Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

cuộc đời và sự nghiệp văn học của trương duy toản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 171 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Lan Hương

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
CỦA TRƯƠNG DUY TOẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Lan Hương

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
CỦA TRƯƠNG DUY TOẢN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 602234

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐOÀN LÊ GIANG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2011



LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành gửi lòng biết ơn đến:
• PGS.TS Đoàn Lê Giang, người thầy đã chỉ dẫn, khai mở, động viên tôi và cung
cấp cho tôi những thông tin, tư liệu có liên quan trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
• Quý thầy, cô trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tham gia
giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình theo học tại trường.
• Cán bộ, nhân viên Thư viện trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh,
trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn và cán bộ, nhân viên Thư viện
Tổng hợp đã nhiệt tình giúp tôi tìm kiếm tư liệu liên quan đến luận văn.
• Ban giám hiệu, quý thầy cô trường THPT Trần Quang Khải đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập.
• Gia đình và người thân luôn ủng hộ, quan tâm tôi những lúc suôn sẻ cũng như
lúc khó khăn.
• Các bạn học viên Văn học Việt Nam đã gắn bó với tôi trong suốt quá trình học
tập.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 10 năm 2011
Người viết luận văn

Lê Thị Lan Hương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu khảo sát, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng
công bố ở các công trình khác.
Người viết luận văn

Lê Thị Lan Hương

Lớp Cao học Văn học Việt Nam K19


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................. 3
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................... 4
MỤC LỤC ................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài: ....................................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: ....................................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ............................................................................ 6
4. Phương pháp nghiên cứu: .......................................................................................... 7
5. Đóng góp của luận văn: ............................................................................................. 7
6. Cấu trúc của luận văn: ............................................................................................... 8

CHƯƠNG 1: TRƯƠNG DUY TOẢN TRONG BỐI CẢNH NAM BỘ
ĐẦU THẾ KỶ XX .................................................................................... 10
1.1.Vài nét về Nam Bộ 30 năm đầu thế kỷ XX........................................................... 10
1.1.1.Về chính trị - Kinh tế - Xã hội ..................................................................................10
1.1.2.Về văn hoá – Giáo dục ..............................................................................................16
1.1.3.Về báo chí – Văn học ................................................................................................18

1.2.Cuộc đời và sự nghiệp của Trương Duy Toản ...................................................... 26
1.2.1.Cuộc đời của Trương Duy Toản ...............................................................................26
1.2.2.Sự nghiệp của Trương Duy Toản .............................................................................33

Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH TRONG VĂN XUÔI NGHỆ
THUẬT CỦA TRƯƠNG DUY TOẢN................................................... 45
2.1. Đạo lý truyền thống .............................................................................................. 48
2.2. Hiện thực Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX ................................................... 59

2.3. Tư tưởng yêu nước, chống xâm lược ................................................................... 67

Chương 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT VĂN XUÔI
TRƯƠNG DUY TOẢN ............................................................................ 73
3.1. Nghệ thuật kết cấu truyện ..................................................................................... 74
3.1.1. Các hình thức kết cấu truyền thống .........................................................................75
3.1.2. Những dấu hiệu cách tân theo hình thức kết cấu của tiểu thuyết hiện đại...............79

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.............................................................................. 83
3.2.1. Tính cách nhân vật ...................................................................................................84


3.2.2. Tâm lý nhân vật .......................................................................................................97

3.3. Ngôn ngữ - Lời văn nghệ thuật .......................................................................... 102

Chương 4: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KỊCH BẢN CẢI LƯƠNG CỦA
TRƯƠNG DUY TOẢN .......................................................................... 116
4.1.Đề tài – Xung đột kịch: ....................................................................................... 120
4.2.Nhân vật: ............................................................................................................. 125
4.3.Ngôn ngữ: ............................................................................................................ 131

KẾT LUẬN ............................................................................................. 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 147
PHỤ LỤC ................................................................................................ 152


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của chữ quốc ngữ, nền văn học Việt Nam đã

bước vào giai đoạn mới, giai đoạn từ chối sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm để cho ra đời
những áng văn xuôi quốc ngữ với nghệ thuật mới mẻ, hiện đại. Quá trình hiện đại hóa nền
văn học Việt Nam diễn ra từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và ngày một tăng tốc mà đỉnh
cao của nó là giai đoạn 1930 – 1945. Việc khẳng định vai trò và vị trí của các thế hệ nhà văn
góp phần vào việc khai mở con đường đi đến đỉnh cao ấy là rất cần thiết nhưng lại chưa
được quan tâm đúng mức. Thử làm một thống kê nhỏ về một số công trình nghiên cứu phê
bình văn học trong mấy chục năm qua, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự khiếm khuyết này.
Theo kết quả tra cứu của PGS.TS. Trần Hữu Tá, trong số 78 nhà văn mà Vũ Ngọc Phan giới
thiệu trong bộ Nhà văn hiện đại, chỉ có 3 khuôn mặt của văn học phương Nam: Trương
Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh, Đông Hồ. Bộ Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (tập I) do
PGS-TS. Vũ Tuấn Anh và PGS-TS Bích Thu chủ biên (2001), trong số 376 tác phẩm từ
cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 được nhóm biên soạn tóm tắt nội dung, nhận xét bước đầu,
chỉ có 56 tác phẩm văn xuôi Nam Bộ. Còn bộ sách 970 trang khổ lớn - cuốn Văn học Việt
Nam thế kỉ XX, do GS. Phan Cự Đệ chủ biên thì văn học Nam Bộ giai đoạn 1900-1945 cũng
chưa được quan tâm đúng mức. Như vậy, độc giả lẫn giới nghiên cứu phê bình văn học
nhiều năm qua đã bỏ sót một bộ phận không nhỏ di sản văn học Nam Bộ làm nên diện mạo
cho nền văn học Việt Nam. Thực tế này phải kể đến nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn
khách quan.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng ta chưa làm được gì để tạo nên
“Những bổ khuyết cần thiết cho bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam hiện đại”
(PGS.TS. Trần Hữu Tá). Việc nghiên cứu về văn học quốc ngữ Nam Bộ đã tiến triển nhanh
hơn hẳn từ năm 1987 trở đi. Văn chương Nam Bộ cùng với những thành quả của nó đã trở
thành đối tượng nghiên cứu chính của hàng loạt những nhà nghiên cứu: Nguyễn Văn Trung,
Cao Xuân Mỹ, Nguyễn Kim Anh, Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp, Nguyễn Q.Thắng, Tôn Thất
Dụng, Lê Ngọc Thuý, Bùi Đức Tịnh, Bằng Giang, Trần Văn Giàu, Trần Hữu Tá, Nguyễn
Huệ Chi … Những thành quả bước đầu có thể kể đến của quá trình nghiên cứu này là việc
tuyển chọn và giới thiệu được khá nhiều tác phẩm tiêu


biểu của các nhà văn Nam Bộ: Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh

Sắt, Lê Hoằng Mưu, Phú Đức, Trần Quang Nghiệp, Bửu Đình … Bên cạnh đó là những
công trình khá công phu nghiên cứu về đặc điểm, các giai đoạn, trào lưu của văn học quốc
ngữ Nam Bộ, phong cách và vị trí của các tác giả, giá trị của các tác phẩm thuộc nhiều thể
loại… Có thể kể đến: Mảnh vụn văn học sử (Bằng Giang), Chân Lưu xuất bản, 1974; Tiến
trình văn nghệ miền Nam (Văn học Việt Nam nơi miền đất mới) (Nguyễn Q.Thắng), Nxb.An
Giang, 1990; Tuyển tập “Truyện dài đầu tiên và các truyện ngắn Nam Bộ cuối thế kỷ XIXđầu thế kỷ XX” (Cao Xuân Mỹ), 1997; Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
(Nguyễn Kim Anh chủ biên), Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM, 2004…
Trong xu hướng đó, việc đi sâu nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp của các nhà văn
Nam Bộ là việc làm hữu ích, mang ý nghĩa là tri thức nền tảng cho những công trình nghiên
cứu có tính khái quát cao hơn. Đó là lí do tôi lựa chọn đề tài Cuộc đời và sự nghiệp văn học
của Trương Duy Toản làm đề tài luận văn cao học.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Như đã trình bày ở phần lí do chọn đề tài, việc nghiên cứu đi đến khẳng định lại những
giá trị của văn học quốc ngữ Nam Bộ là một xu thế đã và đang rất được khuyến khích trong
chừng chục năm gần đây. Tùy vào mục đích mà các công trình nghiên cứu đã tiếp cận đối
tượng ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau, trực tiếp cũng như gián tiếp.
Nghiên cứu và đánh giá về đóng góp, vị trí của văn học Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX nói chung và với thể loại tiểu thuyết nói riêng đã có khá nhiều những
công trình rất đáng ghi nhận:
Phê bình và cảo luận, Thiếu Sơn, Nam Ký xuất bản, Hà Nội, 1933; Nhà văn hiện đại,
Vũ Ngọc Phan, Tân Dân xuất bản, Hà Nội, 1942; Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng
Hàm, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1968; Mảnh vụn văn học sử, Bằng
Giang, Chân Lưu xuất bản, 1974; Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nguyễn Q.Thắng, Nxb.An
Giang, 1990; Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Bằng Giang, NXB trẻ TP.Hồ Chí
Minh, 1992; Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ mới (1865-1932),
Bùi Đức Tịnh, Nxb.TP.HCM, 1992; Sự hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết văn
xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến năm 1932 , luận án Tiến sĩ của Tôn
Thất Dụng, năm 1993; Truyện dài đầu tiên và tuyển tập các truyện ngắn Nam Bộ cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX, Cao Xuân Mỹ sưu tầm tuyển chọn, Bùi Đức Tịnh giới thiệu hiệu đính,

Nxb.Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và Hội nghiên cứu - giảng dạy văn học Thành phố


Hồ Chí Minh xuất bản, 1998; Đóng góp của văn học quốc ngữ ở Nam Bộ cuối TK.XIX –
đầu TK.XX vào tiến trình hiện đại hóa văn học VN, Luận án Tiến sĩ của Lê Ngọc Thuý,
trường ĐHSP TP.HCM, 2002; Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX , luận án Tiến sĩ Cao Xuân Mỹ, trường ĐHSP TPHCM, 2002;... Những
thành tựu này đã tạo nền tảng cho việc mở rộng, cũng như thu hẹp phạm vi nghiên cứu.
Việc nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của một tác giả cụ thể cũng không phải là vấn đề
mới. Một số nhà văn Nam Bộ giai đoạn này đã đến gần với bạn đọc hơn nhờ vào công sức
sưu tầm, khảo cứu của giới phê bình nghiên cứu văn học: Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu
Chánh, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Bửu Đình, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… Điều
đáng nói là tiểu thuyết và tác giả Nam Bộ cũng được các nhà văn, nhà báo, nhà phê bình đến
từ miền Trung và miền Bắc chú ý. Phan Khôi (Trung Kỳ), trong khi hoạt động ở Sài Gòn,
đã viết bài Từ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Trai đến Nguyễn Chánh Sắc, Đặng Thúc Liêng
đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 28 năm 1929. Thiếu Sơn, nhà phê bình được xem là
người mở đường cho phê bình văn học hiện đại, trong một bài viết trên báo Phụ Nữ Tân
Văn (số 106 ngày 29.10.1931), đã rất đề cao Hồ Biểu Chánh. Trong cuốn Phê bình và cảo
luận (1933) in sau đó hai năm, Thiếu Sơn cũng nêu lên một số nhận xét bước đầu về một vài
cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Thời Xuyên và nêu tên một số nhà văn Nam
Bộ như: Phú Đức, Phan Huấn Chương, Tân Dân Tử …
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm, ở miền Bắc, do thiếu thông tin nên các nhà nghiên cứu
không mấy chú trọng đến mảng văn học Nam Bộ. Phạm Quỳnh, người bàn bạc sớm nhất về
thể loại tiểu thuyết đã không đề cập gì đến tiểu thuyết Nam Bộ trong bài viết Bàn về tiểu
thuyết (1921) đăng trên báo Nam Phong. Việt Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng
Hàm, một công trình có tính chất tổng kết cũng thế. Hầu hết các tác giả đều xem Quả dưa
đỏ (1923) của Nguyễn Trọng Thuật và Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách được sáng
tác ở miền Bắc là những tác phẩm tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ở nước ta. Riêng Nhà văn
hiện đại (1942-1945) của Vũ Ngọc Phan, bên cạnh nhà thơ Đông Hồ có điểm qua chân
dung của Hồ Biểu Chánh và cũng đã nhận định về bước đầu của tiểu thuyết:

“Dù sao, nếu đã đọc những tiểu thuyết của các nhà văn đi tiên phong từ Nguyễn Bá
Học trở lại, ai cũng phải nhận rằng từ Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh tiểu thuyết
nước ta mới bắt đầu đếm bước vững vàng để dần dần đi tới ngày nay là lúc có thể chia ra
nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [46,336]


Như vậy, lịch sử nghiên cứu văn học quốc ngữ Nam Bộ cho đến nay đã có những bước
tiến đáng kể, thế nhưng, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện về nhà văn Trương Duy Toản, người có công không nhỏ trong nhiều lĩnh vực:
phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX; hoạt động sáng tác văn học, báo chí; nghệ thuật sân
khấu cải lương. Ngay cả việc sưu tầm, giới thiệu tác phẩm của Trương Duy Toản cũng còn
rất hạn chế. Đó là những khó khăn, thử thách, nhưng đồng thời cũng là “khoảng trống” khơi
gợi hứng thú cho người nghiên cứu. Do đó, thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng đề tài có
thể kế thừa một cách tốt nhất những thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước, đồng
thời góp phần vào việc hoàn thiện bức tranh toàn cảnh về nền văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nói riêng, và nền văn học Việt Nam nói chung.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Văn học Nam Bộ nói chung và văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ nói riêng là một bức tranh
rất rộng lớn và đặc sắc, khơi gợi được nhiều vấn đề nghiên cứu rất thú vị và giàu ý nghĩa.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Trương Duy Toản. Dù chỉ tập trung vào một tác giả văn học, khối lượng sáng tác không
nhiều, nhưng không vì vậy mà phạm vi nghiên cứu của đề tài bị thu hẹp, mà trái lại, còn mở
rộng ra khá nhiều vấn đề và lĩnh vực: lịch sử, văn học, nghệ thuật sân khấu… Về mặt thời
gian, tuy đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi vòng đời của một nhà văn cụ thể (1885-1957),
nhưng quá trình nghiên cứu nhất thiết phải mở rộng ra cả khoảng thời gian trước và sau đó,
để có cái nhìn toàn diện, thấy được sự tiếp nối, kế thừa, cũng như những đóng góp riêng của
tác giả.
Những lí giải trên đây nhằm khẳng định lại về phạm vi nghiên cứu rộng lớn, phong
phú của đề tài, để đi sâu tìm hiểu và có những đánh giá xác đáng về đối tượng nghiên cứu,

thực hiện một cách tốt nhất những nhiệm vụ mà mục đích nghiên cứu đã đề ra.


