Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

truyện kiều và truyền thống văn hóa người việt trong sự đối sánh với kim vân kiều truyện của thanh tâm tài nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 161 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh

ĐẶNG VĂN KIM

TRUYỆN KIỀU VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA NGƯỜI
VIỆT TRONG SỰ ĐỐI SÁNH VỚI KIM VÂN KIỀU
TRUYỆN CỦA THANH TÂM TÀI NHÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2003



MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 6
1. Lí do chon đề tài: ................................................................................................................. 6
2.Lịch sử vấn đề: ...................................................................................................................... 9
3.Mục đích nghiên cứu:......................................................................................................... 14
4.Phương pháp nghiên cứu:.................................................................................................. 15
5. Phạm vi nghiên cứu và những đóng góp khoa học của luân văn:.................................. 15
6. Cấu trúc của luân văn: ...................................................................................................... 16

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT NHỮNG ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA HAI
TÁC PHẨM .................................................................................................................... 18
1.1.Kim Vân Kiều truyện và Đoạn Trường Tân Thanh trong "tầm đón " của công chúng
................................................................................................................................................. 18
1.1.1.Đối với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. ........................................ 18
1.1.2.Đối với TK của Nguyễn Du....................................................................................... 21


1.2.Những điếm giông và khác nhau giữa hai tác phẩm ..................................................... 24
1.2.1.Về cốt truvên ............................................................................................................. 24
1.2.1.1.Tóm tắt cốt truyện. ............................................................................................. 24
1.2.1.2.Giống nhau. ........................................................................................................ 25
1.2.1.3.Những điểm khác nhau ( Phần sáng tạo của Nguyễn Du) ................................. 26
1.2.2.Về hệ thống nhân vật: ................................................................................................ 33
1.2.3.Về chủ đề. .................................................................................................................. 41
1.2.4.Về phong cách học: ................................................................................................... 44

3


CHƯƠNG 2: TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT TRONG TRUYỆN
KIỀU QUA ĐỐI SÁNH VỚI KIM VÂN KIỀU TRUYỆN......................................... 47
2.1.Văn hóa và truyền thông văn hóa: .................................................................................. 47
2.1.1.Văn hóa là gì? ............................................................................................................ 47
2.1.2.Truyền thông văn hóa. ............................................................................................... 48
2.2.Truyền thông văn hóa của người Việt ............................................................................ 49
2.2.1.Nội dung văn hóa tinh thần của người Việt ............................................................... 49
2.2.2.Đôi nét bản sắc văn hóa Trung Quốc......................................................................... 53
2.3.Truyền thông văn hóa người Viêt trong TK qua đối sánh với Kim Vân Kiều truyện ... 58
2.3.1.Triết lý TK là triết lý nhân dân. ................................................................................. 58
2.3.2.Truyền thông thương người như thương thân: .......................................................... 71
2.3.3.Văn hóa ứng xử giao tiếp .......................................................................................... 78
2.3.4.Truyền thống trong danh dự, giữ phẩm giá. .............................................................. 94
2.3.5.Khuynh hướng thẩm mỹ Vỉẽt Nam ......................................................................... 102
2.3.5.1.Người Việt ưa sự hài hòa cân đối, thích cái đẹp xinh khéo ............................. 102
2.3.5.2.Người Việt yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên ......................................... 104

CHƯƠNG 3: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA KIỀU.............................................................. 110

3.1.Truyện Kiều, một công trình văn hóa tổng hợp. .......................................................... 110
3.2.Đời sống văn hóa Kiều................................................................................................... 123
3.2.1.Truyên Kiểu sống trong ca dao tục ngữ................................................................... 124
3.2.2.Truyện Kiều với văn học viết. ................................................................................. 126
3.2.3.Truyện Kiều trong các sinh hoạt văn hóa giải trí .................................................... 128
3.2.3.1.Truyện Kiều với sân khâu truyền thống: .......................................................... 128
3.2.3.2.Tập Kiều, lẩy Kiều: .......................................................................................... 128
4


3.2.3.3.Đố Kiều, bói Kiều: ........................................................................................... 129
3.2.4.Thơ viết về TK và Nguyễn Du: ............................................................................... 131
3.2.4.1.Vịnh Kiều: ........................................................................................................ 131
3.2.4.2.Truyện Kiều - nguồn thi liệu phong phú cho các thi sĩ đời sau: ...................... 132
3.2.5.Truyện Kiều sống trong âm nhạc và hội họa: .......................................................... 137
3.2.6.Truyện Kiều sống trong báo chí .............................................................................. 138
3.2.7.Truyện Kiều trong nhà trường và hoạt động nghiên cứu khoa học. ........................ 140
3.2.8.Truyện Kiểu trong đời sống thường nhật: ............................................................... 141

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 156
I/ SÁCH VÀ TẠP CHÍ VĂN HỌC: ..................................................................................... 156
II/CÁC LOẠI BÁO VÀ TẠP CHÍ KHÁC: .......................................................................... 161

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chon đề tài:
Cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX từ sau Đại hội 6 Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, đất

nước ta bước vào một thời kì mới: Thời kì đổi mới mở cửa giao lưu và bằng công nghiệp hoá hiện đại hóa để đưa đất nước hướng đến mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân
chủ văn minh. Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước cũng đồng thời đặt chúng ta trước một
nhiệm vụ không kém phần quan trọng là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Một
sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, kĩ thuật công nghệ, khoa học và việc bảo tồn phát
huy nội lực văn hóa trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển chung của đất nước mới là
sự thực hiện đường lối "văn hóa soi đường cho kiến quốc" (Hồ Chí Minh) một cách đúng đắn.
Các nước thuộc dạng "rồng" ở Châu Á đã cho chúng ta những bài học kinh nghiệm qui báu về
lĩnh vực này. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức một cách bén nhạy và sâu sắc tầm quan
trọng của vấn đề này và đã dành hẳn một Hội nghị Trung ương (Hội nghị Trung Ương 5 khóa
VUI diễn ra từ ngày 06 đến ngày 16 tháng 07 năm 1998 tại Hà Nội) để bàn về văn hóa trong
tình hình mới. Hội nghị đã ra Nghị quyết với nội dung chiến lược là " xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc" [2,7]. Trong tư tưởng và quyết tâm của
Đảng, của dân thì trọng tâm của sự nghiệp văn hoa là thế phát triển, là hướng đến "tiên tiến" và
truyền thống-bản sắc không những cần được giữ gìn bảo tồn mà phải "đậm đà" để đủ làm cái
gốc vững.
Trong Hội nghị Trung ương này đại kiệt tác TK của danh nhân văn hoa Nguyễn Du đã
được huy động dùng làm tài liệu nghiên cứu (cùng với nhiều tư liệu khác) với vị trí: "TK tuyệt
tác của Thi hào Nguyễn Du thật sự đã giữ vai trò quan trọng biết nhường nào làm những con
người Việt Nam chúng ta xích lại gần nhau, sát cánh bên nhau thông cảm và đồng cảm ương
đời sống thường nhật, trong lao động đấu tranh để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc thân yêu của
mình" (Tư liệu nghiên cứu Nghị quyết TW 5, Khoa VIII).[82,8]
Các Mác khi nói về văn nghệ đã xem đó là văn hóa thứ 3-văn hoá mang tính nghệ thuật
và cho rằng văn nghệ là một thứ "tinh thần thực tiễn". Như vậy, Mác đã khẳng định vai trò to
lớn, vị trí không thể thay thế được của văn nghệ trong đời sống xã hội. Đồng chí Phạm Văn
6


