1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG XUÂN THỌ
Mã số:…………………………...
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ
CHO HỌC SINH THPT
Người thực hiện: TRƯƠNG MỸ NGA
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn
Năm học: 2012 -2013
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
2
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên:
TRƯƠNG MỸ NGA
2. Sinh ngày: 27/05/1984
3. Giới tính: Nữ
4. Địa chỉ: Ấp Thọ Trung, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại:
Cơ quan: 0613.731769
Di động: 0982460982
6. Email:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Xuân Thọ
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị cao nhất: Thạc sỹ giáo dục học
- Năm nhận bằng 2013
- Chuyên ngành đào tạo: Lý luận và phương pháp dạy học môn Ngữ văn
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn Ngữ văn
- Số năm kinh nghiệm: 7 năm
- Sáng kiến kinh nghiệm từng có trong 5 năm gần đây:
3
MỤC LỤC
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 5
1. Sự phát triển của khoa học và công nghệ 5
2. Quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn 5
3. Mục đích của việc dạy học văn trong nhà trường 6
4. Tăng cường tính thực hành trong quá trình dạy học văn. 6
1. Lý thuyết về hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự 7
1.1. Hoạt đông đọc hiểu và đọc hiểu văn bản tự sự 7
1.1.1. Khái quát chung về hoạt động đọc hiểu 7
1.1.2. Đọc hiểu tác phẩm tự sự 10
1.2.3. Tình hình dạy đọc hiểu văn bản tự sự ở trường THPT. 11
1.2. Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự 13
1.2.1. Khái niệm bài tập, hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự 13
1.2.2. Sự cần thiết của hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự 14
1.2.3. Định hướng khi xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện đọc hiểu văn bản tự sự 16
1.2.4. Yêu cầu khi xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự 18
2. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự ở trường THPT 20
2.1. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về nhan đề của văn bản tự sự 20
2.2. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về hình tượng nhân vật trong văn bản tự sự 21
2.3. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về hình tượng không gian, thời gian trong văn bản tự sự 27
2.4. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật mở đầu, kết thúc văn bản tự sự 30
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 32
1. Mô tả thực nghiệm 32
2. Nội dung và quy trình thực nghiệm 32
3. Cách thức đánh giá 32
4. Đánh giá kết quả thực nghiệm 35
5. Kết luận chung 38
THƯ MỤC THAM KHẢO 40
4
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Sự phát triển của khoa học và công nghệ
Từ xưa đến nay, việc dạy và học văn trong nhà trường bao giờ cũng hết sức
quan trọng, nó góp phần hoàn thiện tâm hồn và nâng cao nhân cách cho các thế hệ
học sinh. Làm sao để học sinh (HS) có thể đọc hiểu và rung động trước những áng
văn hay? Đó là vấn đề đã được đặt ra từ lâu trong thực tiễn dạy học văn nói chung
và dạy học văn ở trường THPT nói riêng.
Chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, thời đại mà thế giới đã
và sẽ chứng kiến tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Do đó,
không quá khó hiểu khi giới trẻ hiện nay có xu hướng tìm đến Ngoại ngữ, Tin học
và các môn khoa học tự nhiên như là một sự bảo đảm cho tương lai. “Khi học sinh
coi môn Ngữ văn là môn phụ, các em “một lòng một dạ” theo đuổi các “môn
chính” để thi đại học thì làm sao có thể rung động trước số phận của Thuý Kiều,
chị Dậu, Chí Phèo, những vần thơ như “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” hay
“Những luồng run rẩy rung rinh lá / Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”…”
[3]. Có thể đây mà một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS ngày nay
không quan tâm nhiều đến văn hoc, kỹ năng đọc hiểu, cảm thụ văn học rất yếu.
2. Quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn
Nhìn lại thực trạng dạy học văn hiện nay ở trường phổ thông, ta dễ nhận
thấy vấn đề rèn luyện kỹ đọc hiểu tác phẩm văn học cho HS chưa được quan tâm
đúng mức. Lâu nay, bản thân chủ thể HS chưa được đặt vào đúng vị trí vốn có và
cần có trong quá trình đọc hiểu tác phẩm mà chỉ được coi là đối tượng tiếp thụ của
giáo viên (GV).
Gần đây, trong xu hướng phát triển của quan điểm dạy học hiện đại, vai trò
chủ thể của HS được đề cao, HS chính là chủ thể cảm thụ nghệ thuật. Nói như GS
Phan Trọng Luận: “Coi học sinh là chủ thể nhận thức, chủ thể cảm thụ trong quá
trình học văn là xác định rõ tính ý thức, tính tự giác, tính chủ động sáng tạo của
học sinh” [9, tr.224]. Do đó, xây dựng hệ thống bài tập là một trong những biện
pháp có có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình phát huy tính chủ động,
5
sáng tạo của HS; đồng thời, cũng là một trong những biện pháp nhằm đảm bảo
nguyên tắc tích hợp trong dạy học văn ở trường THPT hiện nay.
3. Mục đích của việc dạy học văn trong nhà trường
Qúa trình dạy học văn hiện nay cho thấy, để học tốt văn, người học cần phải
có kỹ năng đọc hiểu văn bản, biết cảm thụ, cảm nhận tốt, phải biết rung cảm trước
cuộc đời và số phận của con người trong tác phẩm thì mới có thể thấy được giá trị
đích thực của văn học. Suy cho cùng, mục đích của việc dạy Ngữ văn là giúp học
sinh có những kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm tiêu biểu (được chọn làm văn
bản đọc – hiểu), biết nhận thức và rung động trước cái hay, cái đẹp của văn
chương, của ngôn ngữ dân tộc, có kỹ năng trình bày một cách chính xác rồi hấp
dẫn các ý tưởng, cảm xúc của mình. … “Sứ mệnh của dạy văn là bồi dưỡng rèn
luyện cảm xúc thẩm mỹ…” [7].
4. Tăng cường tính thực hành trong quá trình dạy học văn.
Xây dựng hệ thống bài tập là một trong những biện pháp có có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong quá trình phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS. Hầu hết
các phương pháp dạy học tích cực đều thông qua hệ thống bài tập để HS tìm tòi,
suy nghĩ và chiếm lĩnh tri thức, đồng thời tăng cường tính thực hành trong quá
trình dạy và học. Trong khi thực tế, chúng ta ít rèn, dạy học còn thiên về lý thuyết,
thiên về thuyết giảng mà coi nhẹ luyện tập, coi nhẹ thực hành.
