Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

rối loạn lo âu ở học sinh trung học phổ thông huyện châu thành tỉnh tiền giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_____________________

Nguyễn Đại Hành

RỐI LOẠN LO ÂU Ở HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN CHÂU THÀNH
TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_____________________

Nguyễn Đại Hành

RỐI LOẠN LO ÂU Ở HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN CHÂU THÀNH
TỈNH TIỀN GIANG
Chuyên ngành

: Tâm lý học

Mã số

: 60 31 04 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHAN THỊ TỐ OANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện,
các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực.
Công bố kết quả của hai trường hợp lâm sàng đã có sự đồng ý chấp thuận
của chính thân chủ và phụ huynh.

1


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian dài học tập, nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, tôi đã hoàn
thành luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người đã giúp đỡ
trong suốt thời gian qua.
Lời đầu tiên, tôi xin được ghi nhớ công lao to lớn của gia đình đã giúp đỡ về
mặt tinh thần lẫn vật chất để tôi có được điều kiện hoàn thành khóa học này.
Tôi xin ghi nhớ công ơn của cô giáo TS. Phan Thị Tố Oanh luôn tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng gửi lời cảm đến các quý thầy cô trong Khoa Tâm lý - Giáo dục, quý
thầy cô đã trực tiếp giảng dạy tôi suốt những năm học tại trường và Phòng Sau đại
học, Thư viện Trường đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

Xin chân thành cảm ơn các bạn học viên Cao học khóa 22 ngành Tâm Lý Học
Trường Đại học Sư phạm tp. Hồ Chí Minh và bạn đồng nghiệp tại Bệnh viện Tâm
thần Tiền Giang đã thiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện
luận văn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2013

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................2
MỤC LỤC ..............................................................................................................................3
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT........................................................................6
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................7
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 7
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 8
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.............................................................................. 8
4. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................................... 9
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................................... 9
6. Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................. 9
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 10
8. Đóng góp của đề tài ...................................................................................................... 11
9. Cấu trúc của luận văn.................................................................................................. 11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỐI LOẠN LO ÂU Ở HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG ...........................................................................................................12
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................. 12
1.1.1. Một số nghiên cứu trên thế giới ..................................................................................... 12
1.1.2. Một số nghiên cứu ở Việt Nam...................................................................................... 14

1.2. Những vấn đề lý luận về rối loạn lo âu ................................................................... 17
1.2.1. Khái niệm rối loạn lo âu ................................................................................................. 17
1.2.2. Biểu hiện rối loạn lo âu................................................................................................... 20
1.2.3. Rối loạn lo âu ở học sinh THPT .................................................................................... 21
1.2.4. Phân loại rối loạn lo âu .................................................................................................. 25
1.2.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn lo âu .............................................................................. 29
1.2.6. Cơ chế tâm lý về rối loạn lo âu ...................................................................................... 30
1.2.7. Nguyên nhân rối loạn lo âu ............................................................................................ 34
1.2.8. Điều trị rối loạn lo âu ...................................................................................................... 36
1.3. Những đặc điểm tâm lý – xã hội của học sinh THPT ............................................ 38
1.3.1. Khái niệm học sinh THPT.............................................................................................. 38
1.3.2. Đặc điểm phát triển thể chất của học sinh THPT ......................................................... 38
3


1.3.3. Đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh THPT............................................................ 39

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỐI LOẠN LO ÂU Ở HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH TIỀN GIANG .................................41
2.1. Giới thiệu khái quát về huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang ............................... 41
2.2. Tổ chức nghiên cứu ................................................................................................... 41
2.2.1. Tổ chức nghiên cứu lý luận ............................................................................................ 41
2.2.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng ...................................................................................... 42
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng ................................................................................ 47
2.3.1. Tổng quan thực trạng RLLA ở học sinh THPT ............................................................ 47
2.3.2. Đặc điểm của học sinh THPT có RLLA ở huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang ....... 49
2.3.3. Thực trạng sự hiểu biết về RLLA ở học sinh THPT .................................................... 50
2.3.4. Thực trạng tự đánh giá về RLLA của học sinh THPT ................................................. 53
2.3.5. Thực trạng biểu hiện RLLA ở học sinh THPT ............................................................. 57
2.3.6. Những cách ứng phó với RLLA ở hoc sinh THPT ...................................................... 62

2.3.7. Các nguyên nhân gây RLLA ở học sinh THPT............................................................ 64
2.3.8. Những yếu tố giúp học sinh THPT ứng phó với RLLA .............................................. 72

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC RỐI LOẠN LO ÂU Ở HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH TIỀN
GIANG ..................................................................................................................................77
3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ........................................................................................... 77
3.1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................................... 77
3.1.2. Cơ sở thực tiễn (từ kết quả nghiên cứu thực trạng) ...................................................... 82
3.2. Nghiên cứu trường hợp điển hình về RLLA ở học sinh THPT huyện Châu
Thành tỉnh Tiền Giang .................................................................................................... 82
3.3. Một số biện pháp cụ thể nhằm giảm thiểu RLLA ở học sinh THPT huyện Châu
Thành tỉnh Tiền Giang .................................................................................................... 90
3.3.1. Nâng cao nhận thức của các lực lượng giáo dục, thầy cô giáo, phụ huynh và các tổ
chức xã hội................................................................................................................................. 90
3.3.2. Cải thiện mối quan hệ gia đình (cha, mẹ, người thân) ................................................. 91
3.3.3. Tăng cường vai trò chủ đạo của nhà trường trong việc giảm thiểu RLLA ở học sinh
THPT.......................................................................................................................................... 92
3.3.4. Nâng cao vai trò tự ý thức của học sinh THPT trong việc chủ động phòng ngừa và
ứng phó với RLLA .................................................................................................................... 95
3.3.5. Thành lập hệ thống tham vấn tâm lý học đường ở các trường THPT ......................... 97
3.3.6. Đẩy mạnh các hình thức sinh hoạt tập thể .................................................................... 98

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................................ 101
4


TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 105
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 109


5


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BAI

: Thang lượng giá lo âu Beck (Beck Anxiety Inventory).

DSM-IV – TR

: Hướng dẫn chẩn đoán và Thống kê các rối loạn tâm thần lần thứ IV
- TR của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ (Diagnostic and statistical
manual of mental disorders).

ĐTB

: Điểm trung bình.

f

: Tần số.

ICD – 10

: Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 của Tổ chức Y tế thế giới
(Intermational classification of diseases).

RLLA

: Rối loạn lo âu.


SAS

: Thang lượng giá lo âu Zung (The Zung Self Rating Axiety Scale).

SD

: Độ lệch tiêu chuẩn.

THPT

: Trung học phổ thông.