Đồng từng nói "cái cao quý của một đất nước của một dân tộc là ở giá trị văn hóa ...Văn học
nghệ thuật có nhiệm vụ và có tác dụng to lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị cao quí ấy"
[71, 444]. Có thể nói rằng nếu nghệ thuật là một loại văn hoa đặc biệt thì văn học là gương mặt

tiêu biểu cho nền văn hoa dân tộc và "Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn" (Chế
Lan Viên). Nói đến bản sắc văn hoa là nói đến truyền thống văn hóa. Nhà nghiên cứu văn học
Nguyễn Văn Dân trong sách Nghiên cứu văn học lí luận và ứng dụng cho rằng truyền thống có
một ý nghĩa vô cùng to lớn, vì: ". . . truyền thống vừa là một nguồn sống vừa là một nguồn sáng
tạo. Nó là một nguồn sống bởi vì với tư cách là "bộ nhớ xã hội", nó cố định và bảo tồn mọi ý
nghĩa và phương hướng chủ yếu của hoạt động của con người. Nó là nguồn sáng tạo vì nó chứa
đựng những thông điệp thực chất của nhân loại và đề xuất kinh nghiệm cho mọi thời đại lịch
sử. Truyền thống là một yếu tố vĩnh hằng trong quá trình sáng tạo văn hóa, nó gắn liền với khái
niệm về tính trường tồn và liên tục của nhân loại (...) là tiền đề cho mọi sự sáng tạo của con
người" [42,111].
Tạo nên bản sắc văn hoa dân tộc có sự đóng góp không nhỏ của truyền thống văn hóa
nghệ thuật. Văn học thường được xem là "ngành công nghiệp nặng" của văn hóa tinh thần bởi
nó không chỉ là một lĩnh vực nghệ thuật tinh nhạy nhất mà còn gắn rất chặt với con người.
Không có con người sẽ không có văn học, không có con người sẽ không có tất cả nên không có
gì thuộc về con người lại xa lạ đối với văn chương. Với một tác phẩm có sức sống kì lạ, và sự
cuốn hút như TK thì Nguyễn Du đã thực sự trở thành anh hùng trong lòng nhân dân, nhân loại
như Các-Mác từng nói: "Đừng trách các nhà thơ tại sao không trở thành anh hùng ngoài chiến
trận, nếu thơ của họ được quần chúng chấp nhận thì họ đã trở thành anh hùng rồi đó" (Dẫn theo
Trần Đình Sử) và Hồ Chí Minh cũng từng xác định "văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận"
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong lần giỗ thứ 176 (năm 1996) của Nguyễn Du do Trung tâm nghiên cứu quốc học tổ
chức, Mai Quốc Liên khẳng định: "Nguyễn Du là đỉnh cao nhất, đỉnh cao càng nhìn càng thấy
cao của văn hoa Việt Nam. Nguyễn Du là lời kêu gọi chúng ta trở về truyền thống và phát triển
nó một cách sáng tạo thông minh. Nguyễn Du là nơi tập hợp mọi tấm lòng người Việt ở khắp
nơi trên hành tinh, dù khác biệt do hoàn cảnh và chính kiến, vẫn chung nhau hồn Việt, tiếng
Việt trong như ánh sáng, ngọt như mật ong, tinh tế và yêu thương (...). Nguyễn Du là mái ấm
7


của ngôi nhà tổ phụ, là nơi những đứa con khắp bốn phương trời trở về sau những chặng đường

lữ thứ ..." (...) "TK là sự tổng hợp của nền văn hoa dân tộc và là sự " tiếp biến" đối với nền văn
hoa Trung Hoa vĩ đại từ nghìn xưa" [35,208,209].
Có một sự thực cần được ghi lại là trong khuôn khổ "những phạm trù văn hóa trung đại"
các nước Korea, Nhật Bản, Việt Nam đã tiếp nhận ảnh hưởng của vãn hoa Trung Hoa một cách
hệ thống và sâu sắc trên các lĩnh vực thiết chế tinh thần cũng như thiết chế tổ chức chính trị xã
hội trong đó nổi bật là các hệ tư tưởng và tôn giáo: Nho, Phật, Lão Trang.
Do vậy những điểm tương đồng về văn hoa giữa hai dân tộc Việt-Hoa là lẽ đương nhiên
bởi hai lẽ: Thứ nhất là bản chất nhân loại của văn hoa: sáng tạo và thưởng thức-hưởng thụ văn
hoa là nhu cầu tự thân, thứ hai là quá trình giao lưu ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa hai dân tộc
"núi liền núi, sông liền sông..." không thể không diễn ra từ rất sớm "nhất cận lân nhì cận thân".
Tuy nhiên mỗi dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển ở điều kiện của mình đã tạo nên dấu
ấn bản sắc riêng, thành giá trị truyền thống không ai giống ai. Trong sách Thử xét văn hoá văn
học bằng ngôn ngữ học [58,17], Phan Ngọc cho biết: Việt Nam thuộc một trong số ít các nước
có nền văn hoa riêng (cả Thế giới có 34 nền văn hoá, nổi bật có 17 Quốc gia. Châu Á có 5 nước
là Ẩn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam - Theo tư liệu của UNESCO). Lùi
về quá khứ gần 600 trước trong Tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi
đã từng khẳng định: Nước ta là một nước có nền văn hiến ngang hàng với Trung Quốc, "như
nước Đại Việt ta từ trước...phong tục Bắc Nam cũng khác".
Việc Nguyễn Du viết TK dựa vào tiểu thuyết KVKT của tác giả TTTN Trung Quốc là
một hiện tượng thuộc quy luật giao lưu -"tiếp biến" văn hoa có tính toàn cầu. Song, số phận và
đời sống của hai tác phẩm trong chiều dài lịch sử lại không giống nhau. Chúng tôi nghĩ đó là do
bản sắc văn hoa giữa hai dân tộc khác nhau, tài năng hai tác giả khác nhau trong việc vận dụng
truyền thống dân tộc trong quá trình sáng tạo.
Việc so sánh sự giống nhau, khác nhau giữa hai tác phẩm đã tốn rất nhiều giấy mực,
nhưng một hiện tượng phức tạp như thế chưa dễ có hồi kết. Chúng tôi nhất trí với tác giả La
Sơn Nguyễn Hữu Sơn ở chỗ: " Việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu so sánh văn bản, giải mã đặc
điểm sáng tạo trong sự chuyển hoá từ loại hình văn xuôi tự sự tới thi ca, từ tiểu thuyết chương
hồi vốn nghiêng về sự kiện tới loại truyện thơ với ưu thế phân tích, khái quát, nhấn mạnh yếu
8



tố tâm lí, tâm trạng; và đặc biệt là sự chuyển tải nội dung tâm hồn dân tộc, ngôn ngữ dân tộc,
lối cảm và lối nghĩ dân tộc... sẽ góp phần phát hiện sâu sắc, khách quan khoa học hơn giá trị
TK-những cống hiến đích thực là của Nguyễn Du" [82,936]. Vì thế trọng tâm mà luận văn quan
tâm là vấn đề: "Sự chuyển tải nội dung tâm hồn dân tác, ngôn ngữ dân tộc, lối cảm, lối nghĩ
dân tác " hay nói cách khác luân văn sẽ tiếp cân TK ở phương diên bản sắc và truyền thống
văn hoá của người Việt qua việc đối sánh vài KVKT.
Chọn đề tài này, chúng tôi xuất phát từ những gợi ý đã nêu trên và về phía chủ quan là
một người trực tiếp làm công việc dạy học môn ngữ văn, chúng tôi muốn tích lũy thêm tri thức
về văn hóa văn học, nhất là các giá trị truyền thống của dân tộc, hy vọng có thể góp được phần
nhỏ bé nào vào đại cuộc "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc".