Hơn nữa, xây dựng hệ thống bài tập trong quá trình dạy học là một trong
những biện pháp góp phần hình thành và rèn luyện kỹ đọc hiểu văn bản văn học
cho HS, giúp học sinh có được những kỹ năng cơ bản khi đọc hiểu và tiếp nhận
văn học. Từ đó, HS sẽ không còn cảm thấy lúng túng, khó khăn khi đứng trước
một tác phẩm văn học, tự bản thân các em sẽ biết cách khám phá và cảm nhận thế
giới muôn màu muôn vẻ của văn chương.
Xuất phát từ những lí do trên, và trong khuôn khổ cho phép của một sáng
kiến kinh nghiệm, tôi chọn đề tài “Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng
đọc hiểu văn bản tự sự cho học sinh THPT”. Tôi không xây dựng hệ thống bài
tập đọc hiểu tác phẩm văn chương mà chỉ giới hạn ở phạm vi nghiên cứu là các
văn bản tự sự – một thể loại quen thuộc trong chương trình Ngữ văn THPT.
6
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Lý thuyết về hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự
sự
1.1. Hoạt đông đọc hiểu và đọc hiểu văn bản tự sự
1.1.1. Khái quát chung về hoạt động đọc hiểu
- Khái niệm đọc hiểu
Trong quá trình dạy học văn, khái niệm đọc hiểu đã thoát khỏi nghĩa thông
thường với hai thao tác đọc và hiểu mà đã trở thành một thuật ngữ của phương
pháp dạy học bộ môn và có nội hàm khoa học phong phú, gắn với lí luận dạy học
văn, lí thuyết tiếp nhận tác phẩm, lí thuyết giao tiếp, thi pháp học... Nó được hiểu
như là phương thức đọc văn nhằm mục đích cảm thụ và hiểu biết chính xác, cặn kẽ
tác phẩm văn chương, khám phá và chiếm lĩnh những giá trị văn chương. Nói như
giáo sư Nguyễn Thanh Hùng: “Đọc hiểu là quá trình lao động sáng tạo mang tính
thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc
trưng văn bản” [6].
Đọc hiểu văn là quá trình tự nhận thức, thưởng thức, đánh giá của con người,
là quá trình được ghi nhận thông qua hai mặt: kĩ thuật đọc và sự nắm vững ý nghĩa
văn bản nghệ thuật. Cả hai phương diện này tạo thành bình diện sư phạm của hoạt
động dạy học văn. Dạy đọc văn là cung cấp cho người tiếp nhận cách đọc để có
quan điểm, thái độ và kĩ năng đọc những sáng tạo ngôn ngữ theo quan điểm thẩm
mĩ nhất định. Thông thường có thể thấy đọc văn chương bao gồm từng bước, từng
yêu cầu mức độ gắn liền với các kĩ năng đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm.
Đọc một tác phẩm văn học theo phương thức nào thì cuối cùng vẫn phải đi
đến mục đích hiểu văn. Khái niệm “hiểu” ở đây không chỉ là nhận ra kí hiệu và
nghĩa của kí hiệu mà còn phán đoán ra ý muốn biểu đạt của tác giả, tức là đồng
cảm và nắm được những gì nhà văn muốn nói, muốn gửi gắm tới người đọc qua
những phương thức trình bày nghệ thuật hấp dẫn, mới lạ.
7
Có thể nói, đọc hiểu là một hình thức hoạt động có tính chất đặc thù của
nhận thức về văn học. Giữa đọc và hiểu tác phẩm có mối quan hệ biện chứng: do
hiểu đúng mà đọc đúng, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hơn. Đầu tiên là đọc để nắm
bắt được văn bản, làm cơ sở cho việc tìm hiểu văn bản. Hiểu nội dung tức là người
đọc đã phát hiện ra các thông tin mà tác giả gửi gắm trong văn bản tác phẩm, kể cả
việc nhận diện các yếu tố nghệ thuật đã được sử dụng nhằm chuyển tải thông tin
tới người đọc một cách ấn tượng. Như vậy, hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt
của ngôn từ nghệ thuật (còn gọi là hiển ngôn), để từ đó có thể hiểu rung cảm trước
những gì mà ngôn từ gợi ra để nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản (còn
gọi là hàm ngôn).
Do đó, đọc hiểu tác phẩm văn chương đòi hỏi người đọc không chỉ nắm bắt
thông tin mà còn phải thẩm thấu được thông tin, phân tích, đánh giá được khả năng
sử dụng ngôn từ của tác giả, tạo được mối giao cảm đặc biệt giữa tác giả và bạn
đọc và có thể truyền thụ cách hiểu đó cho người khác. Đúng như nhà văn Anh Đức
đã tâm sự: “Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng chữ mà còn thấy cảnh tượng ở sau
dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi rất xa, vẽ thêu ra lắm điều thú vị”.
Văn bản nghệ thuật chỉ thực sự có đời sống khi nó vận động trong cảm thụ của
người đọc. Mỗi người đọc văn, học văn bằng vốn sống, vốn văn hoá và thẩm mĩ
riêng sẽ có được hình ảnh riêng về tác giả, tác phẩm. Gắn liền với cá tính và được
xác định bởi cá tính tiếp nhận, đó là đặc thù của hoạt động tiếp nhận văn học và
cũng là đặc thù của hoạt động đọc hiểu.
Trong chương trình Ngữ văn bậc THPT hiện nay, đọc - hiểu được xem như
một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn.
- Vai trò của hoạt động đọc hiểu trong dạy học tác phẩm văn chương
Tác phẩm văn chương là sản phẩm tinh thần độc đáo của nhà văn. Để hiểu
tác phẩm nghệ thuật, người ta đọc cần phải sống và trải nghiệm với nó, nắm bắt
được phương thức tồn tại của tác phẩm cũng như logic phát triển tư tưởng của tác
giả trong tác phẩm. Do đó, đọc – hiểu có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy
học văn nói chung và dạy học tác phẩm văn chương ở trường THPT nói riêng.
8
Trước hết, đọc hiểu là một hoạt động phù hợp với đặc trưng của bộ môn văn.
“Môn Văn có vị trí đặc biệt trong nhà trường, nó là môn học gắn bó nhiều
nhất với nghệ thuật – một hoạt động kỳ diệu của con người, một lĩnh vực của tình
cảm, của trực giác, của tưởng tượng và của cái đẹp… Học văn trong nhà trường
không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ, về lý luận, về lịch sử văn chương mà
quan trọng hơn cả là bồi dưỡng và phát triển năng lực văn ở mỗi con người” [13,
tr.63]. Phát triển năng lực văn là phát triển năng lực sống, phát triển cá nhân, do đó
cũng là phát triển con người, năng lực làm người hiểu theo nghĩa bao quát của nó.
