứ nhất: Cho một đề văn ( NLVH ), yêu cầu HS làm dàn ý trong thời gian
U


U

15-20 phút. Sau đó chấm dàn ý và thống kê kết quả. Qui định 15-20 phút theo chúng tôi, đó
là thời gian cần thiết để HS lập ý trước khi bắt tay vào viết thành văn ( bài văn làm thời gian
từ 120 - 180 phút), cách này gọi là phép đo I.
2.2. Cách thứ hai: Ra một đề văn NLVH yêu cầu HS làm bài, sau đó chấm bài văn. Ở
U

U

phép đo này, người chấm bài phải từ bài văn hoàn chỉnh của học sinh, dựng lại dàn ý mà HS
đã viết, từ đó mà đánh giá kết qủa. Kết qủa ở đây là kết quả lập ý, chứ không phải là kết quả
của cả bài văn.Vì kết quả bài văn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như diễn đạt và trình
bày... nên cần phân biệt kết quả lập ý với kết quả toàn bài. (cách này gọi là phép đo II).
U

U

U

U

2.3. Ngoài hai phép đo cơ bản trên chúng tôi cũng đã tiến hành điều tra HS để xác định
được các em có thói quen lập dàn ý trước khi viết hay khôngvà khâu khó nhất khi làm một
bài văn là gì? ( gọi là phép đo III).
3. Cách đánh giá kết quả.
U

U


Để xác định được năng lực lập ý của HS PTTH, trong quá trình thực nghiệm điều tra
này, chúng tôi áp dụng hai cách đánh giá sau đây:
3.1. Đánh giá kết quả đạt và không đạt yêu cầu vì lập ý.
Thế nào là một dàn ý đạt yêu cầu chuẩn xác? Theo chúng tôi một dàn ý của HS PTTH
làm trong thời gian qui định trên cần đạt được là:
Mở bài: Nêu được luận đề (ý khái quát bao trùm toàn bài mà thân bài phải làm sáng
U

U

tỏ ).
Thân bài: Nêu được các luận điểm ( ý lớn ) các ý này đều tập trung làm sáng tỏ cho
U

U

luận đề đã nêu ở mở bài. Trong mỗi luận điểm nêu được một số luận cứ ( ý nhỏ ), các ý nhỏ

18


này đều làm sáng tỏ cho luận điểm đã nêu, nằm trong luận điểm đã nêu. Số lượng luận điểm,
luận cứ tùy thuộc vào nội dung cụ thể của từng đề văn được giao.
Kết bài: Nêu ý tổng kết toàn bài.
U

U

Ngoài yêu cầu dàn ý như trên, tất nhiên bài làm đạt yêu cầu không được mắc các lỗi cơ
U


U

bản về lập ý.
3.2. Đánh giá các lỗi về lập ý mà HS thường mắc phải.
3.2.1. Lỗi thiếu ý: Là loại bài, đề yêu cầu 3 luận điểm HS chỉ nêu được một hoặc hai.
U

U

Luận điểm cần ba luận cứ làm sáng tỏ, học sinh chỉ nêu được hai hoặc một.
3.2.2. Trùng lặp ý: Là loại bài mà luận điểm 2 trùng với luận điểm 3 hoặc luận điểm 3
U

U

trùng với luận điểm 1. Luận cứ 2 nói lại luận cứ 1 hoặc luận cứ 3 trùng luận cứ 2 hoặc luận
điểm sau bao hàm luận điểm trước và ngược lại
3.2.3. Lập ý: Là loại bài xác định sai luận đề. Đề ra một nơi, người viết một nẻo gọi là
U

U

lạc đề, hoặc bài xác định đúng luận đề nhưng các luận điểm không thuộc luận đề không làm
sáng tỏ cho luận đề đó. Trong một luận điểm, có các luận cứ không phù hợp với luận điểm
ấy ( Thừa ý là một trường hợp của lạc ý ).
3.2.4. Không biết làm dàn ý: Là loại bài ở đó HS viết luôn thành văn, không phân biệt
U