2.Lịch sử vấn đề:
Theo chúng tôi truyền thống văn hoa là những gì gắn rất chặt với tâm thức văn hoa và
không gian văn hoa của cư dân một tộc người. Có thể khái niệm vùng văn hoa đã có điểm xuất
phát từ đây. Với một tộc người chiếm số đông và có lịch sử phát triển, sự phân bố cư dân rộng
khắp trên tất cả các vùng miền của đất nước như dân tộc Việt thì việc xác định "chuẩn" những
nét văn hoa truyền thống quả là một công việc chẳng dễ dàng gì. Đây là một thách thức rất lớn
đối với người nghiên cứu văn hóa. Những hạn chế, sai sót của luận văn sẽ nảy sinh từ đây.
Nhìn tổng thể tình hình nghiên cứu văn học văn hóa về TK, có thể nói hướng tiếp cận của
luận văn không phải là một hướng đi hoàn toàn mới mẻ. Song những công trình chuyên về góc
độ văn hóa, văn hóa truyền thống mà TK gợi ý thì chưa nhiều, vấn đề mà luận văn đề cập hãy
còn rải rác trong các công trình nghiên cứu tổng hợp theo hướng nghiên cứu văn học chung và
nó chỉ được đề cập ở từng khía cạnh đơn lẻ tuy thuộc vào yêu cầu phục vụ cho từng tiểu mục.
Theo thống kê của nhà nghiên cứu Trần Đình sử (có thể chưa đầy đủ) đã có tới 661 đơn vị
công trình nghiên cứu về TK của Nguyễn Du hoặc liên quan đến Nguyễn Du và TK. số lượng
công trình đồ sộ như thế đã phản ánh tính chất phức tạp ,đa diện nhiều chiều, nhiều bí ẩn, sức
gợi - dư ba có thể nói là vô cùng của kiệt tác. Đúng như Trần Đình Sử nói "TK nói mãi không
cùng". Như vậy đến với TK sẽ là dấn bước vào cánh rừng đại ngàn và khó tránh khỏi tình trạng

9


tiến thoái lưỡng nan "vào rừng chẳng biết lối ra". Và như thế tác giả luận văn sẽ phải tự lượng
sức và cố gắng hết mình, khó thay!
So sánh TK và KVKT đã có nhiều công trình đề cập, và kết quả lại theo nhiều hướng
khác nhau, theo tìm hiểu của chúng tôi thì ít nhất đã có ba khuynh hướng như sau:
*Thứ nhất: các nhà nghiên cứu cho rằng TK là một tác phẩm dịch; viết TK, Nguyễn Du
chỉ làm việc sao chép lại KVKT. Khi phê bình cuốn văn học Việt Nam của G.Coocđiê, Hăngri
Matspêrô đã viết: "Đối với tác phẩm của Nguyễn Du thì chữ dịch (Traduire) đúng hơn chữ
phỏng theo (Adapter) mà ông Coocđiê đã dùng vì tác phẩm ấy không có gì khác nguyên thư trừ
sự khác nhau về ngôn ngữ và thể văn thì không đáng kể" [49,34-54]. Ý kiến trên cho đến gần
đây cũng còn có người ủng hộ. Chẳng hạn, nhà nghiên cứu Đổng Văn Thành khi so sánh Kim
Vân Kiều của Trung Quốc và Việt Nam (thượng và hạ) đã viết: "Nhìn tổng thể, Tôi cảm thấy
TK của Nguyễn Du bất luận về nội dung, hay về nghệ thuật đều không vượt được trình độ của
TK là bản gốc mà nó mô phỏng, tức là Kiều truyện của Trung Quốc" [12,16]. Mô phỏng hay là
dịch đều là những kết luận đáng được xem xét thật chu đáo, bởi đây là vấn đề hết sức tế nhị, hết
sức nhạy cảm. Có điều nếu là tác phẩm dịch hay mô phỏng thì tại sao người ta lại dịch TK của
Nguyễn Du ngược trở lại tiếng Trung Hoa. Có lẽ để làm tài liệu tham khảo chăng?
*Khuynh hướng thứ hai cho rằng Nguyễn Du hoàn toàn sáng tạo TK.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là học giả Phan Khôi, khi ông cho rằng "TK không phải
là tác phẩm dịch, cũng không phải phóng tác mà hoàn toàn sáng tạo" [52,68]. Ý kiến của ông
Phan Khôi không phải hoàn toàn vì "tự hào dân tộc", cũng không phải thiếu nhãn quan văn học
so sánh; về phương diện sáng tạo văn hoa không phải không có lí. Hơn nữa nếu khảo sát một
cách toàn diện, khách quan cả hai tác phẩm, đây là một ý kiến cần tham khảo nghiêm túc.
*Khuynh hướng thứ ba là khuynh hướng cho rằng TK được Nguyễn Du viết trên cơ sở
tiếp thu và sáng tạo.
Có thể đây là một hướng tiếp cận có khả năng phản ánh đúng bản chất vấn đề nên dễ
được chấp nhận trong giới nghiên cứu chăng? Và độ tin cậy khoa học của hướng đi này đã
được xác nhận: TK được sáng tạo trên cơ sở vay mượn cốt truyện của KVKT, chúng đã đi vào

các sách giáo khoa và giáo trình cũng như các chuyên luận, tài liệu tham khảo. Hầu hết các
10


Giáo sư, các nhà nghiên cứu tên tuổi đều có hướng tiếp cận này khi cần so sánh. Đây cũng là
một hiện tương có tính qui luật. Chúng tôi tán thành ý kiến của ông Nguyễn Văn Dân, khi ông
cho rằng: Vay mượn để sáng tạo là chủ động còn ảnh hưởng là khách quan. Vì hoạt động sáng
tạo bao giờ cũng mang tính chủ quan và nói như Mác " ... sáng tạo theo qui luật của cái đẹp".
Sự thực của hiện tượng vay mượn để sáng tạo là có tính toàn cầu, vàv sự thực là những
tác phẩm sáng tạo theo kiểu vay mượn là những kiệt tác nên tự nó không ảnh hưởng gì đến
sáng tác của nhà văn. Thậm chí, thời Phục Hưng, Chủ nghĩa cổ điển đã chủ trương "mô phỏng
cổ đại" không cần che đậy đã tạo ra một khối lượng sản phẩm sáng tạo đồ sộ thấm đẫm tinh
thần nhân văn của nhân loại. Các tên tuổi mà lịch sử văn hóa của thế giới không thể quên như
Coocnây (Pháp) khi sáng tạo "Lơ xít" đã mượn cốt truyện của nhà văn Tây Ban Nha, Castơrô.
Môlie(Pháp) khi "làm" Đông Gioăng cũng mượn truyền thuyết Tây Ban Nha. Rồi "Lão hà tiện"
cũng được lấy đề tài từ " Cái nồi của Bờ-lô-tờ" và ở vài tác phẩm thời cổ đại khác để tạo ra một
vở kịch nổi tiếng thế giới.
Hay gần chúng ta hơn như tác phẩm "Dịch hạch" mang lại giải Nô-ben cho Anbe Camuy
(Nhà văn Pháp, 1957), cũng mượn cốt truyện của một nhà văn Anh viết về bệnh dịch này xảy
ra ở Luân Đôn. Lỗ Tấn (Trung Quốc) viết Nhật kí người điên cũng mượn cốt truyện tác phẩm
cùng tên của Gôgôn.
Ởkhuynh hướng này, chúng tôi chú ý đến công trình của tác giả: Lê Trí Viễn, Nguyễn
Lộc, Trần Đình Sử, Đặng Thanh Lê, Hoài Thanh, Phan Ngọc, Nguyễn Thạch Giang, Vũ Hạnh,
La Sơn Nguyễn Hữu Sơn ...
Trong chương IV viết về Nguyễn Du Sách Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập III
(1962)[20, mục 3, III], Giáo sư Lê Trí Viễn xem TK là một tác phẩm "diễn ca", nhưng "diễn ca
có giá trị sáng tạo", " Nguyễn Du giữ nguyên cốt truyện, những sự việc lớn và chi tiết cũng vẫn
giữ, chỉ thêm bớt một số. Sự sáng tạo của Nguyễn Du tập trung ở sự thêm bớt các chi tiết ấy,
xây dựng nhân vật thành những tính cách rõ rệt, có diện mạo, có tâm lí sắc sảo hơn, đem thiên
nhiên vào trong văn thơ, làm cho câu chuyện dồi dào sâu sắc hơn... về mặt ngôn ngữ, thì còn là

một công trình sáng tạo bậc nhất của Nguyễn Du".