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Đối tượng được phản ánh trong văn
chương là cuộc sống muôn màu muôn vẻ, chủ yếu là cuộc sống của con người,
được tái hiện lại thông qua lăng kính chủ quan của người sáng tạo. Muốn hòa mình
vào cuộc sống ấy, người đọc trước tiên là phải tiếp xúc và giải mã lớp vỏ ngôn từ.
Bước qua lớp vỏ ngôn từ ấy, mới là thế giới cuộc sống mà nhà văn xây dựng. Đây
là một giai đoạn không đơn giản trong quá trình đọc – hiểu văn bản, nó bị chi phối
bởi nhiều yêu tố trong đó quan trọng nhất là năng lực tri giác ngôn ngữ của người
đọc.
Hơn nữa, trong văn chương nghệ thuật, người nghệ sỹ không chỉ phản ánh,
tái hiện lại cuộc sống mà còn bày tỏ thái độ chủ quan của mình, nói lên ước mơ
khát vọng của mình về thế giới, về cuộc sống. Người đọc phải bước từ thế giới
riêng của mình vào thế giới của nhà văn để hiểu và đồng cảm với những ước mơ,
những khát vọng ấy, đồng thời xây dựng những ước mơ, khát vọng của chính bản
thân mình. Chương trình Ngữ văn (2006) của Bộ GD-ĐT cũng ghi rõ: “Môn Ngữ
văn là môn học thuộc lĩnh vực thẩm mỹ... HS được làm giàu xúc cảm thẩm mỹ và
định hướng thị hiếu lành mạnh nhằm hoàn thiện nhân cách của mình”.
Ngoài ra, hoạt động đọc hiểu trong quá trình dạy học văn còn góp phần khơi
gợi, phát huy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của học sinh, truyền cho các em
lòng yêu thích văn chương.
Dạy văn phải phát huy tính độc lập, khơi gợi khả năng sáng tạo cho HS.
Hoạt động đọc trong nhà trường góp phần tạo điều kiện cho HS phát triển về mặt
9
năng lực văn học. Đây cũng chính là con đường duy nhất để chuyển dịch HS từ đối
tượng tiếp thu thụ động sang tư cách bạn đọc sáng tạo, tư cách chủ thể tích cực
năng động trong quá trình tiếp nhận tác phẩm.
Đọc hiểu tác phẩm trong nhà trường không chỉ giúp cho học sinh lĩnh hội
được nghệ thuật, ý thức được những tác dụng của nó, mà còn hướng đến tổ chức sự
giao tiếp, đối thoại có hiệu quả với nghệ thuật và phát triển tiềm năng cảm thụ, tiếp
nhận, qua đó từng bước hình thành, phát triển phẩm chất tư cách chủ thể văn học
bạn đọc sáng tạo của mình. Hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn
chương kích thích các em yêu văn hơn và bày tỏ quan điểm chính kiến của mình.
Muốn làm được như thế thì người thầy phải biết tôn trọng người học, đặt học trò
vào đúng vai trò chủ thể của mình, phải có đối thoại dân chủ và tạo ra cái mới, cái
lạ cho HS.
Hơn nữa, trong quá trình đọc hiểu, người học không chỉ đọc để suy nghĩ, để
liên tưởng, tưởng tượng mà còn phải thâm nhập vào tác phẩm, sống trong mối
quan hệ giữa các yếu tố tạo nên tác phẩm để cùng nhà văn đồng sáng tạo. Hoạt
động đọc hiểu sẽ góp phần khơi gợi ở HS tình yêu, sự đam mê với văn chương
thông qua sự thấu hiểu, đồng cảm với cuộc đời, số phận nhân vật, qua sự cảm nhận
cái hay, cái tính tế, sáng tạo của nhà văn trong việc sử dụng câu, từ, hình ảnh. Nó
là chìa khóa mở ra một thế giới nghệ thuật đầy hứng thú và say mê cho các em.
Theo như các nhà lí luận, đọc hiểu là phương pháp tiếp nhận nghệ thuật
bằng sự cảm thụ trực tiếp. Mục đích của đọc hiểu là hình thành và duy trì những ấn
tượng nghệ thuật để học sinh tiếp tục đi sâu vào nội dung tư tưởng và hình thức
ngôn ngữ tác phẩm. Trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương, đọc hiểu làm
cho tiếng nói nhà văn gần gũi với học sinh, làm cho học sinh tiếp nhận được tác
phẩm, giờ học văn trở thành giờ tâm tình, trao đổi sinh động, không còn nặng nề,
khô khan.
1.1.2. Đọc hiểu tác phẩm tự sự
- Khái niệm về tác phẩm tự sự:
Tự sự là thể loại văn học phản ánh cụ thể hiện thực đời sống một cách khách
quan bằng cách kể lại sự việc, sự kiện, miêu tả tính cách nhân vật, chi tiết... có đầu
10
có đuôi thông qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh và được kể lại bởi một người kể
chuyện nào đó (truyện có thể được kể ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ 3).
- Đặc trưng của tác phẩm tự sự
Tình tiết là dấu hiệu đặc trưng đầu tiên của truyện. Tình tiết là sự việc, là
biến cố đang vận động, đang phát triển. Tình tiết làm cho những sự việc ngẫu
nhiên hằng ngày kết tinh ngưng đọng lại thành truyện. Dù biến hoá trăm màu
nghìn vẻ, tình tiết luôn luôn tồn tại trong truyện. Tình tiết truyện có khi đơn tuyến,
có khi đa tuyến, có khi một chiều, có khi nhiều chiều.
Nhưng trung tâm của sự việc, của biến cố là con người, trung tâm của tình
tiết là nhân vật. Đối tượng chủ yếu của văn học là những con người với cuộc sống
bên trong và cuộc đời bên ngoài của họ. Truyện không phải chỉ kể về các sự việc,
các biến cố. mà còn kể về con người, về vận mệnh của những con người.
Đã là truyện thì phải có lời kể chuyện. Lời kể là một yếu tố rất quan trọng
của truyện. Cốt truyện, nhân vật, toàn bộ hình tượng của truyện được dệt nên qua
lời kể đó. Lời kể một mặt là phương tiện để phản ánh cuộc sống thành hình tượng
trong truyện, mặt khác cũng lại là phương tiện để biểu hiện thái độ, tình cảm, tư
tưởng, sự đánh giá của tác giả đối với cuộc sống.
Một tác phẩm tự sự tất nhiên cũng giống như bất kì một tác phẩm nào khác,
đòi hỏi phải được phân tích toàn diện cặn kẽ và đúng phương hướng. Điều đặc biệt
ở tác phẩm thuộc thể truyện là cấu tạo hình tượng tác phẩm dựa vào ba yếu tố:
Tình tiết, nhân vật và lời kể như đã nêu. Cho nên khi phân tích cấu tạo hình tượng
của truyện, không thể không lưu tâm đến ba yếu tố đó. Đó cũng là nét phân biệt
cấu tạo một tác phẩm truyện với một bài thơ trữ tình hay một bài văn chính luận.
