Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VỠ LÁCH DO CHẤN THƯƠNG BỤNG KÍN TẠI BỆNH VIỆN 105

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.14 KB, 14 trang )

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VỠ LÁCH DO CHẤN THƯƠNG BỤNG KÍN
TẠI BỆNH VIỆN 105
BSCKII. TRẦN VĂN HÀ, BSCKII. NGUYỄN TIẾN CHẤN

TÓM TẮT: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị 70
BN vỡ lách trong chấn thương bụng kín tại Bệnh viện 105, rút ra kết luận:
- Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân chủ yếu là: mạch nhanh trên 100
lần/phút (51,4%), huyết áp tối đa dưới 90 mmHg (45,7%), đau bụng (100%),
cảm ứng phúc mạc (64,3%), phản ứng thành bụng (52,9%), xây sát da vùng
hạ sườn trái (52,9%). Siêu âm phát hiện 92,9% có tổn thương lách độ III đến
độ V, trong đó 88,6% mất liên tục bờ lách, 81,4% có đường vỡ lách.
- Chỉ định điều trị bảo tồn cho 28,6% bệnh nhân vỡ lách độ I, II hoặc III
có huyết động ổn định (trong đó 8,6% phải chuyển điều trị phẫu thuật sau
khoảng thời gian theo dõi từ 13-26 giờ); chỉ định mổ cấp cứu cho 71,4%
bệnh nhân bằng các phương pháp: khâu cầm máu (21,4%), đốt điện cầm
máu (12,8%), cắt lách bán phần (2,9%), cắt lách toàn bộ (42,9%). Thời gian
điều trị trung bình 9,0 ± 3,0 ngày; kết quả gần: 88,6% tốt, 7,1% trung bình và
4,3% xấu.
ABSTRACT: Study on the clinical, subclinical characterisctics and
treatment of 70 patients with splenic rhexis in closed abdominal trauma at
the 105 Hospital, conclused:
- The clinical signs of patients mainly were: tachycardia 100
beats/minute (51.4%), systolic blood pressure less than 90 mmHg (45.7%),
belly-ache (100%), peritoneal reflex (64.3%), abdominal wall reaction
(52.9%), skin scratch of the lower left side (52.9%). Ultrasound discovered


92.9% with splenic injury from grade III to grade V, including 88.6% lost
constantly shore spleen, 81.4% with splenic rhexis lines.
- Indicate conservation of treatment for 28.6% patients with splenic


rhexis grade I, II or III and stable hemodynamic (in which 8.6% had surgical
treatment after 13-26 hours observation); indicate emergency surgery for
71.4% patients by the methods: acupressure (21.4%), hemostatic
galvanocautery (12.8%), partial splenectomy (2.9%), whole splenectomy
(42.9%). The average treatment time was 9.0 ± 3.0 days, nearly results:
88.6% good, 7.1% average and 4.3% bad.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Vỡ lách do chấn thương là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp,
nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông, tai nạn sinh hoạt và tai nạn lao
động. Trước đây, đa số các tác giả khẳng định phương pháp duy nhất điều trị
vỡ lách bảo đảm an toàn là cắt bỏ lách dù tổn thương mức độ nhỏ [5]. Từ khi
Morris và Bullock khẳng định vai trò của lách trong chống nhiễm khuẩn,
thanh lọc máu và nhất là sau những phát hiện của King và Schumaker về hội
chứng nhiễm khuẩn tối cấp sau cắt lách, vấn đề bảo tồn lách không mổ và
bảo tồn lách trong mổ mới được chú ý, nhất là ở trẻ em và người trẻ tuổi.
Trước đây, chẩn đoán vỡ lách chủ yếu dựa vào các triệu chứng lâm
sàng, cơ chế chấn thương, thủ thuật chọc dò ổ bụng. Ngày nay, nhờ có các
phương tiện chẩn đoán hình ảnh, đặc biệt là siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và
chụp mạch máu đã cho phép đánh giá nhanh chóng, tương đối chính xác mức
độ tổn thương lách, mức độ và diễn biến của chảy máu trong, tình trạng của
các cơ quan khác trong ổ bụng nên thái độ xử trí tổn thương lách đã có nhiều
thay đổi với hàng loạt nghiên cứu về chỉ định và phương pháp điều trị: bảo
tồn không mổ, bảo tồn trong mổ hay cắt bỏ lách. Tại Khoa Ngoại chung Bệnh
viện 105, từ năm 2006 đã điều trị vỡ lách do chấn thương theo các phương
pháp này.


Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và
cận lâm sàng, chỉ định và kết quả điều trị vỡ lách do chấn thương bụng kín
tại Bệnh viện 105.



2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
70 bệnh nhân (BN) vỡ lách do chấn thương bụng kín, được chẩn đoán
và điều trị tại Bệnh viện 105 từ tháng 1/2006-8/2010. Loại trừ các BN vỡ
lách do vết thương thấu bụng; có tiền sử bệnh lý liên quan đến lách; vỡ lách
do tai biến trong mổ hoặc sau các thủ thuật khác; chấn thương có nghi ngờ
tổn thương lách nhưng chưa kịp phẫu thuật đã tử vong.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
Tiến cứu kết hợp hồi cứu.
- Chẩn đoán tổn thương lách dựa trên lâm sàng, cận lâm sàng hoặc
qua phẫu thuật với trường hợp có mổ. Phân độ tổn thương lách theo Hiệp hội
phẫu thuật chấn thương Mỹ (AAST, 1991), khi có nhiều tổn thương từ độ III
trở xuống thì độ tổn thương lách được tính tăng thêm 1 độ:
+ Độ I: tụ máu dưới bao lách dưới 10% diện mặt lách; rách bao lách
dưới 1 cm nhu mô.
+ Độ II: tụ máu dưới bao 10-50% diện mặt lách hoặc tụ máu trong nhu
mô đường kính dưới 2 cm; rách 1-3 cm sâu vào nhu mô.
+ Độ III: tụ máu dưới bao trên 50% diện mặt lách hoặc phồng to ra,
hoặc tụ máu trong nhu mô đường kính trên 2 cm; vỡ khối máu tụ dưới bao
hoặc vỡ khối máu tụ trong nhu mô; rách trên 3 cm sâu vào trong nhu mô
hoặc tổn thương các mạch nhánh.
+ Độ IV: tổn thương mạch thùy hoặc vùng cuống lách, mất tưới máu
trên 25% lách.
+ Độ V: vỡ lách hoàn toàn; tổn thương mạch cuống lách mất tưới máu
lách.
- Điều trị:



+ Điều trị bảo tồn chỉ định cho các BN chấn thương lách đơn thuần
(lâm sàng, siêu âm hoặc chụp cắt lớp vi tính có tổn thương lách); các chỉ số
huyết học và huyết động ổn định hoặc ổn định sau khi hồi phục thể tích tuần
hoàn; không có tổn thương phối hợp khác trong ổ bụng đòi hỏi phải can thiệp
phẫu thuật; khối lượng máu được truyền (nếu có) dưới 4 đơn vị trong 24 giờ,
trẻ em dưới 20 ml/kg/48 giờ. Phương pháp điều trị: bất động BN, theo dõi
mạch, huyết áp (HA), tình trạng ổ bụng; truyền dịch, truyền máu bổ sung khối
lượng máu lưu hành; cho kháng sinh dự phòng; thăm dò siêu âm sau mỗi 6
giờ trong 24 giờ đầu. Thời gian theo dõi sát trong 48 giờ đầu, theo dõi chung
trong 7-10 ngày.
+ Điều trị phẫu thuật chỉ định cho các BN có sốc mất máu nặng đe dọa
tính mạng; BN vỡ lách độ IV, độ V hoặc độ III nhưng rối loạn huyết động; nghi
ngờ hoặc có tổn thương phối hợp trong ổ bụng cần phải mổ và các trường
hợp điều trị bảo tồn thất bại. Phương pháp điều trị: đốt điện cầm máu lách
vỡ, khâu cầm máu lách vỡ, cắt lách bán phần hoặc toàn bộ, xử trí các tổn
thương phối hợp (nếu có).
- Đánh giá kết quả gần:
+ Tốt: BN ổn định, không có tai biến, biến chứng; hồi phục và ra viện
sau 7-10 ngày.
+ Trung bình: BN điều trị bảo tồn có tai biến, biến chứng như apxe, tụ
dịch phải chọc hút, phải chuyển phương pháp phẫu thuật; BN phẫu thuật sốt
kéo dài, nhiễm khuẩn vết mổ, có khoang tồn dư nhưng sau khi xử trí ổn định,
khỏi ra viện trong vòng 21 ngày.
+ Xấu: thời gian điều trị quá 21 ngày, có tai biến, biến chứng nặng phải
mổ lại để can thiệp, suy kiệt nặng sau mổ.
- Xử lý số liệu bằng phần mềm EPI INFO 6.0.