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, kinh tế, kỹ thuật công nghệ….thì bên cạnh
đó kéo theo nhiều biến đổi trong đời sống của con người, đặc biệt là phát sinh ra nhiều mối
tiềm ẩn nguy hãi cho sức khỏe con người. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) thì ngày nay có ¼ nhân loại (khoảng 25% dân số thế giới) bị ảnh hưởng bởi sức
khỏe tâm thần và tới năm 2020 trầm cảm – lo âu chỉ đứng sau các bệnh tim mạch về gánh
nặng bệnh tật. Đặc biệt là dạng trầm cảm - lo âu do căn nguyên tâm lý xã hội gây nên [3,
tr.10]. Còn theo, Gro Harlem nguyên tổng thư ký Tổ chức Y tế thế giới nói “Ngày nay,
không một cá nhân nào, không một gia đình nào, lúc này hay lúc khác lại không có vấn đề
về sức khỏe tâm thần” [3, tr.16].
Trong đời sống thường ngày của con người không phải lúc nào cũng diễn ra tốt đẹp,
mà là một chuỗi thăng trầm. Mỗi khi phải đối mặt với những tình huống khó khăn hay nguy
hiểm con người thường rơi vào trạng thái phổ biến là “lo lắng”, sự lo lắng ấy được xem như

một phản ứng tự vệ bản năng của con người. Ở một khía cạnh nào đó, sự lo lắng này có thể
mang ý nghĩa tích cực, như là động lực giúp con người hành động để giải quyết những khó
khăn hay nguy hiểm và chấm dứt trạng thái lo lắng. Tuy nhiên, nếu trạng thái tâm lý này
ảnh hưởng thái quá đến nhận thức, cảm xúc, hành vi và sinh lý của cá nhân thì dẫn đến ảnh
hưởng chất lượng cuộc sống như học tập, làm việc, giao tiếp, vui chơi…Lúc đó, lo lắng trở
thành tình trạng bệnh lý thường gọi là “rối loạn lo âu”.
Về mặt lý thuyết, đối tượng có nhiều nguy cơ rối loạn lo âu nhất là lứa tuổi thanh
thiếu niên, do lứa tuổi này đang chuyển từ thời kỳ quá độ của sự trưởng thành“không hoàn
toàn là trẻ con và cũng chưa phải người lớn”, giai đoạn này các em đang trải qua nhiều
thay đổi quan trọng, với những thay đổi xảy ra nhanh, không đồng đều, không cân
bằng…nếu như không có sự quan tâm hợp lý từ người lớn. Hơn nữa, những xáo trộn này kết
hợp với hoàn cảnh, điều kiện không thuận lợi trong cuộc sống thì dễ dàng phát sinh những
rối loạn tâm lý như trầm cảm, stress, loạn thần cấp, hysteria (rối loạn phân ly) đặc biệt là
RLLA. Những rối loạn tâm lý này, không được chữa trị kịp thời thì nó sẽ ảnh hưởng đến
tuổi trưởng thành, “Chắc chắn ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hiện tại và phát triển
nhân cách sau này” [16, tr.490]. Theo các nhà tâm lý học và sinh lý học cho rằng lứa tuổi
học sinh THPT là lứa tuổi chưa hoàn thiện những kỹ năng để ứng phó với những khó khăn
7


trong cuộc sống. Tâm lý chưa thật sự vững vàng, một khi rơi vào trạng thái RLLA thì các
em rất khó khăn trong việc ứng phó. Những nghiên cứu RLLA gần đây cho thấy lứa tuổi
thanh thiếu niên chiếm tỉ lệ cao gấp nhiều lần so với dân số chung.
Với sự phát triển của y học, tâm thần học nói chung và tâm lý học nói riêng, trên thế
giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về RLLA ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, phần lớn những
nghiên cứu trong lĩnh vực tâm thần học chủ yếu đề cập nguyên nhân RLLA là do sự mất cân
bằng giữa các chất dẫn truyền thần kinh, gen di truyền, cấu trúc của vỏ não…Cho nên việc
chữa trị RLLA chủ yếu là dùng liệu pháp hóa dược tác động trực tiếp lên các chất dẫn
truyền thần kinh.
Thế nhưng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến RLLA ở học sinh THPT ngoài các yếu tố

sinh học nêu ở trên, còn có sự tác động của các yếu tố tâm lý – xã hội như: Áp lực thành
tích học tập, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội và liên quan đến bản thân cá nhân. Những
nguyên nhân này gây nhiều xáo trộn trong tâm tư, tình cảm của học sinh THPT, nếu những
xáo trộn đó không kiểm soát được sẽ phát sinh những rối loạn về mặt tâm lý cho các em.
Để có thể lý giải cho câu hỏi trên, ít nhất phải xác định được RLLA ở học sinh THPT
có những đặc trưng gì, nguyên nhân và mức độ biểu hiện như thế nào, trên cơ sở đó, đưa ra
những cách ứng phó và điều trị đúng đắn, phù hợp.
Xuất phát từ những lý do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài: RỐI LOẠN
LO ÂU Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH
TIỀN GIANG” làm luận văn tốt nghiệp, đề tài sẽ góp phần nhỏ giúp các nhà khoa học, đặc
biệt những nhà tâm lý học có nhận định và phương pháp điều trị rối RLLA ở học sinh THPT
một cách thiết thực mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn.

2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng và xác định một số nguyên nhân tâm lý – xã hội gây RLLA ở
học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp
khắc phục giảm thiểu RLLA ở học sinh THPT.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Rối loạn lo âu ở học sinh trung học phổ thông huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
3.2. Khách thể nghiên cứu

8


Học sinh trung học phổ thông đang học ở huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang (bao
gồm lớp 10, lớp 11 và lớp 12).

4. Giả thuyết nghiên cứu

4.1. Đa số học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang đều có những biểu hiện
RLLA.
4.2. Yếu tố học tập ảnh hưởng lớn đến RLLA ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh
Tiền Giang. Yếu tố gia đình, bản thân học sinh và các mối quan hệ xã hội khác, ảnh
hưởng không nhỏ đến biểu hiện RLLA ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh
Tiền Giang.
4.3. Rối loạn lo âu ở học sinh nữ cao hơn học sinh nam.
4.4. Sự hiểu biết về RLLA ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang với
mức độ rất ít.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.
5.2.

Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về RLLA và RLLA ở học sinh THPT.
Khảo sát thực trạng RLLA và xác định một số nguyên nhân tâm lý – xã hội gây
RLLA ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.

5.3.

Đề xuất một số biện pháp khắc phục giảm thiểu RLLA ở học sinh THPT huyện
Châu Thành tỉnh Tiền Giang.

6. Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài
6.1. Giới hạn nội dung
Đề tài khảo sát mức độ biểu hiện RLLA ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền
Giang.
Nghiên cứu một số nguyên nhân tâm lý – xã hội gây RLLA ở học sinh THPT huyện
Châu Thành tỉnh Tiền Giang và không tiếp cận đến các nguyên nhân do các bệnh lý
cơ thể khác, di truyền hoặc do sử dụng chất kích thích.

