Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

so sánh chế độ thuộc địa của anh và pháp ở châu á qua trường hợp ấn độ và việt nam (giữa thế kỷ xix giữa thế kỷ xx)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Kim Oanh

SO SÁNH CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA
CỦA ANH VÀ PHÁP Ở CHÂU Á
QUA TRƯỜNG HỢP ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM
(GIỮA THẾ KỶ XIX-GIỮA THẾ KỶ XX)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Kim Oanh

SO SÁNH CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA
CỦA ANH VÀ PHÁP Ở CHÂU Á
QUA TRƯỜNG HỢP ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM
(GIỮA THẾ KỶ XIX-GIỮA THẾ KỶ XX)

Chuyên ngành : Lịch sử thế giới
Mã số

: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGÔ MINH OANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung
thực và chưa từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh,
Phòng sau Đại học, quý thầy cô Khoa Lịch Sử đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo
điều kiện cho tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Phó giáo sư, Tiến sĩ Ngô Minh Oanh.Thầy đã tận tình chỉ bảo, động
viên và hướng dẫn cho tôi với sự cẩn trọng, nghiêm túc và trung thực trong
quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Các thầy cô tại thư viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh và tập thể các anh chị, các bạn học viên khóa 23, chuyên ngành Lịch
sử thế giới đã ủng hộ nhiệt tình và giúp đỡ chân thành cho tôi về mặt tư liệu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình là nguồn động viên lớn nhất
cho tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014


Lê Thị Kim Oanh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 4
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN
QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VÀO ẤN ĐỘ, VIỆT NAM CỦA
ANH, PHÁP............................................................................................ 11
1.1. Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa thực dân ..................................................... 11
1.1.1. Quá trình ra đời và vị trí lịch sử của chủ nghĩa thực dân ............................. 11
1.1.2. Một số khái niệm và cách nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân ....................... 13
1.1.3. C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I Lênin nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân. ............. 16
1.1.4. Hình thức biểu hiện của chủ nghĩa thực dân ................................................ 19
1.2. Quá trình xâm lược Ấn Độ và Việt Nam của Anh và Pháp ............................... 23
1.2.1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ .................................................... 23
1.2.1.1. Tình hình của Ấn Độ trước khi thực dân Anh xâm lược .................... 23
1.2.1.2. Quá trình xâm lược của thực dân Anh ................................................ 26
1.2.1.3. Sự cai trị của Anh ở Ấn Độ trước năm 1858 ...................................... 31
1.2.2. Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam .............................................. 37
1.2.2.1. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược ..................... 37
1.2.2.2. Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp ............................... 41
1.2.2.3. Tiến trình xâm lược của Pháp vào Việt Nam (1858-1897) ................. 45
Chương 2. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG CHẾ

ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA ANH VÀ PHÁP TẠI ẤN ĐỘ VÀ VIỆT
NAM (GIỮA THẾ KỶ XIX-GIỮA THẾ KỶ XX) ............................... 49
2.1. Về chính trị ......................................................................................................... 51
2.2. Về kinh tế ............................................................................................................ 60


2.3. Về văn hóa-giáo dục ........................................................................................... 69
2.4. Về xã hội ............................................................................................................. 80
Chương 3. TÁC ĐỘNG TỪ CÁC CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA CỦA ANH
VÀ PHÁP ĐỐI VỚI ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM .................................... 85
3.1. Những tác động tiêu cực từ các chính sách thuộc địa của Anh, Pháp đối với
Ấn Độ và Việt Nam ............................................................................................ 85
3.1.1. Về kinh tế ..................................................................................................... 85
3.1.2. Về chính trị-xã hội ....................................................................................... 87
3.2. Những tác động tích cực từ những chính sách thuộc địa của Anh, Pháp đối
với Ấn Độ và Việt Nam. ..................................................................................... 91
3.2.1. Về kinh tế ..................................................................................................... 91
3.3.2. Về chính trị-xã hội ....................................................................................... 93
3.3.3. Về văn hóa-giáo dục .................................................................................... 99
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 110
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số liệu về tình hình sản xuất dệt vải tại Ấn Độ ............................................65
Bảng 2.2. Số liệu về tình hình kỹ nghệ dệt đay tại Ấn Độ ............................................65


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói, chủ nghĩa thực dân là một vấn đề lớn trong lịch sử nhân loại. Về mặt
thời gian nó tồn tại trong một thời kỳ lịch sử lâu dài, còn về mặt không gian chủ nghĩa
thực dân đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra 2/3 diện tích địa cầu và có mặt ở tất cả các
châu lục trên thế giới “ nó đã gây nên một sự phục tùng làm cho những nước, những
dân tộc bị nó chi phối, mất quyền độc lập chính trị của mình…” [dẫn theo 18, tr. 6]. Là
một người nghiên cứu sử học, người nghiên cứu đã nhận thức được tầm quan trọng
của việc nghiên cứu bản chất chủ nghĩa thực dân cũng như đặc điểm của các nước thực
dân như Anh, Pháp trong quá trình nghiên cứu lịch sử chủ nghĩa tư bản nói riêng và
lịch sử thế giới nói chung để thấy được rằng sự bành trướng của thực dân Pháp không
phải là “ một loại hành động nghĩa hiệp mới mẻ anh hùng và kỳ diệu, đại lượng và vô
tư” [18, tr.9].
Tại Việt Nam tuy có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ nghĩa
thực dân, đặc biệt là chủ nghĩa thực dân Pháp nhưng hướng nghiên cứu về việc so sánh
chế độ thuộc địa của các nước thực dân nói chung, Anh và Pháp nói riêng thì còn khá
mới. Bên cạnh đó, lại tồn tại rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về hệ quả của các
chính sách thuộc địa do các nhà nghiên cứu đứng ở các góc độ khác nhau, ở vị trí hay
thời đại khác nhau để đánh giá và nhìn nhận vấn đề. Vì vậy người nghiên cứu muốn
đưa ra một cách tiếp cận của mình, dựa trên việc tập hợp những tài liệu và đứng trên
quan điểm khách quan.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, là để phục vụ cho việc giảng dạy
và nghiên cứu của bản thân. Trong chương trình sách giáo khoa THPT thì chủ nghĩa
thực dân cũng là một nội dung liên quan đến nhiều bài học, đặc biệt là chủ nghĩa thực
dân Pháp ở Việt Nam. Ắt hẳn việc thực hiện đề tài này sẽ giúp người nghiên cứu xây
dựng nền tảng kiến thức vững chắc hơn về những vấn đề xung quanh đến chủ nghĩa
thực dân, đặc biệt là về hệ quả, tác động của chính sách mà các nước đế quốc đã để lại
cho thuộc địa.



