Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

thiên nhiên – đất nước trong thơ viết cho thiếu nhi giai đoạn 1960 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 172 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ HUỲNH DIỆU

THIÊN NHIÊN – ĐẤT NƯỚC
TRONG THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI
GIAI ĐOẠN 1960 - 1975

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 5.04.33

Người hướng dẫn khoa học:
GS. HOÀNG NHƯ MAI

Tháng 08 năm 2000



MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................... 4
PHẦN DẪN LUẬN ...................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài: ...........................................................................................................6
2. Phạm vi đề tài và tư liệu nghiên cứu : ..........................................................................7
3. Lịch sử nghiên cúu : .......................................................................................................8
4. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................................13
5. Những đóng góp mới của luận án : .............................................................................14
6. Cấu trúc của luận án : ..................................................................................................14

CHƯƠNG 1: THƠ VỚI TUỔI THƠ. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN....... 16


1.1. Thơ ca – món ăn tinh thần cần thiết cho trẻ em : ...................................................16
1.2. Đôi điều cần lưu ý trong việc nghiên cứu thơ viết cho thiếu nhi: .........................22
1.2.1. Về chức năng giáo dục:.........................................................................................22
1.2.2. Về đặc điểm tâm lý thiếu nhi: ...............................................................................25

CHƯƠNG 2: THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI TRƯỚC 1975 ................................ 31
2.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của thơ thiếu nhi Việt Nam trước 1975
: ...........................................................................................................................................31
2.1.1. Trước Cách mang tháng Tám 1945 : ....................................................................31
2.1.2. Sau Cách mạng tháng Tám : .................................................................................35
2.2. Đề tài chính và các loại thơ viết cho thiếu nhi: .......................................................43
2.2.1. Về đề tài: ...............................................................................................................43
2.2.2. Các loại thơ thiếu nhi: ...........................................................................................47

CHƯƠNG 3: THIÊN NHIÊN - ĐẤT NƯỚC TRONG THƠ VIẾT CHO THIẾU
NHI NHỮNG NĂM 60, 70 ........................................................................................ 65
3.1. Thiên nhiên trong thơ thiếu nhi: thế giới loài vật, hoa cỏ và cảnh vật đất nước :
............................................................................................................................................65
3.1.1. Thế giới loài vật, hoa cỏ trong thơ thiếu nhi: .......................................................65
3.1.2. Thiên nhiên – cảnh vật diệu kỳ qua mắt các em thơ: ...........................................83
3.1.3. Thiên nhiên – cảnh vật đất nước trên trang thơ “người lớn” viết cho các em: ...101
3.2. Dấu ấn thời đại - đất nước, con người trong thơ cho thiếu nhi: .........................115
3.2.1. Thiên nhiên - đất nước trong xây dựng quê hương, cuộc sống mới, chế độ mới,
chủ nghĩa xã hôi: ...........................................................................................................116
3.2.2. Thiên nhiên - đất nước trong chống Mỹ: ............................................................124

4


3.2.3. Đất nước, con người mới thiếu nhi trong chống Mỹ: .........................................130

3.3. Vài nét về nghệ thuật - những đóng góp và hạn chế: ...........................................142
3.3.1. Những đóng góp: ................................................................................................142
3.3.2. Một vài hạn chế: .................................................................................................162

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 167
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 169

5


PHẦN DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài:
Đề tài được thực hiện xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy văn học thiếu nhi,
thơ thiếu nhi ở các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm, nhằm bổ sung nguồn tư liệu vốn
rất tản mạn và hạn chế về văn học thiếu nhi và thơ thiếu nhi Việt Nam. Có thể nói so với số
lượng tác phẩm, tuyển tập thơ ra đời, những cơng trình tuyển chọn thơ thiếu nhi khá đồ sộ,
gần đây thì tư liệu phê bình nghiên cứu về nó vẫn cịn q ít ỏi, khơng tương xứng, chưa đáp
ứng được yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
Qua đây, đề tài nhằm khẳng định sự đóng góp quan trọng, khơng thể thiếu của một bộ
phận thơ ca khá độc đáo, nhiều thành tựu : thơ thiếu nhi Việt Nam trong kháng chiến chống
Mỹ và xây dựng đất nước Xã hội chủ nghĩa, gắn liền với tiến trình phát triển của thơ ca Việt
Nam hiện đại.
Nhìn chung, xã hội chưa thật sự quan tâm, đánh giá đúng mức những đóng góp của
các nhà thơ tài năng chuyên viết cho thiếu nhi. Nhìn vào diễn đàn nghiên cứu phê bình văn
học từ trước đến giờ, rõ ràng là người ta vẫn dành nhiều công sức, nhiều ưu ái để đi sâu
nghiên cứu văn học cho “người lớn” hơn ... Phải chăng vì văn thơ thiếu nhi kém chất lượng,
kém về giá trị nội dung, nghệ thuật, tư tưởng ?... Chắc chắn vấn đề không phải là như vậy.
Đề tài được thực hiện nhằm đáp lại biết bao tâm tình, lịng tri ân của nhiều thế hệ bạn đọc
yêu mến thơ thiếu nhi, luôn trân trọng các cây bút nhiệt thành, tâm huyết đã dành trọn cuộc
đời sáng tác vì lịng u mến trẻ thơ, vì sự nghiệp giáo dục, bồi dưỡng tâm hổn nhân cách

tuổi nhỏ, vì một nền thơ thiếu nhi Việt Nam (các nhà thơ : Võ Quảng, Phạm Hổ, Thy Ngọc,
Vũ Ngọc Bình, Định Hải, Quang Huy, Xuân Quỳnh, Đặng Hấn, Trần Mạnh Hảo..., nhà
nghiên cứu phê bình văn học thiếu nhi : Vân Thanh ) ; Đặc biệt là các tài năng thơ trẻ với
những sáng tác thơ của chính tuổi thơ (Trần Đăng Khoa, cẩm Thơ, Chu Hồng Quý, Hoàng
Hiếu Nhân, Khánh Chi, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Hồng Kiên...) mà ngay từ những năm
chống Mỹ ác liệt, các em đã đặt nền móng vững chắc cho phong trào làm thơ trong thiếu nhi
nở rộ.

6


Đề tài góp phần khẳng định giá trị của thơ viết cho thiếu nhi, thơ thiếu nhi Việt Nam
từ khi mới hình thành đã dồi dào tính nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn liền với hiện
thực đấu tranh cách mạng của đất nước, mang rõ dấu ấn thời đại.