6.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu chỉ giới hạn những ở học sinh THPT đang học ở huyện Châu
Thành tỉnh Tiền Giang bao gồm:
Trường THPT Rạch Gầm – Xoài Mút.
Số lượng: 220 học sinh.
Trường THPT Vĩnh Kim.
Số lượng: 232 học sinh.
9


Trường THPT Dưỡng Điềm.
Số lượng: 236 học sinh.
Thời gian: từ 01/3/2013 đến 30/6/2013.
Tổng số: 688 học sinh.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Cơ sở phương pháp luận:
Quan điểm tiếp cận hệ thống:
Rối loạn lo âu ở học sinh trung học phổ thông huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang
không tồn tại một cách độc lập mà có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau như: Nguyên
nhân học tập, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội và vấn đề liên quan đến bản thân học sinh
cũng như các mặt biểu hiện của rối loạn lo âu, nhận thức, cảm xúc, hành vi và sinh lý.
Quan điểm lịch sử - logic:
Nghiên cứu rối loạn lo âu ở học sinh trung học phổ thông huyện Châu Thành tỉnh
Tiền Giang là một quá trình xuất phát từ những biểu hiện từ thuở ấu thơ, từ áp lực học tập,
trong các mối quan hệ xã hội khác nhau. Vì vậy, cần nghiên cứu vấn đề này trong quá trình
phát triển tâm lý học sinh với các hoạt động khác.
Quan điểm thực tiễn:
Xuất phát từ thực tiễn hiện nay, tỉ lệ rối loạn lo âu ở học sinh có chiều hướng gia
tăng, chính vì thế cần đi sâu tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân rối loạn lo âu ở học sinh

THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm
giảm thiểu rối loạn lo âu ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1.

Phương pháp nghiên cứu lý luận

Thu thập những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, sách, tạp chí chuyên
ngành…Đọc, phân tích, tổng hợp tài liệu, trên cơ sở đó, hệ thống hóa và khái quát hóa các
khái niệm công cụ căn bản làm cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2.2.
7.2.2.1.

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp trắc nghiệm

Dùng các thang đo lo âu để khảo sát và xác định mức độ biểu hiện RLLA ở học sinh
THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
7.2.2.2.

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
10


Dùng bảng câu hỏi để tìm hiểu mức độ biểu hiện và nguyên nhân gây RLLA ở học
sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
7.2.2.3.

Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình


Dùng phương pháp này để làm rõ mức độ biểu hiện, tìm hiểu sâu một số nguyên nhân
tâm lý – xã hội gây RLLA ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang và đồng
thời lấy cứ liệu nghiên cứu để xây dựng thêm cơ sở cho việc phát hiện và điều trị.
7.2.2.4.

Phương pháp thống kê toán học

Nhằm xử lý, phân tích và đánh giá kết quả nghiên cứu.
Các số liệu thu được sẽ xử lý bằng toán thống kê ứng dụng trong nghiên cứu, phần
mềm SPSS for Window 16.0.

8. Đóng góp của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề RLLA dưới góc độ tâm lý
học nói chung và những vấn đề RLLA ở học sinh THPT nói riêng.
Xác định mức độ biểu hiện RLLA và nguyên nhân tâm lý – xã hội gây RLLA ở học
sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
Góp phần chỉ ra thực trạng RLLA ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền
Giang. Trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp khắc phục giảm thiểu RLLA ở học sinh THPT
huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.

9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, cấu trúc luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về RLLA ở học sinh THPT.
Chương 2: Thực trạng RLLA ở học sinh THPT huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
Chương 3: Một số biện pháp khắc phục giảm thiểu RLLA ở học sinh THPT huyện
Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục.

11



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỐI LOẠN LO ÂU Ở HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Lo âu được phát hiện và nghiên cứu từ rất sớm bởi Hypocrate (460 – 356), ông đã đề
cập đến sự “lo âu” với ý nghĩa là một bệnh lý. Trong tác phẩm “Aphorism” ông đã mô tả lại
sự sợ hãi của đứa trẻ như một căn bệnh với các triệu chứng sinh lý như nôn mửa và tâm lý
sợ bóng tối [36, tr.2].
Năm 1621, Robert Burton đã viết cuốn sách “The Anatomy of Melancholy”, ông đã
gợi ý rằng có mối liên quan chặt chẽ giữa cảm giác lo lắng và sợ hãi với các biểu hiện cơ thể
như khó thở, mạch nhanh, đau tức vùng ngực, chóng mặt. Richard Younge (1671) cho rằng
lo âu chính là trạng thái phiền muộn khổ sở với mọi vấn đề trong cuộc sống, lo âu là sự
không bình thường về mặt tâm lý. Đầu thế kỷ 18, thuật ngữ lo âu được y học nhắc tới và
được cho là rối loạn tâm thần. Sách giáo khoa về tâm thần học đầu tiên ở Anh quốc do tác
giả William Battie (1703-1776) viết, ông đã phân biệt được sự khác nhau giữa “điên loạn”
và “lo âu”. Khi nghiên cứu về các biểu hiện của lo âu, Benedict Morel (1809 –1873) đã
khẳng định rằng có mối liên quan chặt chẽ giữa lo âu với các triệu chứng cơ thể và sự thay
đổi ở hệ thần kinh tự trị [35, tr.3 – 7].
Charles Darwin (1872) trong tác phẩm “Biểu hiện của cảm xúc ở người và động vật”
(The Expression of Emotions in Man and Animals) đã nói rõ nguồn gốc, bản chất của sợ hãi
và lo âu, mô tả như sau: Con người trải qua các thế hệ đã cố gắng chạy trốn khỏi những kẻ
thù nguy hiểm với niềm sợ hãi, lo âu ngày một tăng lên. Từ đó, tâm lý học và tâm thần học
bắt đầu nghiên cứu về lo âu và mô tả bản chất của nó [43].
Có lẽ sự kiện có sức thuyết phục nhất trong lịch sử nghiên cứu về lo âu đó là học
thuyết của Freud (1895) về chứng suy nhược thần kinh. Lần đầu tiên khái niệm lo âu được
tiếp cận và được làm sáng tỏ về mặt bản chất. Từ suy nhược thần kinh Freud đã tách ra một
hội chứng riêng biệt gọi là “tâm căn lo âu” (anxiety neurosis). Vào thời điểm đó, rối loạn
phân ly và rối loạn nghi bệnh được xếp vào suy nhược thần kinh và được cho là bệnh lý tâm

thần, còn tình trạng hoảng sợ có kèm lo âu theo Freud có liên quan đến những yếu tố sinh
học cơ thể, quan điểm về bệnh học này đã ảnh hưởng trong phần lớn thời gian của thế kỷ
12