4. Phương pháp nghiên cứu:
Trương Duy Toản là nhà văn có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam trong
chặng đầu của quá trình hiện đại hóa. Thế nhưng cuộc đời của ông vẫn còn nhiều điểm chưa
được biết đến, nhiều tác phẩm của ông chưa được công bố rộng rãi. Để thực hiện đề tài,
chúng tôi sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử xã
hội và phương pháp tiểu sử.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử xã hội thể hiện ở chỗ đặt bản thân vấn đề nghiên cứu
trong mối tương quan cụ thể với bối cảnh thời đại. Bất cứ việc nhìn nhận hoặc đánh giá một
vấn đề nào cũng không thể không căn cứ vào bối cảnh lịch sử cụ thể cũng như đặc điểm
riêng của điều kiện tự nhiên - xã hội và con người Nam Bộ. Phương pháp này thể hiện ở chỗ
diễn biến của các sự kiện trong cuộc đời tác giả đều được trình bày theo trình tự thời gian,
đồng thời coi văn học như là sản phẩm của lịch sử - xã hội, dùng những mối quan hệ xã hội
(xã hội với nhà văn, xã hội với tác phẩm, tác phẩm với độc giả) để nghiên cứu hiện tượng
văn học. Bản thân sự nghiệp sáng tác cũng như cuộc đời hoạt động của Trương Duy Toản là
một chỉnh thể gồm nhiều thành tố có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hơn thế nữa, toàn bộ
đối tượng nghiên cứu này cũng không nằm riêng rẽ, độc lập mà chịu sự chi phối trực tiếp
của bối cảnh lịch sử, xã hội trong giai đoạn ấy.
Phương pháp tiểu sử là phương pháp khoa học đầu tiên xuất hiện trong nghiên cứu văn
học, văn hóa; tức là lấy việc tìm hiểu con người tác giả để tìm hiểu tác phẩm. Bởi tác phẩm
là đứa con tinh thần của nhà văn, là sản phẩm của quá trình đúc kết kinh nghiệm đời sống
của tác giả.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ: phương pháp cấu trúc,
phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp liên ngành, phương pháp so sánh.
Một đề tài nghiên cứu chỉ thực sự thành công và đưa ra được những đánh giá đúng đắn
dựa trên cái nhìn khách quan về đối tượng nghiên cứu khi có sự kết hợp nhuần nhuyễn các
phương pháp nghiên cứu trên.


5. Đóng góp của luận văn:
Trước hết, đề tài có đóng góp rất tích cực đối với công tác nghiên cứu khoa học. Từ
những tư liệu mà giáo viên hướng dẫn cung cấp, luận văn đã cố gắng sưu tầm gần hết những
sáng tác của Trương Duy Toản còn lưu trữ ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đồng thời,
luận văn đã kiểm tra, hệ thống hóa lại tư liệu về Trương Duy Toản, từ đó khôi phục lại chi


tiết tiểu sử của ông, cũng như đánh giá những đóng góp của ông trong lịch sử văn học dân
tộc. Luận văn hi vọng sẽ đóng góp vào việc nghiên cứu văn học Nam Bộ cũng như giúp các
nhà nghiên cứu, các giáo viên hiểu rõ hơn về Trương Duy Toản – một gương mặt nổi bật
trong văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX.
Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa đối với công tác giảng dạy. Giai đoạn cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một nội dung rất quan trọng trong chương trình giảng dạy lịch sử
ở bậc phổ thông trung học. Riêng với bộ môn Ngữ văn, cũng đã có một số tác giả và tác
phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này được đưa vào chương trình giảng dạy. Mặc dù Trương
Duy Toản chưa phải là nhà văn được chọn lựa, nhưng với những hiểu biết về ông và thời đại
của ông qua luận văn này, hi vọng sẽ góp thêm cho giáo viên một lượng tri thức hữu ích cho
những bài học khái quát về các thời kỳ văn học hay các bài giảng về những nhà văn Nam
Bộ khác: Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam…

6. Cấu trúc của luận văn:
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG: Gồm 4 chương:
Chương 1: Trương Duy Toản trong bối cảnh Nam Bộ đầu thế kỷ XX
1.1.

Vài nét về Nam Bộ 30 năm đầu thế kỷ XX

1.1.1. Về chính trị - Kinh tế - Xã hội
1.1.2. Về văn hoá – Giáo dục

1.1.3. Về báo chí – Văn học
1.2.

Cuộc đời và sự nghiệp của Trương Duy Toản

1.2.1. Cuộc đời của Trương Duy Toản
1.2.2. Sự nghiệp của Trương Duy Toản
1.2.2.1. Hoạt động báo chí của Trương Duy Toản
1.2.2.2. Sáng tác của Trương Duy Toản
Chương 2: Những nội dung chính trong văn xuôi nghệ thuật của Trương Duy Toản
2.1. Đạo lý truyền thống
2.2. Hiện thực Nam bộ những năm đầu thế kỷ XX
2.3. Tư tưởng yêu nước, chống xâm lược
Chương 3: Những đặc điểm nghệ thuật văn xuôi Trương Duy Toản
3.1. Nghệ thuật kết cấu truyện
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật


3.3. Ngôn ngữ - Lời văn nghệ thuật
Chương 4: Một số đặc điểm kịch bản cải lương của Trương Duy Toản
4.1. Đề tài – Xung đột kịch
4.2. Nhân vật
4.3. Ngôn ngữ
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
Tài liệu tham khảo


CHƯƠNG 1: TRƯƠNG DUY TOẢN TRONG BỐI CẢNH NAM BỘ
ĐẦU THẾ KỶ XX

1.1.Vài nét về Nam Bộ 30 năm đầu thế kỷ XX
1.1.1.Về chính trị - Kinh tế - Xã hội
Giữa thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy các nước tư bản
phương Tây mở những cuộc chiến tranh giành giật thuộc địa. Các quốc gia phương Đông
nói chung, Việt Nam nói riêng đã trở thành nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh đó. Lợi
dụng các mối quan hệ đã có từ thời chúa Nguyễn Ánh, và sự suy yếu của chế độ phong kiến
Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha đã viện cớ nhà Nguyễn cấm đạo Thiên Chúa, bắt bớ và
giết hại nhiều giáo sĩ, giáo dân; để tiến hành cuộc chiếm cứ nước Việt.
Tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng. Đến tháng giêng
năm Kỷ Mùi (1859), quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông
Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định. Phan Thanh Giản với vai trò là Chánh sứ và
Lâm Duy Hiệp là phó sứ được cử đi điều đình với Pháp, sau đó đại diện cho triều đình Tự
Đức ký kết hiệp ước hoà bình và hữu nghị Hoà ước Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại
Sài Gòn. Theo đó, ba tỉnh miền Đông Nam Bộ gồm Biên Hoà, Gia Định, Định Tường được
nhượng cho Pháp. Đến tháng 6 năm 1867, Pháp cưỡng chiếm luôn ba tỉnh miền Tây gồm
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Năm 1874, triều đình Huế ký Hoà ước Giáp Tuất, giao trọn
quyền cai trị sáu tỉnh Nam Kỳ cho Pháp để tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Cochinchine
(Nam Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến 1886, Pháp xâm
chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở Bắc Kỳ.
Bằng Hoà ước Giáp Thân năm 1884, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách cai trị khác
nhau đối với ba miền Bắc – Trung – Nam. Mỗi miền có một chính sách luật lệ riêng, trong
đó Nam Kỳ trở thành xứ thuộc địa của Pháp với những nét riêng về kinh tế, chính trị, xã hội
và nhiều thể chế ưu đãi hơn so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Pháp tuyên bố là họ sẽ bảo hộ Bắc
Kỳ (Tonkin) và Trung Kỳ (Annam), nơi họ tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn cho đến
Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945). Thật ra, kể từ khi Pháp chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ
(1867), ở Nam Kỳ đã nảy sinh nhiều biến chuyển xã hội quan trọng, đánh dấu những đổi
thay khác biệt không chỉ về mặt chính trị, xã hội mà cả về mặt văn hoá so với các địa
phương khác. Thực dân Pháp xóa bỏ cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều



Nguyễn. Năm 1899, Lục Tỉnh của Nam Kỳ bị phân lại thành hai mươi mốt tỉnh. Chia lại đất
Nam Kỳ, có lẽ thực dân Pháp muốn xóa nhòa hai chữ Lục Tỉnh trong lòng người Việt, cũng
là cách cắt đứt lòng lưu luyến với truyền thống yêu nước của người dân Nam Bộ, một thủ
đoạn tâm lý bên cạnh các cuộc đàn áp những phong trào yêu nước kháng chiến. Song mặc
dù vậy, cái tên Nam Kỳ vẫn được duy trì cho đến tận năm 1945.
Cũng cần nói rõ thêm, giai đoạn từ khi chiếm được Nam Kỳ cho đến năm 1880, chính
quyền thực dân ở Nam Kỳ do các đô đốc nắm quyền. Bấy giờ, hiếm có người Việt nào hợp
tác với Pháp, ngoại trừ Tôn Thọ Tường và một số thông ngôn, bồi bếp. Sự kiện nổi bật ở
thời kỳ này về phương diện chính trị là nhiều cuộc nổi dậy cưỡng lệnh triều đình, chống lại
quân Pháp của các tướng lãnh và của các sĩ phu yêu nước như Hồ Huân Nghiệp, Trương
Định, Trần Thiện Chánh… Những người không có điều kiện trực tiếp theo nghĩa quân thì tự
tay đốt bỏ nhà cửa, ruộng vườn hoặc thực hiện kế sách “tị địa”, di chuyển đến sinh sống ở
những vùng không thuộc sự quản lý của chính quyền Pháp. Đến năm 1880, Hội đồng thuộc
địa Nam Kỳ được thành lập, gồm 12 uỷ viên người Pháp và 6 uỷ viên người Việt. Với âm
mưu biến Nam Kỳ thành bàn đạp để đánh chiếm Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Pháp tăng cường
chuẩn bị lực lượng, tuyển mộ lính và khai thác kinh tế ở Nam Kỳ. Đến khi tiến đánh Bắc
Kỳ, chúng đã tuyển mộ và huấn luyện được 4000 lính mã tà. Tuy thực dân bằng nhiều cách
thức thắt chặt ách cai trị, nhưng nhân dân Nam Bộ lúc bấy giờ vẫn ngấm ngầm hoặc công
khai phản kháng.
Vào năm 1885, ngay sau khi có Hoà ước 1884, các quan lại Việt Nam tổ chức phong
trào kháng chiến Cần Vương chống Pháp do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân
danh vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng. Cần Vương mang nghĩa “giúp vua”. Phong trào
thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân, đặc biệt là đông đảo các tầng
lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc
khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi,
kéo dài từ 1885 đến 1895. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt và đem lưu đày ở
Châu Phi, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào Cần Vương
suy yếu dần, từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị tiêu diệt. Đến cuối năm 1895, khi khởi nghĩa
Hương Khê của Phan Đình Phùng thất bại, phong trào Cần Vương coi như chấm dứt. Đây là
phong trào cuối cùng của ý thức hệ phong kiến trong phong trào cách mạng giải phóng dân

tộc ở Việt Nam. Ngoài ra, thời kỳ này còn có khởi nghĩa Yên Thế. Mặc dù thủ lĩnh tối cao


của cuộc khởi nghĩa này là Hoàng Hoa Thám có liên quan tới phong trào Cần Vương,
nhưng cuộc khởi nghĩa vẫn được xem là khởi nghĩa nông dân tự phát, kéo dài tới năm 1913.
Xã hội Việt Nam ở Trung và Bắc kỳ thay đổi rất chậm chạp, nếu không muốn nói là
dậm chân tại chỗ trong khung cảnh văn hóa Nho giáo và quân chủ đã thịnh hành từ hàng
chục thế kỷ trước. Chính trong hoàn cảnh đó, tại Quảng Nam vào đầu thế kỷ 20 xuất hiện
hai phong trào Đông du và Duy tân, là hai phong trào vận động văn hóa và chính trị theo
hướng hội nhập vào trào lưu thế giới, nhưng mỗi bên đi theo một con đường khác nhau.
Phong trào Đông du do Phan Bội Châu (1867-1940) và Nguyễn Thành (1863-1911)
chủ trương. Vào năm 1904, tại sơn trang Nam Thịnh, làng Thạnh Mỹ, phủ Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam, Phan Bội Châu cùng Nguyễn Thành thành lập một nghĩa hội bí mật là Hội Duy
tân, đưa Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lên làm minh chủ, nhằm mục đích chuẩn bị tổ chức bạo
động và kiếm cách cầu viện nước ngoài để chống Pháp. Do sự vận động tài chính của
Nguyễn Thành, Phan Bội Châu ra khỏi nước năm 1905, sang Trung Hoa, rồi qua Nhật. Theo
lời khuyên của những chính trị gia Nhật, Phan Bội Châu đưa Cường Để cùng các thanh niên
sang Nhật du học để trở về cứu nước. Thấy được nguy cơ này, Pháp thương lượng và ký kết
với Nhật Bản hiệp ước ngày 10/06/1907, theo đó Pháp nhượng cho Nhật một số quyền lợi
kinh tế ở Đông Dương, để đổi lại, Nhật thôi ủng hộ phong trào Đông du, trục xuất tất cả các
du học sinh Việt Nam ra khỏi đất Nhật năm 1908, nên phong trào Đông du tan rã. Đây là
một kinh nghiệm lịch sử cần được nhớ kỹ về việc cầu viện nước ngoài, vì tất cả những
người nước ngoài đến Việt Nam đều vì quyền lợi riêng tư của họ.
Sau cuộc Cách mạng Tân Hợi thành công ở Trung Hoa thì triều đình nhà Thanh cáo
chung và tư tưởng dân chủ tư bản đã thuyết phục được Phan Bội Châu noi theo con đường
mới thay vì đường lối quân chủ lập hiến trước kia. Tuy vậy ông vẫn suy tôn Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để làm hội chủ của một hội đoàn mới mang tên Việt Nam Quang Phục Hội với mục
đích đánh đuổi người Pháp ra khỏi Đông Dương. Phan Bội Châu tự đảm nhận làm phó hội
chủ cùng là đại diện Trung Kỳ, Nguyễn Thượng Hiền là đại diện Bắc Kỳ, và Nguyễn Thần
Hiến là đại diện Nam Kỳ. Việt Nam Quang Phục Hội có tổ chức một lực lượng vũ trang

mang tên “Quang phục quân”, có đặt ra Quốc kỳ, Quân kỳ. Để tài trợ công cuộc, Hội còn
lập thêm “Chấn Hoa hưng Á Hội” ở Quảng Đông để lôi cuốn sự quyên góp của người Hoa
bằng cách bán “quân dụng phiếu”. Ngoài ra, Hội còn tìm cách về nước vận động quyên góp
cho phong trào. Tháng 2 năm 1913, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để rời Hương Cảng trở về Sài


