Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của phạm thị hoài, nguyễn thị thu huệ, phan thị vàng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 185 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------

NGÔ THỊ KIM NGUYÊN

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ ĐỀ TÀI TÌNH YÊU
CỦA PHẠM THỊ HOÀI, NGUYỄN THỊ THU HUỆ, PHAN THỊ VÀNG ANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------

NGÔ THỊ KIM NGUYÊN

NGHÊ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ ĐỀ TÀI TÌNH YÊU
CỦA PHẠM THỊ HOÀI, NGUYỄN THỊ THU HUỆ, PHAN THỊ VÀNG ANH

Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số

:



60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HOÀNG THỊ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012

2


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng
dẫn tận tình và sự động viên, giúp đõ của TS. Hoàng Thị Văn. Tôi xin kính gửi lòng tri
ân chân thành nhất đến Cô.
Xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, các Thầy Cô giáo khoa Ngữ Văn, các Thầy Cô phòng Sau đại học, Thư viện
trường đã luôn tạo điều kiện cho tôi học tập, tra cứu, tham khảo tài liệu phục vụ cho quá
trình nghiên cứu.
Kính gửi lời cảm ơn đến những người thân, bạn bè đã luôn quan tâm, động viên, giúp
đỡ để tôi hoàn thành công việc học tập và nghiên cứu đề tài luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2012
Học viên
Ngô Thị Kim Nguyên

3



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................... 3
MỤC LỤC ................................................................................................ 4
DẪN NHẬP .............................................................................................. 6
1.Lí do chọn đề tài ................................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 7
3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 12
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 13
5. Những đóng góp của luận văn.......................................................................... 14
6. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 14

CHƯƠNG 1: CHỦ THỂ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
VIẾT VỀ ĐỀ TÀI TÌNH YÊU CỦA PHẠM THỊ HOÀI, NGUYỄN
THỊ THU HUỆ, PHAN THỊ VÀNG ANH ......................................... 16
1.1. Chủ thể trần thuật và các hình thức xuất hiện chủ thể trần thuật trong tác
phẩm tự sự ............................................................................................................. 16
1.1.1. Khái niệm chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự ....................................... 16
1.1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự........ 19

1.2. Chủ thể trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh.............................................. 24
1.2.1. Chủ thể trần thuật ngôi thứ ba – khách quan - chủ quan hóa trong truyện
ngắn viết về đề tài tình yêu của ba nhà văn .............................................................. 27
1.2.2. Chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất xưng “tôi” – chủ quan hóa trong truyện
ngắn viết về đề tài tình yêu của ba nhà văn .............................................................. 47

CHƯƠNG 2: KẾT CẤU NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
VIẾT VỀ ĐỀ TÀI TÌNH YÊU CỦA PHẠM THỊ HOÀI, NGUYỄN
THỊ THU HUỆ, PHAN THỊ VÀNG ANH ......................................... 62

2.1. Kết cấu nghệ thuật trong tác phẩm tự sự .................................................... 62
2.2. Kết cấu nghệ thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm
Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh....................................... 63
2.2.1. Kết cấu trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của ba nhà văn
....................................................................................................................................... 68
2.2.2. Kết cấu hình tượng trong truyện ngắn viết về tình yêu của ba nhà văn ... 103

CHƯƠNG 3: LỜI VĂN VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ ĐỀ TÀI TÌNH YÊU CỦA PHẠM THỊ
HOÀI, NGUYỄN THỊ THU HUỆ, PHAN THỊ VÀNG ANH ........ 117
4


3.1. Lời văn trần thuật trong tác phẩm tự sự ................................................... 117
3.1.1. Khái niệm về lời văn trần thuật ...................................................................... 117
3.1.2. Lời văn trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh .................................................. 120

3.2. Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự nói chung............................ 148
3.2.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự .......................... 148
3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm
Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh ........................................... 151

KẾT LUẬN .......................................................................................... 178
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 181

5


DẪN NHẬP

1.Lí do chọn đề tài
Sau Đại hội Đảng lần VI (tháng 12/1986), đất nước Việt Nam đã có một cuộc đổi mới
toàn diện từ văn hóa đến xã hội. Văn học Việt Nam thực sự có những bước chuyển mình
mạnh mẽ ngày càng phù hợp với yêu cầu mới của lịch sử. Ở giai đoạn này, theo giới
nghiên cứu phê bình văn học, truyện ngắn được xem là thể loại phát triển rực rỡ nhất
trong văn học sau 1975. Đó là một nền văn học chưa được xem là hình thành, nếu trong
đó truyện ngắn không chiếm một vị trí xứng đáng. [55; tr 34]
Có thế nói, văn học giai đoạn sau 1975 không chỉ phát triển về số lượng mà còn về
chất lượng. Truyện ngắn mấy năm gần đây đang được mùa, có nhiều giọng điệu khác
nhau, nhiều thể nghiệm rất mới, rất khác nhau… [55; tr 34] Sự thức tỉnh ý thức cá nhân
trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao trùm toàn
bộ tác phẩm văn học. Từ đó, văn học giai đoạn này nở rộ nhiều đề tài, chủ đề mới, làm
thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người: con người được phản ánh không còn phiến
diện, một chiều mà biên độ ngày càng được mở rộng, đa dạng, nhiều chiều, nhiều góc
cạnh; cảm hứng nghệ thuật và thi pháp có những đổi mới độc đáo, mới lạ. Trong dòng
chảy đó, có sự đóng góp lớn của ba nhà văn nữ: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ và
Phan Thị Vàng Anh.
Đề tài tình yêu, hôn nhân và gia đình là một trong những vấn đề xuất hiện trong văn
học sau 1975 với nhiều sắc màu cùng những chiêm nghiệm mới lạ, khác biệt so với văn
học giai đoạn trước.
Gia đình là đơn vị xã hội, là tế bào xã hội, là nơi con người được sinh ra, trưởng thành
và hoàn thiện với đầy đủ ý nghĩa nhân văn của nó. Mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với xã hội, cộng đồng là mối quan hệ gắn bó, khắng khít hữu cơ,
mối quan hệ này sẽ bộc lộ toàn bộ tính chất của xã hội, chất lượng của đời sống và quan
niệm của cả một thời đại, một thế hệ. Trước những biến động của nền kinh tế thị trường,
con người trước tiên chịu ảnh hưởng và chi phối nhiều nhất – có những đổi thay tích cực
và ngược lại cũng có những cái tiêu cực nhất thời, đôi khi đưa con người đến nhiều bi
kịch trong đời sống (tình yêu – hôn nhân) và bế tắc, tuyệt vọng trước áp lực xã hội, gia
đình.
Viết về đề tài tình yêu, gia đình, truyện ngắn của ba nhà văn nữ Phạm Thị Hoài,

Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh nói riêng và truyện ngắn của các nhà văn giai