11


Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam nửa cuối Thế kỉ XVI1I đầu thế kỉ XIX, tập 2 [52],
viết: "Sự sáng tạo của Nguyễn Du khi viết lại TK không phải chỉ là chuyện thêm hay bớt, và
thêm bớt như thế nào mà ngay trong trường hợp Nguyễn Du giữ lại những chi tiết của TTTN;
thì đó cũng không phải là giữ lại nguyên vẹn không có sáng tạo. Những chủ đề vốn nằm sẩn
trong tác phẩm của TTTN một cách mờ nhạt và tản mạn, do chỗ nhà vãn chưa ý thức được một
cách sâu sắc, đồng thời do khuynh hướng miêu tả có phần tự nhiên chủ nghĩa của tác giả, dưới
ngòi bút đầy cảm xúc và tài hoa của Nguyễn Du trở thành hết sức đậm nét, nổi bật, bắt mọi
người phải lưu ý, phải chấp nhận".
Đặng Thanh Lê thì so sánh cụ thể giữa hai nhân vật Từ Hải để tìm sự sáng tạo của
Nguyễn Du. Bà cho rằng điểm khác biệt trước hết giữa hai tác phẩm là do đặc điểm thể loại và
ngôn ngữ nghệ thuật: Thơ ca và văn xuôi. Bà cũng đề xuất việc "Nghiên cứu quan niệm anh
hùng của Nguyễn Du, cơ sở; nguồn gốc xã hội của nó sẽ giúp cắt nghĩa được căn nguyên chủ
yếu đã quyết định sự khác nhau giữa hai tác giả và do đó, giúp phân tích, đánh giá nhân vật,
đánh giá TK, đánh giá Nguyễn Du một cách chính xác hơn" [13].
Nhà vãn Vũ Hạnh trong Đọc lại Truyện Kiều [91] cho rằng: "Bút pháp của Nguyễn Tố
Như không giống với bút pháp của Thanh Tâm Tài Tử. Từ bao nhiêu là việc vụng về lợn cợn
của nhà tiểu thuyết tầm thường Trung Hoa, Nguyễn Du đã mượn chất liệu để dịch nên áng thơ
dài bất hủ "Từ những chất liệu sần sùi thô vụng, Nguyễn Du đã làm nên một kiệt tác và trên
dặm dài bất tử của Người, thỉnh thoang chúng ta nghe nhắc đến một tác giả - Thanh TâmTài Tử
- và một tác phẩm KVKT. Không có Nguyễn Du, tác giả và tác phẩm ấy từ lâu đã vùi trong
băng tuyết thời gian".
Phan Ngọc xem công trình Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du trong TK [56] là một
cách đọc TK, đó là cách đọc đối lập TK với KVKT để tìm sự khác nhau. Trong công trình ấy,
nhà nghiên cứu đã nhìn thấy nét độc đáo của Nguyễn Du là việc sử dụng một phương pháp tự
sự không có trong KVKT. Ông chỉ ra Nguyễn Du lược bỏ những chi tiết gì, viết lại TK ra sao

(chẳng hạn đoạn Hồ Tổn Hiến dụ Từ Hải hàng trong KVKT gồm hai hồi 13 và 14 với 2.800
chữ với 13 chi tiết; TK rút lại chỉ còn 04 câu thơ lục bát). Cách làm của Phan Ngọc thật kĩ. Ông
thấy con người cô độc của Nguyễn Du khác với con người "lăng xăng cả ngày" của TTTN, con

12


người hay nói ( trung bình KVKT nói 6 lần thì trong TK Ì lần). TK có 222 câu thơ tả thiên
nhiên còn KVKT không có một câu nào.
Nguyễn Thạch Giang và cộng sự trong bài nghiên cứu Một số nhận xét về KVKT với
Đoạn Trường Tân Thanh [82,920] cũng khảo sát khá kỹ hai tác phẩm, ông cho biết số trang mà
Nguyễn Du đã lược bớt, và lược bớt những phần nào. Sáng tạo thêm cái gì, ở đâu. Cụ thể hơn
nữa, ông nói có 1.313 câu Kiều được viết theo ý của TTTN, song " trên căn bản vẫn có phần
sáng tạo đáng kể của Nguyễn Du". Ông cũng thấy rằng sự khác nhau giữa hai tác phẩm xuất
phát từ "sự lựa chọn và cách xử lí các tài liệu để mô tả, và mô tả một cách có ý thức, có một
dụng ý mô tả rõ ràng của Nguyễn Du, xuất phát từ thái độ của Nguyễn Du đối với các nhân vật,
đối với các bức tranh giàu tính hình tượng..."
Trần Đình sử, người đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực thi pháp, trong một công trình nghiên
cứu khoảng 20 năm, Thi pháp TK, do yêu cầu của chuyên luận đã tiến hành xem xét đối sánh
hai tác phẩm ở tầm vĩ mô. Ông cho rằng có nhiều vấn đề còn để ngỏ xung quanh mối quan hệ
giữa TK và KVKT, với văn hoa Trung Quốc. Chẳng hạn TK và Nho giáo, hay so sánh TK và
văn hoa1 Trung Quốc là một đề tài còn để ngỏ...
Trần Đình Sử đề nghị phải "Nâng cấp nghiên cứu so sánh TK để thấy đó là một sự kiện
giao lưu văn học đầy sáng tạo và điều đó chỉ thực hiện được khi tiến hành so sánh toàn diện,
trên nhiều cấp độ" [75,63]. Giống như cách nói của Đào Duy Anh "Nguyễn Du đã hoán cốt
đoạn thai KVKT mà tạo thành một tác phẩm hoàn toàn mớiTrần Đình Sử cũng viết rằng ". .
.tiếng thương là linh hồn mới của TK, là hồn Trương Ba trong khi cốt KVKT chỉ là xác cha
hàng thịt". Và chính điều ấy (theo Trần Đình sử) làm cho tác phẩm hết sức gần gũi với mọi tâm
hồn Việt Nam. Ông khẳng định "TK không hề đơn giản là tác phẩm vay mượn. TK trước hết là
sản phẩm của đời sống tinh thần Việt Nam, là kết quả lôgic của quá trình văn học Việt Nam, sự

phát triển nội tại của nhận thức đời sống, của tiếng Việt nghệ thuật, sự chín muồi về thể thơ lục
bát và truyện thơ Nôm. Vay mượn cốt truyện KVKT là sự gặp gỡ tinh thần của nhà văn Việt
Nam và tác giả Trung Quốc trong nỗi đau trần thế" [75, 64].
Có thể xem những hướng tiếp cận mối quan hệ giữa TK và KVKT đã dẫn ra trên đây
thuộc cấp độ so sánh trong quan hệ giao lưu ảnh hưởng (bởi không thể so sánh tương đồng giữa
hai loại hình khác nhau). Và dù các nhà khoa học đã khá kĩ càng trong các "cấp độ " so sánh
13


nhưng vẫn chưa thể nhất trí được với nhau, nói như Mai Quốc Liên, "TK vẫn luôn là vấn đề
mới".
Đáng chú ý và cũng là vinh dự cho TK là người ta đã đem nó ra so sánh với những kiệt
tác của thế giới như : với Faust của Gớt (luận án tiến sĩ bảo vệ tại Đức năm 1984 của Trương
Hồng Quang ), với Epghênhi Ônhêghin của Puskin ( Trần Thị Phương Phương, LATS
TpHCM, 2000), với truyện Xuân Hương của Hàn Quốc (Luận án tiến sĩ ngữ văn, lang Soo Bae,
2001, ĐHSP Hà Nội).
Chúng tôi rất chú ý tới bài Văn hoá truyền thống Việt Nam và triết lí chữ Tâm trong TK
(Trần Thị Phương Phương và lang Soo Bae-Journal of the Institute of Asian Studies, ĐH Ngoại
ngữ Busan, Hàn Quốc, 2-1999), nhưng không có điều kiện tham khảo.
Những năm gần đây, nhà "Kiều học" Phạm Đan Quế đã rất công phu và lần lượt cho ra
mắt nhiều công trình tư liệu về TK và KVKT. Các cuốn sách: Truyện Kiều đối chiếu (1991),
Truyện Kiều và KVKT (2000) được tác giả thực hiện công phu, đối chiếu sát từng hồi từng
đoạn giữa 2 tác phẩm, hai bản dịch khác nhau. Tuy nhiên, việc đối chiếu so sánh của Phạm Đan
Quế mới chỉ dừng lại ở cấp độ tư liệu, có tính chất gợi ý, thích hợp cho việc nghiên cứu...
Trên đây, chúng tôi đã lược ghi một số những công trình nghiên cứu đề cập đến mối quan
hệ giữa hai tác phẩm trong quá trình sáng tạo của nhà nghệ sĩ Nguyễn Du. Đa số các nhận xét
dù chưa hoàn toàn thống nhất nhưng đều đã gặp nhau ở những điểm cơ bản: Nguyễn Du đã
viết TK trên cơ sở vay mượn cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện. TK là một kiệt tác văn
chương. TK là một công trình sáng tạo văn hoá.
Chúng tôi rất trân trọng những quan điểm, những ý kiến mà các nhà khoa học đã đề xuất;

những ý kiến quí báu ấy sẽ giúp tác giả luận văn có những định hướng về mặt phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu cũng như về mặt tư liệu tham khảo để có thể hoàn thành
nhiệm vụ đặt ra của luận văn: Khám phá nội hàm văn hoa, triết lí trong văn học; những cống
hiến của Nguyễn Du cho văn hoa nước nhà qua kiệt tác TK.