20. Tuy không có bằng chứng khoa học xác đáng, nhưng học thuyết này cũng làm sáng tỏ
thêm về bản chất bên trong của RLLA và thể hiện một cách nhìn mới [35, tr.8].
Mãi đến, vào đầu thế kỷ 20 những nghiên cứu về RLLA mới bắt đầu nở rộ và đi sâu
hơn vào bản chất của nó, đặc biệt ở hai lĩnh vực tâm thần học và tâm lý học. Trong lĩnh vực
tâm lý học nói chung và tâm lý học trị liệu, tâm bệnh học và tâm lý học lâm sàng nói riêng,
RLLA được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như xã hội, hành vi, nhận thức, liên
nhân cách, xuyên văn hóa… Các nghiên cứu chủ yếu tập trung theo 3 hướng chính: (1)
nghiên cứu thực trạng, khảo sát trên một lượng lớn dân số để có số liệu thống kê cụ thể (mà
trong y học gọi là dịch tễ học) về thực trạng RLLA; (2) nghiên cứu xác định nguyên nhân
hoặc xây dựng mô hình về cơ chế RLLA; (3) nghiên cứu thực nghiệm về các liệu pháp trị
liệu RLLA.
Về nghiên cứu thực trạng, cụ thể như sau: Theo thống kê của nhiều nước trong nhiều
thập kỷ qua, tỉ lệ RLLA trẻ em là 5,7 đến 17,7%. Theo nghiên cứu của Kashani và O.
Verchell (1997) tỉ lệ RLLA trẻ em và thanh thiếu niên Mỹ là khoảng 9%. Còn tại Hoa Kỳ
hiện nay, mỗi năm có hàng triệu dân mắc bệnh này" [16, 490].
Trong nghiên cứu thống kê dịch tễ học của tác giả Anderson (1994) cho rằng RLLA là
một trong những dạng thường gặp nhất trong các bệnh về tâm thần ở trẻ em với tỉ lệ mắc
bệnh là 2,5% - 9,0% trong dân số chung, trong khi đó tỉ lệ ở trẻ em chiếm từ 20% - 30%,
nghiên cứu này Anderson khẳng định trong dân số chung thì nhóm nữ giới có nguy cơ cao
hơn nam giới [36, tr.127]. RLLA là một trong những rối loạn tâm lý phổ biến nhất ở độ tuổi
học đường (Costello, Mustillo, Erkanli, Keeler và Angold, 2003), Tỉ lệ dao động khoảng từ
4% đến 25%, với mức trung bình 8% (Boyd, Kostanski, Gullone, Ollendick và Shek, 2000)
[44].
Trong một báo cáo của Ollendick (1998) khi nghiên cứu 649 trẻ em được lựa chọn
ngẫu nhiên trong độ tuổi từ 12 – 17, có tới 16% cho biết ít nhất đã một lần từng trải qua một

cơn kịch phát hoảng sợ, đây là một dạng RLLA ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe thể chất và
tinh thần [36, tr.104 – 105]. Một nghiên cứu khác về thực trạng lo âu ở trẻ em của M.Prior
và cộng sự (1983 – 2001) trên 2443 trẻ theo chiều dọc từ lúc sinh cho đến 18 tuổi. Kết quả
cho thấy 42% những em có tính cách hay xấu hổ, nhút nhát, thu mình trước 9 tuổi thường có
RLLA vào giai đoạn tuổi thanh thiếu niên [16, tr.206].
Trên phương diện nghiên cứu thực nghiệm mô hình trị liệu RLLA cho trẻ em, trong
đó liệu pháp nhận thức hành vi được đề cập nhiều nhất trong thời gian gần đây, nghiên cứu
13


của Philip Kendall ở Trường Đại học Temple (1994) với tên gọi “coping cat workbook”. Ở
Úc, Paula Brrett và Jane Hollmes (1999) xây dựng một chương trình can thiệp lo âu sớm với
tên gọi “Friends program” và đã được Wignall và Rapee (1998, Đại học Queensland) ứng
dụng trong điều trị RLLA, cho đến ngày nay các phương pháp đó được ứng dụng ở nhiều
nước [16, tr.490].
Một số nghiên cứu về nguyên nhân gây ra RLLA, theo nghiên cứu của Warren và
Huston (1997) cho rằng mối quan hệ gắn bó mẹ con quá kéo dài sẽ làm tăng trạng thái
RLLA của trẻ sau này [16, tr.206].
Nghiên cứu của nhóm tác giả Sibnath Deb, Pooja Chatterjee, Kerryann Walsh
(2010), ở thành phố Kolkata, Ấn Độ, với mẫu nghiên cứu 460 thanh thiếu niên (gồm 220
nam và 240 nữ) từ 13 tuổi đến 17 tuổi (lớp 9 đến lớp 12) được chọn để tham gia nghiên cứu
và sử dụng thang lượng giá STAI (State trait anxiety inventory Spieberger, Gorsuch và
Lushene 1970), kết quả cho thấy tỉ lệ RLLA chiếm khoảng 20,1% đối với học sinh nam
(45/220) và 17,9% nữ (43/240). Theo Deb, (2001) nguyên nhân chính của sự RLLA ở thanh
thiếu niên Ấn Độ cao là do kì vọng của cha mẹ và áp lực thành tích học tập, khi so sánh tỉ lệ
RLLA giữa học sinh ở trường Bengali 24,6 % cao hơn học sinh trường English chỉ 21,6 %.
Nhóm kinh tế - xã hội: so sánh tỉ lệ RLLA cao nhất là nhóm kinh tế - xã hội có mức thu
nhập trung bình 30%, tiếp theo mức thu nhập thấp 28,6% cuối cùng là nhóm kinh tế - xã hội
có thu nhập cao 23,6% [44].
1.1.2. Một số nghiên cứu ở Việt Nam

Ở nước ta hiện nay, vấn đề RLLA học đường nói chung và RLLA ở học sinh THPT nói
riêng như một hiện tượng xã hội mà các phương tiện truyền thông đề cập đến nhiều. Dù vậy,
những công trình nghiên cứu khoa học về RLLA dưới góc độ tâm lý học, đặc biệt là những
nghiên cứu về RLLA ở học sinh THPT còn nhiều hạn chế, tạo nên sự tương phản khá rõ nét
với các công trình nghiên cứu trên thế giới.
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đi vào các hướng chính như nghiên cứu
trên thế giới. Một nghiên cứu dịch tễ học của Bệnh viện Tâm thần Trung Ương 1 từ (2000 –
2002) trên quy mô cả nước có tỉ lệ 2,7% RLLA trong dân số chung [45]. Điều tra dịch tễ học
của Lâm Xuân Điền Bệnh viện Tâm thần thành phố Hồ Chí Minh có tỉ lệ RLLA trong dân
số thành phố Hồ Chí Minh 1,56% [46].Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Công Khanh và
cộng sự (2000) ở học sinh trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội có tỉ lệ chiếm
khoảng 17,74 – 18,18% có biểu hiện RLLA [13, tr.27].
14


Tượng tự nghiên cứu của tác giả Ngô Thanh Hồi - Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai
Hương trong dự án “Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh trường học tại Hà Nội” là dự án
hợp tác quốc tế giữa Sở Y tế Hà Nội, Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương với Trường
Đại học Melbourne (Australia). Kết quả cuộc khảo sát đã đưa ra con số giật mình: 19,46 %
học sinh trong độ tuổi từ 10-16 tuổi gặp trục trặc về sức khỏe tâm thần, đặc biệt sự hiểu biết
của xã hội, thậm chí ngay trong ngành y tế về chăm sóc sức khỏe tâm thần còn nhiều hạn
chế. Như vậy, gần 20% trẻ dưới 16 tuổi có vấn đề sức khỏe tâm thần [47].
Một nghiên cứu thực trạng khác về RLLA ở học sinh THPT trên địa bàn thành phố
Hà Nội của Lê Khanh, Nguyễn Thị Hằng Phương (2005) thực hiện, sử dụng thang lượng giá
lo âu Zung, kết quả so sánh về giới tính thì học sinh nam 7,72% có tỉ lệ cao hơn nữ 5,45%
.Theo nhận xét của nhóm nghiên cứu này nguyên nhân chính gây ra RLLA là áp lực về
cường độ học tập, định hướng tương lai, áp lực về thành tích học tập và kỳ vọng của gia
đình. [48].
Nguyễn Thị Hằng Phương (2008) với đề tài “Nghiên cứu nguyên nhân gây ra rối
loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình” đã sử dụng công cụ nghiên cứu chính