6


đoạn sau 1975 nói chung đều đi sâu nhìn nhận, phân tích, lí giải cuộc sống gia đình, lối
sống của những người đang yêu một cách rõ ràng, hấp dẫn, lôi cuốn, muôn hình vạn
trạng và có sức thuyết phục cũng như giàu tính giáo dục cho thế hệ bạn đọc đương thời.
Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh là những tác giả nữ có
nhiều truyện ngắn viết về đề tài tình yêu và đạt được những thành tựu nhất định về nội
dung cũng như nghệ thuật thể hiện. Phạm Thị Hoài đã có nhiều đóng góp mới mẻ trong
nền văn học Việt Nam sau 1975 và là cây bút luôn luôn được bạn đọc quan tâm, chú
trọng. Nguyễn Thị Thu Huệ và Phan Thị Vàng Anh bằng tài năng của mình cũng đạt
được nhiều giải thưởng của Hội Nhà văn:
Nguyễn Thị Thu Huệ với giải B giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Hà Nội 1986
(truyện Một khoảng chờ đợi); giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội
(truyện ngắn Hậu thiên đường); tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 1994 (tập truyện
ngắn Hậu thiên đường).
Phan Thị Vàng Anh với Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1993 (tập truyện Khi
người ta trẻ); Giải nhất Truyện rất ngắn của tạp chí Thế giới Mới 1995 cho tác phẩm Hoa
muộn.
Văn học là nơi gửi gắm tình cảm, là nơi giãi bày tâm sự. Thâm nhập vào thế giới nghệ
thuật của ba nhà văn, người viết như gặp được tiếng nói đồng cảm để hiểu sâu hơn về
cuộc đời, về con người, về bản thân mình và nhất là tình yêu.
Từ những lí do trên, người viết chọn đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
nhằm đi sâu tìm hiểu nghệ thuật trần thuật của các tác giả nữ trên khi viết về mảng đề tài
này.

2. Lịch sử vấn đề

Truyện ngắn giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ năm 1986 đến nay đã thu hút và tạo được
dấu ấn cho độc giả nhờ vào phong cách nghệ thuật độc đáo và xoáy sâu vào vấn đề của
xã hội và con người, đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu, đồng thời kích thích được tầm đón
đợi nơi người đọc. Những ý kiến của giới phê bình, nghiên cứu văn học giai đoạn này là
hết sức đa dạng và phong phú.
Nhìn chung, đề tài tình yêu trong truyện ngắn của các tác giả nữ được các nhà nghiên
cứu đề cập đến chỉ là cái nhìn tóm lược, những nhận định khái quát trong hệ thống đề tài
hoặc bài viết, chưa thực sự đi sâu vào phân tích nội dung và nghệ thuật trong những

7


truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh.
Sau đây là một số ý kiến tiêu biểu:
Ý kiến về đề tài tình yêu và sáng tác của các nhà văn nữ nói chung
Xuất phát từ thực tế phát triển ngày càng mạnh mẽ và đông đảo của tác giả văn xuôi
nhất là ở thể loại truyện ngắn, tạp chí Văn nghệ quân đội số 5/1993, Phương Lựu nêu một
vài suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ. Bài viết bày tỏ thiết thực sự quan tâm của các nhà
lí luận văn học tới sáng tác nữ, đặt ra những thế mạnh và hạn chế của giới trong sáng tác:
Chúng tôi muốn nói đã đến lúc trên bình diện lý thuyết phải đặt vấn đề tìm hiểu những
đặc điểm của nữ văn sĩ với tất cả mọi mặt mạnh, mặt yếu của nó, để góp phần thúc đẩy
việc bồi dưỡng và phát triển lực lượng sáng tác của nửa phần dân tộc và nhân loại. [51;
tr 25]
Cuộc trao đổi ý kiến với chủ đề Phụ nữ và sáng tác văn chương đặt những vấn đề bức
xúc trong sáng tác nữ. Đặng Anh Đào, Vương Tâm, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân,…
tìm hiểu vai trò người nghệ sĩ trong sáng tác của họ, thế mạnh và hạn chế, có những cây
bút nào đang nổi lên, đóng góp của từng người. Đặng Anh Đào nhận xét: Tốt, dịu dàng,
rộng lượng thì không ai bằng mà nhỏ nhen, chấp nhặt cũng không ai bằng… Họ mạnh ở
chỗ đưa tất cả cuộc đời mình vào trang sách của họ, họ mang vào một cái gì rất hấp

dẫn,…, mỗi người một gam riêng. [17; tr 6]
Hoàng Thị Văn trong Luận án Tiến sĩ - Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến
đầu thập niên 90 có nhận xét về đề tài tình yêu, hạnh phúc cá nhân trong văn học giai
đoạn sau 1975: Hạnh phúc cá nhân đôi khi là cái gì rất nhỏ nhoi, thậm chí không đáng kể
trong con mắt cộng đồng. Thế nhưng, quan tâm đến nó, thể hiện nó trên cái nền thân
phận riêng tư của mỗi cá nhân, đó là bước đi dài, và đầy tính nhân văn của văn học. [85;
tr 51]
Tác giả có nhận định về hiện tượng tác giả nữ chiếm ưu thế trong mảng đề tài này: Có
một hiện tượng: khi viết về hạnh phúc cá nhân những cây bút nữ dường như chiếm ưu
thế: Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trầm Hương, Phan Thị Vàng
Anh… trong thế giới truyện ngắn 75 – 95, đội ngũ những người đi kiếm tìm hạnh phúc
dường như đông đảo hơn và chiếm đa số vẫn là những người phụ nữ. [85; tr 51]
Nhận xét về những cây bút trẻ viết về đề tài tình yêu, Bùi Việt Thắng có viết trong
Bình luận truyện ngắn: Làm nên đặc trưng của những cây bút trẻ là nhu cầu đến như say

8


mê được tham dự, được hòa nhập vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng ấy của con
người. Sự hòa hợp ấy là chất men nồng ủ ấp trong họ bao yêu thương và cả sự phẫn nộ
trước cái xấu, cái ác đến “muốn thét lên một tiếng thật to. [70; tr 17] Không chỉ về nội
dung, truyện ngắn nữ trẻ còn có nhiều đổi mới về thi pháp: Truyện ngắn của cây bút trẻ
gây được ấn tượng ở người đọc nhờ cách trình bày cuộc sống theo hình thức lạ hóa đối
tượng. Vẫn những con người, sự kiện bình thường xung quanh chúng ta đấy thôi nhưng
khi vào tác phẩm của họ lại mang đường nét mới lạ. Cái khả năng lạ hóa này chỉ có thể
có được ở những người cầm bút mà cách nhìn cuộc đời thật phóng túng và giàu sức
tưởng tượng. Mỗi người một vẻ không ai giống ai về bút pháp thể hiện nhưng họ lại có
điểm chung ở lối viết phá cách rất tự do, khoáng đạt, uyển chuyển và linh hoạt. [70; tr
18]
Tất cả những lời nhận định thể hiện sự quan tâm sâu sắc của các nhà lý luận văn học