2. Phạm vi đề tài và tư liệu nghiên cứu :
2.1. Phạm vi đề tài:
Luận văn đi sâu nghiên cứu chặng đường phát triển ban đầu của thơ thiếu nhi Việt
Nam, tuy ở giai đoạn mới hình thành nhưng đã phát triển mạnh mẽ về đội ngũ sáng tác, về
đề tài, thể loại, về số lượng và cả chất lượng tác phẩm. Chủ yếu nghiên cứu các sáng tác thơ
tiêu biểu viết cho lứa tuổi nhi đồng, do người lớn và cả thiếu nhi sáng tác ở giai đoạn từ
1960 đến 1975.
* Luận văn chủ yếu phân tích sự biểu hiện phong phú, đa dạng về đề tài và nội dung
của thơ thiếu nhi, giai đoạn chống Mỹ, qua hình tượng thiên nhiên - đất nước trong thơ.
* Từ một chặng đường phát triển của thơ thiếu nhi, nhận định đôi nét về giá trị nghệ
thuật của thơ thiếu nhi, góp phần đi tìm đặc trứng hình thức của thơ viết cho các em ở lứa
tuổi thiếu niên - nhi đồng.
2.2. Tư liệu chính để nghiên cứu :
2.2.1. Phần lớn các tác phẩm, tuyển tập thơ in của các tác giả : Võ Quảng, Phạm Hổ,
Thy Ngọc, Huy Cận, Quang Huy, Định Hải, Vũ Ngọc Bình, Xuân Quỳnh ... Các tuyển tập

thơ của Trần Đăng Khoa, Khánh Chi, Hoàng Hiếu Nhân, cẩm Thơ, Chu Hồng Quý, Nguyễn
Hồng Kiến...
Một số các bài thơ hay, tiêu biểu được sáng tác trong khoảng các năm 1960, 1970 thời kỳ nở rộ, được mùa của thơ thiếu nhi Việt Nam.
2.2.2. Tư liệu về lý luận phê bình :
- Chủ yếu là các bài báo viết về các tác giả và tác phẩm thơ thiếu nhi được đăng trên
các báo Văn nghệ và Tạp chí văn học từ năm 1963, nhiều nhất là từ sau 1975 trở lại đây.

7


- Một số các tư liệu nghiên cứu lý luận bàn về nghệ thuật sáng tác văn học thiếu nhi,
thơ thiếu nhi, tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài giới thiệu phương pháp, quan niệm sáng tác
thơ thiếu nhi của Coocnây Trucôpxky, của nữ thi sĩ Nga Anhia Bactô, của “nhà văn bách
khoa” Xamuyen Macsac, của nhà văn Pháp - Tổng biên tập Tạp chí Châu Âu : Pierre
Gamara ...

3. Lịch sử nghiên cúu :
3.1. Trong nước :
Đến nay chưa có một chun luận hay cơng trình nghiên cứu phê bình nào nghiên cứu
về thơ thiếu nhi Việt Nam, hoặc về một chặng đường phát triển của thơ thiếu nhi, trong khi
các tác phẩm, tuyển tập thơ ra đời hàng loạt và có nhiều cơng trình được tuyển chọn phát
hành rất cơng phu, đồ sộ.
Nhìn chung tài liệu nghiên cứu phế bình lý luận về văn học thiếu nhi cũng rất hạn chế.
Đáng kể nhất là :
- Bàn về văn học thiếu nhi-Nhiều tác giả. Nhà xuất bản Kim Đồng, 1983.
- Đơi điều tâm đắc của Vũ Ngọc Bình. Nhà xuất bản Kim Đồng 1985.
- Hoa trái đầu mùa của Văn Hồng. Nhà xuất bản Kim Đồng 1986.
- Chuyên san văn học thiếu nhi - Tạp chí Văn học số 5/1993.
- Văn học thiếu nhi, sách đào tạo GV tiểu học - trường ĐHSP Hà Nội 1994.
- Các bài viết của Vân Thanh ( Viện văn học ) bàn về thơ của các em trong chống Mỹ

(Tạp chí Văn học số 2/1978) ; về thơ viết cho thiếu nhi những năm 1960 (Tạp chí Nghiên
cứu văn học số 6/1963). Bài viết Những vần thơ về lứa tuổi còn thơ của Triêu Dương đăng
trên Tạp chí Văn học số 6, 1968.
Ngồi các bài viết của Vân Thanh, và của nhà phê bình văn học Triêu Dương trực tiếp
phân tích giá trị nội dung, nhận định đơi nét về tình hình phát triển của thơ thiếu nhi giai
đoạn chống Mỹ, các tư liệu còn lại chủ yếu là sự tập hợp các bài viết mang tính chất tham

8


luận, phát biểu cảm nghĩ, nêu “đôi điều tâm đắc” về các tác giả và tuyển tập thơ hay (Như
về thơ của Phạm Hổ, Võ Quảng, Huy Cận, Trần Đăng Khoa, Khánh Chi, Xuân Quỳnh ...
Nhận định về tập thơ Chú ngựa bay, Đọc thơ ca mẫu giáo... ). Một vài đầu sách mang tính
chất chun sâu phê bình, nghiên cứu lý luận thì chỉ nghiên cứu chung về văn học thiếu nhi
Việt Nam, trong đó có nhận định qua về sự phát triển của đội ngũ những người làm thơ cho
thiếu nhi cùng các thành tựu thơ những năm 1960, 1970, đặc biệt thơ viết của các em nhỏ ...
( Giáo trình Văn học thiếu nhi của Đại học Sư phạm Hà Nội).
Các quyển Bàn về văn học thiếu nhi, Đôi điều tâm đắc, Hoa trái đầu mùa ( Sách đã
nêu trên ) - bên cạnh việc nghiên cứu, nhận định chung về văn học thiếu nhi Việt Nam, đã đi
vào bàn đôi điều về phương pháp sáng tác cho các em, về việc làm thơ cho thiếu nhi, nêu
một số đặc trưng của sáng tác thơ, truyện, đồng dao sưu tập ... Và đa số đều là tập hợp các
bài viết từ các cuộc hội thảo về văn học thiếu nhi Việt Nam, các bài phát biểu nhận định về
chất lượng sáng tác thơ thiếu nhi qua các cuộc thi nhằm vận động và phát triển phong trào
sáng tác ... ; do nhà xuất bản Kim Đồng, hoặc báo Văn nghệ, tạp chí Nghiên cứu văn học tổ
chức nhân ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6 hay các dịp kỷ niệm ngày thành lập nhà xuất bản Kim
Đồng ...
Như vậy so với sự phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam từ các năm 1960 đến nay,
nhìn chung ngành nghiên cứu phê bình lý luận về văn thơ thiếu nhi vẫn còn quá non trẻ, số
lượng tác phẩm nghiên cứu về văn học thiếu nhi không nhiều, nghiên cứu về thơ thiếu nhi
càng ít, hầu như chưa có một cơng trình nào bao qt về tồn bộ sự ra đời, sự hình thành và

phát triển của thơ thiếu nhi Việt Nam ... Đội ngũ các nhà phê bình nghiên cứu về văn học
thiếu nhi có thể đếm trên đầu ngón tay : Vân Thanh, nhà thơ Vũ Ngọc Bình, Văn Hồng, Lã
thị Bắc Lý, Thêu Dương, nhà thơ Định Hải, Phạm Hổ... Trong số đó, chỉ có duy nhất Vân
Thanh ở Viện Văn học là nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, đã dành trọn cuộc đời gắn bó với
nghiệp phê bình, nghiên cứu văn học thiếu nhi.
Ở miền Nam trước ngày giải phóng có rất nhiều sách, báo, tạp chí dành cho thiếu niên
nhi đồng (Tủ sách Hoa tím, Hoa xanh, Hoa đỏ, báo Tuổi ngọc, Thằng Bờm ... do Nguyễn
Vỹ chủ bút). Nhưng sách phê bình lý luận nghiên cứu về văn thơ thiếu nhi thì hầu như
khơng có cơng trình nào, diễn đàn văn học ở miền Nam gần như chưa hề quan tâm, chú ý
đến Văn học thiếu nhi.
9