thang lượng giá trầm cảm – Lo âu – stress (DASS42) và thang lượng giá lo âu Zung. Kết
quả cho thấy tỉ lệ học sinh có biểu hiện RLLA tương đối cao 21,6%, trong nghiên cứu tác
giả còn dùng bảng hỏi để tìm hiểu một số nguyên nhân gây ra RLLA và nhận thấy nguyên
nhân RLLA ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình, như mối quan hệ trong gia đình, áp lực
thành tích học tập, quan hệ với bạn bè, thầy cô giáo, bạn khác giới [22].
Nghiên cứu của nhóm tác giả Hồ Hữu Tính, Nguyễn Doãn Thành (2009) “Thực trạng
stress lo âu và những liên quan đến lo âu ở học sinh Trường THPT Phan Bội Châu, Phan
Thiết, Bình Thuận”, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp cắt ngang mô tả, trên khách
thể 311 học sinh lớp 12. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ học sinh có biểu hiện stress lo âu
chiếm khoảng 38%, theo nhận xét của nhóm này với con số như trên là tương đối cao nhưng
có thể hiểu được vì nghiên cứu chỉ lấy mẫu trên học sinh lớp 12, là một đối tượng có thể nói
đang phải đối mặt với nhiều lo âu. Nguyên nhân stress lo âu như áp lực thành tích học tập,
áp lực kỳ vọng của gia đình, thi cử và thua kém bạn bè [49].
“Tìm hiểu biểu hiện rối loạn lo âu của học sinh trung học phổ thông ở thành phố Hồ
Chí Minh” của tác giả Bùi Thị Hạnh Dung (2011) đã nghiên cứu RLLA được biểu hiện ở 4
khía cạnh: Nhận thức, hành vi, cảm xúc và sinh lý cơ thể, đồng thời tác giả đã nêu lên một

15


số yếu tố dẫn đến RLLA như học tập, gia đình, bản thân và biến cố. Mặt hạn chế của nghiên
cứu này, tác giả chưa đưa ra được những giải pháp khắc phục RLLA ở học sinh THPT [5].
Trong những năm gần đây, nước ta có những nhà nghiên cứu đi tiên phong trong lĩnh
vực thực nghiệm mô hình trị liệu về RLLA ở trẻ em và vị thành niên. Công trình nghiên cứu
của nhóm tác giả Nguyễn Thị Hồng Thúy, Trần Thành Nam, Vũ Cao Hùng và Đặng Hoàng
Minh đã thực nghiệm mộ hình trị liệu nhận thức – hành vi cho trẻ em với tên gọi “Bước đầu
áp dụng mô hình trị liệu nhận thức – hành vi cho trẻ em có RLLA”. Nhóm nghiên cứu đã sử
dùng thang lượng giá lo âu Zung và thang lượng giá trạng thái biểu hiện lo âu trẻ em STAIC
(State - trait anxiety inventory for children) của Spieberger (1973), sau đó tiến hành trị liệu.
Nhóm tác giả này đã sử dụng công thức của M. L Smith và Glass’s (1977) để tính toán mức

độ tiến triển của nhóm trẻ theo đầy đủ quy trình trị liệu và nhóm trẻ không theo đầy đủ quy
trình trị liệu. Theo nhận xét của nhóm thì bước đầu đã thu được kết quả khá khả quan
[16,489 – 526].
Luận văn thạc sĩ của tác giả Huỳnh Hồ Ngọc Anh (2012), về mô hình trị liệu “Tác
động của trị liệu nhận thức – hành vi đến học sinh THPT có RLLA dựa trên định hình
trường hợp” và sử dụng thang lượng giá lo âu Zung và thang trầm cảm Beck, đã tiến hành
thực nghiệm trị liệu RLLA trên 3 trường hợp trên mô hình trị liệu nhận thức - hành vi và mô
hình định hình trường hợp. Tác giả nêu lên một số cơ chế dẫn đến RLLA theo các trường
phái tâm lý học như tâm động học, nhận thức của Beck và Emery, tập nhiễm xã hội và
thuyết gắn bó, đồng thời dùng các phương thức trị liệu RLLA cũng như một số cách tiếp
cận trong trị liệu tâm lý hiện nay. Tuy nhiên, xét về mô hình tiến hành tri liệu, tác giả chỉ đề
cập đến hình thức trị liệu nhận thức - hành vi, định hình trường hợp và có kết hợp với gia
đình [50].
Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam đã trải rộng các mặt từ khảo sát thực trạng,
nguyên nhân cho đến áp dụng mô hình trị liệu RLLA. Tuy nhiên, xét về số lượng các công
trình nghiên cứu cũng như quy mô còn còn nhiều hạn chế, so với các công trình nghiên cứu
trên thế giới, nhìn một cách tổng thể vẫn chưa đủ để trị liệu một cách chuyên nghiệp, hiệu
quả của các trường hợp RLLA vốn phức tạp. Mặt khác, những công cụ để lượng giá, sàng
lọc trong nghiên cứu ở nước ta phần lớn sử dụng các thang lượng giá RLLA của nước ngoài
và đã được định chuẩn trên người Việt như thang lượng giá lo âu Zung, Beck, thang lượng
giá trầm cảm – lo âu – stress (DASS), Halmiton, Spieberger. Vì thế rất cần có những công

16


cụ lượng giá RLLA phù hợp với trẻ em Việt Nam để nâng cao độ tin cậy ở các thang sàng
lọc và chẩn đoán RLLA với trẻ em, đặc biệt lứa tuổi vị thành niên.

1.2. Những vấn đề lý luận về rối loạn lo âu
1.2.1. Khái niệm rối loạn lo âu

1.2.1.1. Lo âu bình thường
Lo âu là một phần của cuộc sống hàng ngày, mỗi chúng ta ai cũng có lo âu, khởi đầu
lo âu là tự nhiên, bình thường và thậm chí còn có lợi. Lo âu là một hiện tượng cảm xúc tất
yếu của con người trước những khó khăn, thử thách của tự nhiên và xã hội. Lo âu là tín hiệu
cảnh báo của cơ thể trước những mối đe dọa đột ngột, trực tiếp. Lo âu cần thiết cho mỗi cá
thể để tồn tại và thích nghi [26, tr.11].
Lo âu bình thường có chủ đề, nội dung rõ ràng như: bệnh tật, công việc, học tập... Lo
âu diễn biến nhất thời khi có các sự kiện trong đời sống tác động đến tâm lý của chủ thể, hết
tác động thì lo âu cũng không còn và thường không có hoặc có rất ít triệu chứng cơ thể [9,
tr.28].
Theo U Baumann: Lo âu là một hiện tượng phản ứng cảm xúc tự nhiên tất yếu của
con người trước những khó khăn, thử thách, đe dọa của tự nhiên, xã hội mà con người phải
tìm ra các giải pháp (cách) để vượt qua, vươn tới, tồn tại [19, tr.11].
1.2.1.2. Lo âu bệnh lý
Theo Ernest Jones đã đưa ra các trạng thái lo âu như sau: sợ, kinh sợ, hoảng sợ, sợ hãi và
lo âu. Ông mô tả 2 nét khác nhau giữa sợ và lo âu:
Sợ nói chung được coi như sự đáp ứng với kích thích đe dọa từ bên ngoài nguy hiểm có
thực đang đến, vì vậy có tính sống còn.
Ngược lại lo âu giống như sợ nhưng lại không có sự đe dọa rõ ràng. Không cân xứng
giữa kích thích bên ngoài và biểu hiện tâm lý, cơ thể.
Lo âu trở thành lo âu bệnh lý, khi xuất hiện không có liên quan tới một đe dọa nào, mức
độ lo âu không cân xứng với bất cứ một đe dọa nào và có thể tồn tại kéo dài. Khi mà mức độ lo
âu ngày tăng dần đến gây trở ngại rõ rệt các hoạt động thường ngày lúc đó được coi là lo âu
bệnh lý.
Lo âu bệnh lý có 2 mức độ: Lo âu tính cách (nhân cách lo âu) và rối loạn lo âu.
Tính cách lo âu:
Một số người có nhân cách lo âu, thường được mô tả như lo âu “bẩm sinh”. Họ lo buồn
vì những nguyên cớ nhỏ, căng thẳng bởi những sức ép thậm chí nhỏ nhất và thấy sợ hãi vì năng
17