2

Với tất cả lý do đó, người nghiên cứu đã quyết định chọn tên đề tài luận văn của
mình là: “So sánh chế độ thuộc địa của Anh và Pháp ở Châu Á qua trường hợp
Ấn Độ và Việt Nam (giữa thế kỷ XIX- giữa thế kỷ XX).
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân đặc biệt là về thực dân
Anh và Pháp, song lại tồn tại rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về nó. Sở dĩ có sự
khác nhau đó là do các nhà nghiên cứu đứng ở các góc độ khác nhau, ở vị trí hay thời
đại khác nhau để đánh giá và nhìn nhận vấn đề.
Đầu tiên phải kể đến quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh điển của chủ
nghĩa Mác Lênin, tiêu biểu nhất và đầy đủ nhất được thể hiện qua luận điểm của
C.Mác, Ăngghen và sau đó là Lênin. Qua các tác phẩm: Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản, Tư bản, Hệ tư tưởng Đức C.Mác và Ăngghen đã vạch ra những mặt tiêu cực, xấu
xa của chủ nghĩa thực dân: “..Giai cấp tư sản đã bắt nông thôn phải phục tùng thành
thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt
phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây” [dẫn theo 3, tr.14] nhưng cũng bắt đầu
đề cập đến mặt tích cực nằm ngoài ý muốn mà chủ nghĩa thực dân mang lại cho các
nước thuộc địa, thậm chí: “Chính điều này đã quyết định xu hướng phát triển của lịch
sử Châu Á cận đại” [dẫn theo 3, tr.15]. Đến V.I Lênin, khi chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ
ngày càng rõ nét những đặc điểm của nó thì Lênin cũng có cái nhìn hoàn chỉnh hơn về
chủ nghĩa thực dân: Điều quan trọng là chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại và phát
triển được nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của nó…[dẫn theo 3,
tr.16] tức Lênin cho rằng việc xâm chiếm thuộc địa là nhu cầu tất yếu của các nước
thực dân và nó sẽ buộc các nước thuộc địa phải hội nhập vào quá trình phát triển kinh
tế tư bản cũng như là nền kinh tế thế giới, do đó các nước thuộc địa không thể tránh
khỏi sự thống trị của chính quốc và nhiệm vụ của họ là phải tìm ra con đường đúng
đắn để giải phóng dân tộc mình. Tuy rằng tại thời điểm đó, C. Mác, Ăngghen và Lênin
không có một tác phẩm nghiên cứu hay một luận điểm hoàn chỉnh nào về đặc điểm

của chủ nghĩa thực dân và sự khác biệt giữa chúng nhưng những luận điểm của họ đã
góp phần giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn khi nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân.
Chính vì thế, những tác phẩm của C. Mác, Ăghghen và Lênin là một trong số những


3

tài liệu quan trọng về mặt lý luận mà người nghiên cứu sử dụng tham khảo để hoàn
thành đề tài nghiên cứu của mình. Bên cạnh những tài liệu kinh điển trên, chúng ta
cũng sẽ tìm thấy những hoạt động xâm lược cũng như chính sách cai trị của các nước
đế quốc thực dân đối với những thuộc địa tiêu biểu như Anh ở Ấn Độ và Pháp ở Đông
Dương ở một số tác phẩm khác. Vấn đề này chiếm dung lượng khá lớn trong bộ sách
Lịch sử Kinh tế các nước (ngoài Liên Xô) của F. Ia. Pôlianxki gồm 4 tập xuất bản năm
1978. Qua đó, tác giả người Liên Xô này cũng phần nào đưa ra những nhận định về
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân khá gần với quan điểm của những người nghiên
cứu thuộc các nước thuộc địa, nạn nhân của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Tuy nhiên
đây chỉ là bộ sách thuần túy về nội dung kinh tế, Pôlianxki cũng là một nhà kinh tế
học, ông viết tác phẩm dựa chủ yếu trên tài liệu Liên Xô và đứng trên lập trường
chống lại chủ nghĩa tư bản, nên phần nào tác phẩm mang tính chủ quan, phiến diện,
không thực sự đi sâu vào nghiên cứu và đánh giá về đặc điểm của từng nước chủ nghĩa
thực dân.
Với các nhà nghiên cứu tại các nước đế quốc thực dân mà chủ yếu là Anh, Pháp,
Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha họ lại có cách đánh giá và tiếp cận khác về chủ nghĩa
thực dân. Chẳng hạn như trong tác phẩm: Đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp
được viết vào năm 1960, Ray-Mông-Bác-Bê đã có một công trình nghiên cứu về quá
trình phát triển, những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa thực dân Pháp từ khi ra đời cho
tới khi tan rã. Thế nhưng những chính sách thuộc địa và tác động của nó, đặc biệt là
những tác động tiêu cực lại được nói đến một cách hời hợt và không rõ ràng, chỉ gói
gọn trong các cụm từ như “xâm lược”, “cưỡng bức”, “tiêu cực”. Các cuốn sách có
trình bày lý luận về chủ nghĩa thực dân đều đưa ra những luận điểm chưa toàn diện với

đúng bản chất của nó, tức cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực. Chẳng hạn như trong
cuốn: Key Concepts in American History-Colonialism của Darrell J. Kozlowski lại
đưa ra khái niệm về chủ nghĩa thực dân như sau: “Chủ nghĩa thực dân là sự mở rộng
lãnh thổ của một quốc gia đến những vùng đất bên ngoài biên giới của mình. Những
vùng đất mới được thành lập bởi các nước chính quốc được gọi là thuộc địa”
[28, tr.1]. Trong công trình nghiên cứu này những cuộc xâm chiếm của châu Âu đối
với châu Mỹ cùng những chính sách cai trị của họ lại được nhìn nhận là những nhân tố