U


mở bài, thân bài, kết bài không phân biệt luận đề, luận điểm, luận cứ.
3.2.5. Lỗi logic: Là loại bài sắp xếp các luận điểm, luận cứ không theo một trình tự
U

U

nào ( lộn xộn ) hoặc trật tự các luận cứ, luận điểm không thích hợp, hoặc luận cứ được xếp
ngang với luận điểm ( ý nhỏ tương đương với ý lớn hoặc luận điểm 1 mâu thuẫn với luận
điểm 2, luận cứ 2 ngược với luận cứ 1 trong cùng một luận điểm... hoặc trong dàn ý có luận
điểm 1 mà không có luận điểm 2, có luận cứ 1 mà không có luận cứ 2...
4.Thực nghiệm đo năng lực lập ý của HS PTTH.
U

U

Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệmđo năng lực lập ý của học sinh ở 16 lớp 12 thuộc 8
trường PTTH khác nhau. Đó là trường PTTH Lam Sơn, PTTH Hoằng Hóa I, PTTH
HàTrung (TỉnhThanh Hóa ). PTTH Lê Qúy Đôn và PTTH Lý Tự Trọng ( Khánh Hòa ),
PTTH Lê Khiết ( Quảng Ngãi ), PTTH Nguyễn Trãi (Hà Nội), PTTH Gia Hội ( Huế ). Tổng
số HS tham gia 452 em (làm tròn số 450 ). Thời gian làm thực nghiệm tháng 4/199.
4.1.1. Bài tập: Hãy lập dàn ý cho đề văn sau đây trong vòng 15 phút: phân tích vẻ đẹp

19


của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân.
4.1.2. Yêu cầu dàn ý chuẩn ( đạt yêu cầu trở lên )
Mở bài: Luận đề: Huấn Cao là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Chữ người tử tù"
U


U

của Nguyễn Tuân. Ba phẩm chất tạo nên vẻ đẹp của ông là: Tài hoa, khí phách và thiên
lương.
Thân bài: Luận điểm I: Huấn Cao - một con người tài hoa.
U

U

U

U

Luận cứ 1: Viết chữ Hán đẹp là một nghệ thuật phải có tài mới làm được. Huấn Cao là
người viết chữ Hán đẹp nổi tiếng.
Luận cứ 2: Huấn Cao là lãnh tụ nghĩa quân tài giỏi
Luận cứ 3: Huấn Cao văn võ song toàn --> nhiều người kính phục, ngay cả viên quản
ngục và thầy thơ lại cũng thế.
U

Luận điểm 2: Huấn Cao - một con nguời đầy khí phách.
U

Luận cứ 1: Sắp bị chém mà không tỏ ra nao núng
Luận cứ 2: Coi thường viên quản ngục - không cho chữ
Luận cứ 3: Quản ngục kính nể Huấn cao.
U

Luận điểm 3: Huấn Cao một người có thiên lương.

U

Luận cứ 1: Hiểu được tấm lòng trong sáng của quản ngục
Luận cứ 2: Cho chữ và khuyên quản ngục.
Kết bài: Cảnh tượng "xưa nay chưa từng có ở chốn lao và hành vi quản ngục vái Huấn
U

U

Cao là biểu hiện sự chiến thắng của Tài hoa - Khí phách và Thiên lương.
4.1.3.Kết quả đo.
U

U

Kết quả tổng hợp ( số HS đạt yêu cầu và không đạt yêu cầu:
U

U

Tổng số bài

Đạt yêu cầu

Không đạt yêu cầu

450

116 = 26%


333 = 74%

4.2. Một số dàn ý của HS không đạt và đạt yêu cầu.
4.2.1. Ví dụ về dàn ý không đạt.
U

U

20


Bài làm 1: (chúng tôi ghi lại nguyên văn cả lỗi chính tả)
U

U

Lập dàn ý.
Mở bài: - Nêu suất sứ của truyện ngắn, nói sơ qua về tác giả.
U

U

- Nêu những nét chung về cái hay, cái đẹp của truyện ngắn.
Thân bài:
U

U

- Phân tích cụ thể, chi tiết những diễn biến trong truyệnngắn
- Phân tích phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Huấn Cao.