lực của họ. Họ được nhận ra như: thường dễ xúc động, dễ sợ hãi, cẩn thận quá mức và trải
nghiệm lo âu nhiều hơn người cùng tuổi trong các tình huống tương ứng [27, tr.129].
Lo âu bệnh lý là lo âu không phù hợp với hoàn cảnh, không có chủ đề rõ ràng, mang
tính chất vô lý, mơ hồ, thời gian thường kéo dài. Mức độ lo âu thường gây trở ngại rõ rệt
đến các hoạt động của cá nhân, đồng thời lo âu lặp đi lặp lại với nhiều triệu chứng cơ thể
như: mạch nhanh, chóng mặt, khô miệng, vã mồ hôi, lạnh tay chân, run rẩy, bất an [28, tr.4].
Theo Getzfeint (2005) sự phân biệt giữa lo âu bình thường và lo âu bệnh lý chính là
mức độ khó khăn trong việc kiểm soát hoặc loại bỏ lo âu [2, tr.3].
Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa lo âu bình thường và lo âu bệnh lý
Lo âu bình thường

Lo âu bệnh lý

Lo âu không làm ảnh hưởng đến công việc, Lo âu gây mất ổn định các hoạt động, ảnh
hoạt động hàng ngày.

hưởng đến nghề nghiệp, cuộc sống xã hội.

Lo âu có thể kiểm soát được.

Lo âu không thể kiểm soát được.

Lo âu gây khó chịu đôi chút, không nặng

Lo âu hết sức khó chịu, bồn chồn, căng

nề.

thẳng.


Lo âu giới hạn trong một số tình huống có

Lo âu trong mọi tình huống bất kỳ, luôn có

thật, hoàn cảnh đặc trưng, cụ thể.

xu hướng chờ đợi những kết cục xấu.

Lo âu chỉ tồn tại trong một thời điểm nhất Lo âu kéo dài ngày này qua ngày khác
định.

trong khoảng thời gian ít nhất 6 tháng.

1.2.1.3. Định nghĩa rối loạn lo âu
Lo âu được biết đến rất sớm từ thời Hy Lạp cổ đại, người Hy Lạp cổ dùng từ
“melancholia” (sự u sầu) để mô tả lo âu. Người La Mã thuộc thời Cicero dùng từ “anxietas”
để biểu lộ sự sợ hãi, e ngại...Tiếng Pháp sử dụng từ “angoisse” (sự buồn rầu, đau khổ, phiền
não, sự lo sợ) chỉ sự lo âu, còn trong tiếng Anh dùng từ “anxiety” chỉ sư lo âu [35, tr.3].
Ở nước ta từ “lo âu” còn gọi là “lo lắng”, “lo hãi”, “sợ hãi”, “lo sợ” được sử dụng
khá phổ biến để chỉ trạng thái tâm lý khi gặp khó khăn. Từ điển tiếng Việt định nghĩa về
RLLA như sau: “Rối loạn là lộn xộn, không còn trật tự” còn “Lo âu là lo một cách thường
xuyên và sâu sắc” [32, tr.1027 – 1410]. Với nội hàm rối loạn chỉ lộn xộn, không trật tự,
không ngăn nắp…Còn lo âu chỉ đơn thuần là một trạng thái cảm xúc lo lắng, sợ hãi một
cách thường xuyên, liên tục, lặp đi lặp lại nhiều lần, nhiều ngày. Tuy nhiên, sự lo âu này kéo
dài ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người thì sẽ trở thành bệnh lý thường gọi
18


là RLLA. RLLA là một thuật ngữ khoa học được nghiên cứu nhiều về mặt lý thuyết trong

tâm thần học, tâm bệnh học, tâm lý học lâm sang, tâm lý học trị liệu.
Theo Antonio C. Fonseca và Sean Perrin định nghĩa về “lo âu như là một sự phản
ứng về mặt cảm xúc xuất phát từ việc cảm giác mơ hồ một mối nguy hiểm có thực hoặc
tưởng tượng nào đó đối với bản thân” [34, tr.127].
Còn Peter Stratton và Nicky Hayes cho rằng RLLA là một thuật ngữ phổ biến dùng
để chỉ tình trạng “rối loạn về mặt tâm thần với những dấu hiệu đặc trưng là cơn lo âu kéo
dài, lặp lại một cách thường xuyên kèm theo những biểu hiện suy nhược về cơ thể, bao gồm
cả những cơn kịch phát lo âu hoảng loạn và chứng ám ảnh sợ” [37, tr.16].
V.Mark Durand – David H. Barlow xét lo âu dưới 2 khía cạnh thể chất và cảm xúc:
“Lo âu là một giai đoạn tâm trạng tiêu cực đặc trưng bởi các triệu chứng cơ thể căng thẳng
về thể chất và lo âu (lo sợ) về tương lai” [38, tr.116].
Trong sách tâm thần học thì định nghĩa như sau: “Lo âu là một rối loạn cảm xúc đặc
trưng bởi cảm giác lo sợ lan tỏa, khó chịu, mơ hồ kèm theo các triệu chứng thần kinh tự chủ
như đau đầu, vã mồ hôi, hồi hộp, siết chặt ở ngực, khô miệng, khó chịu ở thượng vị và bứt
rứt, không thể ngồi yên hoặc đứng yên một chổ” [20, tr.78]. Theo định nghĩa trên thì RLLA
được xét trong 3 mặt cảm xúc, sinh lý cơ thể và hành vi.
Theo tác giả Trần Viết Nghị, “Lo âu là một trạng thái bệnh lý, khi lo âu mang đặc
tính dai dẳng, lan tỏa, tản mạn, không liên quan, không gắn bó, không khu trú vào một sự
kiện hoàn cảnh đặc biệt nào ở xung quanh hoặc có liên quan với những sự kiện đã qua
không còn có tính chất thời sự nữa [19, tr.11].
Dưới góc độ tâm lý học, tác giả Nguyễn Khắc Viện dùng từ “lo hãi” thay cho “lo
âu”. “Lo hãi là đón chờ và suy nghĩ về một điều gì có thể đến mà không chắc có thể đối phó
được là lo. Nếu là một sự việc cụ thể đã từng gây nguy hiểm thì lo sợ. Trong nhiều trường
hợp, đặc biệt khi tâm lý bị rối loạn, một triệu chứng thường gặp là mối lo, nhưng cụ thể
không thật rõ là lo về cái gì, sợ về cái gì, đó là hãi. Mối lo hãi đi đôi với những triệu chứng
thực thể: đau ngực, cảm giác nuốt không vào, khó thở, có khi toát mồ hôi, chân tay run. Có
thể nói đây là triệu chứng thường gặp nhất trong tâm bệnh lý kết hợp với những triệu chứng
khác,có những trường hợp lo hãi là triệu chứng độc nhất, kéo dài, đó là chứng bệnh gọi là
“névrose d’ angoisse, tạm dịch là nhiễu chứng lo hãi” [30, tr.190 – 191]. Với cách định
nghịa trên, lo âu được xem xét biểu hiện ở các mặt: nhận thức, cảm xúc và sinh lý.