4

định hình nên lịch sử nước Mỹ. “Nhà nghiên cứu người Mỹ David S. Landes viết cuốn
sách “Sự giàu và nghèo của các dân tộc”được Kenneth Galbraith đánh giá: “Thật là
tuyệt vời. Không nghi ngờ cuốn sách này sẽ đặt David S. Landes thành một người
hàng đầu xuất sắc trong lĩnh vực của ông và trong thời đại của ông”. Cuốn sách đã
nghiên cứu toàn diện về điều kiện tự nhiên, địa lý, chính trị, thể chế quan hệ quốc tế để
tìm lời giải cho vấn đề vì sao có những quốc gia vượt lên các quốc gia khác và trở nên
giàu có, còn nhiều nước trải qua hàng thế kỷ vẫn không thoát khỏi tình trạng nghèo
đói” [42]. Qua đó vấn đề chủ nghĩa thực dân cũng được ông đề cập trong một số
chương của cuốn sách, đặc biệt là về chủ nghĩa thực dân Anh ở Ấn Độ. Ngoài các tác
phẩm trình bày lý luận về chủ nghĩa thực dân như: Colonialism in Question-Theory,
Knowledge, History của Frederick Cooper và Key Concepts in American HistoryColonialism thì tại các nước thực dân cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
chính sách thuộc địa của một quốc gia cụ thể trên một khu vực địa lý, một quốc gia
nhất định. Tiêu biểu về thực dân Anh tại Ấn Độ có một số công trình nghiên cứu như:
Britain’s Oceanic Empire, Atlantic and Indian Ocean Worlds, c. 1550–1850 của các
tác giả H. V. Bowen, Elizabeth Mancke, and John G. Reid. Cuốn sách là một công
trình lớn, tập hợp rất nhiều bài viết của các tác giả khác nhau, trong đó ở phần III và
IV có một số bài nghiên cứu về hoạt động của công ty Đông Ấn và quá trình xâm lược
vào Ấn Độ mà cuốn sách gọi là “ngoại giao ở Ấn Độ”. Qua đó cuốn sách cũng dựng
lên một bức tranh khá rõ nét về chính sách thuộc địa và tình hình kinh tế của Ấn Độ

vào thời kỳ đầu cai trị của Anh. Tuy nhiên, cuốn sách cũng chỉ dừng ở việc đánh giá
tác động của các chính sách thuộc địa đối với đế quốc Anh, còn đối với Ấn Độ thì
chưa được đánh giá toàn diện. Bên cạnh đó, phải kể đến một số công trình khác nói về
thực dân Anh như: A short history of British colonial policy của Hugh Edward
Egerton được viết vào năm 1897 và British colonial policy của George Louis Beer
viết năm 1907. Cả hai cuốn sách đều lấy các chính sách thuộc địa của Anh làm mục
đích nghiên cứu chính và đã trình bày rất rõ về quá trình xâm lược của Anh vào các
vùng thuộc địa. Tuy nhiên, do ra đời khi chủ nghĩa thực dân Anh chưa thực sự bộc lộ
hết các đặc điểm của nó cho nên hai công trình chưa trình bày được đầy đủ và rõ nét
về các chính sách thuộc địa của Anh tại Ấn Độ và một số khu vực khác. Ngoài ra,


5

người nghiên cứu cũng tham khảo một số bài viết trên các tạp chí trong đó quan trọng
nhất là hai bài viết, bài thứ nhất với nhan đề: The Raj reconsidered: British India’s
informal Empire and spheres of influence In Asia and Africa (2009) và The Arabian
Frontier of the British Raj: Merchants, Rulers, and the British in the nineteenthCentury Gulf (Oxford University Press, 2007), của James Onley Dr. Đây thực sự là
những bài nghiên cứu vô cùng giá trị đối với người nghiên cứu, không những cách
trình bày khoa học mà các bài viết còn đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như mục
đích của việc xâm lược Ấn Độ và cách cai trị của người Anh ở các vùng trong khu vực
châu Á. Bài thứ hai của tác giả Ryan Brown được viết năm 2010 với tên gọi The
British empire in India đã trình bày quá trình người Anh vào Ấn Độ từ vương triều
Mohgol cho tới năm 1947 khi Ấn Độ giành được độc lập. Người nghiên cứu chủ yếu
khai thác được ở bài viết này một số chính sách mà Anh đã thi hành qua một số giai
đoạn và qua những nhà cầm quyền thuộc địa Anh ở Ấn Độ.
Về thực dân Pháp có cuốn: The French in Tonkin and South China của Alfred
Cunningham, đây như một tài liệu quý của tác giả, ghi lại cuộc hành trình của mình
đến Trung quốc và Đông Dương. Bố cục của công trình được chia theo từng địa danh,
Việt Nam được nhắc tới bởi những địa danh như Hà Nội, Hải Phòng. Trong mỗi khu

vực này, tác giả ghi lại tất cả mọi thứ mà ông nhìn, thấy và cảm nhận được một cách
rất chân thực. Tuy không trình bày một cách rõ ràng về chính sách thuộc địa của Pháp
tại Đông Dương nhưng cuốn sách đã cung cấp những dẫn chứng rất chân thực về hệ
quả của các chính sách thuộc địa và phần nào bắt đầu so sánh các hoạt động, chính
sách thuộc địa của thực dân Anh và thực dân Pháp. Công trình mang tên: The colonial
tariff policy of France của tác giả Arthur Girault được viết vào năm 1916 bao gồm hai
phần và 14 chương đã giành ra một chương để nói về Đông Dương, trong đó chủ yếu
nói về Việt Nam. Cuốn sách đề cập một cách chi tiết về chính sách thuế quan cũng
như vai trò, lợi ích về mặt kinh tế của khu vực Đông Dương đối với chính quốc thông
qua số liệu về các loại hàng hóa ở khu vực này nhưng không đánh giá đến tác động
của các chính sách thuộc địa đối với khu vực Đông Dương. Về việc so sánh giữa thực
dân Anh và thực dân Pháp, người viết cũng tiếp cận được một số tài liệu nước ngoài
trong đó có bài viết: The legacies of history Colonization and immigrant integration


6

in Britain and France được đăng trên tạp chí Theory and Society vào năm 2005,
trong bài viết này tác giả Erik Bleich đã trình bày và so sánh một cách ngắn gọn về
chính sách thuộc địa của Anh và Pháp cũng như những di sản thuộc địa của hai quốc
gia này. Đây là một khía cạnh tiếp cận mới của một tác giả nước ngoài mà người viết
cần thiết phải tham khảo để đưa ra cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề nghiên cứu. Riêng
về tác động của các chính sách thuộc địa ở Đông Dương phải kể đến luận án tiến sĩ
của Julia Alayne Grenier Burlette mang tên:French influence overseas: The rise and
fall of colonial Indochina, bao gồm 3 chương và tác giả đã trình bày rất chi tiết, cụ
thể về quá trình người Pháp vào Đông Dương cho đến các chính sách kinh tế, văn hóa
và cũng giải thích cho sự thất bại của người Pháp ở khu vực này. Đặc biệt, Julia
Alayne Grenier Burlette đề cập rất nhiều đến tác động của các chính sách thuộc địa, cả
tiêu cực và tích cực và đây là một tài liệu rất quan trọng cho người nghiên cứu khi tìm
hiểu về vấn đề này.