Gòn, rồi bí mật xuống Hậu Giang vận động các điền chủ trong thời gian ba tháng, lưu lại
nơi đây bao nhiêu là thâm tình, tín nghĩa.
Song song với phong trào Đông du, một số nhà khoa bảng Quảng Nam lại mở một
cuộc vận động khác. Các ông đỗ đại khoa như cử nhân, phó bảng, tiến sĩ Nho học, nhưng
không ra làm quan hoặc từ quan và mở cuộc vận động cải cách. Các nhân vật chính yếu
như Phan Châu Trinh (1872-1926), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Trần Quý Cáp (18701908), hoạt động công khai, không lập hội bí mật. Người ta thường gọi phong trào do các
ông đề xướng là Phong trào Duy tân. Chủ trương chung thứ nhất của phong trào Duy tân là
trực tiếp vận động duy tân với dân chúng khắp nước, chứ không thông qua triều đình Huế,
không trình bày đề nghị hay dự án cải cách lên vua hay các đại quan. Chủ trương chung thứ
nhì là phong trào Duy tân hoạt động công khai, bất bạo động, không cầu viện ngoại bang,
không gia nhập một đảng phái hay hội kín nào cả. Chủ trương chung thứ ba hướng về tương
lai, là vận động nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, phát triển dân sinh, vận động dân
quyền.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng nhanh chóng
bị dìm trong biển máu do thất bại về đường lối.
Để củng cố nền thống trị ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành nhiều chính sách
thâm độc. Trước hết, nhằm nhanh chóng ổn định về chính trị, Pháp cử nhiều tên quan cai trị
có năng lực như Doumer, Klobukowski, Sarraut…, sang làm Toàn quyền ở Đông Dương,
bước đầu tổ chức khai thác tài nguyên của xứ sở này phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế
và cho cuộc chiến giành giật thuộc địa của đế quốc Pháp. Đường lối mà Pháp quy định cho
toàn bộ quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến
năm 1945 là: Thuộc địa Đông Dương phải được đặc biệt dành riêng cho thị trường Pháp.
Nền sản xuất ở thuộc địa này chỉ được thu gọn trong việc cung cấp cho chính quốc những
nguyên liệu hay những vật phẩm mà nước Pháp không có. Công nghiệp nếu cần khuyến

khích thì cũng chỉ trong giới hạn nhằm bổ sung cho công nghiệp chính quốc chứ không
được làm tổn hại nền công nghiệp chính quốc.
Nền tảng kinh tế của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ là kinh tế nông nghiệp phong
kiến. Nông dân nghèo sống dưới ách bóc lột bằng tô tức của giai cấp địa chủ. Chính quyền
thực dân không chỉ duy trì nguyên vẹn chế độ bóc lột kiểu phong kiến mà còn ra sức tước
đoạt ruộng đất của nông dân bằng những thủ đoạn vô cùng trắng trợn và được hợp pháp hoá
bằng những điều ước, nghị định do nhà cầm quyền thực dân cấu kết với bọn phong kiến bản


địa đặt ra. Ngoài địa chủ Pháp, Việt Nam, nhà thờ giáo hội Thiên chúa cũng được Pháp
bênh vực, ra sức chiếm ruộng đất của nông dân. Sau khi chiếm đất, thực dân Pháp chủ yếu
vẫn áp dụng phương pháp bóc lột nông dân theo kiểu phát canh thu tô. Một số tư bản thực
dân có kinh doanh trong những sở đồn điền mới theo lối tư bản chủ nghĩa, nhưng số này ít,
chủ yếu là nhằm bóc lột nhân công rẻ mạt. Đời sống của người nông dân và nền nông
nghiệp Việt Nam nói chung, Nam Bộ nói riêng ngày càng sa sút. Nông dân bị phá sản, có
người ở lại làm thuê cho địa chủ, phú nông. Một số bỏ đi làm tá điền ở các đồn điền Pháp.
Số khác ra thành thị kiếm ăn bằng những nghề phụ như cắt tóc, kéo xe, hoặc làm bồi bếp,
con sen, ở vú, sống cuộc đời đày đoạ, bấp bênh. Một số rất nhỏ vào các nhà máy hoặc hầm
mỏ của tư bản Pháp – Việt. Cuộc sống của nông dân lâm vào tình trạng cùng cực không lối
thoát.
Thực dân Pháp coi trọng công nghiệp hơn nông nghiệp. Tuy được coi trọng hơn nhưng
không có nghĩa là tư bản Pháp để cho công nghiệp Việt Nam được phát triển tự do mà vẫn
tìm cách khống chế. Chỉ có ngành công nghiệp khai thác than và quặng không bị chính
quyền thực dân hạn chế, vì nó nhanh chóng đem lại lợi nhuận và chỉ bổ sung chứ không làm
tổn hại cho công nghiệp chính quốc phát triển. Sau công nghiệp khai thác than, quặng là
ngành sản xuất xi măng, gạch ngói, điện, nước, chế biến nông lâm sản như chế biến gỗ, xay
xát gạo, sản xuất giấy, diêm, rượu, đường, vải sợi… Phần lớn các xí nghiệp công nghiệp
này đều nằm trong tay nhưng tập đoàn tư bản lớn, có trụ sở ở Pháp. Phương thức hoạt động
là tận dụng nhân công lao động rẻ mạt, sao cho chi phí sản xuất giảm xuống mức thấp nhất
để thu lợi nhuận cao. Cùng với những chính sách về công nghiệp như trên, việc độc quyền

thương mại của thực dân Pháp được biến thành phương tiện để bần cùng hoá nhân dân lao
động Việt Nam, bóp chết các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Sự kết hợp giữa hai
phương thức bóc lột tư bản chủ nghĩa và phong kiến, cũng như sự dung dưỡng của thực dân
đối với giai cấp địa chủ Việt Nam, biến chúng thành tay sai đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa
công thương nghiệp cổ truyền và công thương nghiệp dân tộc với quyền lợi của bọn thực
dân và giai cấp địa chủ.
Trong giai đoạn này, chương trình khai thác của Paul Doumer còn đặt kế hoạch tăng
cường hệ thống giao thông vận tải phục vụ cho việc vơ vét tài nguyên và vận chuyển binh
lính kịp thời đàn áp các cuộc nổi dậy của dân chúng. Ngoài đường bộ, đường thuỷ ven biển
và theo kênh rạch ở Nam Kỳ được khai thác. Năm 1914, tàu máy hơi nước đã khá phổ biến.
Pháp xây dựng cảng Sài Gòn, mở đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho, xây cầu trên sông Vàm


Cỏ… để nắm nguồn lợi lúa gạo và lập nhiều công xưởng ở Sài Gòn, Chợ Lớn như đóng
thuyền, vận tải đường sông, nhà máy xay lúa… Những cơ sở kinh tế ban đầu này khiến kinh
tế Nam Kỳ lúc bấy giờ phát triển mạnh mẽ và là tiền đề tạo nên độ chênh về mặt kinh tế - xã
hội giữa Nam Kỳ so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ sau này.
Chương trình khai thác thuộc địa của Paul Doumer và Albert Saurraut đã làm thay đổi
sâu sắc xã hội Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng. Pháp tiến hành chế độ cai trị khắt
khe trên toàn cõi Việt Nam thông qua hệ thống quan lại và mật thám. Chính sách cai trị độc
đoán, tàn bạo của chính quyền thực dân và bè lũ tay sai cùng với nạn mất mùa xảy đến đã
gây ra nạn đói lớn tại Nam Kỳ. Đời sống người dân hết sức khốn đốn, bi đát. Một bộ phận
nông dân bị bần cùng hoá, phải từ giã ruộng vườn kiếm kế sinh nhai ở nơi thị tứ bằng đủ
mọi nghề, mọi việc, hình thành nên tầng lớp dân nghèo thành thị. Từ cuối thế kỷ XIX, đô thị
miền Nam đã phát triển theo kiểu đô thị công thương nghiệp. Đến đầu thế kỷ XX, cùng với
sự phát triển của đô thị, tầng lớp tư sản đầu tiên đã xuất hiện, tuy số lượng chưa đông và
thành phần xuất thân khác nhau. Họ có phần bực bội vì sự chèn ép của các nhà tư bản Pháp
và sự kìm hãm của chính quyền thực dân. Nhưng do quá lệ thuộc vào kinh tế của tư bản
Pháp và chưa thoát ly được lối bóc lột phong kiến nên không dám ra mặt chống Pháp và
phong kiến mà chỉ mong muốn có một sự cải tổ để dễ bề làm ăn sinh sống hơn.