19


Theo tác giả Vũ Dũng thì RLLA là “sự sợ hãi quá mức không có nguyên nhân hay
do chủ quan của người bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần hay do
bệnh cơ thể. RLLA là rối loạn mà người bệnh không thể kiểm soát được, biểu hiện bền vững
và mang tính lan tỏa, thậm chí có thể xảy ra dưới dạng kịch phát” [4, tr.689].
Trong Từ điển tâm lý học do Nguyễn Văn Lũy và Lê Quang Sơn, lo âu được định
nghĩa như sau: “Sự trải nghiệm những cảm xúc khó chịu liên quan đến những gì không an
toàn tiền cảm giác về sự nguy hiểm sẽ xảy ra”. Hai tác giả cũng phân biệt giữa sợ hãi và lo
âu: “Khác với sợ hãi, là phản ứng với những sự nguy hiểm cụ thể, thực tế, lo âu là trải
nghiệm về sự đe dọa không xác định, lan tỏa, thiếu khách quan” [17, tr.245 – 246].
Qua một số định nghĩa trên, có thể thấy dù lo âu được dùng dưới nhiều tên gọi khác
nhau như lo lắng, sợ hãi, lo hãi nhưng chúng đều có nội hàm và được tiếp cận dưới 2 góc
độ: góc độ tâm lý học và góc độ tâm thần học.
Dưới góc độ tâm lý học, RLLA là một trang thái cảm xúc bị rối loạn bao gồm: lo
lắng, lo hãi, sợ hãi không thật rõ rệt, mơ hồ về một mối nguy hiểm nào đó. Ảnh hưởng hầu
hết các mặt trong đời sống tâm lý của con người như tình cảm, nhận thức, hành động, giao
tiếp…
Dưới góc độ tâm thần học, RLLA là một rối loạn về tâm thần, lặp đi lặp lại thường
xuyên, nhiều lần trong ngày và kéo dài lúc đó được xem là bệnh lý ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống của con người như quan hệ xã hội, sinh lý cơ thể, hành vi.
Tóm lại, qua các cách hiểu về RLLA như trên, người nghiên cứu xác định thuật ngữ
RLLA sử dụng trong đề tài này như sau: “RLLA là một trạng thái bệnh lý, đặc trưng bởi
rối loạn cảm xúc và suy nghĩ về một mối nguy hiểm nào đó không có thực, lặp đi lặp lại
nhiều lần kèm theo các triệu chứng kích thích thần kinh thực vật.”.
1.2.2. Biểu hiện rối loạn lo âu
Biểu hiện về RLLA trên mỗi cá nhân là rất đa dạng và phức tạp, nhưng xét từ góc độ
tâm lý học thì RLLA được biểu hiện 4 mặt cơ bản sau:

1.2.2.1. Biểu hiện về mặt nhận thức
Chủ thể thường có những vấn đề về mặt nhận thức chẳng hạn như tri giác với những sự
việc hiện tượng không đúng với sự thật (sai thực tại) những gì xảy ra xung quanh và đồng thời
thiếu khả năng xem xét khách quan. Một đặc điểm nổi bật ở người RLLA là khả năng tập trung
chú ý không cao dẫn đến làm giảm thành tích của cá nhân trong công việc mà đòi hỏi sự tâp
trung cao như đọc, tính toán. Chủ thể không thể chú ý trong một thời gian dài vào bất cứ việc
20


gì, việc cố gắng tập trung dù rất nhỏ cũng làm cho cá nhân cảm thấy mệt mỏi, đau khổ, đấu
tranh với lý trí về những ý nghĩ ám ảnh lặp đi lặp lại. Mặt khác, người RLLA còn gặp một số
khó khăn trong các quá trình nhận thức như trí nhớ ngắn kém, suy nghĩ tiêu cực.
1.2.2.2. Biểu hiện về mặt cảm xúc
Những người bị RLLA thường có cảm xúc không bình thường như lo sợ, sợ hãi, luôn
luôn trong trạng thái bất an mà không có nguyên nhân hoặc đối tượng rõ rệt. Sống trong tình
trạng thần kinh căng thẳng, vì luôn lo sợ những đối tượng, hoàn cảnh mà chủ thể cho là gây
nguy hiểm có thể xuất hiện bất ngờ.
Sự sợ hãi, lo lắng thường xuyên làm cho chủ thể cảm thấy mệt mỏi, đau khổ, mất thích
thú trong hoạt động thường ngày. Dẫn đến có những cảm xúc tiêu cực như dễ nổi nóng, khó
kiểm soát cảm xúc. Đôi lúc chủ thể có những ý nghĩ rất vô lý chợt xuất hiện trong đầu như sợ
chết, sợ bị mất kiểm soát, hoặc sợ hóa điên.
1.2.2.3. Biểu hiện về mặt hành vi
Mức độ biểu hiện RLLA ở mỗi cá nhân hoàn toàn không thể giống nhau như run rẫy, ấp
úng, lúng túng, nói lắp, không thể đứng hoặc ngồi yên một chổ. Nhưng hầu hết, đều có hành vi
giống nhau là tránh né, e dè khi tiếp xúc với tình huống, hoàn cảnh mà họ cho là gây ra lo âu.
Hành vi của người RLLA thường là tránh né những hoàn cảnh, không gian như nơi đông
người, đi ra khỏi nhà một mình, nơi không gian kín, ở một mình hoặc không tiếp xúc những đối
tượng gây sợ hãi như chó, máu, vật nhọn… hoặc có những hành vi cưỡng chế như rửa tay, kiểm
tra, sắp xếp.
1.2.2.4. Biểu hiện về mặt sinh lý cơ thể