( Bài của HS Tạ Hải Tr
U

trường PTTH Hà Trung, Thanh Hóa)

Nhận xét: Dàn ý trên mắc nhiều lỗi: lạc ý ( thừa ý, thiếu ý, thiếu kết luận, quá sơ sài).
U

Dàn ý này bị giáo viên cho 1 điểm là đúng.
Bài làm 2:
U

U

- Nhân vật chính trong truyện ngắn là Huấn Cao. Ông là con người văn hay chữ tốt,
có ý thức về tài năng của mình.
- Ở ông toát lên ý chí và hoài bão của một con người chứa đầy quyết tâm.
- Ông là người sáng tạo ra cái đẹp, biết trọng những người có phẩm chất cao qúi.
- Ông là người không chịu khuất phục, có ý chí
- Tuy là người tử tù nhưng vẻ đẹp của ông vẫn không bị khuất phục, ông luôn giúp cho
viên quản ngục biết chữ đó là điều hiếm có ở người tù cổ đeo gông, chân mang xiềng xích.
- Bản thân ông là người cao đẹp và là người làm ra cái đẹp (viết chữ nho đẹp).
( Bài của HS Phạm Thị Kh - Trường PTTH hoằng Hóa I Thanh Hóa–đạt điểm 3 ).
Nhận xét I: Dàn bài ở trên cũng không đạt yêu cầu, lỗi nặng nhất mà HS này mắc phải
là các ý của bài viết trùng lặp nhau, ngoài ra còn thiếu ý và sơ sài. Giáo viên dạy cho 3 điểm
là đúng.
Bài làm 3
U

Truyện ngắn "chữ người tử tù" là một truyện ngắn tiêu biểu trong tập truyện "Vang

bóng một thời" truyện này được xây dựng từ một nguyên mẫu có thực đó là Cao Bá Quát
một lãnh tụ của nông dân một người nổi tiếng văn hay chữ tốt, tài hoa hơn, Nguyễn Tuân
21


không dừng ở đó ông tạo ra nhũng sáng tạo văn học với những phẩm chất tốt đẹp.
Vẻ đẹp của Huấn Cao là một vẻ đẹp của con người văn võ song toàn, có tài năng và
tâm huyết tác giả giới thiệu Huấn Cao là một con người văn hay chữ tốt, nét chữ đẹp của
ông đã nói lên cái chí của mình, nói lên hoài bão tung hoành của một đời người. Cái tinh tế
của Nguyễn Tuân là xây dựng hình ảnh viên quan ngục khúm núm bê tấm vải cho Huấn
Cao viết làm nổi bật tư thế đàng hoàng của người tù ở đây.
Tác giả tập trung mô tả đối lập về hoàn cảnh, địa vị của Huấn Cao và hoàn cảnh giữa
nhân vật Huấn Cao và bọn quan lại quản ngục. Toàn bộ tác phẩm là sự biểu lộ tình cảm các
con người biết quý trọng cái đẹp, cái tâm mặc dù bị giam cầm, bị lôi kéo giữa bọn quan lại
nhưng ông vẫn dữ được cái lương thiện.
Với nghệ thuật bút pháp lãng mạn đi xa với thực tế tác giả đã xây dựng thành công
người lãnh đạo của nhân dân lao động.
(Bài của HS Vũ Văn H

- TrườngPTTH Lí Tự Trọng - Khánh hòa - đạt 2 điểm).