1.2.3. Tình hình dạy đọc hiểu văn bản tự sự ở trường THPT.
- Về phía giáo viên
Thực trạng phổ biến và cũng là một trong những nhược điểm lớn cần khắc
phục trong dạy học văn bản tự sự hiện nay là GV “áp đặt” những kiến thức cách
hiểu văn chương của mình cho HS.Trong khi lẽ ra, GV phải là người bạn đọc lớn
tuổi có kinh nghiệm, người bắc cầu cho quá trình đối thoại giữa nhà văn và học
11
sinh, tổ chức, định hướng để tự HS từng bước chiếm lĩnh tác phẩm và tự phát triển
dần.
Hiện nay, không ít GV chỉ “chạy” theo khối lượng kiến thức có trong sách
giáo khoa, dạy sao cho đủ, cho đúng phân phối chương trình, cho kịp thời gian, mà
không quan tâm đến việc tìm ra những biện pháp tác động đến quá trình nhận thức
của HS, rèn luyện cho các em những kỹ năng cơ bản để đọc - hiểu, cảm thụ văn
bản.
Ngoài ra, trong dạy học tác phẩm văn chương, GV là người tổ chức, định
hướng cho HS đọc – hiểu, tiếp nhận tác phẩm đôi khi lại thiếu sự rung động, cảm
xúc đối với văn bản mình dạy khiến không khí giờ học văn nặng nề, thiếu sự rung
cảm thẩm mỹ.
- Về phía học sinh
Thực trạng dạy học văn bản tự sự ở trường THPT đã cho chúng ta thấy được
hầu hết HS chỉ đến với tác phẩm văn chương thông qua bài giảng của thầy cô. HS
lâu nay chỉ được coi như một khách thể, một đối tượng tiếp thụ của GV, GV truyền
đạt như thế nào thì HS hiểu như thế ấy theo kiểu áp đặt, HS không cần thiết phải
nói lên cách hiểu, cách nghĩ của mình trước một tác phẩm.
Phần lớn HS hiện nay kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự rất yếu nên các em
cảm thấy lúng túng, khó khăn khi tự mình đọc - hiểu, tiếp nhận văn bản. Một bộ
phận HS dù rất thích, nhưng lại không có những phương pháp, những kỹ năng cơ
bản để tìm hiểu văn bản tự sự nên các em cũng không thể khám phá và hiểu sâu
sắc được cái hay, cái đẹp của văn bản, cũng như những thông điệp mà nhà văn
muốn gửi gắm đến bạn đọc. Giờ học văn bản tự sự vì thế vẫn chưa thu hút được sự
chú ý của người học.
Điều mà GV cần quan tâm và khắc phục hơn cả là một số HS hầu như không
tiếp xúc với văn bản tự sự, đây là một trong những nguyên nhân khiến các em cảm
thấy khó khăn khi tiếp nhận. Văn chương cần sáng tạo, mỗi người cần có một sự
rung động riêng. Để rung động cần nhiều yếu tố và tuỳ thuộc từng cá nhân HS, mà
12
trước hết phải đọc kỹ văn bản trong sách giáo khoa, nắm được phần tiểu dẫn, đọc
kỹ để giải mã được những từ ngữ khó ghi ở phần chú thích. Không thực hiện điều
đó thì khó có thể hiểu được văn bản, mà không hiểu thì không thể rung động cho
dù đó là kiệt tác.
Từ thực trạng dạy đọc hiểu văn bản tự sự như đã nói trên, vấn đề rèn luyện
kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự cho HS là một trong những vấn đề cần được quan
tâm hơn cả trong qúa trình dạy học văn hiện nay.
1.2. Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự
1.2.1. Khái niệm bài tập, hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn
bản tự sự
Trong giáo dục, theo Tự điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, thuật ngữ
“bài tập” có nghĩa là “bài ra cho học sinh làm để vận dụng những điều đã học”
[11].
Theo Đại tự điển Tiếng Việt: “bài tập là bài ra để luyện tập, vận dụng kiến
thức đã học” [15].
Tuy nhiên, trong dạy học, thông qua nghiên cứu lí luận và sự trải nghiệm
thực tiễn, Thái Duy Tuyên cho rằng: “bài tập là một hệ thông tin xác định bao
gồm những điều kiện và những yêu cầu được đưa ra trong quá trình dạy học, đòi
hỏi người học một lời giải đáp, mà lời giải đáp này về toàn bộ hoặc từng phần
không ở trạng thái có sẵn của người giải tại thời điểm mà bài tập được đặt ra”
[14, tr.224].
Như vậy, khái niệm “bài tập” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng là
“bao gồm các đề ra, các câu hỏi, vấn đề, tình huống…” [10] được đặt ra trong quá
trình dạy học.
Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng là những bài tập có liên hệ nhất định với
nhau, được xây dựng thống nhất trong quá trình dạy học nhằm mục đích hình
thành và phát triển một năng lực, một kỹ năng nào đó cho HS.
13
Bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự là những câu hỏi, vấn đề,
tình huống…nhằm định hướng, dẫn dắt HS tiếp cận, phân tích, đánh giá văn bản tự
sự ấy, qua đó chiếm kĩnh nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật của văn bản,
đồng thời hình thành, phát triển năng lực, kỹ năng đọc hiểu tích cực, chủ động và
sáng tạo cho HS.
1.2.2. Sự cần thiết của hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn
bản tự sự
Hệ thống bài tập trước hết giúp HS hiểu đúng, cảm thụ đúng các văn bản tự
sự trong nhà trường, bổ sung những hạn chế mà thời lượng của một giờ đọc - hiểu
không cho phép giáo viên mở rộng.
Thực tế dạy học văn bản tự sự ở trường THPT đã cho chúng ta thấy, dạy đọc
hiểu văn bản không thể cố định, giới hạn trong một khoảng thời gian bắt buộc theo
quy định của chương trình. Việc “chạy đua” với thời gian để đảm bảo dạy đúng và
đủ chương trình khiến cho GV không có nhiều thời gian để hướng dẫn, tổ chức cho
HS tìm hiểu một cách cặn kẽ vản bản ấy, nhất là những chi tiết nghệ thuật tưởng
chừng như rất nhỏ, không quan trọng nhưng lại góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm,
tư tưởng của nhà văn.
Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự sẽ hỗ trợ GV với
tư cách là người bạn đường tin cậy giúp HS hiểu đúng, cảm thụ đúng cái hay, cái
đẹp của văn bản. Bên cạnh đó, bài tập còn giúp GV mở rộng, bổ sung những hạn
chế trong giờ dạy chính khóa để HS chẳng những có thể hiểu đúng, cảm thụ đúng,
còn có thể đánh giá những vấn đề thuộc về tác phẩm một cách tinh tế, sâu sắc.
Hệ thống bài tập nhằm định hướng đọc hiểu văn bản tự sự giúp học sinh có
thể phát hiện điểm sáng thẩm mỹ của văn bản, hiểu sâu sắc và có cái nhìn toàn
diện hơn về văn bản ấy.
Điểm sáng thẩm mỹ hay còn gọi là tín hiệu thẩm mỹ của tác phẩm văn
chương là yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là
"những phương tiện nghệ thuật được tập trung theo một hệ thống tác động thẩm
mỹ, được chúng ta tiếp nhận như là những tín hiệu đặc biệt, có khả năng kích thích
14
mạnh mẽ thế giới tinh thần của chúng ta..." [106], là "cái được tác giả lựa chọn từ
thế giới hiện thực mà xây dựng nên, sáng tạo ra..." [106]. Có thể hiểu, điểm sáng
thẩm mỹ là toàn bộ những yếu tố hiện thực, những chi tiết của sự vật, hiện tượng
trong đời sống được đưa vào tác phẩm vì mục đích nghệ thuật.
Trong tác phẩm văn chương, điểm sáng thẩm mỹ có thể tương ứng với
những chi tiết nghệ thuật, những khách thể mang giá trị thẩm mỹ, hay những ẩn
dụ, nhân hóa, phúng dụ, tượng trưng, những hình tượng nghệ thuật. Nó là một
điểm nhấn quan trọng của tác phẩm, mang đậm dấu án sáng tạo của cá nhân tác
giả.
Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự góp phần định
hướng, giúp HS phát hiện ra điểm sáng thẩm mỹ ấy. Nó là cơ sở giúp giải mã văn
bản, khám phá cái đẹp tiềm tàng, cũng như dụng ý nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm
thông qua lớp vỏ ngôn từ của văn bản ấy.
Thông qua hệ thống bài tập, tăng cường tính thực hành cho học sinh trong
quá trình dạy học vănvăn bản tự sự, giúp học sinh nhận thức vai trò của việc đọc
hiểu văn bản trong quá trình làm văn.
Từ xưa đến nay, việc học văn đi liền với việc làm văn. Cho nên tự nó cũng
toát nên yêu cầu tăng cường tính thực hành giảm lý thuyết gắn với đời sống. HS
học văn là để nâng cao kiến thức, rèn luyện các kỹ năng cơ bản và vận dụng
chúng vào trong quá trình làm văn. Cho nên việc giảng dạy môn văn theo quan
điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri thức, kỹ năng riêng của từng phân
môn.Vấn đề là làm thế nào phối hợp các tri thức, kĩ năng thuộc từng phân môn
thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn Ngữ Văn.
Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự, góp phần tăng
cường tính thực hành trong dạy học văn. Thông qua việc HS giải quyết các bài đọc
hiểu, các em chẳng những nắm được kiến thức cơ bản về văn bản, khám phá những
điều bất ngờ tiềm ẩn trong văn bản mà còn rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu, viết
đoạn. Điều này rât hữu ích cho quá trình làm văn. Việc các em hiểu đúng, cảm thụ
đúng văn bản tự sự cùng với những kỹ năng được rèn luyện trong quá trình đi tìm
15
đáp án cho những bài tập đọc hiểu sẽ giúp các em viết được những áng văn hay,
mạch lạc và giàu cảm xúc.
1.2.3. Định hướng khi xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện đọc hiểu văn
bản tự sự
Một là, hệ thống bài tập góp phần hình thành và rèn luyện kỹ năng đọc hiểu
văn bản tự sự cho học sinh.
Mục tiêu của môn văn trong nhà trường, ngoài việc cung cấp kiến thức, còn
góp phần rèn luyện kỹ năng, góp phần bồi dưỡng thái độ cho HS. Để làm được
điều này, cần phải có thời gian, phải kiên nhẫn đi từng bước một, chứ không chủ
quan, nóng vội. Hệ thống bài tập sẽ giúp GV làm được điều đó.
Khi đến với hệ thống bài tập, những bài tập đầu tiên HS sẽ dần dần hình
thành những kỹ năng cơ bản để đọc hiểu văn bản tự sự. Các bài tập tiếp theo sẽ
giúp cho HS rèn luyện các kỹ năng ấy một cách thuần thục, nhuần nhuyễn. Khi HS
giải quyết xong hệ thống bài tập, nghĩa là HS xây dựng được cho mình các phương
pháp, kỹ năng cơ bản để đọc hiểu văn bản. HS không những có thể tự mình đọc
hiểu, cảm thụ những văn bản tự sự trong khuôn khổ của trường phổ thông mà còn
có thể đọc hiểu toàn bộ văn bản tự sự mà các em yêu thích.
Hai là, đảm bảo logic của hoạt động tiếp nhận và cấu trúc nghệ thuật đặc
thù của tác phẩm văn chương khi xây dựng hệ thống bài tập.
Tiếp nhận tác phẩm là một hoạt động có tính quy luật. Quan niệm tác phẩm
văn chương như một cấu trúc theo tầng lớp sẽ chi phối phương thức nghiên cứu
quá trình đọc hiểu một tác phẩm. Tiếp nhận tác phẩm văn chương là giải quyết vấn
đề tương quan của các cấu trúc tồn tại trong tác phẩm, trước hết là cấu trúc ngôn
ngữ, thứ đến là cấu trúc hình tượng thẩm mĩ, sau nữa là cấu trúc ý nghĩa, tư tưởng
thẩm mỹ.
Cấu trúc của văn bản tự sự cũng như vậy. Đến với văn bản tự sự, đầu tiên
người đọc phải hiểu câu chữ; nắm bắt cốt truyện; cảm nhận các sự kiện, tình tiết,
chi tiết, tính cách, quan hệ trong sự toàn vẹn của hình tượng nghệ thuật. Thứ đến là
16
thâm nhập vào thế giới hình tượng, phát hiện, khám phá thế giới nghệ thuật như là
sự kết tinh sâu sắc tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tiếp theo là liên hệ hình tượng
với văn cảnh đời sống và kinh nghiệm cá nhân để thể nghiệm, đánh giá ý nghĩa tác
phẩm; đặt tác phẩm vào truyền thống văn học để xác định vị trí, ảnh hưởng của nó.
Sau cùng là sự tác động, ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng, tình cảm, hiểu biết và
nhân cách người đọc.