tới sáng tác nữ. Văn học nước nhà sang thế kỉ XXI sẽ mang gương mặt phụ nữ khoan
dung, trắc ẩn và đắm đuối [70; tr 18] là một dự cảm, một niềm tin xuất phát từ tiến trình
phát triển ngày nay của truyện ngắn nữ.
Những ý kiến về truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ và Phan
Thị Vàng Anh
Hiện nay, có rất nhiều bài viết đề cập đến sáng tác của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh.
Phạm Thị Hoài được xem như một hiện tượng văn học tiêu biểu trong giai đoạn sau
1975. Quan niệm nghệ thuật về con người, ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn Phạm
Thị Hoài mở ra cho người đọc cái nhìn khác so với truyện ngắn giai đoạn trước. Khi đọc
Phạm Thị Hoài, Đỗ Đức Hiểu phát biểu: Văn bản nhà văn nữ phát triển trên nhiều kênh,
nó hấp dẫn một số người đọc vì tiếp nối nhiều giọng của nó, không phải thông tin một
chiều hoặc thông tin đường thẳng. Suy nghĩ nhà văn thoát ra ngoài những băng từ muốn
quấn chặt lấy nó, áp đảo nó. Nó tự do bay bổng, nó dằn vặt, nó đánh nhau vật lộn với
ngôn từ. Truyện của Phạm Thị Hoài về một phương diện (phương diện rất quan trọng) là
cuộc đánh vật nhà văn với ngôn ngữ…. Người đọc Phạm Thị Hoài có thể ngạc nhiên lại
một nhà văn đi chệch quỹ đạo của truyện truyền thống Việt Nam trong gần nửa thế kỉ
nay! Lại một nhà văn tiếp tục cuộc hành trình vô tận của loài người đi tìm cái đẹp! Lại
một nhà văn tôn thờ ngôn ngữ văn chương. Người đọc có thể đặt nhiều câu hỏi: Nhà xã
hội học đâu là ý nghĩa giai cấp – chính trị của tác phẩm? Nhà triết học có phải chủ

9


nghĩa hoài nghi. Tác giả là một học trò Frớt ra đời muộn màng ở Việt Nam cuối thế kỉ
XX này? Tác phẩm dành riêng cho người đọc được lựa chọn. [31; tr 10]
Phạm Thị Hoài là một tác giả tạo ra nhiều tranh cãi gay gắt vì truyện ngắn của bà quá
dung tục, lai căng và sex. Với Thiện Minh, ông cho rằng: Văn chương trong truyện ngắn
của Phạm Thị Hoài có từ vú, mông, đùi, bẹn… Tác giả đã dùng ngọn bút mình bới tung
lên mọi tởm lợm, nhàm chán, giả dối, ti tiện ở đời. Phải chẳng cuộc đời này nhân tính chỉ

còn là thú tính? [54; tr 2]
Phan Thị Vàng Anh được giới báo chí đánh giá cao về sáng tác của cô: Hội chợ, Khi
người ta trẻ I, Khi người ta trẻ II. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhận xét: Đây là cây bút,
dòng mực có sự hài hòa của một tấm lòng nhân ái và một trí thông minh sắc sảo. Tác giả
của hai truyện Kịch câm và Đất đỏ sẽ đi rất xa. Tôi hay đoán nhầm nhưng lần này thì tôi
tin [63; tr 8]. Phạm Xuân Nguyên có nhận định: Vàng Anh viết truyện vừa vui vẻ vừa
nghiêm túc. Nghiêm như trò chơi và vui như trò chơi… Thế giới truyện của Vàng Anh là
thế giới chập đôi của thơ ngây và già dặn như vốn có trong mỗi con người, mỗi cuộc đời
bình thường quanh ta. Khi viết truyện Vàng Anh thích không áp đặt tư tưởng giống như
xây một căn nhà có nhiều cửa tùy thích tính cách độc giả, ai muốn đi cửa nào thì đi…
Người đọc hết sức sửng sốt trước tầm vóc sâu sắc và to lớn của vấn đề đặt ra trong
truyện và bút pháp già dặn, vững vàng của cấu trúc truyện. [55; tr 6]
Huỳnh Như Phương trong bài Trong sân chơi của Vàng Anh viết: Trong thế giới của
Vàng Anh, những sự vật gần gũi nhất lại đưa tâm hồn con người đi xa nhất. Trong sân
chơi những ngày thường đó nhiều khi con người nghe tiếng hội hè trong lòng mình. Ấy là
vì Vàng Anh biết cách lạ hóa những điều quen thuộc biết làm cho da diết những điều
tưởng như nhạt nhẽo. Vàng Anh viết văn mà như không hề biết và do vậy không cần phải
kháng cự đối phó gì hết – tới một thứ văn chương lúc thì hùng hồn, đạo mạo như những
lời hiệu triệu và diễn văn chính trị, lúc thì bóng bẩy, suồng sã như lá thư tình của một cô
nàng đỏng đảnh. Văn chương Vàng Anh là trò chơi nói bằng ngôn ngữ của trò chơi, vì
thế mà nó thật. Ngòi bút này đã rủ rê những từ ngữ tinh nghịch nhất để làm văn học, cái
việc ai cũng cho cần phải nghiêm túc. [63; tr 5]
Tác giả Trần Đăng Khoa có Ngẫu hứng du ngoạn đã có những nhận xét sâu sắc về Thu
Huệ: Thu Huệ là cây bút sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm sao còn út tuổi mà Huệ lại
lọc lõi thế. Nó như một con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi guốc trong bụng mình, ruột gan
mình có gì hình như nó biết cả. [39; tr 10]

10



Lời nhận xét táo bạo của Văn Chinh trong bài viết Văn nữ thế kỉ XX, một tuyển tập
đáng quí đang trên báo Nông nghiệp số 138/2001: Đầu thập kỉ 80 khi các nhà văn nam
đang cảm thấy mệt mỏi bế tắc ở lối viết từng đưa họ thành công từ trước và sau 1975
(thật khó có công cụ nào dùng mãi không cùn) thì sự xuất hiện của Lý Lan, Phạm Thị
Minh Thư, Dạ Ngân muộn hơn một chút là Phạm Thị Hoài, Y Ban… quả đã mang đến
cho văn xuôi sự tươi tắn trẻ trung có vẻ như do nữ tính của họ phát tiết và được nhìn
dưới ánh sáng của trí tuệ thời đại. Đặc điểm này vẫn tiếp tục đến khi xuất hiện các nhà
văn Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thanh Hà, Nguyễn Ngọc Tư… [15;
tr 12]
Khảo sát truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam từ 1986 – 1996 (Luận án Thạc sĩ của
Hồ Thị Liễu, 2002, Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn). Luận án khảo sát
các truyện ngắn của một số nhà văn nữ (Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị
Hảo…) về cả nội dung và nghệ thuật: Về nội dung, tác giả nghiên cứu các đề tài như đề
tài chiến tranh, cuộc sống đời thường, khát vọng tình yêu và hạnh phúc được thể hiện
trong truyện ngắn của các nhà văn. Về nghệ thuật, tác giả tìm hiểu các đặc điểm về nhân
vật, kết cấu và ngôn ngữ.
Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà văn nữ (Luận án Thạc sĩ của Trần
Thị Thúy An); Từ lý thuyết nữ quyền nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác
gia nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nay (Luận án Thạc sĩ của Hồ Khánh Vân) đã cung cấp
cho luận văn của chúng tôi những tư liệu và nhận xét, đánh giá thiết thực.
Văn xuôi nghệ thuật sau 1975 không chỉ dừng lại ở hiện thực khách quan mà đã
chuyển dần sang hiện thực trừu tượng – đó là thế giới bên trong của con người, là hiện
thực tâm hồn, hiện thực tâm linh. Trong Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau 1975 (Đề tài nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp bộ năm 2009), Hoàng Thị
Văn nhận định cụ thể, sâu sắc về vai trò, hiệu quả nghệ thuật của yếu tố kì ảo trong
những truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của các nhà văn nữ giai đoạn sau 1975: Đề tài
tình yêu lứa đôi và hạnh phúc riêng tư của con người dường như đến văn xuôi nghệ thuật
sau 1975 mới được đề cập đến với nhiều sắc màu. Bản chất của tình yêu lứa đôi là sự
giao cảm hòa hợp giữa hai người khác giới cả về tâm hồn lẫn thể xác. Để đến với nhau
trong sự giao cảm, hòa hợp, đồng điệu – dấu hiệu của Hạnh phúc lứa đôi – người ta luôn

lầm lẫn, ngộ nhận, tự gây tai họa cho mình. Yếu tố kì ảo xuất hiện như một phép lạ để