3.Mục đích nghiên cứu:
Từ những lí do đã nêu, luận văn hướng đến các mục đích như sau:
14


-Góp thêm một tiếng nói hi vọng có thể lí giải về sức sống kì lạ của TK
trong lòng dân Việt và số phận đặc biệt của đại kiệt tác trong gần 200 năm qua, cũng như
trong lòng bè bạn trên thế giới.
-Cố gắng chỉ ra những nét có tính truyền thống của văn hoa Việt Nam mà nhân dân đã có
thể nhìn thấy và sẽ tìm thấy trong TK qua sự đối sánh với Kim Vân Kiều truyện.
-Khẳng định đóng góp to lớn của Thiên tài Mẹ Nguyễn Du đối với việc bảo tồn và phát
huy văn hoa dân tộc trong hướng đi phù hợp với qui luật.

4.Phương pháp nghiên cứu:
Để vươn tới những mục đích trên đây, luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu như:
- Tìm hiểu giá trị văn hóa, là tìm hiểu về những giá trị tương đối ổn định được tái tạo
trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, mặt khác một tác phẩm có đời sống kỳ
diệu và đã tạo ra một không gian văn hóa rộng lớn như TK buộc tác giả luận văn sẽ phải dùng
đến phương pháp lịch sử.
- Muốn tìm ra được những nét truyền thống và đóng góp thực sự của tài năng Nguyễn Du
phải dùng đến phương pháp so sánh đối chiếu và không thể không vận dụng phương pháp
phân tích tổng hợp.
- Thao tác thống kê được sử dụng để phục vụ cho việc so sánh đối chiếu.


5. Phạm vi nghiên cứu và những đóng góp khoa học của luân văn:
Lí thuyết tiếp nhận văn học chỉ ra rằng tiêu thụ văn học là hấp thu giá trị văn hóa. Những
tác phẩm ưu tú, nhất là những kiệt tác hàm chứa trong nó rất nhiều giá trị văn hóa.
Chiều sâu văn hóa lịch sử của các kiệt tác biểu hiện ở độ sâu của triết lí nhân sinh, ở
bề dày những kinh nghiệm thẩm mĩ. Văn học không phải là bản thân sự thực, mà là cách
nói về sự thực. Cách nói phong phú đa dạng bao nhiêu thì chất văn hóa càng thêm độ dày
bấy nhiêu.

15


Một đại kiệt tác như TK thì giá trị văn hóa văn học là vô cùng vô tận. Khai thác hệ thống
các giá trị ấy là việc của nhiều người, nhiều đời.
Với tính chất và khuôn khổ của luận văn, phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ là những nét
văn hoa có tính truyền thống của người Việt có thể tìm thấy trong TK trong sự đối sánh với
Kim Vân Kiều truyện. Đó là những nét tiêu biểu (tạm gọi như vậy) thuộc lĩnh vực tinh thần và
sinh hoạt giao tiếp.
Luận văn cố gắng hệ thống những nét văn hoa truyền thống ấy trong tác phẩm, đồng thời
đối chiếu và so sánh với tác phẩm "gốc" để thấy cái tài và cái tâm của Nguyễn Du, cũng như
nội lực văn hoa của dân tộc đã kết tinh trong con người danh nhân văn hoá họ Nguyễn - Người
đã hấp thụ sâu sắc nền văn hoá Việt và làm vẻ vang cho nền văn hoá ấy.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi luôn có ý thức tránh cách làm văn hoa học
so sánh, chúng tôi luôn tuân thủ mục đích: Tìm hiểu, giải thích sức sống kỳ diệu của TK và
không gian, đời sống văn hóa mà TK tạo ra.
Từ mục đích nghiên cứu và phạm vi của đề tài, luận văn sẽ tập trung tìm hiểu, khảo sát
đối tượng ở bốn nhóm tài liệu có liên quan trực tiếp như: Ì, nhóm tác phẩm KVKT dịch sang
quốc ngữ và các bản TK quốc ngữ; 2, nhóm tài liệu viết về văn hoa phong tục của người Việt;
3, nhóm những công trình nghiên cứu về TK và Nguyễn Du và các công trình tư liệu về TK; 4,
nhóm công trình sưu tập tục ngữ ca dao của người Việt. Chúng tôi xem tục ngữ ca dao là lĩnh
vực kết tinh các giá trị văn hoa, và là biểu hiện của truyền thống văn hoa người Việt, vì nói như

Hồ Chí Minh "đó là những hòn ngọc quí". Các giá trị ấy đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn
đời sống, trong trường kì lịch sử.
Vì dung lượng có hạn của luận văn và hạn chế về tài liệu nghiên cứu (do chưa sưu tập
được đầy đủ), cho nên có thể các giá trị truyền thống của văn hoa người Việt chưa được khái
quát - hệ thống một cách đầy đủ, càng không được trọn vẹn. Chúng tôi xin được tiếp tục nghiên
cứu ở những công trình khác. Các lĩnh vực đòi hỏi phương pháp nghiên cứu chuyên nghành
như nhạc, họa . . . chúng tôi xin được điểm qua.

6. Cấu trúc của luân văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo, luận văn được tổ chức thành 3 chương:
16


- Chương 1: Khái quát những điểm giống và khác nhau giữa hai tác phẩm (35 trang).
Ở chương này chúng tôi nêu khái quát những dư luận chung về hai tác phẩm trong dòng
thời gian từ khi chúng xuất hiện; đồng thời nêu những điểm giống và khác nhau ở một số
phương diện như cốt truyện, hệ thống nhân vật, chủ đề...và khẳng định sự sáng tạo của Nguyễn
Du.
Chương 2: Truyền thống văn hóa người Việt trong TK qua đối sánh với Kim Vân Kiều
truyện (75 trang ).
Trong chương này, bước đầu chúng tôi tìm hiểu và khái quát những nét văn hóa tinh thần
và sinh hoạt giao tiếp có tính truyền thống của người Việt mà nhân dân đã và sẽ tìm thấy trong
TK qua đối sánh với Kim Vân Kiều truyện; khẳng định thiến tài mẹ Nguyễn Du trong việc bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
-

Chương 3: Đời sống văn hoá Kiều (50 trang).

Chương này chúng tôi tìm hiểu những hình thức sinh hoạt văn hóa có tính cộng đồng xuất
phát từ TK gắn liền với không gian văn hóa và sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Việt.