3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
3.1. Đặc điểm chung của BN (n = 70):

3.1.1. Tuổi và giới:
- Tuổi: BN có tuổi từ 9-80 (trung bình 29,4 ± 13,8 tuổi), lứa tuổi 15-32
chiếm đa số (71,4%).
- Giới: 54 BN nam (77%) và 16 BN nữ (23%), tỉ lệ nam/nữ là 3,4/1.
3.1.2. Nguyên nhân vỡ lách:
Tai nạn giao thông: 48 BN (68,6%); tai nạn lao động: 2 BN (2,9%); tai
nạn thể thao: 2 BN (2,9%); tai nạn sinh hoạt: 7 BN (10%); bị đánh: 11 BN
(15,7%).
3.1.3. Thời gian từ khi bị nạn đến khi vào viện:
- Trước 1 giờ: 10 BN (14,3%).
- Sau 1-6 giờ: 39 BN (55,7%).
- Sau 6-12 giờ: 8 BN (11,4%).
- Sau 12-24 giờ: 5 BN (7,2%).
- Sau 24 giờ: 8 BN (11,4%).
3.2. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng:
3.2.1. Phân nhóm điều trị:
- Điều trị bảo tồn thành công: 14 BN (20,0%).
- Điều trị bảo tồn phải chuyển mổ: 6 BN (8,6%).
- Mổ cấp cứu: 50 BN (71,4%).
3.2.2. Triệu chứng lâm sàng khi BN vào viện:
- Đau bụng: 70 BN (100%).
- Chướng bụng: 55 BN (78,6%).
- Cảm ứng phúc mạc: 45 BN (64,3%).
- Phản ứng cơ thành bụng: 37 BN (52,9%).
- Xây sát da vùng hạ sườn trái và ngực trái: 37 BN (52,9%).
- Mạch và HA:


3.2.3. Kết quả siêu âm:
- Dấu hiệu tổn thương lách: 62 BN (88,6%) mất liên tục bờ lách; 57 BN

(81,4%) thấy đường vỡ lách; 34 BN (48,6%) giập nhu mô lách; 25 BN
(35,7%) có máu tụ trong nhu mô hoặc dưới bao lách.
- Vị trí tổn thương lách:

- Độ tổn thương lách đánh giá trên siêu âm:

- Tổn thương phối hợp trong ổ bụng: 9 BN (2 BN vỡ gan, 2 BN vỡ thận
trái và 5 BN đụng giập tụy).


3.2.4. Kết quả chẩn đoán trong mổ (n = 56):
- Độ tổn thương lách: 4 BN (7,1%) tổn thương độ II; 23 BN (41,1%) độ
III; 26 BN (46,4%) độ IV và 3 BN (5,4%) độ V.
- Vị trí tổn thương lách: tổn thương cực trên lách 8 BN (14,3%), cực
dưới lách 11 BN (19,7%), thân lách 19 BN (33,9%), rốn lách 6 BN (10,7%),
cuống lách 8 BN (14,3%), toàn bộ lách 4 BN (7,1%).
- Tổn thương phối hợp: 2 BN (3,6%) vỡ gan, 1 BN (1,8%) vỡ dạ dày, 2
BN (3,6%) vỡ thận trái, 2 BN (3,6%) vỡ tiểu tràng và 6 BN (10,7%) đụng giập
tụy.
- Phù hợp chẩn đoán tổn thương lách giữa siêu âm và trong mổ: 37 BN
(66,1%) phù hợp hoàn toàn, 13 BN (23,2%) phù hợp không hoàn toàn, 6 BN
(10,7%) không phù hợp.
3.3. Đặc điểm điều trị:
3.3.1. Phương pháp điều trị (n = 70):

3.3.2. Biến chứng sau mổ (n = 56):
- Chảy máu: 2 BN (3,6%).
- Khoang tồn dư, tràn dịch màng phổi: 2 BN (3,6%).
- Viêm tụy: 1 BN (1,8%).