3.2.Về tình hình nghiên cứu văn học thiếu nhi ở nước ngoài (Chủ yếu qua một số tư
liệu đã được dịch sang tiếng Việt)
3.2.1 “Làm thơ cho các em”
Sách lý luận của nhiều tác giả người Nga : A-Bơrusơtanh, Coocnây Trucôpxki,
V.Đơmitriêva, Anhia Bactô và Vêra Xmianôva - được Nguyễn Xuân Trâm dịch từ nguyên
bản tiếng Nga, NXB Văn học 1961.
Tư liệu mang tính chất “dẫn đường”, soi sáng về mặt lý luận nghiên cứu các phương
pháp sáng tác văn học thiếu nhi, đặc biệt về thơ thiếu nhi, cho ngành nghiên cứu phê bình ở
nước Nga và các nước khác trên thế giới.
- Sách giới thiệu một số đặc trưng của phương pháp sáng tác thơ cho các em, như :
“Học tập nhân dân, học tập trẻ em , Những bí quyết làm thơ hay cho các em” của Cooc-nây
Tru-cơp-xki (1882-1969) - Trong đó ơng đặc biệt nhấn mạnh đến sức mạnh của truyền
thống văn học dân gian, làm thơ cho các em qua việc học tập các yếu tố ngơn ngữ, hình ảnh
mang tính hành động; nghệ thuật giáo dục, gây ảnh hưởng đặc biệt đối với tuổi nhỏ của thơ
ca dân gian, bên cạnh việc quan tâm tìm hiểu những nhu cầu và sở thích của bạn đọc nhỏ
tuổi (“Học tập trẻ em”), chú ý đến tâm lý và cách suy nghĩ của trẻ em.
- “Nói về thơ viết cho các em” của nữ thi sĩ Anhia Bactô. Tư liệu đã trình bày đơi nét

về con đường đến với thơ viết cho các em của Anhia Bactô theo lối thơ trào phúng, thơ vui
mang tính hài hước ... đồng thời bàn về đề tài xã hội, vai trò của yếu tố tưởng tượng, tính đại
chúng, tính dân gian trong thơ viết cho các em của các nhà thơ Xơ Viết. Anhia Bactơ khẳng
định : “Sự u đời, tính hài hước là những thứ phải gắn liền với thơ viết cho trẻ em.”
- Vêra Xmianơva - nhà phê bình Xô Viết giới thiệu về nhà thơ Xamuyen Macsac –
“Một nhà văn bách khoa”, là bậc thầy trong việc xây dựng một nền văn học mới cho thiếu
nhi vào thời kỳ những năm 1920-1930 -giai đoạn, phục hồi lại những truyền thống dân chủ
và hiện thực của nền văn học Nga. Macsac đã đặt cơ sở cho lý luận nghiên cứu về văn học
thiếu nhi, thơ thiếu nhi, mở ra con đường mới cho thơ ca thiếu nhi ở nước Nga và trên toàn
thế giới thật sự phát triển. Macsac xem thơ ca, văn nghệ dân gian là nguồn nuôi dưỡng
phong phú và vô tận cho thơ viết cho thiếu nhi.
10


3.2.2.“Ngơn ngữ và thơ mốt đề tài mênh mong”-Trích từ “Cuốn sách và trẻ em”
Sách nghiên cứu lý luận của nhà văn Pháp, tổng biên tập tạp chí Châu Âu : Pierre
Gamara, được Nguyễn Thị Ả dịch [8a,b].
Pierre Gamara đặt vấn đề cần mang đến cho trẻ em những tác phẩm có giá trị, những
tinh hoa chủ yếu và lâu đời trong vốn văn học quý giá của nhân loại tất cả các nước. Vấn đề
nảy sinh là cần có một sự cộng tác tập thể để làm các công việc như : tổ chức các cuộc sáng
tác, hoạch định việc dịch thuật, phóng tác, xúc tiến xuất bản các tuyển tập ... v... v
Theo Pierre Gamara, những vấn đề lớn đặt ra hiện nay cho văn học thiếu nhi thế giới
đó là :
- Mở ra con đường cho các em đi vào kho di sản văn học chung của thế giới. Giúp các
bạn đọc còn đang bập bẹ đi vào, làm quen với vườn thơ văn bao la của nhân loại.
- Cần giúp cho các em thu nhận và trau dồi ngôn ngữ, phát triển ngôn ngữ đi đôi với
sự phát triển óc phán đốn qua hình tượng ngơn ngữ thơ ca.
Như vậy, theo Pierre Gamara cần có sự hợp tác giữa nhà văn, nhà thơ với nhà sư phạm
và các bậc phụ huynh để đưa tác phẩm văn học đến bạn đọc thiếu nhi, giúp phong phú vốn
ngôn ngữ, tăng thêm khả năng truyền cảm, sức tiếp thu và làm phát triển óc phán đốn cho

các em, hướng dẫn thị hiếu lành mạnh đúng đắn cho các em trong việc thưởng thức văn học,
đánh bạt các loại sách thương mại đang làm vẫn đục tâm hồn trẻ thơ.
Qua đây, có thể nhận thấy sự ra đời của ngành nghiên cứu phê bình văn học thiếu nhi
thế giới vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nó thật sự được quan tâm, phát triển, có nhiều
thành tựu, nhiều cơng trình nghiên cứu vào các năm 1960 và phát triển mạnh mẽ đến giờ.
Cho đến cuối thế kỷ XX này, trên khắp các nước Âu, Á, Phi, Mỹ La tinh ... Việc quan
tâm đến món ăn tinh thần cho bạn đọc nhỏ tuổi đã thật sự trở thành vấn đề lớn, cấp thiết, đặt
ra cho toàn thể xã hội, nhân loại.
Hội nghị khoa học Quốc tế về văn học cho thiếu nhi tổ chức vào tháng 5/1991 tại
trường Đại học tổng hợp Liubin, mang tên Mary Skodovskaia Quyry, tại Ba Lan, đã nghe
tất cả 37 báo cáo bàn về các vấn đề “xung quanh các kiệt tác văn học cho thanh thiếu nhi”,
11


vấn đề “diễn giải, dịch giải, phóng tác các kiệt tác văn học thiếu nhi...” Trung tâm của
nhiều báo cáo và tham luận là đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa văn học “người lớn” và văn
học thiếu nhi. Vấn đề này được đặt ra về mặt lý luận trong báo cáo của tiến sĩ Ngữ văn
A.V.Lipatov (Moskva). Diễn giả cho rằng đó khơng chỉ là hai dạng sáng tạo mà cịn là
những “bình thơng nhau” (các tác phẩm của Đaniel Đefo, Jonatan SWeft, Jems Fenimor
Kuper, Mark Twen, Jak London). Những thành tựu mới nhất trong văn học thiếu nhi, cũng
như folklor thiếu nhi hiện đại phản ánh xu hướng thâm nhập nhau và đồng nhất nhau của
văn học “người lớn” và thiếu nhi. Thiếu văn học thiếu nhi thì lịch sử văn học “người lớn”
cũng như ý nghĩa của nó sẽ khơng đầy đủ.
Từ năm 1979, năm Quốc tế thiếu nhi, tổ chức UNICEF của Liên hợp quốc đã ủng hộ
sáng kiến tặng “Huy chương nụ cười” của thiếu nhi Ba Lan cho người lớn nào đã có nhiều
đóng góp lớn lao trong sự nghiệp chăm sóc, giáo dục thiếu nhi. Ban tổ chức của giải thưởng
này bao gồm đại diện của Mỹ La tinh, Bắc Mỹ, Châu Á, Viễn đông và Châu Âu. Hằng năm
các em thiếu nhi toàn thế giới được Ủy Ban UNICEF mỗi nước thơng báo cho biết về giải
thưởng này, và có thể đề cử về danh sách những người được xét thưởng. Đó là những người
bạn lớn nhân từ, độ lượng, ln quan tâm chăm sóc, giáo dục các cháu thiếu nhi, ở hơn 170