11


giúp con người tìm kiếm khuôn mặt biến ảo khôn lường của Tình yêu, giúp họ nhìn rõ sai
lầm và thỏa mãn khát khao hạnh phúc. [86; tr 70]
Tác giả Hoàng Thị Văn cũng lí giải rõ sự tác động của yếu tố kì ảo tới sự tiếp nhận của
bạn đọc: Thông qua những yếu tố kì ảo, những bi kịch cùng sự hóa giải cái bi nhờ yếu tố
huyền ảo, các nhà văn muốn nói đến sự lầm lạc, đớn đau, dằn vặt – hành trình gian nan
của con người trên hành trình kiếm tìm Hạnh phúc. Những nhân vật này giống nhân vật
kiểu Liêu Trai, nửa Liêu Trai. Nó vừa là ảo ảnh về một thế giới ngoài con người nhưng
cũng là vấn đề của cõi nhân sinh này. Hai mặt khổ đau và hạnh phúc gắn kết nhau như
ngày và đêm, luôn ở trong thời khắc hoàng hôn hoặc bình minh… cái hấp dẫn con người
lại chính ở sự bất ổn, mong manh của lằn ranh bất định đó. [86; tr 74 – 75]
Nhìn chung các bài tiểu luận phê bình chung và riêng đều đã thống nhất ở các điểm:
Văn học giai đoạn sau 1975, đặc biệt các truyện ngắn của nhà văn nữ phát triển mạnh
mẽ và có sự tìm tòi mới lạ trong đề tài phản ánh và cách tân nghệ thuật.
Khi bước vào lĩnh vực sáng tác văn chương, sự nhạy cảm, tinh tế, sâu sắc là thế mạnh
của nhà văn nữ.
Truyện ngắn của các nhà văn nữ nói chung và của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Phan Thị Vàng Anh nói riêng có những đổi mới về cảm hứng và thi pháp nghệ
thuật, định hình được phong cách rõ rệt và độc đáo.
Từ đó truyện ngắn của họ có sức hấp dẫn kì lạ, khiến người đọc phải xem và sống đến
cùng với nhân vật: số phận và bi kịch, hạnh phúc tình yêu và những mất mát đau
thương…
Tuy nhiên, các bài viết trên chỉ dừng lại ở mức độ khái quát hay tìm hiểu một vài khía
cạnh khác, chưa có một bài nghiên cứu nào đi sâu vào khám phá Nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ và
Phan Thị Vàng Anh. Từ đó, người viết mạnh dạn tìm tòi và khảo sát vấn đề này, nhằm

mục đích học hỏi và làm nguồn tư liệu trong quá trình học tập, giảng dạy.

3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khoa học mà luận văn đề cập đến là Nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ và Phan Thị Vàng
Anh.
Phạm vi khảo sát giới hạn cho luận văn chủ yếu là tập trung vào mảng truyện ngắn viết
về đề tài tình yêu của ba nhà văn nữ:

12


Phạm Thị Hoài với 13 truyện trong tập truyện ngắn Mê lộ: Trong cơn mưa, Người đàn
bà với hai con chó nhỏ, Mê lộ, Năm ngày, Vệt son, Người suy tư, Hành trình của những
con số, Hoa sữa, Khách, Một cái gì, Hai mươi năm sau, Bảy nổi ba chìm, Chín bỏ làm
mười.
Nguyễn Thị Thu Huệ với 30 truyện ngắn in trong tập truyện ngắn 37 truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ: Tân cảng, Huyền thoại, Xin hãy tin em, Nước mắt đàn ông, Còn lại
một vầng trăng, Dĩ vãng, Thiếu phụ chưa chồng, Rượu cúc, Tình yêu ơi, ở đâu?, Biển ấm,
Một trăm linh tám cây bằng lăng, Người đàn bà ám khói, Phù thủy, Người đi tìm giấc
mơ, Sơri đắng, Thành phố không mùa đông, Lời thì thầm của mùa xuân, Cầu thang,
Người xưa, Những đêm thắp sáng, Đôi giày đỏ, Hình bóng cuộc đời, Đêm dịu dàng, Giai
nhân, Mùa thu vàng rực rỡ, Một nửa cuộc đời, Cát đợi, Hậu thiên đường, Cõi mê, Nào,
ta cùng lãng quên.
Phan Thị Vàng Anh với 9 truyện trong tập truyện ngắn Khi người ta trẻ: Cuộc du
ngoạn ngắn ngủi, Truyện trẻ con, Khi người ta trẻ, Si tình, Mười ngày, Trò dối, Một
ngày, Nghỉ hè, Kịch câm.
Với phạm vi nghiên cứu đã nêu, người viết tập trung tìm hiểu nghệ thuật trần thuật
trong các truyện ngắn trên, giải thích được chủ thể trần thuật xuất hiện trong các truyện
ngắn, và khẳng định vị thế của mỗi tác giả trên diễn đàn văn xuôi hiện đại Việt Nam.


4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đặt ra trong phạm vi giới hạn, trong quá trình nghiên cứu,
luận văn đã sử dụng phối hợp một số phương pháp chính sau:
Phương pháp hệ thống:
Phương pháp hệ thống là một trong những phương pháp cơ bản trong nghiên cứu thi
pháp học. Sử dụng phương pháp này, người viết tiến hành tìm hiểu truyện ngắn viêt về đề
tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ và Phan Thị Vàng Anh để có cái
nhìn hệ thống về những yếu tố nghệ thuật hình thành nên phong cách nghệ thuật của mỗi
nhà văn, đồng thời phương pháp này làm dấu hiệu nhận biết mỗi tác phẩm là một chỉnh
thể thống nhất giữa yếu tố nội dung và nghệ thuật.
Phương pháp thống kê, phân loại:
Người viết vận dụng phương pháp thống kê kết hợp với phương pháp phân loại để
chỉ ra mỗi nhà văn là mỗi một giọng điệu riêng, cách khai thác và thể hiện vấn đề tình
yêu ở nhiều lát cắt khác nhau trong đời sống và rút ra được những thành công cũng như

13


hạn chế của mỗi nhà văn. Người viết đưa ra những cứ liệu cụ thể, chính xác làm tăng sức
thuyết phục cho vấn đề nghiên cứu đặt ra trong đề tài giúp cho những nhận xét, đánh giá
vấn đề có cơ sở khoa học.
Phương pháp phân tích tổng hợp:
Phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp chủ đạo trong bài viết, là nền tảng
làm nắm được bản chất vấn đề cần tìm hiểu. Để khẳng định được nét nổi bật, riêng biệt
và đặc sắc của mỗi nhà văn khi khai thác đề tài tình yêu, người viết còn vận dụng kết hợp
phương pháp phân tích và phương pháp so sánh để làm rõ các luận điểm đặt ra trong luận
văn.