Nhận xét: Đây không phải là một dàn ý mà là một đoạn văn HS Vũ Văn H
U

U

không

biết làm một dàn ý (đã viết thành văn) mặt khác ngay cả đoạn văn này cũng bộc lộ nhiều lỗi
về ý như: thiếu ý, trùng ý. Giáo viên dạy cho 2 điểm là đúng.

Bài làm 4:
U

Dàn ý:
U

1. Mở bài :
U

U

- Giới thiệu tác phẩm và tác giả
- Nguyễn Tuân sáng tác truyện ngắn "chữ người tử tù" nằm trong dòng văn học lãng
mạn. Đó là một tác phẩm độc đáo và sâu sắc mang đậm tính nhân văn.
+ Tác giả gửi gắm lòng mình vào tác phẩm
+ Nhân vật trung tâm ông Huấn Cao có tài hoa cao thượng ngay cả trong tù khổ
cực.
2. Thân bài:
U

U

- Phân tích nhân vật Huấn Cao
- Một con người tài hoa, tiếng tăm lừng lẫy: người tù làm cho bọn cai ngục, lính tù

22


cảm phục vị nể.
- Huấn Cao ung dung, kẻ cả: dưới ánh lửa bập bùng trong góc nhà ngục vốn ẩm ướt,

lạnh lẽo. Hình ảnh Huấn Cao với nét chữ bay lượn làm rung động con tim.
+ Nhân vật cai ngục: Tuy nhúng tay trong công việc xấu xa nhưng tâm can chúng luôn
băn khoăn dằn vặt muốn điều thiện. Ông kính trọng, vị nể tù nhân tài hoa kia (khúm núm,
loanh quanh ngọn đèn...).
+ Qua đó làm nổi bật hình ảnh người của nhân dân khởi nghĩa
+ Nghệ thuật:
- Tác gia sử dụng các ngôn ngữ, từ loại hết sức phong phú độc đáo và chính xác.
+ Giọng văn thay đổi chuyển hóa hấp dẫn người đọc.
3. Kết luận :
- Nhận xét chung về nội dung tác phẩm và nghệ thuật của tác phẩm.
+ Gía trị của tác phẩm vàảnh hưởng của nó đến văn học, con người và xã hội.
( Bài của HS Lại Thế H

- Trường PTTH Lê Khiết Quảng Ngãi - đạt điểm 4).

Nhận xét: Dàn ý trên phạm nhiều lỗi, nhưng lỗi nặng nhất là lỗi logic. Các ý lớn và ý
U

U

nhỏ không phân biệt, trật tự các ý sắp xếp lộn xộn, không thích hợp, không tương đương kí
hiệu không thống nhất, nhiều khi lẫn lộn dấu ( - ) vàdấu (+). Giáo viên dạy cho 4 điểm là
đúng.
4.2.2. Ví dụ về dàn bài đạt yêu cầu.
U

U

Bài làm 5.
U


- Truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân là một truyện ngắn đầy hấp dẫn và
có nhiều hình tượng đẹp, tiêu biểu là Huấn Cao.
- Ông đã xây dựng nhân vật Huấn Cao trong "Chữ người tử tù" thể hiện ở ba phẩm
chất:
+ Tài hoa
+ Khí phách, hiên ngang, bất khuất
+ Thiên lương rất trong sáng không bụi bẩn.