Một tầng lớp đông đảo cũng xuất hiện trong giai đoạn này, đó là tầng lớp tiểu tư sản
thành thị, bao gồm tiểu chủ thủ công hay thương mại, vốn liếng nhỏ, làm ăn bấp bênh,
những viên chức nhỏ của chính quyền thực dân như thông ngôn, ký lục, giáo học, hoặc
những người làm thư ký, kế toán cho những hãng buôn lớn. Tuy vậy, tầng lớp tư sản người
Việt chỉ mới là số ít, phần lớn là người Pháp, người Hoa, người Ấn Độ. Do cuộc sống chật
hẹp và không khí chính trị nghẹt thở nên nhiều người trong số họ đã tích cực tham gia vào
các cuộc vận động cứu nước đầu thế kỷ XX, song do địa vị kinh tế và chính trị trung gian,
họ không đủ khả năng đóng vai trò chủ động trong cuộc vận động cách mạng này.
Ngoài ra, sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam trước giai cấp tư sản dân tộc,
hình thành lớp người làm thuê ăn lương chịu sự bóc lột theo lối tư bản rất khắc nghiệt của
giới chủ, là một đặc điểm lịch sử nổi bật, quy định những nét đặc thù của sự phát triển sau
này của cách mạng Việt Nam.
Quá trình đô thị hoá diễn ra khá nhanh chóng, đặc biệt là ở Sài Gòn và Chợ Lớn. Dân
số đô thị ngày càng đông, xã hội đô thị ngày càng phức tạp, thành phần dân cư ngày càng đa
dạng với sự xuất hiện của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác hẳn trước kia. Năm 1863, dân


số cả Sài Gòn – Gia Định chỉ mới gần hai vạn thì đến năm 1929 đã có trên ba mươi vạn
người; trong đó gần một nửa là người lao động chân tay.
Đến ngày 09/03/1945, bị Nhật đảo chính, Pháp kết thúc 86 năm đô hộ Việt Nam.
1.1.2.Về văn hoá – Giáo dục
Để duy trì địa vị thống trị và bóc lột ở Việt Nam, thực dân Pháp đã dùng nhiều biện
pháp để xoá bỏ tinh thần yêu nước và truyền thống bất khuất của dân tộc ta, trong đó có
những thủ đoạn về văn hoá, giáo dục. Ngay sau khi nắm quyền ở Nam Kỳ, bên cạnh những
hoạt động về chính trị và kinh tế, thực dân Pháp cũng đặc biệt chú ý đến việc truyền bá văn
hoá Pháp, hạn chế ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa trong đời sống người Việt. Cụ thể,
lĩnh vực giáo dục được người Pháp quan tâm trước nhất. Kể từ khi Paul Doumer sang làm
Toàn quyền (1897), đường lối giáo dục của Pháp nhằm những mục tiêu chủ yếu sau:
1/ Đào tạo một lớp người bản xứ có trình độ học vấn vừa đủ để làm kẻ thừa hành
trung thành và tận tuỵ với “mẫu quốc”.

2/ Triệt để khai thác nội dung và hình thức của nền giáo dục phong kiến lạc hậu.
3/ Về mặt tổ chức, có sự kết hợp giữa trường học cũ với các loại trường học mới.
Để đạt được những mục tiêu trên đây, chính quyền thực dân ở Việt Nam cho mở hai
hệ thống trường học: trường Hán học có cải tổ đôi chút và hệ thống trường Pháp – Việt.
Trường Hán học chỉ duy trì tạm thời, sẽ được thay thế bằng trường Pháp – Việt trên cả
nước. Đầu thế kỷ XX, nền Hán học (mà ở đây đồng nghĩa với Cựu học) ở Việt Nam bắt đầu
đến hồi mạt vận. Thiết chế tuyển chọn hiền tài bằng khoa cử của triều đình phong kiến dần
tàn cục và chấm dứt số mệnh lịch sử vào khoảng 1915 – 1919. Kỳ thi Hương bị xoá bỏ ở
Nam Kỳ sớm nhất. Với quan niệm tầng lớp sĩ phu là một lực lượng chính trị có uy thế đối
với đông đảo nhân dân, người Pháp đã dùng nhiều biện pháp để hạn chế ảnh hưởng của họ,
bằng cả cách mua chuộc lẫn biện pháp đàn áp. Để giúp bộ máy cai trị được vững vàng, Pháp
nhanh chóng mở các trường đào tạo thông ngôn, thơ ký và đưa vào dạy tiếng Pháp trong các
trường học. Bên cạnh đó, chữ quốc ngữ không chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sĩ
phương Tây mà còn là phương tiện lôi kéo người Việt khỏi ảnh hưởng của văn hoá Trung
Hoa. Thực dân Pháp đã dùng chữ quốc ngữ để thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm, đồng thời
đây cũng là phương tiện chuyển tải văn hoá phương Tây đến với Việt Nam và giúp người
Việt Nam hoà nhập với văn hoá thế giới. Như vậy, chữ quốc ngữ Latinh bản thân nó chỉ là
một hình thức chữ viết nhưng thoạt đầu đã được thực dân Pháp xem như là một phương tiện


hữu hiệu để cách ly người Việt khỏi nền văn hoá bản xứ và trước mắt chặt đứt ảnh hưởng
của giới sĩ phu đối với nhân dân. Thế nhưng, thoạt đầu với quan niệm bất kể cái gì liên quan
đến Pháp đều là xấu, nhân dân đã không cho con em đi học chữ quốc ngữ. Người Pháp đã
phải dùng biện pháp cưỡng chế, bắt thiếu niên đi học giống như bắt đi sưu; đồng thời thay
chữ Hán trong công văn, giấy tờ bằng chữ quốc ngữ. Thời gian sau, hầu hết những người
biết chữ quốc ngữ và tiếng Pháp đều dễ dàng có công ăn việc làm, thậm chí một số ít lại
được chính quyền thực dân cho đi học tại các nước thuộc Pháp và cả Paris. Vì vậy một bộ
phận không nhỏ đã tự tìm đến với chữ quốc ngữ vì lợi ích giao tiếp của nó và cả vì lợi ích
trong cuộc mưu sinh. Dần về sau, theo thời gian, với ưu thế dễ đọc, dễ viết và tính hữu ích
rõ rệt trong đời sống, chữ quốc ngữ đã hoàn toàn chiếm ưu thế so với chữ Hán và chữ Nôm.

Hơn nữa, các Nho sĩ trước những ưu thế mạnh mẽ của chữ quốc ngữ cũng đã dần dần tích
cực ủng hộ cho việc truyền bá loại văn tự mới này thông qua hoạt động của các phong trào
Duy Tân. Như vậy, có thể nói rằng, chữ quốc ngữ đã thực hiện được vai trò lịch sử của
mình: chất xúc tác hữu hiệu của quá trình Việt Nam hội nhập với văn hoá phương Tây.
Qua những điều vừa phân tích ở trên vai trò của chữ quốc ngữ, có thể rút ra một nhận
định: trong các giai cấp và tầng lớp xã hội lúc bấy giờ, tầng lớp tiểu tư sản trí thức đã giữ
một vai trò khá đặc biệt về lĩnh vực văn hoá. Việc thay đổi hình thức và nội dung thi cử từ
1906 đã quyết định chiều hướng phát triển của tầng lớp trí thức. Cùng với việc xoá bỏ hoàn
toàn nền Nho học với chữ Hán cả nghìn năm trong chế độ phong kiến Việt Nam là sự tiếp
xúc với văn hoá phương Tây, phong trào tân học theo chữ quốc ngữ, cách thức đào tạo và
thi cử mới đã hình thành nên một đội ngũ trí thức khác hẳn với tầng lớp nho sĩ trước kia, đó
là những người xuất thân từ truyền thống Nho giáo nhưng được tiếp cận với văn hoá
phương Tây. Những người này cùng với những viên chức làm việc trong chính quyền thực
dân Pháp và chính quyền Nam triều (tham, phán, thông ngôn, ký lục…) trở thành tầng lớp
tiểu tư sản trí thức lúc bấy giờ. Tầng lớp này dù xuất thân từ những hoàn cảnh gia đình khác
nhau nhưng về cơ bản đều có một nếp sống tương đối ổn định và đầy đủ trong một xã hội
đang nhanh chóng thay đổi. Họ có điều kiện để tiếp xúc với những thông tin về chính trị,
văn hoá, xã hội và họ cũng có nhu cầu thể hiện tâm tư của mình về những vấn đề đó. Đại
diện tiêu biểu cho giới này là Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đã mở đầu cho phong trào
Duy Tân và phong trào Đông Du vận động tăng cường dân trí, dân chủ, nhân quyền và cải
cách xã hội cho người Việt trước tầng lớp người Pháp cai trị. Chính những hoạt động tích
cực của các phong trào này là một trong những động lực cơ bản của quá trình hiện đại hoá