5. Những đóng góp của luận văn

Với luận văn này, người viết muốn góp phần tìm hiểu cách tiếp cận và thể hiện đề tài
tình yêu trong truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng
Anh:
+ Tình yêu của con người là một điều thiêng liêng, rất cần sự cảm thức đầy tinh tế.
Trong truyện, nhiều màn kịch tình yêu hiện ra như chính màn kịch cuộc đời, tạo tâm thế
cho con người đón nhận và chấp nhận tình yêu trong mọi hoàn cảnh, tình huống. Qua đó,
chúng ta thấy được ba nhà văn nữ đã góp phần tạo nên và hòa nhập vào xu hướng chung
của văn học thời đại: trao quyền chọn lựa và dự đoán cho người đọc, thể hiện được mối
quan hệ bình đẳng, cởi mở trong văn học.
+ Khẳng định sự tiếp nối và cách tân trong nghệ thuật trần thuật của Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Thị Thu Huệ và Phan Thị Vàng Anh. Đây được xem là một trong những yếu tố
tạo nên phong cách riêng biệt, độc đáo của ba nhà văn nữ.
Qua những đóng góp của ba nhà văn, người đọc nhận định được sự đa dạng trong đề
tài và linh hoạt trong nghệ thuật trần thuật của truyện ngắn nói riêng và văn học sau 1975
nói chung.

6. Kết cấu của luận văn
Khảo sát đề tài: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của
Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ và Phan Thị Vàng Anh, người viết tìm hiểu từ chủ
thể trần thuật đến cách tổ chức kết cấu tác phẩm; tìm nhận lời văn và giọng điệu kể của
chủ thể trần thuật.
Vì vậy, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:

14


Chương 1: Chủ thể trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh nói riêng và truyện ngắn nói chung là
nhân tố đầu tiên để tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn, và là yếu tố cần
thiết, chủ yếu để hình thành, chi phối và qui định cách thức tổ chức kết cấu tác phẩm.

Chương 2: Kết cấu nghệ thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh được tổ chức cân đối, chặt chẽ đều có
phương thức trần thuật cụ thể, nhất định theo dụng ý nghệ thuật của tác giả. Từ đó, truyện
có khả năng mang lại sức hấp dẫn, sinh động và mới lạ trong sự tiếp nhận của bạn đọc.
Chương 3: Lời văn và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu
của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh là một trong những yếu
tố tạo nên hiệu quả nghệ thuật của truyện. Thứ nhất, người viết thấy được sự khác nhau
về bút pháp và phong cách của ba nhà văn nữ, khu biệt tài năng và cá tính của mỗi tác
gia. Thứ hai, lời văn và giọng điệu trần thuật gián tiếp thể hiện quan điểm nghệ thuật của
họ.
Lời văn và giọng điệu trần thuật kết hợp với kết cấu nghệ thuật làm nên sức hút riêng
cho tác phẩm.

15


CHƯƠNG 1: CHỦ THỂ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
VIẾT VỀ ĐỀ TÀI TÌNH YÊU CỦA PHẠM THỊ HOÀI, NGUYỄN
THỊ THU HUỆ, PHAN THỊ VÀNG ANH
1.1. Chủ thể trần thuật và các hình thức xuất hiện chủ thể trần thuật trong tác
phẩm tự sự
Văn học là nhân học. Mỗi tác phẩm văn chương là mỗi mảnh đời ghép lại của bức
tranh hiện thực đời sống xã hội muôn màu. Có những tác phẩm phê phán, tố cáo bản chất
của một chế độ xã hội, một tầng lớp giai cấp. Có những tác phẩm là tiếng nói bênh vực
cho người sức yếu thế cô, luôn bị áp bức và chà đạp. Có những tác phẩm là sự đồng cảm
sâu sắc về kiếp người nhỏ bé trong xã hội, tạo nhiều xúc cảm trong lòng người đọc. Văn
học nghệ thuật là loại hình nghệ thuật được sáng tạo để thỏa mãn nhu cầu giải trí của con
người, không chỉ thế, văn học còn là mảnh đất gieo mầm yêu thương, là chiếc cầu nối
tình cảm giúp người gần người hơn, là nơi con người gặp gỡ nhau trong sự giao hòa cảm
xúc. Vì vậy, chức năng của văn học không chỉ là chức năng thông tin mà tác phẩm còn có

khả năng kích thích người đọc đồng sáng tạo. Mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm –
người đọc là mối quan hệ khắng khít, gắn bó hữu cơ. Vấn đề tiếp nhận văn học hôm nay
hay việc khảo sát hai nhân tố tác giả - người đọc trong đời sống văn học đã được các nhà
lý luận phương Tây chú ý quan tâm nhiều từ khoảng thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX.
Để xác lập giá trị của tác phẩm tự sự, nguyên tắc khách quan được xem là nguyên tắc
đặc thù trong việc tái hiện và chiếm lĩnh hiện thực. Trong cấu trúc văn bản tự sự, phương
diện chủ thể trần thuật là yếu tố giữ vai trò trung tâm. Phương diện này mãi đến khi
ngành nghiên cứu tự sự học ra đời mới được giới nghiên cứu chú trọng và xác lập lý
thuyết một cách có hệ thống và toàn diện.
1.1.1. Khái niệm chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự
Chủ thể trần thuật là một thuật ngữ phổ biến trong tác phẩm tự sự, ngoài ra nó còn
được gọi bằng những thuật ngữ tương đương như: chủ thể kể chuyện, người kể chuyện,
người trần thuật… Chủ thể trần thuật là nhân vật trong tác phẩm, là sản phẩm sáng tạo
của nhà văn, thông qua nhân vật này, nhà văn bộc lộ quan điểm nghệ thuật của mình.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, có định nghĩa: Người trần thuật là một nhân vật hư
cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành (…) nó
bị trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự.
[26; tr 221]

16


Chúng ta cần phân biệt giữa chủ thể trần thuật và bản thân tác giả. Nhà nghiên cứu Lê
Ngọc Trà viết: Người kể chuyện là thuật ngữ chỉ nhân vật đóng vai trò chủ thể của lời kể
chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học [83; tr 89], nhà nghiên cứu nhấn
mạnh: Người kể chuyện và tác giả không phải là một. Không nên đồng nhất người kể
chuyện với tác giả, ngay cả khi tác giả xưng “tôi” đứng ra trần thuật câu chuyện và hoàn
toàn đứng ngoài sự vận động của các sự kiện, các tình tiết [83; tr 89]. Như vậy, chủ thể
trần thuật hay người kể chuyện hoàn toàn là nhân vật do nhà văn hư cấu. Đôi khi tác giả
hòa nhập vào chủ thể trần thuật để kể chuyện, lúc này cũng không thể xem chủ thể trần

thuật và nhà văn là một, chủ thể trần thuật chỉ là hình tượng sáng tạo của chính tác giả,
tuyệt nhiên không là bản thân tác giả ngoài đời. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, có
viết: Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học,
chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có
thể là hình tượng của chính tác giả, dĩ nhiên không nên đồng nhất với tác giả ngoài đời,
có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra, có thể là một người biết câu
chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện. [26; tr 222]
TZ. Todorov chỉ rõ ý nghĩa của chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự: Người kể
chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng (…) không thể có trần
thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại
khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể,
nhân vật nhân danh cuốn sách được kể có vị trí hoàn toàn đặc biệt. [78; tr 116].
Chủ thể trần thuật được Huỳnh Như Phương diễn đạt với hình thức “hình tượng tác
giả”: Khái niệm hình tượng tác giả nói lên bản chất của tác phẩm nghệ thuật và là nơi
tập trung sự thống nhất về tư tưởng, kết cấu, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm. [27; tr
215]
Chủ thể trần thuật là nhân vật không chỉ đại diện tác giả gián tiếp hoặc trực tiếp bộc
bạch quan điểm nghệ thuật, là tiếng nói của cái “tôi” tác giả mà còn chi phối các yếu tố
khác trong cấu trúc tác phẩm tự sự như: điểm nhìn (hướng nội, hướng ngoại), ngôi kể, kết
cấu tác phẩm... Nói chung, chủ thể trần thuật tạo lực hút và có sức ảnh hưởng đến cả nội
dung và nghệ thuật tác phẩm. Huỳnh Như Phương khẳng định: Khái niệm hình tượng tác
giả (…), là một phạm trù thi pháp cao nhất quy định đặc điểm và nội dung của cấu trúc
tác phẩm, cả tính khuynh hướng và sự phát triển của tác phẩm đó. [27; tr 215]