nước thành viên của Liên hiệp quốc. Đây cũng là một trong rất nhiều biểu hiện về sự cộng
tác giữa các nước, tạo điều kiện hợp tác quốc tế, thúc đẩy văn học thiếu nhi, và sự nghiệp
giáo dục trẻ thơ ngày càng phát triển, trong sự quan tâm chăm sóc đặc biệt của tồn xã hội,
trên tồn thế giới.
Cho đến nay, đội ngũ viết cho trẻ em ở nước ta đã đông đảo, lên rất nhiều so với thời
kì trước 1975. Có hàng trăm người, cho đủ thể loại và lứa tuổi. Thành tựu của văn học thiếu
nhi ngày càng nhiều, càng được khẳng định, trên đó đã xuất hiện khơng ít những cái “đỉnh”
khá tiêu biểu. Thế nhưng, theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Bình : “Thực ra cái “chiều rộng”
ấy chưa thật vững chắc và đáng phấn khởi bởi vì nó chưa được củng cố bằng “chiều sâu
tâm lý”. Bên cạnh những khó khăn về nghề nghiệp - hoặc thù lao chưa tương xứng với công
phu bỏ ra, nhất là khi viết cho lứa tuổi bé - cái gây cản trở chính hiện nay cho người cầm
bút là chưa có một cơng luận biết bình giá, động viên họ một cách kịp thời và công bằng...”
[2a. 77]. Chúng ta hiểu vấn đề ở đây là nếu sách viết cho trẻ em mà chỉ có trẻ em đọc, tán
thưởng là chưa đủ. Bạn đọc người lớn với ý kiến của họ về sách thường là từng trãi và có

12


trình độ lý luận hơn. Thế mà, rõ ràng đội ngũ phê bình lý luận văn học thiếu nhi đến nay vẫn
còn quá thưa thớt, còm cõi bên cạnh lực lượng sáng tác sung sức, hùng hậu trên cả nước. Vũ
Ngọc Bình cho rằng : “Đã đến lúc phải “báo động” để sớm xây dựng cái “binh chủng” mới
này, cùng những chế độ, chính sách thích đáng, nhằm đào tạo, bồi dưỡng, khuyến khích họ.
Bởi lẽ chính họ sẽ góp phần khơi lên cái “công luận” kia, sẽ tạo nên cái “vịng sóng” tín
hiệu mà mỗi sáng tác cho trẻ em khi ra đời sẽ phát ra và thu nhận... và phần thu nhận quan
trọng ấy sẽ sưởi ấm biết bao cho tấm lòng những người cầm bút” [2a. 78].
Như vậy, vấn đề quan tâm phát triển ngành nghiên cứu phê bình văn học thiếu nhi, vấn
đề chun nghiệp hóa đội ngũ những người cầm bút phê bình văn, thơ thiếu nhi trong sự
nghiệp phê bình lý luận chung của văn học nước nhà hiện nay sẽ là nhân tố quan trọng tạo
tiền đề cho sự cộng tác, quan hệ giữa văn học “người lớn” với văn học thiếu nhi, đồng thời
thúc đẩy sự hội nhập, quá trình tiếp cận giữa văn học thiếu nhi trong nước với văn học thiếu

nhi trên thế giới - đã và đang phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XX này.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ yêu cầu của bản thân đối tượng nghiên cứu và theo mục đích của luận án,
chúng tôi đã thực hiện luận án theo các phương pháp sau :
4.1. Phương pháp nghiên cứu lịch sử - phát sinh :
Nhằm để xác định sự hình thành và phát triển của thơ thiếu nhi Việt Nam trong tiến
trình phát triển chung của văn học thiếu nhi, trở thành một phận quan trọng trong toàn bộ
nền văn học dưới chế độ mới. Thấy được sự ra đời của văn học thiếu nhi, thơ thiếu nhi Việt
Nam gắn liền với sự quan tâm của Đảng và Chính phủ - đã tạo điều kiện cho sự trưởng
thành về số lượng và cả chất lượng tác phẩm, đội ngũ những người cầm bút, nhất là các tài
năng thiếu nhi...
4.2. Phương pháp hệ thống – cấu trúc :
Chủ yếu nhằm nghiên cứu, phân tích hệ thống về hình tượng thiên nhiên - đất nước
qua các bài thơ tiêu biểu do các nhà thơ chuyên nghiệp và cả thiếu nhi sáng tác để khái quát
về các giá trị nhân văn, giá trị thẩm mỹ, giáo dục của thơ thiếu nhi Việt Nam ; nghiên cứu

13


và phân tích các quan điểm về phương pháp sáng tác thơ thiếu nhi qua các tài liệu lý luận
trong nước và dịch tiếng nước ngoài tiêu biểu...
4.3. Phương pháp so sánh :
Dùng để đối chiếu các tác giả và các tác phẩm thơ tiêu biểu viết cho thiếu nhi giai
đoạn trước 1975, so với các giai đoạn trước và sau đó để thấy sự phát triển mạnh mẽ của nó,
từ đó tìm ra những nét đặc trưng của giai đoạn, đối chiếu với sự phát triển chung của văn
học nước nhà thời kỳ này. Đặc biệt có sự kế thừa, học tập từ thơ dân gian ; có so sánh với
văn học thiếu nhi, thơ thiếu nhi các nước để thấy được những đóng góp thơ thiếu nhi Việt
Nam - có giá trị mở đường cho sự phát triển thơ ca thiếu nhi, thi ca hiện đại mà cả người lớn
và thiếu nhi đều yêu thích.

4.4. Phương pháp phân tích tổng hợp :
Phân tích một số bài thơ, đoạn thơ hay, tiêu biểu, tổng hợp lại để đi đến nhận định
chung.
Các phương pháp trên đây được vận dụng phối hợp với nhau trong q trình khảo sát,
phân tích, đánh giá các vấn đề trong nội dung của luận án.

5. Những đóng góp mới của luận án :
Nghiên cứu một cách có hệ thống về q trình hình thành và phát triển của thơ thiếu
nhi Việt Nam, đặc biệt ở giai đoạn 1960-1975.
Phân tích những biểu hiện phong phú, đa dạng về đề tài và nội dung trong thơ thiếu
nhi qua hình tượng thiên nhiên - đất nước trong một số tác phẩm tiêu biểu, nhằm khẳng định
thành tựu của một chặng đường thơ thiếu nhi Việt Nam.

6. Cấu trúc của luận án :
Ngoài phần dẫn luận. và kết luận, phần nội dung gồm 3 chương sau:
Chương 1 : Thơ với tuổi thơ - cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Khái quát về sự hình thành và phát triển của thơ thiếu nhi trước 1975.
14


Chương 3 : Thiên nhiên, đất nước trong thơ viết cho thiếu nhi những năm 1960, 1970.