Ba là, xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu vản bản tự sự
phải dựa trên quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong nhà trường.
- Quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh:
Mỗi tác phẩm văn chương luôn luôn ra đời trong những bối cảnh lịch, sử,
văn hóa, xã hội cụ thể, những yếu tố thẩm thấu chắt lọc thông qua lăng kính của
nhà văn. Tiếp cận, phân tích, cảm thụ tác phẩm theo quan điểm toàn diện trước hết
phải vận dụng những hiểu biết ngoài văn bản như hoàn cảnh lịch sử, thời đại, văn
hoá,văn học, tiểu sử, con người, tư tưởng, ý đồ nghệ thuật của nhà văn để hiểu
đúng tác phẩm. Hệ thống bài tập đọc hiểu là công cụ giúp HS nắm vững những
hiểu biết ngoài văn bản này.
- Quan điểm tiếp cận văn bản:
Hiểu biết ngoài văn bản cực kỳ quan trọng nhưng không thể thay thế cho
việc khám phá bản thân văn bản. Do đó, GV khi xây dựng hệ thống bài tập đọc
hiểu phải giúp HS tiếp cận cấu trúc văn bản, phát hiện các cấp độ của chỉnh thể
nghệ thuật, nhất là phân tích sự thống nhất giữa nội dung và hình thức văn bản.
- Quan điểm tiếp cận hướng vào đáp ứng của học sinh:
Xây dựng hệ thống BT đọc hiểu cần hướng học sinh đến vai trò của một chủ
thể cảm thụ, đặt HS trong mối quan hệ với văn bản để HS có thể nói lên tâm tư,
nguyện vọng, bày tỏ những suy nghĩ, cảm xúc của riêng mình.
Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự theo
quan điểm tiếp cận đồng bộ là một trong những giải pháp đảm bảo hiệu quả vững
chắc cho việc dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường.
17
Bốn là, xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ đọc hiểu văn bản tự sự cho
học sinh THPT phải đảm bảo tinh thần đổi mới của phương pháp dạy học hiện
nay.
Việc xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ đọc hiểu văn bản tự sự cho học
sinh THPT phải dạy theo quan điểm tích hợp. Thông qua hệ thống bài tập, học sinh
THPT sẽ tích lũy kiến thức văn học, vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống; biết vận
dụng những kiến thức ấy trong quá trình làm văn. Bên cạnh đó, hệ thống BT còn
giúp học sinh THPT ôn lại, khắc sâu những kiến thức cơ bản về Tiếng Việt, biết
học hỏi, vận dụng cách dùng từ, đặt câu, diễn dạt vào trong bài viết của mình, cũng
như trong quá trình giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống hằng ngày. Đồng thời hệ
thống BT cũng góp phần rèn luyện kỹ năng viết và trình bày những suy nghĩ, cảm
nhận của học sinh THPT trong quá trình làm bài tập; giúp học sinh nhận thức được
mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản.
Hơn nữa, theo cơ chế dạy học tác phẩm văn chương hiện nay, xây dựng hệ
thống bài tập rèn luyện kỹ đọc hiểu văn bản tụ sự cho HS THPT cần dựa trên quan
điểm lấy người học làm trung tâm. HS phải trở thành người đọc văn đích thực,
được nói lên tiếng nói cảm nhận, rung động nghệ thuật của mình. Khi đó, nhiệm vụ
của GV là phải khơi gợi, tạo ra bài tập, những câu hỏi, những tình huống giúp HS
bộc lộ những rung động, cảm xúc, tình cảm và suy nghĩ ban đầu về hình tượng,
nhân vật, nội dung văn bản để thu hẹp dần khoảng cách thẩm mĩ giữa văn bản và
HS. Việc định hướng, gợi mở và tôn trọng những tìm tòi sáng tạo của HS là cách
thức hữu hiệu nhất tạo ra cho các em niềm say mê với thế giới văn chương phong
phú, nhiều màu sắc.
1.2.4. Yêu cầu khi xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu
văn bản tự sự
Thứ nhất: Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu phải bám sát cấu
trúc văn bản tự sự. hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng.
18
Bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự cần bám sát cấu trúc văn
bản tự sự, định hướng cho HS tiếp xúc với thế giới hình tượng nghệ thuật, ý nghĩa
tư tưởng thẩm mỹ của văn bản thông qua lớp vỏ ngôn từ của văn bản đó. Khi HS
giải quyết hệ thống bài đọc hiểu, HS sẽ tham gia vào một cuộc đối thoại lớn mà
trong đó mối quan hệ giữa học sinh – giáo viên – nhà văn được xác lập thông qua
văn bản.
Bám sát cấu trúc văn bản, hệ thống bài tập đọc hiểu sẽ giúp HS thấy được
tầm quan trọng của việc đọc văn bản tự sự, góp phần nâng cao năng lực đọc hiểu
và sáng tạo của HS. Điều đó khiến cho học sinh chủ động, sáng tạo hơn trong quá
trình tiếp nhận và có thể hiểu sâu sắc văn bản đó.
Thứ hai: Bài tập được xây dựng phải vừa chi tiết, cụ thể, vừa đảm bảo tính
hệ thống nhằm rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự cho HS
Khi xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu cho HS, các bài
tập cần phải được thiết kế một cách chi tiết, cụ thể, hướng vào các vấn đề trọng
tâm của tác phẩm nhằm định hướng, giúp HS hiểu và nắm vững tác phẩm. Để làm
được điều này, chúng tôi chú ý chia nhỏ các vấn đề, hướng đến những chi tiết, sự
việc góp phần thể hiện chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm văn chương.
Thứ ba: Đảm bảo nguyên tắc đa dạng khi xây dựng hệ thống bài tập rèn
luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự.
Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu cần phải được xây dựng một
cách đa dạng, phong phú, phản ánh được tính đa dạng, phức tạp của văn bản tự sự.
Sự đa dạng thể hiện ở chỗ: cùng một kỹ năng, chúng tôi xây dựng nhiều kiểu bài
tập khác nhau. Như vậy sẽ tránh được sự nhàm chán, đơn điệu; tạo sự hứng thú,
kích thích suy nghĩ của HS, giúp HS tham gia một cách tích cực vào quá trình tìm
hiểu, khám phá cái hay, cái đẹp của văn bản.
Thứ tư: Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính vừa sức, gợi mở, kích thích sự
cảm thụ, khả năng tư duy tích cực, sáng tạo, độc lập của người học.
19
Yêu cầu vừa sức đòi hỏi hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn
bản tự sự không quá khó cũng không quá dễ đối với HS, Căn cứ vào mục tiêu cần
đạt khi dạy học văn bản, đặc điểm bài học, trình độ của HS để xây dựng hệ thống
bài tập tương ứng tạo được sự hứng thú cho HS.