Ngoài ra tại các quốc gia phương Tây còn có các cuốn sách như: Colonial
memory and postcolonial Europe, Maltese Settlers in Algeria and France của
Andrea L. Smith hay The making of British colonial development policy 1914–1940
của Stephen Constantine, những tác phẩm ấy được viết đều với chung một mục đích là
để phân tích và đánh giá về nguyên nhân thành công hay thất bại của các chính sách
thuộc địa của họ mà thôi, các tác động tiêu cực của nó đối với các nước thuộc địa chỉ
là những minh chứng họ đưa ra để đánh giá mức độ thành công hay thất bại chứ không
hề đánh giá đến sự thiệt hại to lớn mà các nước thuộc địa phải gánh chịu.
Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đứng trên lập trường của một nước thuộc địa
cũng đưa ra cái nhìn về chủ nghĩa thực dân, nhưng vấn đề này lại thường được lồng
ghép trong các vấn đề khác và chủ yếu nhấn mạnh đến những chính sách, tác động tiêu
cực của chủ nghĩa thực dân đối với nước ta, qua đó lên án gay gắt thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, cụ thể có một số tác phẩm tiêu biểu như sau:
Trong cuốn sách của tác giả Đỗ Thanh Bình có nhan đề: Lịch sử phong trào giải
phóng dân tộc thế kỷ XX, một cách tiếp cận thì vấn đề và cách nhìn nhận về chủ
nghĩa thực dân đã được nghiên cứu một cách khá đầy đủ và khách quan. Đặc biệt, đây
là một trong số rất ít những công trình tại Việt Nam đã trình bày một cách khái quát về


7

lý luận của chủ nghĩa thực dân. Tuy nhiên, nó lại được trình bày gắn liền với vấn đề
dân tộc và giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa nên còn bị hạn chế ở nhiều mặt
và chưa hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về chính tình
hình Việt nam trong thời kỳ là thuộc địa của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tiêu biểu
như cuốn sách Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ của tác giả Nguyễn Thế Anh. Được
viết vào năm 1970 khi thực dân Pháp đã hoàn toàn rút khỏi Việt Nam và bởi một tác
giả đã có cơ hội làm việc tại Pháp do đó cách viết và trình bày của cuốn sách có sự
khác biệt với những tác giả khác vào thời kỳ đó. Cuốn sách chia làm ba phần, mỗi
phần ba chương nhưng hoàn toàn là theo mạch trình bày các biến cố chính trị hay quân

sự, “sự kiện thuộc địa” trong đó, độc giả có thể hình dung được diễn biến của một giai
đoạn lịch sử chứa đựng nhiều biến đổi cho xã hội Việt Nam. Với cùng suy nghĩ và
cách viết đó còn có cuốn sách: Người Pháp và người Annam, bạn hay thù? của
Philippe Devillers-một nhà sử học đã sống và nghiên cứu tại Việt Nam về cuộc chiến
tranh tại Đông Dương, trình bày những diễn biến của hành động với việc bám sát các
niên đại để giải thích “ hành động và phản ứng” của cả hai phía Pháp và Việt Nam.
Trong hai tài liệu này rất khó để tìm thấy một nhận xét khen chê nhưng nó lại cung cấp
cho chúng ta nhiều “chất liệu” để có nhận thức đúng đắn về hệ quả của những chính
sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam. Về các chính sách thuộc địa Anh ở Ấn Độ, có
nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề này nhưng chủ yếu coi đó là một giai đoạn trong
lịch sử của Ấn Độ hoặc có liên quan đến vấn đề nghiên cứu chứ rất ít các công trình
nghiên cứu riêng về vấn đề này. Một số công trình tiêu biểu cho cách trình bày này là:
Lịch sử Ấn Độ của Vũ Dương Ninh, Ấn Độ qua các thời đại của Nguyễn Thừa Hỷ,
Các nhân vật lịch sử cận đại (tập IV) và hiện đại (tập II) của Lê Vinh Quốc và Ngô
Minh Oanh. Đây cũng là những tài liệu rất hữu ích cho người nghiên cứu có cái nhìn
bao quát nhất về lịch sử Ấn Độ nói chung và vị trí của thời kỳ là thuộc địa của Anh
trong tiến trình phát triển của lịch sử Ấn Độ nói riêng.
Như vậy, mặc dù vấn đề chủ nghĩa thực dân đã được nghiên cứu rất nhiều tại
Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau. Thế nhưng lý luận của chủ nghĩa thực dân
cũng như những đặc điểm của từng nước thực dân và hệ quả mà nó để lại đối với sự
phát triển của nhân loại vẫn luôn làm say mê và không bao giờ là đủ đối với những


8

người nghiên cứu sử học. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề quan trọng vẫn phải tiếp tục
tìm hiểu, đặc biệt đối với một đất nước từng là thuộc địa như Việt Nam, điều đó càng
cần thiết để giúp cho những người nghiên cứu lịch sử có một nhận thức đúng đắn và
hoàn chỉnh hơn về quá trình hình thành, phát triển của từng nước thực dân và những
tác động của chủ nghĩa thực dân đối với nước ta nói riêng và trên bình diện thế giới

nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm so sánh chế độ thuộc địa của Anh và Pháp dựa trên
những chính sách thuộc địa được thi hành tại Ấn Độ và Việt Nam. Bên cạnh đó, luận
văn cũng muốn đưa ra đánh giá toàn diện hơn về hệ quả của các chính sách thuộc địa
đối với cả các nước thực dân và các nước thuộc địa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là chế độ thuộc địa của Anh và Pháp mà chủ yếu là những
chính sách thuộc địa mà họ đã thi hành ở Ấn Độ và Việt Nam và một số nét tương
đồng cũng như khác biệt trong cách cai trị thuộc địa của Anh và Pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
 Về không gian:
- Tập trung ở Ấn Độ (trước năm 1947) và Việt Nam (trước 1945).
 Về thời gian:
- Khoảng từ giữa thế kỉ XIX đến giữa XX, tương đương với thời gian từ khi Ấn
Độ và Việt Nam đều là thuộc địa của Anh và Pháp cho đến khi độc lập. Tuy nhiên,
giai đoạn trước và sau đó cũng sẽ được đề cập tới trong những giới hạn nhất định để
làm rõ hơn nội dung nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa
Mác Lênin, bên cạnh đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra tôi
còn sử dụng một số phương pháp liên ngành giữa sử học, xã hội học, dân tộc học, địa
lý học…