15


CHƯƠNG 1: THƠ VỚI TUỔI THƠ. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN.
1.1. Thơ ca – món ăn tinh thần cần thiết cho trẻ em :
Xã hội càng phát triển, càng dành nhiều quan tâm đặc biệt để chăm sóc và giáo dục trẻ
em. Rất ưu ái, người ta chăm sóc các em từ trong bụng mẹ, ngay lúc chào đời... “Mọi cái tốt

nhất đều phải dành cho trẻ em!”. Đấy là nguyên tắc đầu tiên của Ủy ban Bảo vệ trẻ em. Nó
được tun bố ngay khi bản tun ngơn về quyền lợi trẻ em ra đời. Để thực hiện tun ngơn
đó, trên quả đất này, người lớn chúng ta còn biết bao nhiêu việc phải làm để con em chúng
ta có thể sống hạnh phúc. Điều kiện quan trọng cho tương lai rạng rỡ của các em : hòa bình
trên quả đất. Chưa đủ, đất nước cịn phải mạnh giàu, xã hội luôn quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục và cả nhu cầu tinh thần cho lớp người trẻ tuổi - Mà khơng ai khác, chính lớp người
này sẽ đưa đất nước bước vào thế kỷ mới.
Hãy lắng nghe lời trẻ thơ :
Mong sao mặt trời luôn luôn chiếu sáng.
Mong sao bầu trời mãi mãi trong xanh.
Mong sao mẹ hiền mãi mãi cạnh em...
Một em bé đã hỏi và được mẹ giải thích về ý nghĩa của từ “mãi mãi”, thế là bé vừa
nhảy nhót, vừa bật ra những lời nói trên, cứ như là làm thơ vậy.
Và nếu sự tồn tại và phát triển của dân tộc, cũng như của nhân loại trong các tương lai
gần và xa là đặt vào các thế hệ thiếu nhi thì vấn đề món ăn tinh thần, câu chuyện về văn học
cho thiếu nhi đến muôn đời không thể xem là câu chuyện nhỏ, ngồi lề. Bởi vì có bao nhiêu
vấn đề đặt ra cho đời sống mỗi thời kỳ của lịch sử, đất nước thì cũng có bấy nhiêu vấn đề
đặt ra cho văn học nói chung, và cho văn học thiếu nhi nói riêng, với tất cả mọi người lớn Các bậc làm cha mẹ, thầy cô giáo và tất cả những ai ln quan tâm, có trách nhiệm đến việc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu nhi...

16


Ở tuổi nhi đồng các em rất thích thơ, ca, nhất là vè và đồng dao. Có em mới biết nói đã
thuộc nhiều bài do người lớn dạy và đọc lên một cách thích thú, cho dù ngọng nghịu. Có em
ưa nói vần vè để đùa giỡn (Kiểu như : “Trời mưa lâm râm, cây trâm có trái, con gái có
chồng, đàn ơng có vợ, đàn bà có con”). Hoặc như các em đọc truyền qua nhau nhưng lại
thuộc rất nhanh những câu khơng biết do ai đặt ra, có khi do các em tự đặt rồi cứ thêm thắt
vào những vần vè linh tinh, vui nhộn, chẳng có nghĩa lý gì, vậy mà em nào cũng đọc lên
một cách khối chí, thú vị. Như khi các em xem đám cưới :

Cơ dâu chú rẽ,
Làm bể bình bơng
Đổ thừa con nít
Bị địn tét đít
Hay là :
Bà La Sát có bát ăn cơm
Chú Ba Phương có giường đi ngủ
Trư Bát Giới có gậy tầm vơng
Tơn Ngộ Khơng có lơng đít đỏ
Qua đây rõ ràng các em rất thích thưởng thức và sáng tạo thơ ca, nhất là với loại thơ có
chứa chất vui, chất hài hước, chất hóm hỉnh bên trong. Do vậy bên cạnh phần lớn thơ phản
ánh đời sống, sinh hoạt người lớn còn cung cấp thêm cho các em nhiều bài thơ vui, có nghĩa
lý ...
Quả thật là tuổi nhỏ rất cần những bài hát đồng dao, vè, thơ hồn nhiên, ngộ nghĩnh.
Người lớn luôn quan tâm mang đến cho các em các sáng tác bổ ích, có nội dung lành mạnh,
có tác dụng bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ, phát triển ngơn ngữ, tư duy chính là vì thế.
Quan sát các cháu bé đi học về, nhất là các cháu ở độ tuổi mẫu giáo, nhà trẻ, các cháu
có thể đọc hào hứng nhiều bài thơ, hát nhiều bài hát mà chỉ nghe qua vài lần hay chỉ học đôi
lần là các cháu đã thuộc. Thơ ca và lời hát tự bao giờ cứ thấm vào các cháu, đem lại những
17


nhận thức và cảm xúc thẩm mỹ, lành mạnh, cần thiết, đem lại sự thú vị, niềm vui lớn cho trẻ
em và cả các bậc phụ huynh. Thưởng thức và sáng tạo thơ ca chính là nhu cầu của tuổi nhỏ.
Nhà nghiên cứu lý luận phê bình Vũ Đức Phúc trong bài “Mở rộng đề tài về thơ ca” :
“Thiếu nhỉ nước nào cũng thích thơ ca, nhưng đặc biệt do tiếng ta với âm thanh phong phú
của nó, thơ ca rất dễ đi vào các em. Các em luôn ln làm thơ hoặc sáng tạo ra những câu
nói vần, vè, về mọi việc mà các em quan sát được”.[23. 16,17]. Khối lượng phong phú các
sáng tác đồng dao Việt Nam chính là biểu hiện sinh động về mối quan hệ giữa tuổi thơ và
thơ ca, phản ánh nhu cầu thưởng thức và sáng tạo thơ ca ở tuổi nhỏ. Đồng dao đó là thơ ca

được hình thành và phát triển tự phát: thơ ca trong trò chơi; trò chơi trẻ em rất cần có thơ ca.
Pierre Gamara đã trao đổi về mối quan hệ giữa trẻ em và thơ ca qua một câu hỏi, nêu
lên một sự tương phản : “Phải chăng là phi lý nếu ta muốn hòa hợp trẻ em với thơ ca ? Liệu
có gì mâu thuẫn giữa sự mù mờ, sự vụng dại và mảnh mai của con người khởi đầu ấy và cái
thời điểm quan trọng của tư tưởng và biểu hiện của nó là nơi nảy nở của thơ ca ? Một bên
là một hiểu biết chưa có hình thù và một giọng nói bập bẹ. Một bên là kết thúc của sự hồn
thiện và thơng tuệ, theo đúng nghĩa của nó.” [8. 28]. Vấn đề ông nêu lên tưởng nan giải mà
thật sự là dễ hiểu. Cái gì làm cầu nối cho sự tiếp cận giữa cái khởi đầu của con người là tuổi
thơ với cái khởi đầu của văn học là thơ ca ?
Đó là tâm hồn con người được thể hiện trong câu ca dao, bài hát đồng dao, trong lời ru
của bà, của mẹ, của chị... Đó chính là những dòng thơ đầu tiên truyền vào tâm hồn bé cùng
với sữa mẹ được truyền vào cơ thể bé, ngay cả khi bé chưa nói và chưa thể hiểu được tiếng
nói. Cùng với nhịp võng đưa, hịa vào giai điệu câu hát, bé đã được thưởng thức khn hình
thơ nhạc trọn vẹn - Sự cảm nhận giao hòa của thế giới tâm hồn, giữa con người với con
người, ngay cả khi bé chưa hiểu gì về ý nghĩa câu thơ. Nghĩa là trẻ đã được đọc thế giới, đọc
cuộc sống trước cả cuốn sách và việc đọc sách, trước cả khi biết chữ. Chất thơ trong hát ru,
trong đồng dao cứ thấm dần vào trẻ nhỏ như ánh sáng, như khí trời thấm dần vào thân cây,
giúp cây đâm chồi, ra nụ, giúp nuôi dưỡng tâm hồn, mở ra thế giới nhận thức (chưa phải
bằng lý trí mà trước hết bằng trực giác.)
Hãy xem, có khác gì chuyến du hành vào vũ trụ, khi bé tập đếm sao :
Một ông sao sáng
18