23


- Ta phân tích được cái đẹp nổi bật của Huấn Cao ta phải đặt hình tượng này với hai
nhân vật là: người quản ngục và viên thơ lại.
- Huấn Cao là con người tai hoa khác thường, ông viết chữ rất đẹp và đây là một trong
nghệ thuật mà người xưa gọi là thư pháp.
+ Huấn Cao là người có tài viết chữ đến viên quản ngục cũng phải kính trọng.
- Huấn Cao là người có khí phách khác thường mà trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã
nói rõ.
+ Là tử tù nhưng vẫn ung dung, không nao núng tinh thần đàng hoàng. Tỏ ra khinh
miệt quản ngục đến mức chúng phải tôn trọng ông.
- Tuy nhiên Huấn Cao không phải là người có trái tim bằng thép. Ban đầu ông khinh
quản ngục nhưng sau nhận ra quản ngục có một tâm hồn đẹp thì ông thay đổi có thái độ ôn
hòa. "Ta cần cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của người".
+ Huấn Cao cho chữ quản ngục.
( Bài làm của Học sinh Nguyễn Hữu Xuân - Trường PTTH Lam Sơn Thanh Hoá. Bài
đạt 6 điểm).
Nhận xét: Dàn bài trên tuy chưa phải là hoàn chỉnh theo yêu cầu chuẩn, tuy vậy những
U


U

ý lớn nêu lên trong dàn ý chứng tỏ người viết hiểu đề, nắmđược cách làm và cách triển khai
ý của bài viết. Giáo viên dạy cho 6 điểm là đúng.
Bài làm 6.
U

U

Mở bài:
U

U

- Truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân một truyện ngắn hay trích trong
tập "vang bóng một thời"
- Nhân vật Huấn Cao là một hình tượng đẹp, được kể bởi ba đặc điểm: Tài hoa, bất
khuất và có chữ tâm.
Thân bài :
U

U

- Huấn Cao là người có tài hoa.
+ Văn hay, chữ tốt ( tài viết chữ )
+ Lãnh tụ khởi nghĩa tài giỏi.
24


+ Nhiều người cảm phục.

- Huấn Cao là người có đức, có chữ tâm.
+ Trọng người, cảm phục người có "thiên lương"
+ Thay đổi thái độ với quản ngục - cho chữ,
- Huấn Cao là người có khí phách.
+ Không sợ chết mặc dù sắp bị chém
+ Khinh thường quản ngục
+ Không quy gối trước uy quyền, tiền bạc, không cho chữ kẻ bất lương.
Kết bài :
U

- Vẻ đẹp của Huấn Cao là vẻ đẹp văn võ song toàn, tài chí trọn vẹn.
- Ông để lại một bài học sâu sắc về cuộc sống vì cách sống.
(Bài của HS Nguyễn Ngọc Lê - PTTH Nguyện Trãi Hà Nội Bài đạt 8 điểm ).
Nhận xét: Dàn bài trên có thế cần phải điều chỉnh lại một vài điểm cho hoàn chỉnh, tuy
U

U

vậy về cơ bản đó là một dàn bài đạt chất lượng tốt. Xứng đáng được xếp loại khá giỏi.
4.3. Thống kê kết quảcác loại lỗi về lập ý HS thường mắc:
U

Ở trên chúng tôi đã đưa ra 6 bài làm của học sinh trong đó có 4 bài đầu là không đạt
yêu cầu. (Từ bài 1 đến bài 4 ). Bốn bài ấy đều mắc nhiều loại lỗi khác nhau, tuy vậy mỗi bài
tiêu biểu cho mỗi loại lỗi nổi bật mà chúng tôi đã nêu ở nhận xét. Bất kỳ lớp nào và trường
nào được khảo sát cũng mắc phải các loại lỗi lập ý tương tự nhau, vì thế các bài làm đạt và
không đạt nêu ở trên là tiêu biểu cho tất cả các lớp đã tiến hành khảo sát. Sau đây là bảng
thống kê cụ thể.
Bảng thống kê tỉ lệ bài HS mắc lỗi về lập ý.


Tổng số bài

Lạc ý

450

90 = 20%

Thiếu ý

Trùng ý

323 = 74% 128 = 28,5%

Lôgic

135 = 30%

Không biết làm
dàn ý
92 = 20,4%

Lưu ý: Một bài của HS có thể cùng mắc nhiều lỗi khác nhau, cho nên chỉ tính từng loại
lỗi so với tổng số bài.
25


×