17


Chủ thể trần thuật có thể đóng vai người quan sát, ngoài lề thuật lại câu chuyện hoặc
tham gia vào câu chuyện với tư cách là một nhân vật – người kể chuyện, có khi lộ diện,
có khi ẩn mình đằng sau sân khấu. Vì vậy, người kể chuyện thay mặt nhà văn tổ chức kết

cấu tác phẩm. Chủ thể trần thuật có thể tổ chức các quan hệ nhân vật theo hình thức đối
lập, đối chiếu, tương phản… và tổ chức sự kiện, liên kết chúng tạo thành truyện (với các
dạng cốt truyện khác nhau: cốt truyện tuyến tính, cốt truyện tâm lí, cốt truyện “truyện
lồng truyện”… Timofeev nhấn mạnh vai trò của chủ thể trần thuật hết sức to lớn. Cách
đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể chuyện.
Do đó, vấn đề tiếp nhận văn học có thành công hay thất bại đều qui về mối quan hệ
giữa tác giả - tác phẩm – người đọc, trong đó, chủ thể trần thuật được xem là yếu tố trung
gian gắn kết ba nhân tố trên. Nếu không có chủ thể trần thuật, tác phẩm chỉ dừng lại ở
mức độ bình thường, thô ráp. Câu chuyện có đủ sức thuyết phục, lôi cuốn và hấp dẫn
người đọc là nhờ vào chủ thể trần thuật, bởi nó là nhân vật đặc biệt về vai trò, ý nghĩa do
nhà văn hư cấu nên. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học chỉ rõ: Trần thuật tự sự
được dẫn dắt bởi một ngôi kể được gọi là người trần thuật – một loại trung giới giữa cái
được miêu tả và thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và giải thích những gì đã xảy
ra. [6; tr 360]
Ngoài thái độ chủ quan được thừa hưởng của tác giả, chủ thể trần thuật mang trong
mình cả phần nội dung khách quan của thế giới được phản ảnh vào tác phẩm; phần nội
dung đó thường thể hiện một loại hình thái độ phản ứng với thực tại điển hình cho thời
đại của nhà văn được nhà văn tái hiện và miêu tả lại trong tác phẩm của mình. Một mặt
chủ thể trần thuật kéo người đọc đến gần hơn với những quan điểm của tác giả về hiện
thực, về nhân sinh, một mặt có khi chủ thể trần thuật còn đối thoại, tranh luận với người
đọc để cùng nhau khám phá chân lí và chiếm lĩnh cuộc sống. Chủ thể trần thuật lúc này
không còn là người kể chuyện toàn tri và trở nên bình đẳng với nhân vật, người đọc của
mình.
Chủ thể trần thuật là công cụ giúp nhà văn thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình nhưng
chủ thể trần thuật có đời sống riêng của nó. Nhà văn chỉ qui định, lựa chọn các hình thức
xuất hiện của chủ thể trần thuật sao cho tác phẩm trở nên khách quan, có sức thuyết phục
cao, tranh thủ sự đồng tình cùng người đọc, còn chủ thể trần thuật sẽ vận động theo đúng
với đặc điểm, tính chất của bản thân nó từ lời văn đến giọng điệu trần thuật. Tác giả thực
sự xuất hiện chỉ như người ghi, người sao lục lời kể, hoặc là người nghe trộm người kể.


18


Người trần thuật là kẻ sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của
người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự sự, lúc này tác giả không bao giờ hiện
diện trong tác phẩm như một người kể, người phát ngôn (…) [50; tr 7]
1.1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự
Để thực hiện hành vi kể chuyện, chủ thể trần thuật được tác giả đặt cách xuất hiện sao
cho phù hợp với đặc thù, tính chất của câu chuyện được kể. Trong tác phẩm tự sự, chủ
thể trần thuật có thể được kể ở ngôi thứ ba, ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Nhờ thay đổi
các chủ thể kể chuyện khác nhau, nhà văn tạo điều kiện cho cách nhìn nhiều chiều về
nhân vật, sự kiện, giảm bớt sự phụ thuộc vào quan điểm của tác giả, tăng cường khả năng
nghiền ngẫm của người đọc, đồng thời tránh được lối kể đơn điệu theo một giọng từ đầu
đến cuối tác phẩm. Sự phân biệt về ngôi kể bao giờ cũng có ý nghĩa nghệ thuật, bởi vì
mỗi ngôi kể có một trường nhìn khác nhau được qui ước, đem lại những cái nhìn khác
nhau.
1.1.2.1. Chủ thể trần thuật ngôi thứ ba với phương thức trần thuật khách quan –
chủ quan hóa
Chủ thể kể chuyện ở ngôi thứ ba vô nhân xưng là ngôi kể tự do nhất, cho phép người
kể có thể kể tất cả những gì có ở trên đời, có thể len lỏi vào từng ngõ ngách, góc khuất
trong suy nghĩ của con người để bình luận, nhận xét hoặc kể về những chuyến chu du
miền đất lạ mà không bị giới hạn tầm nhìn và về nguyên tắc, người kể không thể biết.
Với ngôi thứ ba vô nhân xưng, chủ thể trần thuật hoàn toàn ở ngoài cốt truyện, không
thuộc vào thế giới của các nhân vật trong truyện mà có vai trò là chỉ là người dẫn dắt,
theo dõi nhân vật, chỉ đứng bên ngoài quan sát và kể lại, không trực tiếp tham gia vào sự
kiện, biến cố truyện. Do tính chất hướng ngoại của nhân vật nên điểm nhìn của chủ thể
trần thuật hầu hết là từ bên ngoài.
Để truyền đạt hết giá trị tư tưởng của tác phẩm, vai trò của chủ thể trần thuật rất được
chú trọng, ở đó nhân vật của truyện không suy ngẫm, hồi tưởng mà chủ thể trần thuật mới
là người truyền đạt, đồng thời tác giả là người cùng tham gia sáng tạo lại.

Chọn góc nhìn trao cho ngôi thứ ba, nhà văn đã tạo nên cái nhìn khách quan trong tác
phẩm và hướng cái nhìn ấy đến bạn đọc. Tạo độ tin cậy cao nơi tác phẩm, tranh thủ sự
đồng tình nơi người đọc, tránh được sự cảm nhận chủ quan của người đọc từ tác phẩm,
giàu tính thuyết phục, góc nhìn rộng, bao quát được các vấn đề được kể là ưu thế nổi bật
của phương thức trần thuật này.