Hai ông sáng sao...
Bé cứ đếm mãi, đếm mãi mà không hết. Người lớn sẽ giúp bé nhận ra sao Hôm, sao
Mai, sao Bắc Đẩu ... dãy sông Ngân, con vịt và ông Thần Nông trên bầu trời đêm hè lung
linh tấp nập các sao... như đang vào lễ hội, ngày hội của bầu trời. Bé còn được đưa lên cung
trăng, nơi có cây đa thằng cuội:
Chú cuội ngồi gốc cây đa

Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên
Ơng thì cầm bút cầm nghiên
Ơng thì cầm tiền đi chuộc lá đa.
Trong các bài hát đồng dao ta đâu chỉ gặp cái “thực như đếm” mà thường xuyên hơn là
các yếu tố “kỳ ảo”. Cây lúa, hạt thóc, con trâu, con nghé, đã được nghệ thuật dân gian thiên
biến vạn hoa tạo hình, tạo dáng cho chúng trở thành kỳ diệu, vượt khỏi cái vóc dáng tầm
thường, mang tính chất thơ, đầy sức hấp dẫn đối với trẻ em và cả người lớn :
Nghé bổng nghé bông
Mẹ cõng xuống sông
Xem rồng lấy nước
Mẹ gọi tiếng trước
Cất cỏ lên trông
Mẹ gọi tiếng sau
Cất chân lên lồng
Lồng bảy lồng ba
19


Lồng về với mẹ
Là ơ con nghé ơ ...
(Gọi nghé)
Theo Vũ Ngọc Bình : “Trẻ em vốn có cái khả năng kỳ diệu là ln diệu kỳ hóa thế
giới chung quanh : Cái diệu kỳ - trẻ sẵn sàng bắt gặp cái diệu kỳ sống động, biến hóa chứ
khơng phải là cái diệu kỳ tĩnh, khép kín, đóng khung. Chẳng hạn như với trẻ, bên ngồi ngơi
nhà và lớp học thì khu vườn nhiều hoa và ong bướm kia là kỳ dỉệu,và bên ngồi khu vườn
lại có những con đường diệu kỳ khác mà trẻ tha hồ dấn bước, khám phá.” [2. 65]
Khi bàn về sáng tạo văn học, trong đó có thơ cho trẻ em, Pierre Gamara [8. 12] cũng
nêu lên một phẩm chất mà ông cho là tối ưu : đó là “Cái diệu kỳ” (Le merveilleux) - mà

theo ơng nó có rất dồi dào trong đồng dao, truyện cổ, truyện khoa học viễn tưởng ... và làm
nên sức hấp dẫn với trẻ em. Mới tiếp xúc trẻ có thể sửng sờ, kinh ngạc nhưng đồng thời lại
khoan khối, thú vị khám phá. Đó là sản phẩm của tưởng tượng được đẩy tới cao độ, khác
nhiều với những cái thân thuộc thường ngày và chính nhờ vào những ước lệ, ẩn dụ, khoa
trương, nhờ vào trường liên tưởng rộng của thơ ca, nó lại giúp trẻ có thêm sự tưởng tượng,
liên hệ, so sánh với những gì thân thuộc, quen biết... hứng thú của trẻ càng nâng cao.
“Nói như Pierre Gamara, cái diệu kỳ là cái nói dối nghệ thuật - (Mensonge
artistique). Cái dối này rút ra từ sự thật, nếu cái dối bâng quơ tách rời sự thật thì đã là cái
giả” [8. 65], đã khơng đủ sức đi vào tâm hồn, tình cảm các em, khơng dễ được các em tiếp
nhận. Tóm lại là : Cái gì của con người, thuộc về thế giới tâm hồn con người, kể cả sự diệu
kỳ của ước mơ, của trí tưởng tượng phong phú, sinh động đều khơng xa lạ với trẻ em. “Bởi
vì dẫu cịn thơ bé, trẻ đã là con người và cổ một trái tim” [23. 63].
Trên đây là nói về sự gặp gỡ ban đầu của trẻ với thơ ca, cịn việc trẻ tìm đến và làm
bạn với thơ ca thì ra sao ? Gamara nói rằng : “Khơng phải phận sự chúng ta là tạo nên
những Puskỉn ở trường mẫu giáo hay những Ranhbô trạc sáu tuổi, nhưng khó hơn trong
thực tế - là giúp cho phong trào thơ ca nảy nở và phong phú, làm sao cho chú bé 4 tuổi có
thể trở nên một Puskin, hoặc nói chung thành một bạn đọc chăm chú, tích cực của những

20


nhà thơ, chứ không phải một bạn đọc ba hoa máy móc - một người tham dự vào thơ ca ...”
[8. 18].
Phải chăng Gamara xem nhẹ việc bồi dưỡng trẻ em sớm trở thành người làm thơ hơn
việc đào tạo trẻ thành những người bạn đọc tích cực của thơ ca ? Khơng, ơng vẫn mong mỏi
có những Puskin thơ trẻ, nhưng không trông chờ thụ động mà lại nhấn vào việc bồi đắp cái
nền vững chắc cho những đỉnh mai sau. Như vậy, trước hết cần có tác phẩm thơ hay, thích
hợp lứa tuổi và được các em yêu thích. Các em sẽ trở thành những bạn đọc chăm chú, tích
cực của thơ ca, người tham dự vào thơ ca. Và trong khi cảm thụ cái hương, cái vị, cái nhạc
của cuộc sống qua thơ ca ấy, ở các em có thể đồng thời nhen lên cái hứng thú khám phá,