17


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT NHỮNG ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU
GIỮA HAI TÁC PHẨM
1.1.Kim Vân Kiều truyện và Đoạn Trường Tân Thanh trong "tầm đón " của công
chúng
1.1.1.Đối với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa văn học Trung Quốc thì cùng với tư tưởng triết học (là
một trong những cây cổ thụ của Phương Đông), thì lĩnh vực văn chương của Trung Quốc cũng
làm cho nhân loại phải kính phục. Những bài dân ca trong Kinh thi, hàng chục ngàn bài thơ
Đường cho đến nay vẫn là những mẫu mực kinh điển, vẫn là thành tựu độc đáo của thơ ca nhân
loại (hiện còn 48900 bài của 2300 tác giả, sản phẩm của gần ba thế kỉ thơ ca gắn với sự tồn tại
của nhà Đường từ năm 618 - 907). Nhưng những đại kì thư của Trung Quốc lại không phải là
thơ ca mà là những pho tiểu thuyết đồ sộ hàng trăm hồi liến tục xuất hiện trong gần 600 năm
(từ cuối thế kỉ XIV - XIX), gọi là tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh.
Trong tâm thức sáng tạo văn hoá của người Trung Hoa, họ lúc nào cũng thích hướng tới
những cái to tát hoành tráng kì vĩ, họ thích làm "những điều mà loài người không làm nổi" (chữ
của Phan Ngọc). Họ thích khái quát vào các chữ đại (to lớn), và những cái tên Đại Hán, Đại
Đường, Đại Minh, Đại Thanh không có gì là không giải thích được.
Tiểu thuyết 20 hồi KVKT của TTTN ra đời vào thời Khang Hy nhà Thanh (khoảng 1662
- 1729). Đây là thời kì tiểu thuyết phát triển rực rỡ. Gần sáu trăm năm tiểu thuyết Trung Quốc
với một khối lượng tác phẩm đồ sộ, nhưng loại của hiếm được gọi là "đại kì thư" (sách lạ) thì
chỉ đếm được trên đầu ngón tay, chưa quá chục bộ. Lịch sử Kì thư của Trung Quốc cũng có
một quá trình, giai đoạn bởi phải chờ sự thẩm định của công chúng và thời gian. Đầu tiên là
giai đoạn của "Tứ đại kì thư" gồm các anh tài như: Tam quốc chí diễn nghĩa (La Quán Trung),
Thủy Hử truyện (Thi Nại Am), Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần - Cao Ngạc) và Tây Du Kí
(Ngô Thừa Ân). Giai đoạn "Lục tài tử" thêm hai bộ là Đông Chu Liệt Quốc (Phùng Mộng
Long) và "đệ nhất dâm thư" Kim Bình Mai (Tiếu Tiếu Sinh). Thời kì của "bát đại kì thư" có

thêm hai tác phẩm nữa là Nho lâm ngoại sử (Ngô Kính Tử) và Liêu Trai chí dị (Bồ Tùng Linh).
18


Vậy là KVKT của TTTN chỉ là một tác phẩm "thường thường bậc trung", nó đã cùng
chung số phận với các tác phẩm khác trong "rừng* tiểu thuyết ít tên tuổi kia: hầu như bị lãng
quên ngay trên quê hương của nó. Có thể có nhiều lí do khác nữa, nhưng theo chúng tôi đây có
thể là một trong những lí do mà Nguyễn Du đã chọn làm "nguyên liệu" ban đầu cho đại kiệt tác
của mình.
Từ một sự việc có thật trong lịch sử Trung Quốc, TTTN đã mở rộng qui mô thành một
pho tiểu thuyết chương hồi (20 hồi) với một tham vọng kể lại một chuyện bất hủ "câu chuyện
tốt đẹp truyền đến bất hủ vậy" (Kết thúc KVKT). Đương nhiên TTTN khi viết KVKT không
thể ra khỏi tọa độ của truyền thống văn hóa văn học Trung Quốc. Là một tiểu thuyết chương
hồi, KVKT có nhiều truyện nhỏ: truyện tình yêu nam nữ bi hoan li hợp, gặp gỡ, chia lìa, đoàn
viên; truyện vu oan giá họa; truyện bán mình chuộc cha...Truyện nào cũng có đầu có cuối và
rườm rà chi tiết. Để giải quyết câu chuyện phải dùng đến "cơ mứu mẹo mực", câu chuyện phải
"Kì" , vô kì bất truyền (Kì là ngẫu nhiên, kì lạ, hiếm có, khác thường; không kì không lưu
truyền được). Đây là một phạm trù mĩ học của Trung Quốc và do đó mà trở nên bất hủ. Từ đây
nảy sinh tâm lí chuộng lạ. KVKT cũng lắm chuyện kỳ. Vương Thúy Kiều khóc mồ vô chủ giữa
tiết thanh minh là kì, tự hứa việc trăm năm với bạn tình cũng kì, tự quyết định bán mình càng
kỳ (Vì luật tục Trung Quốc không cho phép như vậy), bài học nghề của mụ Tú Bà càng kỳ hơn
nữa...Cách bố trí câu chuyện lại phải "xảo" (xảo là khéo) vì "Vô xảo bất thành thư" (Không
khéo thì không thành sách). "Khéo" trong chuyện là kể đến chỗ hay thì dừng lại, kể sang truyện
khác (dùng công thức: Muốn biết thế nào xem hồi sau sẽ rõ), sắp xếp những sự việc ngẫu
nhiên, tạo ra những sự hiểu lầm. KVKT cũng có nhiều chỗ "xảo", Vương Thúy Kiều nhiều lần
lấy chồng, nhiều cuộc ra đi, nhiều lúc đi tu...Nhưng không lần nào giống lần nào.
Cuốn tiểu thuyết của ông cũng không thể ra ngoài khu vực tình và khổ, hồng nhan bạc
mệnh. Bởi thời điểm mà TTTN viết KVKT là thời điểm "cao trào" của loại tiểu thuyết tài tử
giai nhân (Có khoảng trên dưới 50 bộ, mỗi bộ khoảng 16-20 hồi), vì nó kết hợp được với nhu
cầu buông thả tình cảm kiểu thi dân với sự ca ngợi lễ giáo phong kiến (Thời nhà Minh, Trung

Quốc đã manh nha những mầm mống của chủ nghĩa tư bản, đô thị phát triển, hàng hóa phong
phú ...).

19


Như đã nói, khi viết KVKT, TTTN muốn nói đến một cái gì đó bất hủ muôn đời. Nhưng ý
nghĩa khách quan của tác phẩm trong tầm đón của độc giả (xin hiểu theo nghĩa rộng - cả phê
bình nghiên cứu) lại không "chiều" theo quan niệm của ông. Đương thời khi tác phẩm ra mắt
độc giả thì có nhà phê bình là Kim Thánh Thán đã viết lời bình trước mỗi hồi truyện mà tựu
trung là ông ca ngợi cái khéo (cái "xảo") của truyện, là ở sự kết hợp chữ tình với lễ nghĩa, là
nhà làm sách đã khéo xếp đặt cho cây tình nảy nở sum suê mà lễ nghĩa vẫn được bảo toàn, đó
là cái thú chung thường thấy của loại chuyện tài tử giai nhân vậy. Kim Thánh Thán nói "chữ
tình là một đại kinh, chữ khổ là một đại vĩ", nhưng đọc toàn truyện và xem hành động của
Vương Thúy Kiều, cũng như nhận xét của Kim Thiên Lý thì chữ "lễ nghĩa" mới là một "đại vĩ".
Có thật là Kim Thánh Thán đã là người "ngoại thư", là người ghi lời bình ở mỗi hồi
truyện hay không còn phải tiếp tục nghiên cứu. Vì theo như Trần Đình Sử, TTTN viết KVKT
đời Khang Hy (1662 - 1729) mà Thánh Thán đã là người thiên cổ từ năm 1661. Hơn nữa trong
bản in KVKT của nhà xuất bản Hoa Hạ, 1995 không còn ghi là Thánh Thán ngoại thư nữa mà
chỉ ghi TTTN biên thứ, cũng không có lời bình ở mỗi chương [75,34].
Ngoài ý kiến trên, cho đến nay vẫn chưa thấy có "những đánh giá" nào khác cho riêng
KVKT. Các nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc khi đề cập đến loại tiểu thuyết tài tử giai nhân
(trong đó có KVKT) đều có nhận xét chung là "Chưa có sáng tạo mới về nghệ thuật, vẫn mang
nhiều công thức cứng nhắc nên không được ưa chuộng" [Lư Hưng Cơ, nhà nghiên cứu văn học
Trung Quốc 28,221].
Trước đó, Tào Tuyết cần rồi Lỗ Tấn đều cho rằng: "Nghìn bộ chung một sáo, cốt truyện
xây dựng sơ sài cốt sao kể được những truyện trộm ngọc cắp hương, hò hẹn tư thông, không hề
khấc hoa được vài phần tình cảm chân thực của nữ giới" [84,3].
Còn giới nghiên cứu Việt Nam, khi so sánh KVKT và TK để chỉ ra sự sáng tạo của
Nguyễn Du (thường so sánh bộ phận), đều có chung một ý kiến: So với KVKT thì TK đã đi rất

xa, KVKT chỉ là nguyên liệu ban đầu còn thô nhám ...
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khi nghiên cứu Thi pháp TK bằng cách so sánh lịch đại
KVKT từ sự thật lịch sử đến sáng tạo nghệ thuật đã nhận xét như sau:

20


"TTTN quả là làm phong phú thêm rất nhiều cho KVKT . . ., là một truyện mới, vượt hẳn
lên nội dung lịch sử cụ thể để nói một cái gì đó bất hủ muôn đời theo quan niệm của tác giả.
Nhưng tác giả trọng lý hơn tình, nhân vật của ông cũng cốt sống hợp lí hơn tình, nên ít sống
động, thuyết phục đáng nhớ..."[75,35,36].
Tuy vậy, tiểu thuyết tài tử giai nhân kiểu KVKT cũng có vai trò lịch sử của nó là "sự báo
hiệu cho sự ra đời của tiểu thuyết về tình người (nhân tình tiểu thuyết) như Hồng Lâu Mộng
sau này (theo ý kiến Lư Hưng Cơ) [28,221].
1.1.2.Đối với TK của Nguyễn Du
Từ khi "trình làng", TK của Nguyễn Du đã trở thành một hiện tượng văn học khác
thường. Nó trở thành trung tâm của sự chú ý của mọi tầng lớp bạn đọc, từ người tri thức đến kẻ
bình dân. Chưa đọc TK, chưa hiểu Kiều, chưa thấm Kiều là người chưa sành điệu. Câu ca dao
"Làm trai phải biết tổ tôm, uống chè chính Thái, xem nôm Thúy Kiều" đã nói lên vị trí không
thể thiếu được của TK trong đời sống của nhân dân ta.
Người khen cũng nhiều, chê cũng không ít nhưng đều nhất trí với nhau là văn Kiều đã đạt
đến độ hoàn thiện, có đủ tư cách đại diện cho quốc hồn quốc túy của dân tộc Việt.
Ngót hai trăm năm sống trong lòng nhân dân, TK đã chứng tỏ một đời sống kì lạ của nó.
Đã có cả một luận án tiến sĩ ngữ văn khái quát phân tích Lịch sử tiếp nhận TK (Phan Công
Khanh, 2001), [55].
Trong lời nói đầu công trình Thi pháp TK, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử viết:
"Có những tác phẩm văn học thiên tài, kết tinh văn hóa tinh thần của một đất nước, phổ
bầy vẻ đẹp cửa một thứ tiếng biểu hiện tài hoa cửa một dân tộc. Chúng chẳng những trở thành
niềm đàm mê và tự hào của dân tộc đố, mà còn là chiếc cầu nối đem lại bao nhiêu tình yêu và
lòng kính trọng của các dân tộc khác.

Chúng ta may mắn có được TK nhờ đó mà văn học Việt Nam thêm rạng rỡ, vẻ đẹp của
tiếng Việt được tôn xưng, tài năng người Việt được khẳng định. Giá trị của TK trước hết là giá
trị sáng tạo văn hóa, văn chương tuyệt đỉnh..."

21


Như vậy, giá trị, vị trí của TK trước hết là giá trị sáng tạo văn hóa, văn chương tuyệt đỉnh.
Dù là lấy KVKT làm nguyên liệu nhưng thành tựu nghiên cứu của văn học so sánh đã hoàn
toàn khẳng định Đoạn Trường Tân Thanh là một công trình sáng tạo, một sáng tác.
Ngay các học giả Trung Quốc trong công trình so sánh văn học Trung Quốc và văn học
nước ngoài, tuy cho rằng TK là "Phiên bản" của tiểu thuyết Trung Quốc, nhưng đã viết. "TK
tuy vay mượn đề tài của tiểu thuyết KVKT, nhưng quyết không phải là một tác phẩm dịch,
cũng không phải là tác phẩm mô phỏng máy móc giản đơn, mà là một thành quả lớn của việc
cấu tứ lại một cách tinh vi, và tái tạo lại trên cơ sở di thực" [5, 317-323].
Gần đây Nguyễn Thạch Giang và một số giáo sư Trung Quốc đã tiến hành đối chiếu từng
câu của hai tác phẩm và xác nhận rằng trong 3254 câu thơ Kiều, chỉ có 1313 câu là diễn ý từ
nguyên tác [82, 920].
Như thế, các nhà nghiên cứu đã chứng minh yếu tố diễn ý - dịch chỉ là phần nhỏ, phần
phụ thuộc. Đúng như Đào Duy Anh đã viết "Nguyễn Du đã hoán cốt đoạn thai KVKT mà tạo
thành tác phẩm mới". Còn Trần Đình Sử xem "quan hệ " giữa KVKT và TK là "Hồn Trương
Ba trong xác cha hàng thịt".
Chúng tôi không có ý định tập hợp những lời ngợi khen TK của Nguyễn Du, song do tính
chất của luận văn là so sánh đối chiếu nên cũng mạnh dạn ghi ra một vài ý kiến trong rất nhiều
lời khen để chia sẻ "niềm đàm mê và tự hào" đối với đại kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn
Du, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du.
Mộng Liên Đường ngay từ năm 1820 đã viết; "Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo,
tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấy cả sáu cõi, tấm lòng
nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy" [82, 166].
Đào Nguyên Phổ (1860 - ?): "Càng đọc thuộc lại càng không biết chán thật là một khúc

nam âm tuyệt xướng, một điệu tình phổ bực đầu vậy" [82, 163].
Trần Đình sử: "Trước TK không có sách gì hay bằng TK, và sau TK cũng không có sách
gì hay hơn TK. .." [75, 67].
Sở dĩ TK đạt được ý thơ như vậy điều trước tiên là tác giả của nó phải là một thiên tài,
đồng thời là một người Việt Nam mang trong huyết quản văn hóa Việt Nam, tâm thức Folklore
22


(tâm thức văn hóa dân gian) như ông từng tâm sự "thôn ca sơ học tang ma ngữ", một nội lực
văn hóa Việt dồi dào. Phải là một người yêu tiếng Việt, nhìn thấy sức mạnh nghệ thuật của
những "lời quê " nôm na đến thành máu thịt, thì một người xuất thân "Danh gia vọng tộc", từng
được đào tạo bởi một nền văn chương cử tử - giáo dục chính thống bằng chữ Hán và từng nhập
thế vì đã qua cửa Khổng sân Trình, là một người sành sỏi về chữ Hán, thứ chữ của thánh hiền
(ông có đến ba tập thơ chữ Hán gồm 250 bài, đều là những tác phẩm xuất sắc), mới có một tác
phẩm Nôm xuất sắc đến bất ngờ như TK. Ông đã dồn tất cả tài năng, tâm huyết, tình yêu và sự
sống cho Đoạn Trường Tân Thanh. Tâm thức văn hóa truyền thống của dân tộc trong con
người đại thi hào không cho phép ông làm khác được.
Thành tựu nghiên cứu tổng thể của các nhà Kiều học đều đi đến một nhất trí rằng nếu
không có truyền thống văn hóa văn chương dân tộc thì chắc chắn sẽ không có được TK. Nghĩa
là viết TK Nguyễn Du đã kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa văn học
dân tộc, hồn cốt văn hóa dân tộc.
Ông Đào Duy Anh cho rằng văn chương của Đoạn Trường Tân Thanh đã thừa thụ tất cả
các tinh hoa đặc sắc của các tác phẩm thời Lê mạt như Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm
khúc, truyện Trinh thử, truyện Phan - Trần, Hoa tiên kí...
Học giả Hoàng Xuân Hãn nhận định nguồn gốc văn Kiều xuất phát từ văn phái Hồng sơn
- một vùng văn hóa thuần Việt.
Một số độc giả khác tìm thấy nguồn gốc văn Kiều ở những hướng khác. Ở "bản năng vô
thức của dòng họ, của đẳng cấp và xã hội Việt Nam, ở sự suy đồi của bản ngã" (Trương Tửu).
Cội nguồn văn Kiều "trong truyền thống chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du" (Đỗ Đức
Dục) . . . Còn những ý kiến cho rằng TK ảnh hưởng sâu sắc văn học dân gian như Triệu Dương