19


Tuy trần thuật ở ngôi thứ ba vô nhân xưng nhưng khoảng cách giữa tác giả và chủ thể
trần thuật cũng như giữa chủ thể trần thuật và sự việc được trần thuật luôn hiện hữu. Câu
chuyện được kể trở nên khách quan hơn vì nó được kể ở ngôi thứ ba, đối tượng được trần
thuật là “chuyện về người, việc của làng”, không liên quan trực tiếp đến chủ thể trần
thuật, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để chủ thể trần thuật, đằng sau là tác giả tự do,
thoải mái, tự nhiên thuật lại theo đúng với diễn biến của cốt truyện. Lời bình luận, nhận
định, đánh giá, nhận xét của chủ thể trần thuật hầu như không có, tất cả đều trao vào lời
đối thoại của các nhân vật xuất hiện trong truyện. Vì thế, mặc nhiên truyện được trần
thuật trở nên khách quan hơn.
Đảm nhận vai trò là người dẫn truyện, dẫn dắt người đọc tham gia vào tình tiết của
truyện, chủ thể trần thuật hướng cái nhìn và nhận định đến với người đọc. Đây là kiểu
người kể luôn luôn tách mình ra khỏi diễn biến của câu chuyện, tạo một khoảng cách
nhất định đối với câu chuyện đang kể. Chủ thể trần thuật luôn hướng sự quan tâm của
người đọc đến những sự kiện cùng các tính chất của chúng mà không bày tỏ thái độ của
mình [42; tr 165]. Độc giả có thể đồng tình hay phản bác, có thể yêu hay ghét, thích hay
không thích là do cảm nhận chủ quan của họ. Trong các truyện trần thuật theo kiểu trần
thuật này, người đọc hầu như không nhận thấy thái độ của chủ thể trần thuật. Người kể
chuyện đã tách mình ra khỏi câu chuyện để cho nhân vật tự bộc lộ tính cách qua ngôn
ngữ và hành động. Tuy nhiên, thông qua chủ thể kể chuyện, người đọc vẫn nhận thấy
được thái độ, tư tưởng, tình cảm của tác giả thể hiện ở các mức độ đậm nhạt khác nhau.
Bên cạnh đó, trong các truyện tổ chức trần thuật theo kiểu này, câu chuyện không phải

bao giờ cũng được kể một cách hoàn toàn khách quan. Để tránh đơn điệu, ở một số
truyện, đôi khi chủ thể trần thuật xuất hiện ở những lời bình luận, triết lý mang tính chủ
quan. Trong khi kể và tả về các sự kiện cùng các tính chất của chúng, người tường thuật
có giọng nói riêng không cố gắng né tránh việc bày tỏ thái độ của mình như ở người
tường thuật lạnh lùng (…). Người tường thuật có giọng nói riêng không bỏ lỡ dịp nào để
biểu hiện tính cách của mình. Trong khi trình bày các thực tế khách quan xung quanh
anh ta luôn luôn tìm cách nói lên quan điểm, thái độ, tình cảm, cách đánh giá của mình.
Không phải phát biểu một cách trực tiếp mà sử dụng giọng nói riêng, những đặc điểm
riêng trong lời nói cá nhân để gián tiếp cho người đọc hiểu. [42; tr 176].
Như vậy, ở kiểu trần thuật này, không phải lúc nào chủ thể kể chuyện cũng hoàn toàn
tách mình ra khỏi câu chuyện mà đôi lúc khoảng cách giữa chủ thể kể và câu chuyện đã

20


được rút ngắn đáng kể. Sự rút ngắn này đã tạo nên sự linh hoạt trong cách kể, tránh được
sự đơn điệu và tạo ra đặc điểm nhiều giọng điệu.
Trong Wikipedia, có một nhận định: Một câu chuyện hay phải có một người kể xác
định rõ và kiên định (…). Người kể là một thực thể đơn nhất và giới hạn. Người kể không
thể truyền đạt bất cứ điều gì mà anh ta không đối mặt với nó. Nói cách khác, người kể
nhìn câu chuyện từ điểm nhìn của anh ta trong thế giới hư cấu.
Hơn thế nữa, với phương thức trần thuật ở ngôi thứ ba vô nhân xưng, điểm nhìn trần
thuật linh hoạt, cởi mở hơn. Tác giả có thể chuyển tọa độ ống kính quan sát hiện thực
cuộc sống, con người ở nhiều khía cạnh, phương diện, kể cả góc khuất trong đời sống
tinh thần nhân vật. Chủ thể trần thuật lúc này mặc dù không đối mặt với sự thật, nhưng
vẫn có ưu thế là người biết hết, hiểu hết, từng bước đưa cái nhìn của độc giả vào đời sống
văn học và cùng nhà văn soi chiếu, nhận chân giá trị tư tưởng của tác phẩm.
Điểm nhìn trần thuật không còn có biên độ hướng ngoại mà hướng nội, vào bên trong,
soi sáng mặt rồng phượng – rắn rết trong tâm hồn con người. Ranh giới giữa tác giả và
chủ thể trần thuật vẫn giữ khoảng cách tối thiểu. Chủ thể trần thuật với điểm nhìn hướng

nội không trực tiếp bình luận biến cố, sự việc xoay quanh nhân vật chính trong truyện mà
trao quyền phán xét cho các nhân vật đó, anh chỉ làm công việc của một người trung gian
truyền đạt và kết nối câu chuyện với bạn đọc. Sự hòa mình của tác giả - chủ thể trần thuật
vào nhân vật thường được biểu hiện ở hình thức lời nói nửa trực tiếp. Với sự rút ngắn
khoảng cách giữa chủ thể kể chuyện và câu chuyện, tác giả tạo cho người đọc cảm giác
như đang sống cùng đời sống nội tâm của nhân vật và làm cho cách kể trở nên sinh động.
Do đó, chủ thể trần thuật ở ngôi thứ ba vô nhân xưng dù điểm nhìn hướng ngoại hay
hướng nội vẫn tạo được độ tin cậy khách quan cho độc giả và vẫn giữ được độ linh hoạt
trong quá trình trần thuật.
Ở một số truyện, người đọc còn nhận ra sự hòa nhập giữa lời kể, lời thuyết mình của
tác giả với lời độc thoại nội tâm nhân vật, hình thức lời nói nửa trực tiếp được sử dụng.
Điều này thường dẫn đến sự pha trộn quan điểm của chủ thể trần thuật và nhân vật trong
truyện.
Chủ thể trần thuật ở ngôi thứ ba vô nhân xưng chi phối toàn bộ tác phẩm từ lời dẫn
chuyện, cách kể, cách tả đến cả lời trữ tình ngoại đề. Hình thức tạo khoảng cách giữa tác
giả và mạch trần thuật qua chủ thể trần thuật giúp tác giả có thể thể hiện hình tượng trong