sáng tạo bằng sáng tác. Đó là quan hệ nhân quả, biện chứng giữa đọc thơ và làm thơ. Thơ
rất hợp với tuổi thơ - nhưng các em có thích thơ, u thơ hay khơng là cịn do người làm
thơ, do người đem thơ đến cho các em. Thơ được làm bằng những rung cảm chân thật của
nhà thơ và lẽ đương nhiên là thơ sẽ đến một cách dễ dàng với đối tượng trẻ em vốn sẵn có
nhiều tình cảm, khả năng tiếp thu nhanh nhạy, mạnh mẽ. Tuổi thơ và thơ vì vậy rất dễ gặp
nhau.
Thơ cịn góp phần đắc lực vào việc rèn luyện tính cách con người, nhất là với tuổi
thiếu nhi. Nhà bác học Le von Badalian, chủ tịch hội quốc tế nghiên cứu về đặc tính trí não
của trẻ em, trong bài báo đăng ở tạp chí xput - ních (Bài này đã được dịch và đăng trên tuần
báo Văn nghệ số 17, 1982.) và bài đấng ở báo Tin tức Matxcơva, đã trình bày cho thấy vai
trị quan trọng của thơ ca trong việc rèn luyện tính cách cho các em. Ơng khuyên hãy cho trẻ
đọc, tiếp xúc với nhiều thơ, truyện hay, các em sẽ tránh được những tình cảm yếu đuối,
dửng dưng, khơng biết xúc động, tránh được tính ích kỷ, nhỏ nhen ti tiện ... Nó góp phần
vững chắc để làm nảy sinh yếu tơ" nhân đạo, lịng nhân ái, đặt nền móng cho nếp sống cao
quý, có lý tưởng, hiểu nghĩa vụ làm người, sơng có trách nhiệm với người xung quanh...
Thơ ca dân gian và thơ người lổn viết cho các em thường là thơ giàu lòng nhân ái, đôn
hậu, đem cái đẹp, cái thiện đến cho trẻ thơ,với tất cả tấm lòng ưu ái của lớp cha anh, mong
muốn con em mình lớn lên thành những cơng dân tốt, thành con người hữu ích, thành các
thiên tài, vĩ nhân ... Giúp các em yêu thơ, thích đọc thơ, có nghĩa là làm phong phú đời sống
tâm hồn của các em, các em rung động sâu sắc với những chân lý thiêng liêng : yêu tổ quốc,

21


yêu nhân dân, yêu cha mẹ, ông bà, yêu con người. Nghĩa là ta gieo trồng, chăm bón thế nào
thì sẽ có mùa màng như thế. Có nhân nào thì có quả ấy.
Qua sự khám phá của nhà bác học, rõ ràng thơ ca có vai trị rất lớn, khơng thể coi
thường những câu thơ, bài thơ làm cho các em thiếu nhi. Thơ cho các em phải hợp với từng
lứa tuổi các em hôm nay và phải ở lại được lâu trong tâm hồn các em, trở thành hành trang
tinh thần khi các em bước vào đời, qua cách đối nhân, xử thế.


1.2. Đôi điều cần lưu ý trong việc nghiên cứu thơ viết cho thiếu nhi:
1.2.1. Về chức năng giáo dục:
Văn học thiếu nhi Việt Nam ngay từ khi hình thành, trong những năm kháng chiến đã
thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của Đảng và Bác Hồ dành cho tuổi nhỏ. Cho đến lúc ra đi,
trong di chúc, Bác Hồ cịn căn dặn tồn dân, tồn Đảng hãy chăm lo “bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau.” Cũng như Bác Hồ, Bác Tôn cũng luôn quan tâm đến việc chăm sóc,
giáo dục thiếu nhi. Trong buổi phỏng vấn của báo Văn nghệ số 57, ngày 29/5/1964, Bác
Tôn đã đánh giá cao tác dụng của văn nghệ đối với việc giáo dục các em. Bác căn dặn các
nhà sáng tác là : “Khơng nên để tình trạng vì thiếu tác phẩm mà các cháu phải đọc sách,
phải hát, xem phim ... khơng hợp với tình cảm và hiểu biết của lứa tuổi các cháu.” Bác nhấn
mạnh : “Giáo dục thiếu nhi là một khoa học đồng thời là một nghệ thuật. Sáng tác và biểu
diễn cho các cháu tuyệt đối không được tùy tiện mà phải thận trọng về nội dung giáo dục,
kết quả có thế mới tốt, mới đáp ứng được sự đòi hỏi của chúng ta về công tác giáo dục thiếu
nhi”
Qua một cuộc hội thảo về sáng tác thơ cho thiếu nhi do nhà xuất bản Kim Đồng tổ
chức vào năm 1982, các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận đã tham gia bàn luận
nhiều về chức năng giáo dục trong các sáng tác viết cho thiếu nhi. Đối với những đối tượng
người đọc nhỏ tuổi thì yêu cầu giáo dục “chân, thiện, mỹ” càng được đặt ra trong tác phẩm,
có điều là trước một đối tượng trẻ em ngày càng đông đảo, với tầm dân trí ngày càng được
nâng cao hơn qua các phương tiện thông tin đại chúng, một đặc điểm dễ thấy là các em ngày
nay đã thông minh và tinh nhạy hơn - có khi vượt cả lứa tuổi - thì thơ, tác phẩm văn học nói
chung viết cho các em cũng cần có “khn mặt” như thế nào cho phù hợp hơn. Chúng ta
22


luôn mong ước đào luyện trẻ thành những con người mới giàu tiềm năng, tiềm lực cho
tương lai. Thế nhưng trước công cuộc đổi mới, trong cơ chế của nền kinh tế thị trường, nên
viết về hiện thực cuộc sống như thế nào đây? Những tình cảm lớn đẹp, trong sáng, xoay
quanh một hiện thực cuộc sống đa dạng, phức tạp đến xô bồ ngỡ như một nghịch lý làm e dè

các ngòi bút thiện tâm, vốn đã từng quan tâm thương yêu, từng viết cho các em bằng tâm
huyết và ý thức trách nhiệm...
Nói như nhà văn Pháp Pierre Gamara : Nếu quan niệm văn học thiếu nhi như một thiên
đường xanh (từ chữ Paradis vert của ông), một ốc đảo tách biệt với xã hội bao quanh với
những phải trái, tốt xấu đan xen đến khó nhận diện thì lại là cách nghĩ ngây thơ ảo tưởng.
Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ này, văn học thiếu nhi cần ln gắn bó với
sự thật cuộc sống, với cuộc sống thật nơi trần thế. Có thể vừa viết về cuộc sống trực tiếp của
trẻ với những đam mê thường nhật : vui chơi, học hành, lao động, sinh hoạt... với bao hăm
hở, hồn nhiên ... lại vừa viết về cuộc sống gia đình và xã hội với lắm trăn trở, khúc mắc, đổ
vỡ, bất hạnh trong cảnh đua tranh làm giàu ; về tình yêu và giới tính, về cái sống và cái chết,
cái cao thượng và thấp hèn ... Lẽ nào văn học lại làm ngơ trước bao câu hỏi, bao vấn đề mà
lứa tuổi khát khao hiểu biết ln đặt ra, ln tìm tịi, khám phá sự thật và biết sự thật để ...
làm người. Nhà tâm lý học Gerard Severin : “Trẻ có quyền biết sự thật. Sự thật giúp cho trẻ
lớn lên”. Ở đây, sự chỉ dẫn của người lớn với tư cách anh, chị, bố mẹ, thầy cô giáo, những
người đã từng trải hơn sẽ hướng dẫn cho các em “tự điều chỉnh”, tạo sự cân bằng tâm thái
và phân biệt hành vi để trẻ biết mình, biết người và biết đời... Bởi vì trẻ con rồi sẽ có lúc
phải tự qua đường, khơng phải lúc nào cũng có người lớn cầm tay dẫn dắt. Nhà thơ Võ
Quảng cũng nhấn mạnh đến vai trị góp phần rèn luyện tính cách con người của thơ : “Nó
khác hẳn sự nhồi nhét, quá tải về kiến thức sẽ làm cho cảm xúc ở trẻ con bị lấn át, không
thể phát triển”. [23. 6]. Giáo dục trong thơ là dạy cảm xúc, tình cảm, những rung động tình
người đầy nhân bản, là nền tảng của hành vi, của tinh thần trách nhiệm, của mọi cách xử thế
của con người. Nhà thơ Xuân Quỳnh đưa ra quan niệm giáo dục trong thơ thiếu nhi. Theo
chị, đó khơng phải là sự áp đặt mà điều đầu tiên là “sự cảm thông với các em”...không bắt
các em phải sống và nghĩ theo cách của người lớn. “Nếu muốn giáo dục các em thì phải
nhìn bằng con mắt của các em mà nhận xét đánh giá mọi việc. Cách giải quyết bắt đầu từ
đấy” [23. 15]. Với quan niệm và bằng cách thức này, Xuân Quỳnh đã rất thành công trong
nhiều bài thơ viết cho thiếu nhi : Bầu trời trong quả trứng, Truyện cổ tích về lồi người, Cái
23