Các triệu chứng về đường hô hấp như đánh trống ngực, tim đập mạnh hoặc nhịp tim
nhanh và kèm theo các cảm giác đau ở ngực, tức ngực, khó thở, cảm giác thiếu không khí, thở
gấp, thở ngắn. Đồng thời cơ thể xuất hiện những triệu chứng kích thích thần kinh thực vật như
toàn thân nóng bừng hoặc ớn lạnh, vã mồ hôi, có cảm giác tê cóng hoặc như kim châm. Triệu
chứng sinh dục hoặc nội tiết như mót tiểu, tiểu khó, tiểu nhiều lần. Hệ tiêu hóa có các triệu
chứng như: ăn không tiêu, buồn nôn hoặc khó chịu ở bụng, táo bón và co thắt ở dạ dày.
1.2.3. Rối loạn lo âu ở học sinh THPT
1.2.3.1. Khái niệm RLLA ở học sinh THPT
Con người, trong sự sinh tồn của mình, cần được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về
vật chất, tinh thần, quan hệ xã... Nhu cầu an toàn có từ nhỏ cho đến khi trưởng thành và đến
tận khi về già, tức là suốt cả cuộc đời. Cảm giác thiếu hoặc mất an toàn sinh ra lo âu [52].
21


Và ngược lại, một khi lo âu chuyển sang mức rối loạn, thì ảnh hưởng rất nhiều đến
đời sống và có những biểu hiện đặc trưng của thanh thiếu niên thì RLLA có những biểu
hiện khác biệt hơn so với người lớn.
Những thay đổi ở tuổi thanh nhiếu niên nói chung và tuổi đầu thanh niên (học sinh
THPT) nói riêng, là quá trình trải qua thời kỳ quan trọng trong đời sống con người. Tuy
nhiên, có những khác biệt nơi mỗi cá nhân, một số thiếu niên sự chuyển qua thời kỳ tuổi
đầu thanh niên có thể diễn ra nhanh hoặc chậm hơn so với trẻ khác cùng tuổi, trong quá
trình đó phải trải qua nhiều thách thức khi gặp những thay đổi sinh học, tâm lý và quan hệ
xã hội. Quá trình thay đổi đó, phải được diễn ra bên trong mỗi cá nhân, đồng thời chủ thể
phải đương đầu những thách thức này một cách thích nghi và thành công, bao gồm những
thách thức sau: (1) Thách thức sinh học, (2) Thách thức tâm lý, (3) Thách thức nhận thức,
(4) Thách thức xã hội. Một khi cá nhân đó không thể đương đầu và giải quyết thành công
những thách thức phát triển trên, để chuyển sang một giai đoạn mới thì có thể sẽ xảy ra
hậu quả bất lợi về mặt tâm lý, cảm xúc, hành vi.
Lo âu nói chung là hiện tượng phổ biến ở tất cả mọi thanh niên mới lớn, trong mọi
hoàn cảnh để thúc đẩy con người hoạt động, đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho cuộc sống,

bởi vì, lo âu thường biểu hiện thích hợp với sự phát triển trong suốt các thời kỳ của cuộc
sống, nên điều quan trọng là phải phân biệt giữa lo âu bình thường phù hợp với sự phát triển
tâm lý và lo âu bệnh lý.
Tóm lại, RLLA ở học sinh THPT là một trạng thái rối loạn về tâm lý và sinh lý ảnh
hưởng đến các hoạt động thường ngày như học tập, tình cảm, giao tiếp, hành vi và các
mối quan hệ xã hội.
1.2.3.2. Biểu hiện rối loạn lo âu ở học sinh THPT
Biểu hiện về RLLA ở học sinh THPT là rất đa dạng và phức tạp, nhưng xét từ góc độ
tâm lý học thì RLLA được biểu hiện 4 mặt cơ bản sau:
Những biểu hiện về nhận thức:
RLLA đã ảnh hưởng đến quá trình nhận thức ở học sinh THPT như sau:
Về tri giác, khi đang trong trạng thái lo âu, chủ thể thường nhìn những sự việc hiện
tượng không đúng với sự thật (sai thực tại) những gì xảy ra xung quanh và đồng thời thiếu khả
năng xem xét khách quan.
Về chú ý, khả năng tập trung và chú ý ở học sinh THPT có RLLA sẽ giảm sút đi rất
nhiều, cụ thể là không thể tập trung sự chú ý vào một việc gì lâu được mà rất dễ bị phân tán tư
22


tưởng từ đó dẫn đến không thể tập trung chú ý để học tập, hoạt động giao tiếp và các hoạt động
xã hội khác.
Và đồng thời về mặt tư duy cũng bị ảnh hưởng như các thao tác tư duy: Khái quát hóa,
trừu tượng hóa, suy luận, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp và thao tác so sánh, phân loại. Do
đó, lo âu đã ảnh hưởng đến quá trình tư duy, khả năng sáng tạo ở mỗi cá nhân và là nguyên
nhân làm thành tích học tập của học sinh giảm sút. Bên cạnh đó, khả năng trí nhớ cũng bị ảnh
hưởng rất nhiều như: các giai đoạn của ghi nhớ thông tin, bảo tồn thông tin và tái hiện lại thông
tin.
Những biểu hiện về cảm xúc:
Đặc điểm biểu hiện cảm xúc ở học sinh THPT như luôn trong trạng thái tâm lý căng
thẳng, dễ bị kích động dù chỉ một kích thích nhỏ cũng có thể dẫn đến những cảm xúc tiêu cực

như dễ nổi nóng, cáu giận không có lý do, khó kiểm soát cảm xúc.
Theo con số chính thức do chính phủ Ấn Độ cung cấp năm 2000 có 2320 trẻ em
(tương đương một ngày có 6 trẻ) tự tử vì thất bại trong thi cử [44] và đến năm 2006 đã tăng
vọt có 5857 học sinh tự sát, bình quân mỗi ngày có tới 16 em tự tử vì áp lực thi cử [53].
Thất vọng về kết quả học tập hoặc có những mâu thuẫn nhỏ trong các quan hệ xã hội cũng
tạo nên những cảm xúc âm tính như tự trách mình, cảm thấy bất lực, chán nản hoặc cảm
thấy bế tắc và có thể xuất hiện ý nghĩ tự tử và thực hiện hành vi đó.
Sự sợ hãi, lo lắng thường xuyên làm cho cá nhân cảm thấy mệt mỏi, đau khổ, mất thích
thú trong hoạt động thường ngày và đồng thời ảnh hưởng thành tích trong học tập như: mất
hứng thú học tập, có cảm giác sợ học, sợ thi và hoạt động giao tiếp hạn chế.
Những biểu hiện về hành vi:
Đặc trưng RLLA ở học sinh THPT là luôn có cảm giác bứt rứt toàn cơ thể, không thể
đứng hoặc ngồi yên một chổ, luôn ngọ nguậy chân tay, dẫn đến không thể tập trung chú ý
học tập. Kết quả là các em không theo kịp bài giảng cho nên không hiểu bài, kết quả học tập
giảm sút. Đối với các trường hợp học sinh này nếu không các giải pháp phù hợp, kịp thời, từ
đó các em có ý nghĩ các trốn học và xuất hiện hành vi trốn học, bỏ trường đi lang thang.
Những biểu hiện về sinh lý cơ thể:
Các triệu chứng về đường hô hấp như đánh trống ngực, tim đập nhanh hoặc nhịp tim
nhanh và kèm theo các cảm giác đau ở ngực, tức ngực, khó thở, cảm giác thiếu không khí, thở
gấp, thở ngắn. Đồng thời cơ thể xuất hiện những triệu chứng kích thích thần kinh thực vật như
toàn thân nóng bừng hoặc ớn lạnh, vã mồ hôi, có cảm giác tê cóng hoặc như kim châm. Triệu
23


×