9

6. Nguồn tư liệu
- Các sách viết hoặc có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

- Các bài báo, tạp chí, khóa luận, luận văn, luận án có liên quan đến đề tài.
- Các website lớn, đáng tin ở trong và ngoài nước viết về đề tài.
7. Đóng góp của luận văn
Cho đến nay, việc nghiên cứu về chế độ thuộc địa của Anh và Pháp cũng như
những hệ quả, di sản mà nó để lại đối với sự phát triển của các nước thuộc địa và toàn
nhân loại đã được rất nhiều các học giả tại Việt Nam nghiên cứu. Tuy nhiên, hướng
nghiên cứu so sánh đặc điểm của các nước thực dân thông qua chế độ thuộc địa của nó
tại thuộc địa thì chưa nhiều. Do vậy, đề tài được tiến hành nghiên cứu nhằm có thể thu
thập và hệ thống hóa một số nguồn tài liệu tạo thành tập tin, nguồn tài liệu đáng tin cậy
về chế độ thuộc địa Anh và Pháp ở Ấn Độ, Việt Nam cùng với hệ quả được nhìn nhận
một cách toàn diện hơn. Người nghiên cứu hi vọng đây sẽ là tài liệu có ích đối với
những người quan tâm đến đề tài hoặc những lĩnh vực có liên quan mà đề tài đã đề cập
và nghiên cứu.
8. Bố cục của luận văn và các vấn đề cần giải quyết
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, luận văn
có ba chương:
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN
QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC ẤN ĐỘ, VIỆT NAM CỦA ANH, PHÁP
Nội dung của chương 1 nhằm giải quyết hai vấn đề:
Thứ nhất là một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa thực dân sẽ đề cập đến các nội
dung chi tiết như: Quá trình ra đời, vị trí lịch sử, một số khái niệm và cách nhìn nhận
cũng như hình thức biểu hiện về chủ nghĩa thực dân, cuối cùng là trình bày quan điểm
của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I Lênin nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân.
Thứ hai là trình bày về quá trình xâm lược Ấn Độ và Việt Nam của Anh và Pháp,
trong đó cũng tìm hiểu về tình hình của hai quốc gia này trước khi bị Anh, Pháp cai trị.
Chương 2. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG CHẾ
ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA ANH, PHÁP TẠI ẤN ĐỘ, VIỆT NAM (GIỮA THẾ KỶ
XIX-GIỮA THẾ KỶ XX)



10

Chế độ thuộc địa được Anh và Pháp xây dựng tại Ấn Độ và Việt Nam có những
sự giống và khác nhau trong các lĩnh vực. Nội dung của chương 2 nhằm so sánh, tìm
ra một số nét tương đồng và khác biệt trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-giáo
dục, xã hội mà hai đế quốc thực dân này đã áp đặt lên Ấn Độ và Việt Nam
Chương 3. TÁC ĐỘNG TỪ CÁC CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA CỦA ANH
VÀ PHÁP ĐỐI VỚI ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM
Các chính sách thuộc địa đã tác động sâu sắc đến đời sống của Ấn Độ và Việt
Nam. Nội dung của chương 3 sẽ trình bày về những tác động tích cực và tiêu cực của
những chính sách này trên một số lĩnh vực cụ thể.


11

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA
THỰC DÂN QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VÀO ẤN ĐỘ,
VIỆT NAM CỦA ANH, PHÁP
1.1. Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa thực dân
1.1.1. Quá trình ra đời và vị trí lịch sử của chủ nghĩa thực dân
Xét về mặt thời gian, trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, chủ nghĩa
thực dân xuất hiện không phải là hiện tượng cá biệt mà là phổ biến, mang tính toàn
cầu. Nó tồn tại trong một thời kỳ lịch sử lâu dài.Darrell J. Kozlowski cho rằng “Lịch
sử của chế độ thực dân-hành động mở rộng quyền lực tới quốc gia khác-trải dài trên
khắp toàn cầu và kéo dài qua thời gian. Chủ nghĩa thực dân thường được sử dụng để
chỉ đế quốc châu Âu ở nước ngoài. Lịch sử của chế độ thực dân có thể bắt nguồn từ
người Phoenicia và Hy Lạp cổ đại” [28, tr.1]. Cũng theo tác giả:
“Người Phoenicia, người đầu tiên định cư ở rìa phía Đông của biển Địa
Trung Hải, họ nắm thế lực rất lớn về thương mại ở khu vực Địa Trung Hải
khoảng từ năm 1550 TCN cho đến 300 TCN. Họ trao đổi với các thành phố

ở Ai Cập, Hy Lạp và thành lập các thuộc địa xa về phía tây là Cadiz ngày
nay, thuộc Tây Ban Nha. Ở Hy Lạp cổ đại, các thành bang Hy Lạp thường
thiết lập thuộc địa để buôn bán với nước ngoài và làm tăng sự giàu có của
họ. 30 thành bang Hy Lạp đã thành lập được nhiều hơn một thuộc địa ở khu
vực Địa Trung Hải. Nhà thực dân tích cực nhất là thị quốc Miletus. Nó thiết
lập được 90 thuộc địa trải dài trên Địa Trung Hải, từ bờ biển ngày nay là
phía đông Thổ Nhĩ Kỳ đến bờ biển phía nam thuộc phía tây Tây Ban Nha
ngày nay. Một số các thuộc địa nằm trên bờ biển phía bắc của châu Phi.Ban
đầu người La Mã thường thiết lập các thuộc địa để bảo vệ các vùng đất mới
xâm chiếm được. Trong thời kỳ đầu, các thuộc địa của công dân La Mã
nằm dọc theo hai bên bờ biển của Ý” [28, tr.1-2].
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, “chủ nghĩa thực dân đã xuất hiện và tồn tại
sớm với việc các thương nhân phương Tây lập ra các thương điếm rải rác ở châu Á,


12

châu Phi. Nhưng nhìn chung, người ta thường lấy năm 1511, với sự kiện thực dân Bồ
Đào Nha xâm chiếm bán đảo Ma-lắc-ca ở Đông Nam Á làm mốc mở đầu cho thời kỳ
của chủ nghĩa thực dân, mặc dù đến năm 1511 chưa có một cuộc cách mạng tư sản nào
diễn ra. Khi Macao trở về Trung Quốc, năm 1999 được coi là mốc cáo chung của chủ
nghĩa thực dân đã từng tồn tại kéo dài ít nhất 5 thế kỷ” [3, tr.11]. Trong suốt quá trình
tồn tại của mình, chủ nghĩa thực dân có một vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử
nhân loại. Trong cách nhìn của các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa thực dân là sản phẩm
của chế độ tư bản chủ nghĩa, là vết nhơ trong lịch sử nhân loại, vì nó đã tạo ra một thời
kỳ đầy bi thương cho các dân tộc thuộc địa ở Á, Phi và Mĩ Latinh.
Xét về mặt không gian, phạm vi bành trướng, xâm lược của chủ nghĩa thực dân,
người ta thấy nó không dừng lại ở một khu vực nào, ở một châu lục nào, mà có mặt ở
khắp trên thế giới. Nó “đã mở rộng phạm vi thế lực của mình ra 2/3 diện tích địa cầu,
có mặt ở tất cả các châu lục. Từ châu Âu rồi Bắc Mĩ, khu vực Mĩ Latinh và cả châu