- Nhiễm khuẩn vết mổ: 2 BN (3,6%).
3.3.3. Thời gian điều trị:
- Ngắn nhất: 5 ngày.
- Dài nhất: 26 ngày.
- Trung bình: 9,0 ± 3,0 ngày.
3.3.4. Kết quả điều trị gần (n = 70):
- Tốt: 62 BN (88,6%).
- Trung bình: 5 BN (7,1%).
- Xấu: 3 BN (4,3%).
4. BÀN LUẬN.
4.1. Đặc điểm chung của BN:
70 BN trong độ tuổi từ 9-80, nhiều nhất ở lứa tuổi 15-32 (71,4%); tỉ lệ
nam/nữ là 3,4/1. Nguyên nhân chủ yếu gây chấn thương là tai nạn giao
thông (68,6%). Các đặc điểm này đều phù hợp với nghiên cứu của Trần Bình
Giang [2] và Phan Hải Thanh [7].
70% BN đến viện trước 6 giờ tính từ khi bị tai nạn, có trường hợp chỉ
sau 30 phút, có 8 trường hợp đến viện sau nhiều ngày bị tai nạn (trung bình
sau 4 giờ).
4.2. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng:
Tất cả các BN đến viện đều có biểu hiện đau bụng, đau khu trú vùng hạ
sườn trái hoặc đau lan khắp bụng, tương tự với nghiên cứu của Phạm Đăng
Nhật (100% BN đau bụng) [4] và Bùi Xuân Thái (95% BN đau bụng) [6].
Chúng tôi thấy đau bụng là triệu chứng chính để BN đến viện. Các dấu hiệu
kích thích phúc mạc là hậu quả của tình trạng thoát dịch máu trong ổ bụng.
Chúng tôi gặp 64,3% BN có cảm ứng phúc mạc, 52,9% BN có phản ứng cơ
thành bụng từ kín đáo đến rõ ràng. Hầu hết các trường hợp này sau đó đều
được chỉ định phẫu thuật, trong mổ phát hiện lách tổn thương nặng, dịch và
máu trong ổ bụng khá nhiều. Dấu hiệu xây sát da hạ sườn trái, bầm tím da



thành ngực, sườn lưng trái được coi là dấu hiệu chỉ điểm tổn thương lách
trong chấn thương bụng kín, là gợi ý quan trọng để chẩn đoán, đặc biệt ở trẻ
em (52,9%). Nguyễn Quang Anh gặp dấu hiệu bầm trầy xước vùng hạ sườn
trái 76,92% [1].
51,4% BN vào viện có mạch trên 100 lần/phút; 45,7% BN có HA tối đa
dưới 90 mmHg, bị rối loạn huyết động, nếu không được điều trị can thiệp kịp
thời có thể tiến triển theo hướng xấu, làm trầm trọng hơn các biểu hiện lâm
sàng, thậm chí đe dọa tử vong. 3 BN sốc mất máu nặng (không có mạch và
HA) được chuyển thẳng vào Khoa Hồi sức cấp cứu. Các BN này sau khi xét
nghiệm máu và siêu âm, nghĩ đến tổn thương lách mức độ nặng nên đã tiến
hành hồi sức tích cực, mổ cấp cứu cắt lách khi HA tối đa trên 70 mmHg, có
trường hợp vừa hồi sức vừa mổ. Theo Bjerke Scott H [9], hạ HA ở BN nghi
ngờ chấn thương lách, đặc biệt ở BN trẻ mà trước đó khỏe mạnh là một dấu
hiệu nghiêm trọng và cần tiến hành cấp cứu ngoại khoa khẩn trương.
Tại hầu hết các nước phát triển, siêu âm là khám xét đầu tiên cần làm
cho BN chấn thương bụng kín, chụp cắt lớp vi tính chỉ thực hiện khi siêu âm
chưa xác định rõ tổn thương. Chúng tôi siêu âm phát hiện các hình ảnh tổn
thương lách trực tiếp, trong đó mất liên tục bờ lách gặp tỉ lệ cao nhất
(88,6%), đường vỡ lách tuy gặp ít hơn (81,4%) nhưng có giá trị cao trong
việc phân độ tổn thương và tiên lượng. Kết quả của chúng tôi phù hợp với
nhiều tác giả trong nước.
Trong số 56 BN được mổ, có 92,9% tổn thương lách độ III, IV, V, trong
đó độ IV và V chiếm 51,8%. Đây là mức độ tổn thương nặng, lâm sàng thể
hiện đau nhiều, dấu hiệu mất máu rõ, siêu âm thấy nhiều dịch trong ổ bụng
và thường đồng nghĩa với chỉ định mổ khẩn cấp để cầm máu.
Trong mổ thấy tổn thương ở thân lách chiếm tỉ lệ cao nhất (33,9%),
tiếp theo là cực dưới lách (19,7%), cực trên lách và cuống lách (đều 14,3%).
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trần Bình Giang [2], Đặng Trần