Dựa trên những định hướng và yêu cầu đã trình bày trên đây, chúng tôi đã
tìm hiểu, nghiên cứu và xây dựng hệ thống bài tập đọc hiểu văn bản tự sự cho HS
THPT.
2. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản tự sự
ở trường THPT
Một trong những tín hiệu có thể đem đến cho người đọc những thông tin
phong phú về tác phẩm là những chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật “là tiểu
tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” [26].Chi tiết ấy có
thể là một lời nói, một cử chỉ, một hành động của nhân vật, hoặc một sự vật, một
hình ảnh thiên nhiên, một nét chân dung… Chi tiết càng có sức biểu hiện càng góp
phần nâng cao giá trị tác phẩm. Không bao giờ có một tác phẩm hay mà chi tiết lại
nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống.
Do đó, tìm hiểu tác phẩm phải luôn xuất phát từ chi tiết nghệ thuật, nhất là
các chi tiết quan trọng. Muốn khám phá những chi tiết ấy cần bám sát văn bản
ngôn từ và thế giới hình tượng của tác phẩm, chú ý giọng điệu, kết cấu tác phẩm.
2.1. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về nhan đề của văn bản tự sự
Nhan đề là yếu tố đầu tiên của văn bản mà người đọc được tiếp xúc, là yếu
tố thể hiện tập trung nhất, cô đọng nhất dụng ý nghệ thuật của nhà văn muốn gửi
gắm.
Nhan đề là một trong những tín hiệu nghệ thuật quan trọng, nhưng một số
giáo viên vẫn còn coi nhẹ, bỏ qua hai yếu tố này. Từ thực trạng trên, chúng tôi xây
dựng bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về nhan đề, lời đề từ của văn bản tự sự
qua một số ví dụ sau:
20
1. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng một tình huống oái
ăm: Tràng - một người dân của xóm ngụ cư, nhà nghèo, xấu xí, ngờ nghệch, bấy
lâu có nguy cơ “ế vợ”, nay bỗng dưng nhặt được vợ chỉ nhờ mấy câu hò đùa và
bốn bát bánh đúc.
Theo như tình huống truyện, lẽ ra nhan đề truyện ngắn phải là “nhặt vợ”, tại
sao nhà văn lại đặt nhan đề cho truyện của mình là “Vợ nhặt”?
2. Tái hiện lại hình ảnh dân làng Xô – Man trong công cuộc đấu tranh chống
lại kẻ thù xâm lược, Nguyễn Trung Thành có thể đặt tên cho tác phẩm là “Làng
Xô-man” hay “Tnú” – theo tên nhân vật chính, nhưng nhà văn lại chọn nhan đề
cho truyện ngắn của mình là “Rừng xà nu”.
Theo anh (chị), tại sao Nguyễn Trung thành lại chọn nhan đề cho truyện
ngắn của mình như vậy?
Bài tập cảm thụ chi tiết nghệ thuật về nhan đề của văn bản tự sự mà
chúng tôi xây dựng góp phần khêu gợi trí tò mò và mong muốn khám phá của
người đọc. Đây là một cách hay để tạo sự chú ý, kích thích hứng thú của các em.
2.2. Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về hình tượng nhân vật trong
văn bản tự sự
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong văn bản.
Hình tượng nhân vật là “kết quả của sự sáng tạo có tính chất hư cấu của tác
giả về một đối tượng có một đời sống riêng” [27]. “Nhân vật hiện lên trong tác
phẩm thường dưới dạng những tính cách (…). Bởi thế nhiệm vụ quan trọng bậc
nhất của phân tích nhân vật là phát hiện tính cách” [55, tr.695] - những đặc điểm
tâm lý ổn định chi phối mọi hành vi, thái độ và bộc lộ cốt cách, thái độ của nhận
vật.
Để phát hiện tính cách nhân vật, “phải xem xét nhân vật như một chỉnh thể
đa dạng do nhiều yếu tố khác nhau hợp thành, nhà văn phải dùng chi tiết để thể
hiện nhân vật. Phân tích nhân vật phải bắt đầu từ việc nắm bắt những chi tiết ấy”
21
[55, tr.701]. Tính cách nhân vật là sự thống nhất giữa bản chất bên trong và những
biểu hiện bên ngoài: ngoại hình, hành động, cử chỉ, lời ăn tiếng nói…
Bài tập đọc hiểu về hình tượng nhân vật mà chúng tôi xây dựng cũng dựa
trên cơ sở khai thác các chi tiết nghệ thuật về những biểu hiện đã nêu
♦ Kiểu 1: Chi tiết nghệ thuật về tên nhân vật
Tên nhân vật là một tín hiệu nghệ thuật mà nhà văn hết sức chú ý vì nó góp
phẩn phản ánh tính cách của nhân vật, không khí tác phẩm cũng như phong cách
của tác giả.Tuy nhiên, có một số trường hợp, nhà văn không đặt tên, mà gọi nhân
vật của mình bằng những danh từ, đại từ phiếm định. Cách gọi như vậy cũng nhằm
thể hiện dụng ý nghệ thuật riêng của tác giả.
Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật về tên nhân vât, chúng tôi định hướng học sinh
dựa trên các bài tập như sau:
1. Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu:
- Theo anh (chị) tại sao tác giả không đặt tên cho nhân vật nữ chính, mà gọi
bằng một cụm từ phiếm định “người đàn bà hàng chài”?
- Có phải ngẫu nhiên không khi Nguyễn Minh Châu đặt cho nhân vật của
mình những cái tên như Phùng, Đẩu, Phác?
2. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân có ba nhân vật chính, nhưng tác giả
chỉ đặt tên cho hai nhân vật là Tràng và bà cụ Tứ, còn người phụ nữ vợ Tràng - cô
ta thậm chí không có tên, lúc được gọi là “thị”, là “cô ả”, lúc là “người đàn bà”.
Theo anh (chị) tại sao nhà văn không đặt cho nhân vật, cách gọi tên nhân vật
của Kim Lân gợi anh (chị) suy nghĩ gì về số phận con người?
3. Trong truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao có ngụ ý gì khi đặt tên cho hai
cha con địa chủ, cường hào cùa làng Vũ Đại là (Bá) Kiến và (Lí) Cường?
Các bài tập trên đây góp phần hình thành cho học sinh kỹ năng tìm hiểu
về ý nghĩa của tên nhân vật khi gắn nó với cuộc đời số phận của nhân vật trong quá
22
trình tìm hiểu văn bản tự sự, từ đó, hiểu được dụng ý nghệ thuật của nhà văn qua
việc đặt tên cho nhân vật.