Đại Dương xa xôi” [3, tr.12]. Có thể nói “từ khi bắt đầu xuất hiện cho đến nửa sau thế
kỷ XX, thuộc địa vẫn được coi là thước đo sức mạnh, giá trị của chủ nghĩa thực dân,
chủ nghĩa tư bản. Việc tranh giành thuộc địa là một trong những nguyên nhân chủ yếu
làm bùng nổ hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt các cuộc chiến tranh khu vực
(như chiến tranh Anh – Bôơ (1899-1902), Mĩ – Tây Ban Nha (1898), hay sự can thiệp
của 8 nước đế quốc vào Trung Quốc nửa cuối thế kỷ XIX…). Đồng thời, thuộc địa
cũng là một vấn đề chính gây nên những rắc rối, bất ổn trong quan hệ quốc tế, quan hệ
song phương giữa các nước lớn, kéo dài nhiều thế kỉ. Chính nhờ có thuộc địa mà một
số nước tư bản đã trở thành những cường quốc tư bản hàng đầu và giữ vị trí đó trong
một thời gian không phải là ngắn, chi phối thế giới. Điển hình là Anh và sau đó là
Pháp. Đế quốc Anh có hệ thống thuộc địa rộng lớn bao la, đứng đầu thế giới, đó là đế
quốc mà “Mặt trời không bao giờ lặn”. Chính nhờ ưu thế về thuộc địa mà mặc dù Anh
mất độc quyền về công nghiệp từ cuối thế kỷ XIX nhưng Anh vẫn giữ vị trí đứng đầu
thế giới tư bản về sự giàu có, về sức mạnh nói chung. Sau Anh là Pháp. Pháp có hệ
thống thuộc địa rộng lớn và đông dân thứ hai sau Anh vì thế vai trò và vị trí của Pháp
cũng xếp thứ hai trong thế giới tư bản cho tới tận trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân


13

cũ lần lượt sụp đổ. Vị trí và vai trò của Anh, Pháp dần dần bị đẩy xuống phía sau,
trong khi đó Mĩ vươn lên đứng đầu thế giới tư bản cùng với bành trướng thuộc địa
bằng chủ nghĩa thực dân trá hình. Mĩ là đế quốc đi đầu trong việc áp dụng chủ nghĩa
thực dân trá hình trong bối cảnh chủ nghĩa thực dân cũ bị nhân loại nguyền rủa và sụp
đổ. Do đó, chủ nghĩa thực dân trá hình của Mĩ đã thành công ở một số nơi.
Khi phân tích quá trình xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, phân tích
vai trò và vị trí của thuộc địa đối với các nước tư bản, V.I Lênin đã đưa ra một trong
năm đặc trưng của chủ nghĩa đế quốc ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, đó
là vấn đề thuộc địa. Có thể nói hệ thống thuộc địa là một trong những đặc điểm không

thể thiếu của chủ nghĩa đế quốc. Nói cách khác, thuộc địa là nơi mà “tất cả sinh lực
của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy” ở đó” [3, tr.12-13].
1.1.2. Một số khái niệm và cách nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân nói chung hay những khía cạnh có liên
quan đến phạm trù này, chúng ta cần phải tìm hiểu qua một số khái niệm như: đế chế,
chủ nghĩa đế quốc; thuộc địa, chủ nghĩa thực dân. Tùy theo cách tiếp cận tài liệu và
quan niệm của người nghiên cứu mà các khái niệm này có phần khác nhau. Trong Key
Concepts in American History-Colonialism của Darrell J. Kozlowski đưa ra khái
niệm về chủ nghĩa thực dân như sau “Chủ nghĩa thực dân là sự mở rộng lãnh thổ của
một quốc gia đến những vùng đất bên ngoài biên giới của mình. Những vùng đất mới
được thành lập bởi các nước chính quốc được gọi là thuộc địa” [28, tr.1]. Tương tự như
vậy, trong tác phẩm “Sự giàu và nghèo của các dân tộc” tác giả David S. Landes
cũng cho rằng: “Chủ nghĩa đế quốc là hệ thống (nguyên lý hay tinh thần) và sự thực
hiện đế chế-sự thống trị của một nước đối với những nước khác. Các đế chế lớn lên
khi các quốc gia lớn lên, quốc gia này mạnh hơn quốc gia kia. Căn cứ vào cái phả hệ
lâu đời đó và mối liện hệ giữa đế chế với chinh phục quân sự và thủ đoạn ngoại giao,
với vị trí xã hội, quyền lực và của cải, “đế chế” và “chủ nghĩa đế quốc” đã từng là
những từ kiêu hãnh” [4, tr.413]. Vào cuối thế kỷ 19, khi mà chủ nghĩa tư bản lên đến
tột cùng và chủ nghĩa đế quốc cũng lên đến đỉnh điểm như một phát minh hay sản
phẩm phụ của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nhiều người đã lập luận rằng đế chế là tất
yếu và cần thiết cho sự thịnh vượng và sống sót của chủ nghĩa tư bản hiện đại, và rằng


14

chủ nghĩa đế quốc nhằm mục đích trên hết là lợi ích vật chất, ngay cả ở những nơi mà
nó phải trả giá và chịu thiệt thòi. Bên cạnh quan niệm như thế, cũng không ít ý kiến
trình bày về vấn đề này và nó phản ánh sự cần thiết phải làm mất uy tín của bọn đế
quốc và tư bản nhằm khuyến khích sự chống cự và cách mạng, hiển nhiên nó thường
xảy ra tại các nước yếu và bị thống trị. “Chủ nghĩa thực dân là chủ nghĩa đế quốc ở