Thanh Liêm [3], Phạm Đăng Nhật [4] và Nguyễn Văn Xuyên [8]. Trong mổ,
chúng tôi cũng phát hiện 13 BN có tổn thương phối hợp (siêu âm trước đó chỉ
phát hiện 9 trường hợp). 4 BN không phát hiện tổn thương phối hợp trước
mổ gồm 2 BN vỡ tiểu tràng, 1 BN vỡ dạ dày, 1 BN đụng dập tụy.
So sánh kết quả phân độ, vị trí tổn thương lách trên siêu âm trước mổ
với kết quả trong mổ, chúng tôi thấy có 66,1% phù hợp hoàn toàn, 23,2% phù
hợp không hoàn toàn và 10,7% không phù hợp. Như vậy, 89,3% BN có sự phù
hợp một phần hoặc hoàn toàn về vị trí và phân độ tổn thương lách. Điều này
cho thấy siêu âm có độ tin cậy cao trong việc phát hiện các hình ảnh tổn
thương lách nhưng còn hạn chế trong việc phân độ và xác định vị trí tổn
thương.
4.3. Phương pháp điều trị và kết quả:
4.3.1. Điều trị bảo tồn:
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ định điều trị bảo tồn cho 20 BN
(28,6%) từ 9-45 tuổi. Trong quá trình theo dõi phải chuyển mổ 6 BN. Trường
hợp chuyển mổ sớm nhất là sau 13 giờ theo dõi thấy mạch nhanh trên 100
lần/phút, HA tối đa dưới 90 mmHg mặc dù BN đã được bù đủ dịch, siêu âm
lần hai thấy dịch trong ổ bụng nhiều hơn trước, xét nghiệm máu thấy các chỉ
số hồng cầu, hemoglobin, hematocrit đều giảm rõ; khi mổ thấy đường vỡ
ngang qua gần rốn lách, đứt một nhánh tĩnh mạch lách, máu vẫn đang chảy,
có khoảng 1200 ml dịch máu lẫn máu cục trong ổ bụng. 5 BN khác được mổ
muộn hơn (muộn nhất sau 26 giờ tính từ khi vào viện), qua nội soi thăm dò
tổn thương lách, cầm máu và dẫn lưu hố lách, không trường hợp nào có tổn
thương tạng rỗng kèm theo và kết quả đều khả quan.
14 BN còn lại điều trị bảo tồn thành công. Chúng tôi nhận thấy khi phát
hiện có dịch tự do trên siêu âm ổ bụng với số lượng ít hoặc trung bình, lâm
sàng ổn định, không có rối loạn huyết động thì có thể điều trị bảo tồn thành



công ngay cả với lách vỡ độ III. Nhiều tác giả cũng có nhận xét tương tự [1],
[10].
4.3.2. Điều trị phẫu thuật:
Mổ 56 BN (71,4%), trong đó mổ mở 50 BN (có chỉ định mổ ngay sau khi
vào viện), mổ nội soi 6 BN. Phương pháp mổ gồm: khâu lách cầm máu
(21,4%), đốt điện cầm máu và tăng cường bằng spongel (12,8%), cắt lách
bán phần (2,9%), cắt lách toàn bộ (42,9%). Cắt lách toàn bộ chiếm tỉ lệ khá
cao, thực hiện ở những trường hợp vỡ lách độ IV-V, trong ổ bụng có nhiều
dịch máu lẫn máu cục.
4.3.3. Kết quả điều trị sớm:
- Thời gian điều trị trung bình 9,0 ± 3,0 ngày. Một số trường hợp ra
viện sau 5 ngày là những BN được mổ nội soi cầm máu lách vỡ. BN điều trị
dài ngày nhất (26 ngày) là trường hợp vỡ lách độ IV kèm theo vỡ mặt sau dạ
dày, rách thanh cơ đại tràng ngang.
- Biến chứng gặp 2 BN chảy máu sau mổ phải mổ lại lần hai; 2 BN tràn
dịch màng phổi trái và có khoang tồn dư dưới cơ hoành trái, đều biểu hiện ở
ngày thứ 8 sau mổ; 2 BN nhiễm khuẩn vết mổ, trong đó 1 BN toác vết mổ ở
ngày thứ 10 sau cắt lách toàn bộ, phải mổ lại khâu vết mổ.
- Kết quả sớm: 62 BN (88,6%) có kết quả tốt, ra viện trong tình trạng
sức khỏe ổn định hoặc gần như bình thường; 5 BN (7,1%) kết quả trung bình,
trong đó 2 BN tràn dịch khoang màng phổi trái, khoang tồn dư dưới cơ
hoành trái, 1 BN nhiễm khuẩn vết mổ phải điều trị lý liệu kết hợp, 2 BN sốt
cao kéo dài đến ngày thứ 5 sau mổ; 3 BN (4,3%) có kết quả xấu phải mổ lại,
trong đó 2 BN mổ lại cắt lách sau khâu lách cầm máu thất bại, 1 BN mổ lại vì
toác vết mổ.
5. KẾT LUẬN.
Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị 70 BN vỡ lách do chấn thương bụng
kín tại Bệnh viện 105, chúng tôi rút ra kết luận:



- BN nam gặp nhiều hơn BN nữ (tỉ lệ nam/nữ là 3,4/1), hay gặp ở lứa
tuổi 15-32 (71,4%); nguyên nhân chính là do tai nạn giao thông (68,6%).
- Triệu chứng lâm sàng thường gặp là mạch nhanh trên 100 lần/phút
(51,4%), HA tối đa dưới 90 mmHg (45,7%), đau bụng (100%), cảm ứng phúc
mạc (64,3%), phản ứng thành bụng (52,9%), xây sát da vùng hạ sườn trái
(52,9%). Siêu âm phát hiện 92,9% BN có tổn thương lách độ III-V, trong đó
88,6% mất liên tục bờ lách, 81,4% có đường vỡ lách.
- Chỉ định điều trị bảo tồn cho 28,6% BN vỡ lách độ I, II, III có huyết
động ổn định (8,6% phải chuyển mổ sau thời gian theo dõi từ 13-26 giờ). Chỉ
định mổ cấp cứu cho 71,4% BN bằng các phương pháp: khâu cầm máu
(21,4%), đốt điện cầm máu (12,8%), cắt lách bán phần (2,9%), cắt lách toàn
bộ (42,9%).
- Thời gian điều trị trung bình 9,0 ± 3,0 ngày, kết quả gần có 88,6% tốt;
7,1% trung bình và 4,3% xấu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Quang Anh, Trương Anh Mậu và CS (2007), “Điều trị
bảo tồn chấn thương lách tại Bệnh viện Nhi đồng 2”, Tạp chí Ngoại khoa,
2007.
2. Trần Bình Giang (2001), Nghiên cứu phẫu thuật bảo tồn vỡ lách
do chấn thương tại Bệnh viện Việt Đức, Luận án tiến sĩ y học.
3. Đặng Trần Thanh Liêm (2004), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng,
siêu âm và điều trị phẫu thuật vỡ lách do chấn thương bụng kín, Luận văn
thạc sĩ y học.
4. Phạm Đăng Nhật (2002), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng và kết quả điều trị tổn thương lách do chấn thương bụng kín tại Bệnh
viện Trung ương Huế, Luận văn bác sĩ chuyên khoa II.


5. Nguyễn Đức Ninh (2001), Bệnh học ngoại khoa sau đại học (tụy,

lách), Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 165-216.
6. Bùi Xuân Thái (2006), Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận
lâm sàng và kết quả điều trị vỡ lách trong chấn thương bụng kín tại Bệnh
viện 211, Luận văn bác sĩ chuyên khoa cấp II.
7. Phan Hải Thanh, Lê Lộc, Phạm Như Hiệp (2006), Chỉ định và kết
quả điều trị bảo tồn không mổ tổn thương lách trong chấn thương bụng
kín, Tạp chí Y học thực hành, số 491, tr. 88-93.
8. Nguyễn Văn Xuyên (2005), Tình hình chẩn đoán và điều trị vỡ lách
trong đa chấn thương tại Bệnh viện 103, Tạp chí Y dược học quân sự, số 5, tr.
102-107.
9. Bjerke Scott H (2009), Splenic rupture emedicine. medscape. com
/article/432823-overview.
10. Hara K, Yoshida H et al (2009), Successful management of a
symptomatic splenic artery aneurysm with transcatheter embolization, J.
Nippon Med. Sch. Dec., 76 (6): 308-18.



×