(1963), Vũ Ngọc Phan (1965) . . . đều có bài nghiên cứu mối quan hệ này, đều là những công
trình nghiên cứu khoa học thuyết phục. Riêng nhà thơ Xuân Diệu trong một tác phẩm của mình
đã cho rằng: "không học ca dao thì không thể giỏi thơ được. Nguyễn Du đã học trường cô Uy,
cô Sa, Trường Lưu Nhị Nữ, học trường hát ví của các cô gái phường vải thì mới có hơi thơ
Kiều" [95].

23


Dù tiếp cận theo hướng nào, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy rằng TK vẫn nằm trong
văn mạch dân tộc và nó đã có trước những tiền đề nghệ thuật để đến nó là kết quả của bước
nhảy vọt về chất.
Theo đó, sự xuất hiện TK không phải là một sự tình cờ ngẫu nhiên, mà là sự kế thừa và
phát huy rực rỡ vốn liếng văn học nước nhà. Hai truyền thống lớn có ảnh hưởng trực tiếp tới
TK là ngâm khúc và truyện thơ Nôm. Hai truyền thống này đúng là đã chuẩn bị tư tưởng và
cảm hứng sáng tạo cho tác giả TK. Những vấn đề lớn về số phận cá nhân , hạnh phúc trần thế,
quyền sống của con người, khát vọng tự do công lý ... mà các khúc ngâm, truyện thơ Nôm đề
cập sẽ được Nguyễn Du khơi sâu trong kiệt tác của mình. Đi ngược về phía cội nguồn nhân
dân- dân gian những tư tưởng ấy đã được đề cập trong ca dao, tục ngữ. Chẳng hạn vấn đề "
thân mệnh tương đố", dân gian có câu: "Chữa được bệnh chứ không ai chữa được mệnh",
"mệnh" ở đây là thân mệnh, số mệnh. Hay vấn đề "tài mệnh, tài sắc tương đố", dân gian cũng
đã nói "Trai hữu tài vô duyên ,gái hồng nhan bạc phận"...
TK là sự kết tinh kỳ diệu các thành tựu nghệ thuật văn học tiếng Việt thời đại Nguyễn Du,
của truyền thống văn hóa, bản lĩnh văn hóa dân tộc. Nguyễn Du đã hấp thụ những tinh hoa văn
hóa dân tộc, của tiếng Việt chuyển nó cho bạn đọc, cho nhân dân mình.

1.2.Những điếm giông và khác nhau giữa hai tác phẩm
1.2.1.Về cốt truvên
1.2.1.1.Tóm tắt cốt truyện.
Sáng tạo TK, Nguyễn Du dựa vào cốt truyện tiểu thuyết chương hồi KVKT của TTTN.

Nói dựa là ở phía quan phương nghĩa là cốt truyện và hệ thống nhân vật phần lớn các tình tiết,
thậm chí khi cần nghệ sĩ lấy lại cả những chi tiết nhỏ, ý nhỏ để chuyển thành một vài câu thơ.
Hệ thống tình tiết cốt truyện giữa TK và KVKT vì thế có thể tóm tắt như sau: Hoan cảnh gia
đình Vương viên ngoại, chị em Thúy kiều đi chơi xuân gặp mả Đạm Tiên, gặp Kim Trọng, tối
về được Đạm Tiên báo trước số kiếp đoạn trường, Vương bà an ủi; Kim Trọng từ quê nhà tìm
đến thuê trọ bên cạnh nhà Kiều, Kiều đánh rơi thoa, Kim Trọng nhặt được, đôi lứa trao kỷ vật
cho nhau rồi gặp nhau tự tình thề nguyện trọn đời bến nhau; Kim Trọng phải xa Kiều về Liêu
Dương hộ tang chú, thằng bán tơ vu oan, bọn sai nha đến cướp phá vơ vét, tra tấn cha con
24


Vương Viên ngoại; Kiều phải bán mình chuộc cha, viên lại họ Chung thu xếp đút lót để giải
cứu cha và em Kiều; Kiều trao duyên cho em, thất thân với Mã Giám Sinh, định tự tử nhưng sợ
liên lụy đến gia đình; Mã Giám Sinh đưa Kiều về nhà chứa Tú Bà, bị đòn ở nhà chứa Tú Bà,
Kiều tự tử không chết, mắc mưu Sở Khanh, phải chịu "tiếp khách"; Thúc sinh chuộc Kiều ra rồi
cùng chung sống ở Lâm Tri; Hoạn Thư sai Khuyển ưng bắt cóc Thúy Kiều, Thúc Sinh tưởng
Kiều đã chết, về quê mới biết Hoạn Thư bày trò đánh ghen " quỉ quái tinh ma" mà không dám
hè răng, Kiều được cho ra chép kinh ở gác Quan Âm, Thúc Sinh lẻn ra gặp Kiều bị Hoạn Thư
rình nghe, Kiều hoảng hồn tìm cách trốn khỏi nhà họ Hoạn, đến náu ở am Giác Duyên, sau
Giác Duyên phát hiện việc ăn cắp chuông vàng khánh bạc, sợ bị lôi thôi đã gởi Kiều cho Bạc
má má, Kiều rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh, trở lại kiếp sống nhà chứa lần thứ hai; ở đây Kiều
gặp Từ Hải nhờ Từ Hải báo ân báo oán, sống với Từ năm năm trong triều đình riêng một góc
trời, Hồ Tôn Hiến cho người đến dụ hàng, Từ Hải nghe lời Kiều chấp thuận đầu hàng, nên bị
phục binh đánh úp, Từ Hải thất trận chết đứng; Hồ Tôn Hiến mở tiệc mừng công, bắt Kiều hầu
rượu, sau đem "gả" cho người thổ quan, Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường, được Giác
Duyên thuê người chờ sẩn cứu vớt; Kim Trọng xong việc tang chế trở lại, thì gia đình Kiều ly
tán, Kim Trọng tìm rước Vương Ông, Vương Bà về phụng dưỡng; theo ý nguyện của Kiều,
chàng Kim được gia đình tác hợp với Thúy Vân; nhưng vẫn không nguôi nhớ thương người
xưa, cho tìm khắp nơi mà vẫn chưa gặp, nghe họ Đô, Thúc Sinh, người Hàng Châu kể lại tưởng
Kiều đã không còn trên cõi đời nữa; cuối cùng nhờ một sự tình cờ cả gia đình Vương Ông và

Kim Trọng tìm ra Kiều tại am Giác Duyên, cả gia đình đoàn tụ, Kim Trọng đề nghị nối lại
duyên xưa, gia đình họ Vương cũng quyết tâm vun vào, đôi lứa làm lễ thành hôn nhưng Kiều
tự thấy quá khứ ô nhục của mình từ chối quan hệ vợ chồng thực sự với người yêu, hai người
chấp nhận tình bạn nhưng vẫn yêu thương trân trọng lẫn nhau như thuở ban đầu.
1.2.1.2.Giống nhau.
Như đã nói, Nguyễn Du lấy lại hầu hết các tình tiết và nhân vật, từ thằng bán tơ bóng ma
Đạm Tiên, Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan, Vương bà, vương ổng, mụ quản gia, Mã Kiều,
Khuyển, Ưng, Giác Duyên, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, thổ quan, ngư phủ, thầy
cúng; cả mấy lần Kiều đổi tên thành Hoa Nô, Trạc Tuyền.

25


×