dạng còn đen tối hơn nữa. Đối với nhiều người, nó bao hàm những bất công xã hội,
những sự nhục mạ con người, những đòi hỏi và đạo đức buộc người ta phải có những
hành động chống lại, những yêu sách về công lý và những cuộc đấu tranh để giải
phóng. Từ “colony” vốn có một nguồn gốc chẳng tội tình gì trong xã hội cổ đại, nó có
nghĩa là một nơi định cư ở xa-ví như khu định cư của người Phenixi ở Carthage hay
những khu định cư của người Hi Lạp ở Ý. Nhưng định cư lại bao hàm những kiểu di
dời được sự chỉ định của những người đứng đầu quốc gia tới những vùng đất không
phải vô chủ, vì vậy nó không thể nào là tốt hay phù hợp đạo lý, ít nhất là đối với
những nạn nhân của sự di dời” [4, tr.414]. Cho nên sự định cư xét như một hệ thống rõ
ràng là xấu. Do vậy mà cũng có nhà nghiên cứu cho rằng: “Chủ nghĩa thực dân là
chính sách của các nước đi xâm chiếm nước khác để thống trị, bóc lột. Chủ nghĩa thực
dân có mầm mống từ thời cổ đại song phát triển mạnh mẽ, có hệ thống dưới thời tư
bản…” [12, tr.107] “… là một hình thức mở rộng sự thống trị tạm thời của người đối
với người và như vậy nó là một phần của lịch sử nhân loại với những hình thức thống
trị, nô dịch, áp bức và bóc lột” [36, tr.291].
Thậm chí: “Thực dân là một hành động xâm lăng và duy trì sự xâm lăng bằng
bạo lực nhằm khai thác và chiếm đoạt những tài nguyên của các nước bị thuộc địa. Đó
là một hình thức người bóc lột người, người đè nén người. Cho nên chế độ thực dân là
một chế độ vô nhân đạo, phi chính nghĩa. Vì không thể phơi bày tính chất vô nhân đạo
một cách trắng trợn, nên chế độ thực dân phải núp sau những lý tưởng, những chủ
nghĩa giả dối để huyễn diệu người ta. Có thể gọi những chủ nghĩa thực dân tạo ra là
huyền thoại” [20, tr.1]. Đây chính là khái niệm về chủ nghĩa thực dân nằm ngay trong
lời tựa của cuốn sách chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam-thực chất và huyền thoại
của tác giả Nguyễn Văn Trung.


15

“Trong cách nói gần đây hơn, “colonialism” đã mở rộng nội dung để chỉ “bất cứ
điều kiện bị lệ thuộc nào về kinh tế hay chính trị,” dù sự lệ thuộc đó có dẫn đến sự di

dời của dân bản địa hay không. Nghĩa xấu của từ này đã khiến những nhà phê bình
hiện đại chỉ trích sự thống trị của nước ngoài (của Phương Tây), thích dùng từ
colonialism (chủ nghĩa thực dân) hơn là thuật ngữ imperialism (chủ nghĩa đế quốc).
Colonialism nghe xấu hơn” [4, tr.414]. Có ý kiến cho rằng “Sự khác biệt quan trọng
giữa chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc dường như là sự hiện diện hay không
của một số lượng đáng kể những người định cư vĩnh viễn ở thuộc địa từ chính quyền
thực dân” [38, tr.47]. Người ta thường cho rằng chủ nghĩa đế quốc là một cái gì đó do
phương Tây sáng tạo ra như một độc quyền của mình để đổ lên đầu các dân tộc không
phải người châu Âu. Trái ngược với những quan điểm đó, các học giả phương Tây phủ
nhận điều đó và cho rằng chủ nghĩa thực dân diễn ra vòng quanh trái đất. Ở phương
đông, “người Trung Hoa đã tràn xuống phía nam, khuất phục và nuốt chửng nhiều dân
tộc không phải người Hán. Người Nhật Bản đã chinh phục những hòn đảo từ tay người
Ainu. Người Miến Điện đã di cư từ gốc gác của họ ở Mông Cổ và lấy tên của mình đặt
cho một dải đất ở xa dưới phía nam, đồng hóa phần lớn các thổ dân. Người Ảrập đã
bung ra từ hoang mạc, tràn qua miền bắc Châu Phi, cải đạo đa số thần dân của họ
thành những tín đồ Hồi giáo. Họ tạo nên những quốc gia Hồi giáo, và ngôn ngữ của họ
trở thành tiêu chí định nghĩa chung của những nhân dân đa dạng này”
[4, tr.415].
Như vậy, chủ nghĩa thực dân là hành động xâm chiếm, mở rộng lãnh thổ của một
quốc gia dưới sự chỉ đạo của chính phủ thành những chính sách, đường lối rõ ràng, cụ
thể. Và nếu hiểu rằng chủ nghĩa thực dân là chỉ để ám chỉ các nước Phương Tây thì
chưa toàn diện. “Đương nhiên là đã có một cái gì khác đi khi người Châu Âu cưỡi
thuyền hay cưỡi ngựa đi vòng quanh thế giới và khuất phục những thị tộc, dân tộc xa
lạ bằng những vũ khí, kiến thức của họ ở trình độ cao hơn. Những địa phương và con
người bản địa này đều khác xa người Châu Âu cả về văn hóa, địa lý và cơ thể. Nếu
những cuộc chinh phục trước đó đều ở gần sát biên giới lãnh thổ và mang ý nghĩa hấp
thu hay đồng hóa nhằm sát nhập nó vào lãnh thổ vốn có, thì những miền đất xa lạ này


16


được coi là những phần thưởng, những vùng đất do cơ hội mà có. Chúng không phải
những bộ phận hợp thành mà là những bộ phận phụ thêm” [4, tr.415].
1.1.3. C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I Lênin nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân.
Chủ nghĩa thực dân là một vấn đề lớn trong lịch sử nhân loại. Cùng với quá trình
phát triển của chủ nghĩa thực dân thì cũng có những cái nhìn khác nhau về nó. Sở dĩ có
điều đó là do các nhà nghiên cứu đứng ở các góc độ khác nhau, ở vị trí hay thời đại
khác nhau để đánh giá, nhìn nhận. Trước Mác, việc nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân
không phải ai khác mà chính là các học giả tư sản người Anh, người Bồ Đào Nha,
người Tây Ban Nha. Các học giả tư sản viết khá nhiều về chính sách thực dân nhưng
chủ yếu tập trung vào việc khai thác chức năng “khai hóa” của nó. Sự nhìn nhận về
thuộc địa của các học giả tư sản nhiều khi rất chi tiết, cặn kẽ, nhưng tất cả là để phục
vụ cho chính sách bóc lột, khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.
C. Mác là người đầu tiên nghiên cứu, có những đánh giá về chủ nghĩa thực dân
và đưa ra những luận điểm chính thống của mình. Cơ sở đầu tiên để C.Mác nghiên cứu
và đưa ra những luận điểm của mình chính là việc nghiên cứu sự thống trị của Anh đối
với Airơlen, đặc biệt là nghiên cứu quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Anh ở
Ấn Độ. Ph.Ăngghen cũng có những nghiên cứu sâu sắc về chủ nghĩa thực dân và
thuộc địa. Hai ông đã thể hiện những luận điểm về các vấn đề này trong tác phẩm:
tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Tư bản, Hệ tư tưởng Đức…Khi nghiên cứu về chủ
nghĩa thực dân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra những mặt tiêu cực, chỉ ra những
mặt xấu xa của nó. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, hai ông viết “…giai cấp tư
sản đã bắt nông thôn phải phục tùng thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man
phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương
Tây” [dẫn theo 3, tr.14]. Sự cưỡng bức các dân tộc thuộc địa chậm phát triển phụ
thuộc vào các nước phưuơng Tây, như C.Mác và Ăngghen đã chỉ rõ, là mặt trái của
chủ nghĩa thực dân. Qua đó, C.Mác nói rõ quá trình bót lột thuộc địa tàn nhẫn của chủ
nghĩa thực dân nhằm để tạo ra sự tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản. C.Mác viết:
“việc tìm thấy những mỏ vàng và bạc ở Châu Mĩ, việc biến người bản xứ thành nô lệ,
việc chôn vùi họ vào các hầm mỏ hoặc tuyệt diệt họ đi, những bước đầu của công cuộc