văn học Việt Nam ở những thập niên đầu thế kỷ XX về cả phương diện hình thức lẫn
phương diện tư tưởng. Tuy nhiên, sự phát triển các phong trào này sau đó bị chính quyền
thực dân dẹp bỏ vì nhận thấy nguy cơ đối với chế độ thuộc địa của họ.
Sự hạn chế giáo dục là một nội dung của “Chính sách ngu dân” mà thực dân Pháp
dùng ở Việt Nam. Trong cả ba kỳ của Việt Nam, tính đến năm 1906 mới chỉ có 25 trường
tiểu học Pháp – Việt và tính đến năm 1913 mới chỉ có 10 vạn học sinh các cấp (trong tổng

số 20 triệu dân lúc bấy giờ). Sự phát triển giáo dục cũng không đều khắp, tất cả các vùng
miền núi đều không có trường học.
Trong khi nhỏ giọt thực hiện các chính sách gọi là “mở mang” “khai hoá” cho xứ
thuộc địa, thực dân Pháp còn thực hiện một chính sách phản động về văn hoá, nhằm huỷ
hoại nòi giống Việt Nam, gieo rắc tư tưởng tự ti trong nhân dân, duy trì nếp sống lạc hậu và
truyền bá một nếp sống tư sản phương Tây không kém phần hủ bại. Những thói hư tật xấu
của xã hội cũ được dung dưỡng. Cờ bạc không những không bị cấm đoán mà còn được
khuyến khích. Báo chí bên cạnh mặt tích cực của nó cũng được sử dụng như là một công cụ
đặc biệt nhằm làm thui chột mầm mống cách mạng trong nhân dân.

1.1.3.Về báo chí – Văn học
Từ đầu thế kỉ XVII, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), sự ly khai với triều
đình Lê – Trịnh đã tạo thành xứ Đàng Trong phân cách với xứ Đàng Ngoài. Hoàn cảnh thực
tế này đả làm nảy sinh một bộ phận có ít nhiều sắc thái cá biệt của lịch sử văn học; đó là nền
văn học Đàng Trong xuất hiện từ nửa đầu thế kỷ XVII với những tác phẩm của Đào Duy Từ
(1572-1634) và phát triển riêng rẽ, ngăn cách với văn chương Đàng Ngoài cho đến cuối thế
kỷ XVIII. Tuy đã nảy sinh và phát triển trên một vùng đất mới với những điều kiện xã hội
khá nhiều dị biệt, văn chương Đàng Trong vẫn tiếp nối truyền thống văn học của dân tộc.
Năm 1859, với việc Pháp xâm chiếm vùng Bến Nghé (Gia Định), một sự kiện lịch sử
khác lại xảy ra, có tác dụng tạo thành ngăn cách để khơi dòng cho một bộ phận văn học
mới. Sự phân biệt đối xử dựa trên cơ sở dị đồng thể chế giữa Nam Kỳ và Trung, Bắc Kỳ.
Trên nguyên tắc pháp lý đặt ra do những văn kiện kí kết giữa Pháp và triều đình Huế, Nam
Kỳ là một thuộc địa, dân Việt ở miền Nam hoàn toàn bị đặt dưới chế độ cai trị tuỳ Pháp
định đoạt. Trung và Bắc Việt là những “xứ bảo hộ” mà lợi dụng những cam kết gian ngoa,
Pháp thi hành nhiều thủ đoạn để thực sự biến thành thuộc địa với sự tiếp tay đắc lực của


chính triều đình Huế. Chế độ bảo hộ “mập mờ” ở Trung, Bắc thêm vào sự nghi ngại không
đủ cơ sở pháp lý để thẳng tay trấn áp khiến chính quyền thực dân siết mạnh những vòng
kềm kẹp ở Trung, Bắc nhiều hơn Nam. Bởi đó, tuy là thuộc địa, miền Nam bị đặt dưới một

chế độ có phần nới rộng hơn ở Trung và Bắc Việt. Trong hệ thống trấn áp của guồng máy
cai trị thực dân, những biện pháp dành cho Nam Kỳ, đến một giới hạn nào đó, giữ vai trò
của “một chỗ xả hơi an toàn”, về văn học cũng như ở các lĩnh vực chính trị xã hội. Và chính
tình trạng ấy cũng dự phần vào việc tạo cho văn học miền Nam những sắc thái dị biệt đối
với nền văn học quốc gia lưu truyền sau thời Pháp thuộc.
Nói đến nền văn học hiện đại không thể không nhắc đến vai trò của ngôn ngữ văn học,
mà cụ thể là chữ quốc ngữ. Điều đáng nói không phải những tác phẩm văn chương mà báo
chí mới chính là phương tiện đầu tiên phổ biến rộng rãi chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Thiếu
Sơn trong bài diễn thuyết Báo giới và văn học quốc ngữ năm 1933 tại Hội Nam Kỳ Khuyến
học Sài Gòn đã thấy sự quan hệ đặc biệt của văn học và báo chí ở Việt Nam: “Ở các nước
văn minh tiên tiến thì văn học đều có trước báo chí, mà ở nước ta thì chính lại nhờ báo chí
xây dựng nền văn học” [49,115].
Quan hệ gắn bó mật thiết giữa báo chí và văn học trong giai đoạn đầu kiến tạo nền văn
học hiện đại không phải là một cái gì riêng có chỉ ở Việt Nam. Có một hiện tượng mang tính
khu vực, đó là sự có mặt của báo chí trong những phong trào Duy Tân của các nước đồng
văn trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Dẫn chứng điển hình có thể tìm thấy
trong lịch sử Trung Quốc. Năm 1840, triều đình Mãn Thanh thất bại trong cuộc chiến tranh
Nha phiến với các nước phương Tây. Và năm 1894, trong cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng
ở Triều Tiên với Nhật Bản, họ phải cắt đất giảng hoà, nhận tội và bồi thường chiến phí. Hơn
nửa thế kỷ thất bại nối tiếp thất bại, bị đè bẹp trước những thế lực đến từ phương Tây với
văn minh cơ khí và nhất là phải chịu thúc thủ trước một dân tộc vốn bị coi là man di ở ngoài
biển Đông; những nỗi quốc sỉ đã đánh thức nơi người Trung Hoa ý thức về nhu cầu duy tân
cải cách, hiện đại hoá đất nước. Bắt đầu từ 1895, ở Trung Hoa, phong trào Duy Tân dấy lên
một cách mạnh mẽ với đội ngũ trí thức tân học, cấp tiến ngày càng đông đảo: Khang Hữu
Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng, Nghiêm Phục… và rất nhiều trí thức khác. Một trong
những hoạt động chính của các ông, song song với việc thành lập những học hội, những
trường Tân học, viết thư đệ trình đề xuất cải cách lên triều đình phong kiến chính là mở báo
và viết báo. Phát huy tác dụng của một phương tiện thông tin đại chúng đặc thù (và cũng là
duy nhất lúc đó), báo chí đã trở thành một thành tố của công cuộc hiện đại hoá xã hội, trở