ngoan của Mí, Vì sao ?... Nhà thơ đã giải thích tự nhiên qua cái nhìn trẻ thơ : “Trời sinh ra
trước nhất - chỉ toàn là trẻ con”, Hay là :
Con vịt con bé tí
Khơng mẹ, nó khơng buồn
Rồi từ thế giới tự nhiên, thế giới loài vật, chị lại chuyển sang thế giới người. Thật nhẹ
nhàng, chị dắt dẫn trẻ thơ :
Mà mẹ mới ra đường
Vi sao con đã nhớ.
( Vi sao ? )
Hoặc : Thế giới trong cách dẫn dắt của nhà thơ Xuân Quỳnh - người kể chuyện, gồm
một trật tự xuất phát từ nhu cầu của trẻ mà có, gồm : mặt trời , cây cỏ, chim mng, sơng
ngịi, biển mây, đường xá, rồi mới đến mẹ, vì trẻ con cần tình yêu và lời ru. Rồi đến bà, vì
trẻ cần nghe chuyện ... Và do nhu cầu hiểu biết mà sinh ra chữ, bàn ghế, thầy giáo, phấn
bảng ... Đó là sự tồn tại của cuộc sống xã hội bắt đầu từ sự chăm sóc trẻ thơ, vì nhu cầu của
trẻ thơ.
Cách “giáo dục” trong thơ Xuân Quỳnh thật khéo, thật tinh. “Dạy” trẻ mà cứ như là
“khơng dạy”. Bằng xét đốn thơng minh và trí tưởng tượng phong phú, Xuân Quỳnh đem
lại niềm vui, sự ngạc nhiên cho trẻ con và cả người lớn :
Mí biết làm ra gió
Chỉ bằng một chiếc quạt con
Mí cịn làm ra cả đêm
Chỉ cần nhắm hai con mắt

24


Theo Vân Thanh : “Đó quả là logic ngược-đảo nhân thành quả, nhưng lại khơng có
chút nào phi lý. Cái logic ngược này đã được Xuân Quỳnh thực hiện một cách xuất sắc “.
[40i. 32]
Người lớn có biết bao điều cần gởi gắm lên trang giấy trắng tâm hồn. Bao đức tính,

bao nhận thức mà người lớn đã có đều mong cho trẻ có, có từ tuổi thơ bé - Thế là trở thành
nhồi nhét. Sự chuyển tải quá nặng nề nên rốt cuộc chỉ còn trơ ra chữ là chữ. Cách “giáo
dục” qua thơ Xuân Quỳnh là một kinh nghiệm, một bài học, một hướng đi gợi mở trong thơ
viết cho thiếu nhi.
Tóm lại: Thơ cho thiếu nhi khơng chỉ là phơ bày, là thể hiện, mà cịn là gởi gắm, là
giáo dục. Chữ giáo dục trong thơ thiếu nhi là chẳng có gì đáng e ngại, so với các sáng tác
của người lớn. Điều đáng quan tâm, đáng bàn luận ở đây là sẽ giáo dục cho các em những gì
và giáo dục như thế nào qua thơ ? Câu trả lời đã nằm ngay trong nhiều bài thơ của Võ
Quảng, Phạm Hổ, Tú Mỡ, Định Hải, Xuân Quỳnh ... viết cho các em.
1.2.2. Về đặc điểm tâm lý thiếu nhi:
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý tuổi nhỏ, việc làm thơ và bình giá thơ thiếu nhi cần có
thêm những yêu cầu riêng.
Từ năm 1957, Hồ Chủ Tịch đã căn dặn các anh chị phụ trách và người làm công tác
giáo dục thiếu nhi : “Với các em thiếu nhi phải vừa học vừa chơi”. Trước đó từ năm 1929,
Nguyễn Văn Ngọc khi soạn Nhi đồng lạc viên (Vườn vui của nhi đồng) cũng đã nói : “Ta
muốn các em vừa chơi, vừa học”. Ở phương Tây, nhà phê bình Biêxlinki : “Sách cho thiếu
nhi phải là hội hè”. Và khi Đặng Thai Mai nói ngẫu hứng :”Văn học thiếu nhỉ là văn học
mà thiếu nhi thích đọc” thì đã bao hàm hai ý bao trùm : trước hết phải là văn học, phải
“chân, thiện, mỹ” và sau đó phải phù hợp với thị hiếu, tâm lý của các em. Đơn giản vậy mà
thực hiện không dễ. Bởi vì khách quan, cái văn học đích thực, cái tài năng bao giờ cũng
hiếm, cũng khó. Có khi do cả chủ quan của người sáng tác bị ràng buộc nhiều bề nhìn trẻ
thơ, viết cho trẻ thơ bằng cái nhìn của người lớn, xem trẻ con là người lớn thu nhỏ. Tình
hình nghiên cứu thơ thiếu nhi cũng dễ bị áp đặt như vậy.

25


Các em thường thích quan sát, tìm hiểu và nhìn cuộc sống, thế giới xung quanh với đôi
mắt ngạc nhiên, tị mị, khám phá. Các em ln muốn tìm tịi, khám phá tất cả những gì mới
mẻ, bí ẩn, ngồi tầm hiểu biết của các em. Điều dễ thấy là trẻ con hay hỏi và người lớn có

khi phải lúng túng tìm câu trả lời cho các em. Ngơ Thị Bích Hiền 5 tuổi đã hỏi dồn dập :
Gió từ đâu ra ?
Mây bay sao được ?
Ai sinh ra nước ?
Ai sinh ra trời ?
Mẹ sinh ra Hiền
Ai sinh ra đất ?
Các câu hỏi của em có thể ghép lại thành một bài thơ ngồ ngộ, những câu hỏi háo hức
tìm tịi khám phá thế giới tự nhiên nhưng cũng rất tình người, rất con người.
Người lớn thường quan sát tự nhiên bằng kinh nghiệm, vốn sống, những cơ sở của lý
trí, thậm chí thiên nhiên cịn được nhìn qua lăng kính của nỗi niềm, của tâm trạng con
người. Cịn trẻ con ln nhìn thiên nhiên với cái nhìn mới lạ, hấp dẫn. Ở đây thường có sự
lầm lẫn giữa hình ảnh có thật và hình ảnh do các em tưởng tượng, liên tưởng từ thế giới của
con người. Nhờ vậy mà hình ảnh, sự vật miêu tả ln lạ, sinh động, độc đáo :
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
Hay chăng dây điện
Là con nhện con ...

26


×