♦ Kiểu 2: Chi tiết nghệ thuật về ngoại hình nhân vật
Trong văn bản tự sự, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp của nhà văn
nhằm hé mở tính cách nhân vật. Nhà văn thường khắc họa nhân vật bằng cách
miêu tả vẻ bề ngoài như: cử chỉ, tác phong, diện mạo. đồ dùng, cách ăn mặc, nói
năng của nhân vật.
Các bài tập cảm thụ về ngoại hình nhân vật mà chúng xây dựng dựa trên
những chi tiết trên.
1. Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu đã miêu
tả nhân vật người đàn bà hàng chài như sau:
“Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người
đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt
mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”.
Vẻ bề ngoài ấy gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc đời, số phận nhân vật.
2. Suy nghĩ của anh (chị) về sự thay đổi ngoại hình của Chí Phèo - nhân vật
trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao - sau khi ra tù qua đoạn trích sau:
“Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc
như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen
mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen
với áo Tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một
ông thày tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
Kiểu bài tập chi tiết về ngoại hình nhân sẽ giúp cho HS có thể hình dung,
tưởng tượng một cách khái quát về nhân vật, có những nhận định, đánh giá ban đầu
về nhân vật. Đồng thời, kiểu bàn tập này cũng rèn luyện cho học sinh kỹ năng khi
đọc hiểu tác phẩm văn chương, tìm hiểu về nhân vật, một trong những yếu tố cần
chú ý là ngoại hình nhân vật.
23
♦ Kiểu 3: Chi tiết nghệ thuật về hành động của nhân vật
Hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật.. Qua
hành động của nhân vật, người đọc có thể hình dung được nhân vật là người tốt
hay xấu, điềm đạm, nhẹ nhàng hay cục tính, sốc nổi, từ đó có cái nhìn toàn điện
hơn về tính cách, bản chất của nhân vật.
Những bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật mà chúng tôi xây dựng dưới đây
nhằm hướng vào mục đích trên.
1. Trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, khi
ngồi sau ngựa cùng An Dương Vương chạy về phương Nam, Mị Châu rứt lông
ngỗng trên áo gấm rắc ở ngã ba đường.
Theo anh (chị), tại sao Mị Châu hành động như vậy? Suy nghĩ của anh (chị)
về hành động đó?
2. Trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”, theo anh (chị), tại sao
Chiến và Việt lại giành nhau đăng ký tòng quân?
Kiểu bài tập cảm thụ chi tiết về hành động của nhân vật sẽ rèn luyện cho
HS kỹ năng tìm và xác định những hành động có liên quan đến quá trình phát triển
tâm lý, tính cách nhân vật, hiểu và lí giải được vì sao nhân vật hành động như vậy.
♦ Kiểu 4: Chi tiết nghệ thuật về ngôn ngữ nhân vật
Trong các văn bản tự sự nói chung, lời nói của nhân vật thường chiếm tỉ lệ ít
hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện sinh động và
khêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của nhân vật. Qua lời ăn
tiếng nói của một người, chúng ta có thể nhận ra trình độ văn hoá, nhận ra tính
cách của người ấy.
Các bài tập dưới đây sẽ hướng dẫn HS tìm hiểu và cảm thụ các chi tiết nghệ
thuật về ngôn ngữ của nhân vật – một trong những yếu tố mà HS thường bỏ qua
đọc hiểu các tác phẩm tự sư.
1. Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi nêu bên dưới:
24
“Rồi đến một hôm, quản ngục mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông
Huấn:
- Ðối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là
một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài giữ kín cho.
Sợ đến tai lính tráng họ biết, thì phiền lụy riêng cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài có cần
thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất.
Ông đã trả lời quản ngục:
- Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây”.
(Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân)
Theo anh (chị), tại sao Huấn Cao lại nói với viên quản ngục như vậy trong
khi viên quản ngục đã biệt đãi ông?
2. Suy nghĩ của anh chị về câu nói của chị Tí trong đoạn trích dưới đây:
“Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu
đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngơ đi ra; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội
cái chỏng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc: tất cả cái cửa
hàng của chị.
- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?
Chị Tí để chỏng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép
miệng trả lời Liên:
- Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì”.
(Hai đứa trẻ - Thạch Lam)
Kiểu bài tập trên đây rèn luyện cho HS kỹ năng khi phân tích nhân vật ta
cần đặc biệt chú ý phân tích ngôn ngữ nhân vật. Khi tiếp xúc với văn bản tự sự, các
em không lướt qua ngôn ngữ nhân vật như trước đây nữa, mà dừng lại suy ngẫm,
từ đó hiểu và cảm nhận một cách toàn diện về con người nhân vật.
25
Kiểu 5: Chi tiết nghệ thuật về nội tâm nhân vật
Thế giới nội tâm của con người rất sâu kín, phong phú, phức tạp. Ngòi bút
của nhà văn có khả năng miêu tả được những ngõ ngách xâu kín của nội tâm con
người từ những điều thuộc phạm vi ý thức đến những điều trong cõi tiềm thức, vô
thức. Qua đó ta có thể xét đoán được tính cách nhân vật.
Bài tập rèn luyện kỹ năng cảm thụ ngôn ngữ của nhân vật mà chúng tôi xây
dựng cũng chú ý khai thác khía cạnh trên.
1. Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi nên bên dưới:
“Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, cười tủm tỉm một mình. Nhìn thị ngồi
ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã
có vợ rồi đấy ư? Hà! Sự việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm
phơ, tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng…”
(Vợ nhặt – Kim Lân)
Theo anh (chị), tại sao ngay cả khi người phụ nữ kia đã vào trong nhà mình,
đang ngồi trên giường mình, nhân vật Tràng vẫn tự hỏi: “Ra hắn đã có vợ rồi đấy
ư?”?
2. Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Tnú qua quá
trình độc thoại của anh trong đoạn trích sau:
“Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng chết rồi, Tnú cũng sắp chết. Ai sẽ làm
cán bộ? Đến khi có lệnh Đảng cho đánh, ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xô
Man đánh giặc? Cụ Mết đã già. Được, còn có bọn thanh niên. Rồi con Dít sẽ lớn
lên. Con bé ấy vững hơn cả chị nó. Không sao…Chỉ tiếc cho Tnú, Tnú không sống
được tới ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng…”
(Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành)
Bài tập đọc hiểu chi tiết nghệ thuật về nội tâm nhân vật nhằm giúp học
sinh tái hiện những ý nghĩ, cảm xúc và diễn biến tâm trạng của nhân vật trong quá
trình đọc hiểu tác phẩm văn chương.