thành một phương tiện giới thiệu văn minh phương Tây, tuyên truyền cổ động cho công
cuộc Duy Tân. Những tờ báo như Trung Ngoại ký văn, Thời vụ báo, Quốc văn chân báo,
Cường học báo… đã đi vào lịch sử Trung Quốc với tư cách là cơ quan ngôn luận của phong
trào Duy Tân Trung Quốc. Chính những tờ báo đó, cùng với bản dịch tác phẩm của Darwin,
Rousseau Montesquieu, Spencer… đã sang Việt Nam và trở thành một trong những đốm lửa
làm bùng lên phong trào Duy Tân ở nước ta dưới cái tên những “Tân thư”, “Tân báo”.
Trở lại với Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, đã diễn ra một bước ngoặt quan trọng
trong lịch sử dân tộc. Cuối thế kỷ XIX, hầu như toàn bộ những những phong trào yêu nước
theo kiểu cũ của sĩ phu, văn thân đều lần lượt đi đến thất bại. Cuộc khởi nghĩa của Hoàng
Hoa Thám giành độc lập mà trên nhiều mặt đã lỗi thời và không mấy hiệu quả thực tế. Và
ngay sau khi hoàn thành công cuộc xâm lược Việt Nam bằng vũ lực, người Pháp đã bắt đầu
bắt tay vào công cuộc thực dân hoá Việt Nam. Thảm trạng mất nước và kinh nghiệm xương
máu rút ra từ thất bại của những nhà Nho lớp trước đã tác động mạnh mẽ đến những trí thức
Nho học hồi đầu thế kỷ. Mở rộng tầm mắt ra khu vực cũng như khắp toàn cầu, trong họ đã
diễn ra một quá trình thức nhận lại về địa vị của dân tộc trong thế giới hiện đại. Họ dũng
cảm nhìn thẳng vào thực trạng nghèo nàn, lạc hậu và bất lực của dân tộc, coi đó là nguồn
gốc của mất nước. Hai tấm gương lớn có vai trò như những hình mẫu lý tưởng của trí thức
Việt Nam đầu thế kỷ là Nhật Bản và Trung Quốc. Đặc biệt thông qua con đường Tân thư,
Tân báo, những tư tưởng về Duy Tân và học tập văn minh phương Tây đã thấm nhiễm vào
trí thức Nho học Việt Nam. Điều đáng chú ý trong hoạt động của những phong trào Duy
Tân đầu thế kỷ, đó chính là sự đề cao của trí thức truyền thống đối với vai trò của báo chí.
Luật tự do báo chí được áp dụng tại miền Nam từ ngày 22/09/1881, cùng với phong
trào truyền bá chữ quốc ngữ khiến cho hoạt động báo chí ở Nam Kỳ diễn ra rất sôi nổi.
Trước khi Pháp xâm lược, ở Việt Nam chưa hề có báo chí. Tờ báo quốc ngữ đầu tiên là Gia
Định báo ra đời ngày 15/04/1865, ít nhiều đóng vai trò thúc đẩy sự chuyển tiếp của một nền
văn chương cổ sang văn chương hiện đại. Thông loại khoá trình (1888), tờ báo tư nhân đầu
tiên, tạp chí văn học đầu tiên của nước ta đã dạy cho độc giả biết chữ nghĩa văn chương và
tập viết văn chương. Nhắc đến hai tờ báo này phải lưu ý đến vai trò của Trương Vĩnh Ký.
Sau đó lần lượt xuất hiện nhiều tờ báo khác: Phan Yên báo (1898), Nông cổ mín đàm

(1901), Đại Việt tân báo (1905), Lục tỉnh tân văn (1907), Nam Kỳ địa phận (1908), Đông
Dương tạp chí (1913), Công luận báo (1916), Nam Phong tạp chí (1917)… Đến năm 1930,
đã có trên 80 tờ báo và tạp chí lưu hành trong cả nước, riêng ở Sài Gòn đã phát hành 50 tờ.


Sài Gòn – Gia Định là mảnh đất màu mỡ của báo chí. Chữ quốc ngữ đến với Nam Bộ sớm
hơn, nên báo chí chữ quốc ngữ trở thành một món ăn tinh thần thiết yếu của đông đảo độc
giả thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Chúng phục vụ mọi đối tượng, bất kể thành phần, tầng
lớp xã hội nào. Ấn tượng mà người đọc dễ dàng nhận thấy là báo chí Nam Bộ thời bấy giờ
dung nạp tất cả mọi dạng thông tin, từ tác phẩm văn chương đến chuyện thương mại, khoa
học, tôn giáo, y tế… Chúng thiên về hướng phổ thông, phổ cập chứ không chú ý đến hướng
chuyên sâu, chuyên ngành. Điều này cho thấy một đặc trưng quan trọng của báo chí 30 năm
đầu thế kỷ, đó là ý thức của trí thức đương thời trong việc sử dụng báo chí làm công cụ cho
sự nghiệp cách mạng văn hoá, thay đổi xã hội. Với định hướng đó, khía cạnh phổ biến kiến
thức, tuyên truyền, nghiên cứu văn hoá, tư tưởng được nhấn mạnh thậm chí còn đậm nét
hơn cả mục đích thông tin của hầu hết những tờ báo lớn đương thời, từ Đông Dương tạp chí
cho đến An Nam tạp chí. Trí thức thời đó làm báo với lý tưởng “thâu thái học thuật, tư
tưởng Đông Tây”, tạo dựng một sự nghiệp “có bóng mây hơn nước đến dân xã”. Báo chí
phát triển mạnh về những hình thức tuần báo, bán nguyệt san, nguyệt san, những loại “tạp
chí” – hơn những hình thức “nhật báo”. Trong cơ cấu nội dung báo chí đương thời, bên cạnh
những mục “thời sự tổng thuật”, “thời sự Đông Dương”, “điện báo” (thường chỉ chiếm một
phần khiêm tốn), Những mục “luận thuyết”, “triết học, bình luận”, văn chương khoa”, “vân
uyển”, “sư phạm, học khoa”… thường rất được chú trọng, được dành cho một dung lượng
lớn về số trang, vị trí, trở thành bộ mặt chính, linh hồn của tờ báo và ngay cả từ phía độc
giả, báo chí cũng được đón nhận như một thứ “sách học” để thâu thái được tạm đủ học
thuật tư tưởng Đông Tây. Những bằng chứng đó, theo chúng tôi cũng đủ khẳng định vị thế
đặc biệt quan trọng của báo chí đối với sự nghiệp xây dựng “quốc văn”, “quốc học” (những
từ ngữ thường được dùng đương thời, chỉ toàn bộ văn hoá, học thuật) lúc bấy giờ. Định
hướng nội dung là vậy nên hình thức diễn đạt, lời văn câu chữ của báo chí Nam Bộ nói
chung cũng gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của đông đảo quần chúng nhân dân.

Có thể điểm qua vai trò của một vài tờ báo tiêu biểu lúc bấy giờ: Trong các tờ báo
quốc ngữ đầu tiên, Nông cổ mín đàm (ra số đầu ngày 01/08/1901) với 23 năm tồn tại, không
chỉ được biết tới như một tờ báo kinh tế đầu tiên của đất nước mà còn là mảnh đất ươm
mầm cho thể loại tiểu thuyết non trẻ của văn học hiện đại. Mục đích của báo, như chủ nhân
của nó là Canavaggio nói là để “luận việc nông cổ, trước là để cho thông tình cùng nhau,
sau là để cho anh em ai có điều chi lợi ích về việc nông cổ thì xin tỏ cùng bổn quán in ra
cho kẻ đồng chí xem chơi. Hoặc là có nghĩ đặng điều chi ích lợi thì làm mà chung nhờ cùng


×