chinh phục và cướp bóc ở Đông Ấn, việc biến Châu Phi thành vùng đất cấm thương


17

mại dành riêng cho việc săn bắt người da đen, đấy là những biện pháp tích lũy nguyên
thủy có tính chất tình ca, báo hiệu buổi bình minh của thời đại tư bản chủ nghĩa.” [dẫn
theo 3, tr.14]. quá trình bóc lột thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương tây để tạo nên
nguồn lợi nhuận cho tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản đã thấm đầy bùn máu và
nhơ như Mác đã chỉ ra. Nếu không có quá trình bóc lột ấy thì sẽ không có sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản ở các giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh yếu tố kinh tế, như đã nói ở trên, mặt xấu xa của chủ nghĩa thực dân
cũng thể hiện ở yếu tố văn hóa-tư tưởng. C.Mác đã nhắc tới sự thống trị của tư tưởng
chủng tộc, tư tưởng “khai hóa văn minh” của các nước thực dân phương Tây đối với
các dân tộc “mọi rợ”. Điều này, theo C.Mác, nó đã chà đạp lên quyền lợi thiêng liêng
của các dân tộc và chính là ngòi nổ làm bùng lên các cuộc khởi nghĩa, các cuộc đấu
tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa mà cuộc khởi nghĩa Cipayes ở Ấn Độ
(1857-1859) là một điển hình. Đó là cuộc khởi nghĩa mà một người Anh đã phải nói
rằng “Tôi cho rằng chúng ta đã mắc sai lầm lớn khi chúng ta thực hiện thương mại vào
Ấn Độ, nó trở thành một điều xấu hổ của cộng đồng Thiên Chúa giáo chúng ta... Hai
lĩnh vực tiên phong của văn minh là Kitô giáo và thương mại không bao giờ nên tách
rời ra; và người Anh nên được cảnh báo với những hệ quả của việc bỏ qua nguyên tắc
điển hình trong việc quản lý các vấn đề của Ấn Độ....” [dẫn theo 30, tr.84]. Đây chính
là mặt trái của chủ nghĩa thực dân, là vết thương của các dân tộc thuộc địa mà phải có
thời gian mới xóa bỏ đi được. Sau này, ách áp bức dân tộc biến tướng thành chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc. Điển hình nhất là chủ nghĩa Apacthai ở Nam Phi. Chủ nghĩa
Apacthai cũng xuất phát từ tư tưởng của chủ nghĩa thực dân. Mặc dù nó đã bị xóa bỏ
từ những năm 1993-1994, nhưng những dấu vết ở Nam Phi và trên thực tế ở một số
nơi vẫn còn tồn tại sâu sắc, nghiệt ngã.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân, bên cạnh chỉ ra những tiêu cực, những

mặt phá hoại của nó là chủ yếu, các nhà nghiên cứu, trên một khía cạnh nào đó, còn
nhìn thấy có những yếu tố xây dựng. các nhà xã hội học hay sử gia phương Tây
thường gọi đó là “khai hóa văn minh”. Mác là người sớm nhận thấy tính hai mặt của
chủ nghĩa thực dân. Trong khi đề cập đến mặt phá hoại thì C.Mác cũng đề cập đến
việc “thực hiện sứ mệnh xây dựng”, nhưng đó là kết quả của một quá trình nằm ngoài


18

ý muốn của chủ nghĩa thực dân. Điều này được C.Mác phân tích khi nói về sự thống
trị của Anh ở Ấn Độ. “Theo C.Mác, sự thống trị này một mặt là phá hoại xã hội truyền
thống Châu Á, mặt khác lại đặt cơ sở vật chất cho xã hội phương Tây ở châu Á. “chính
điều này đã quyết định xu hướng phát triển của lịch sử châu Á cận đại” [dẫn theo 3,
tr.15]. Từ khía cạnh này, người ta thấy đây chính là khuynh hướng để xã hội châu Á
hội nhập vào xã hội hiện đại. Năm 1858, C.Mác lại nhắc rằng: “sự thống trị của Anh
đã phá vỡ công xã lạc hậu ở Ấn Độ, điều đó đã thể hiện một cuộc cách mạng hết sức
tiến bộ” [dẫn theo 3, tr.15]. Như vậy, khía cạnh thứ hai của chủ nghĩa thực dân đã
được C.Mác chứng minh. Nó đã tạo ra một sự tiến bộ trên lĩnh vực kinh tế. sự tác động
đó được coi như một công cụ vô ý thức của lịch sử, tạo ra một bước tiến bộ cho xã hội
Ấn Độ. Dẫu sao thì mặt phá hoại vẫn là điểm chủ yếu, có ý thức trong sự thống trị
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.
V.I Lênin là người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen trong
cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại. trong lĩnh vực nghiên cứu về thuộc địa và chủ
nghĩa thực dân, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định và phát triển luận điểm của Mác, và
người cũng rất công bằng khi nói về chủ nghĩa thực dân: “điều quan trọng là chủnghĩa
tư bản không thể tồn tại và phát triển được nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi
thống trị của nó, không khai phá những xứ sở mới và không lôi cuốn các xứ sở không
phải tư bản chủ nghĩa vào cơn lốc kinh tế thế giới” [dẫn theo 3, tr.16] .
Hồ Chí Minh-vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam cũng đã tiếp nhận và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, trong những năm 20 của thế kỷ XX đã có

những luận điểm phát triển về vấn đề thuộc địa. Người đã phân tích vị trí của hệ thống
thuộc địa với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Người chỉ rõ, cách mạng ở các
nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc và Người cũng
nhận định rằng, “cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cánh
mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc” [dẫn theo
3, tr.16].
Rõ ràng chủ nghĩa thực dân bao giờ cũng mang tính hai mặt hay hai chức năng:
phá hoại xã hội thuộc địa, phụ thuộc và xây dựng xã hội, lôi cuốn xã hội thuộc địa và
phụ thuộc vào guồng máy kinh tế tư bản chủ nghĩa… chính sự lôi cuốn ấy đã bắt buộc


×