21


tác phẩm, đồng thời vừa gián cách vừa hướng đạo được cho người đọc. Thực chất, tạo
khoảng cách như vậy lại rút ngắn khoảng cách giữa tác giả - tác phẩm – người đọc.
Chủ thể trần thuật đặc biệt quan trọng trong một tác phẩm tự sự.
1.1.2.2. Chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất xưng “tôi” với phương thức trần thuật chủ
quan hóa
Khi bàn về vấn đề ngôi kể trong cấu trúc tự sự, G. Genette khẳng định ngôi kể gắn liền
với biểu hiện của hình tượng người kể chuyện – chủ thể trần thuật: Việc thay đổi ngôi,
thực sự là sự thay đổi quan hệ giữa người kể chuyện và câu chuyện của anh ta – nói cụ
thể hơn, nó còn có nghĩa là sự thay đổi người kể chuyện.
Sự khác nhau thường có giữa những truyện kể ở “ngôi thứ nhất” và “ngôi thứ ba”

tiến hành ở bên trong đặc điểm nhân xưng của mọi diễn ngôn, tùy theo mối quan hệ (hiện
diện hoặc vắng bóng) của người kể chuyện trong câu chuyện anh ta kể, “ngôi thứ nhất”
chỉ ra sự hiện diện của người kể chuyện với tư cách nhân vật được nêu tên, “ngôi thứ
ba” là sự vắng bóng của nhân vật. [82; tr 19]
Người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tôi” được xem là một nhân vật trong truyện, là
người chủ động thực hiện nhiệm vụ dẫn chuyện, là người bình luận từ bên trong, đồng
thời cũng là người tham gia sự việc đang diễn ra. Chủ thể trần thuật là một trong các nhân
vật và sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của nhân vật này. Đặc điểm nổi bật của
phương thức trần thuật này là người trần thuật xuất hiện như một con người thực hiện
hữu trong thế giới mà các nhân vật đang hoạt động. [27; tr 202]
“Tôi” - chủ thể kể chuyện có thể tự đứng ra kể chuyện mình, kể chuyện người khác,
hoặc cùng tham gia kể chuyện với các nhân vật. Nội dung kể, trần thuật không ngoài
phạm vi hiểu biết của một người, thường gắn với quan điểm đánh giá riêng của nhân vật
ấy. Vì vậy, kiểu trần thuật với ngôi thứ nhất xưng “tôi” là kiểu trần thuật chủ quan hoá.
Chủ thể trần thuật được cá thể hoá. Do tính chất hướng nội của nhân vật nên điểm nhìn
của chủ thể kể chuyện hầu hết đều hướng nội.
Trong tác phẩm tự sự, chủ thể trần thuật ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” xuất hiện với nhiều
kiểu dạng khác nhau: Người tường thuật đã được cá thể hóa, dẫn dắt câu chuyện từ ngôi
một số ít: “tôi”. Người tường thuật cũng là một trong các nhân vật của tác phẩm nghệ
thuật. Người tường thuật chính là “người bình luận bên trong”, đồng thời cũng chính là
người tham gia vào sự việc đang diễn ra. [42; tr 165].

22


Chủ thể trần thuật xưng “tôi” ngôi thứ nhất là nhân vật chính của truyện, điểm nhìn
của chủ thể trần thuật và điểm nhìn của nhân vật trùng nhau, giúp nhà văn có cơ hội và
điều kiện bày tỏ nhận thức về thế giới một cách tự nhiên, thoải mái. Đây là kiểu người
tường thuật đồng thời là tác giả phát biểu trực tiếp quan điểm tư tưởng, thái độ nghệ
thuật của mình về sáng tác văn học, thường là chính tác phẩm mà người đọc đang đọc.

[42; tr 194]
Chủ thể trần thuật đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện, chủ thể kể chuyện không tham gia
vào biến cố của truyện, giữa người trần thuật và câu chuyện luôn có một khoảng cách cần
thiết để tạo ấn tượng về sự khách quan. Người kể không được miêu tả cụ thể. Người kể
chỉ là một hình tượng giả định, được tác giả sử dụng làm một người trung gian tưởng
tượng ra giùm độc giả và cái được mô tả. [42; tr 182] Anh ta chỉ song song đồng hành
với nhân vật chính, cố giấu mình hết sức, ít bình luận, đôi khi nhập vào đời sống nhân vật
để suy tưởng…, lúc này câu chuyện được kể mang tính khách quan.
Chủ thể trần thuật xưng “tôi” kể lại một câu chuyện mà trong đó chủ thể kể chuyện
vừa là người dẫn chuyện vừa là nhân vật thì cái “tôi” của người kể có mức độ cá thể hoá
cao. Kiểu người xưng “tôi” này không được cá thể hóa sâu sắc bằng kiểu xưng “tôi” tự
kể chuyện mình. Nhưng so với kiểu xưng “tôi” đóng vai trò người dẫn chuyện, thì kiểu
này có mức độ cá thể hóa nhiều hơn, bởi vì người kể chuyện cũng đồng thời là một trong
những nhân vật của truyện. [42; tr 188] Chủ thể kể chuyện xuất hiện trực tiếp và tiến
hành trần thuật lại các sự kiện, biến cố theo cái nhìn và tình cảm chủ quan của mình. Tác
giả nhập vào chủ thể “tôi” với vai trò người dẫn, vừa đóng vai nhân vật xuất hiện cùng
với các nhân vật khác trong truyện, vừa tham gia nói chuyện với các nhân vật của truyện,
tạo được sức linh hoạt trong quá trình phản ánh và chiếm lĩnh hiện thực của nhà văn,
đồng thời trao quyền lựa chọn, suy nghĩ, phán đoán, đồng cảm nhận và cũng tham gia
nhận xét, bình luận với tác giả.
Với việc chuyển giao nhiệm vụ trần thuật cho nhân vật, khoảng cách giữa chủ thể trần
thuật và câu chuyện được thu hẹp tối đa. Người trần thuật không chỉ là chủ thể kể mà còn
là một nhân vật trong truyện. Đây là một đặc điểm để tạo cảm giác về sự chân thực về
câu chuyện được kể. Mặt khác, nó còn thể hiện rõ nét những dấu ấn chủ quan của người
kể qua việc biểu hiện thái độ, tình cảm.
Chủ thể kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” là một yếu tố làm cho tác phẩm tự sự trở
nên đa thanh, giàu giọng điệu, vì lời văn trần thuật xuất hiện vừa có chiều sâu vừa linh

23



hoạt về giọng điệu, với bất kì tư cách nào, chủ thể trần thuật là người chứng kiến và kể lại
câu chuyện hay là nhân vật tham gia trực tiếp vào sự kiện, tình tiết thì chủ thể trần thuật
có sự nhìn nhận khách quan qua lời bình luận, trữ tình ngoại đề, có khi chủ thể trần thuật
xâm nhập vào đời sống tâm lý của nhân vật khác để phát biểu và bày tỏ thông qua lời trần
thuật gián tiếp: gián tiếp một giọng hoặc gián tiếp hai giọng. Ở đây, vừa tồn tại song song
hai lời: lời nhân vật chính đồng thời ẩn chứa lời chủ thể trần thuật.
Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng tôi mạn phép không đi sâu vào tìm hiểu
về lý thuyết chủ thể trần thuật ở ngôi thứ hai. Chủ thể kể chuyện là ngôi thứ hai xưng
“anh” cũng mang cái “tôi” của người kể, song với ngôi thứ hai, nó tạo ra một không gian
gián cách: một cái tôi khác, một cái tôi được kể ra, chứ không phải tự kể như ngôi thứ
nhất, mặc dù khi đọc, người đọc nhanh chóng hiểu ngay “anh ấy” ra cái “tôi”.
Trong ba hình thức trần thuật chủ yếu của loại hình nghệ thuật, không có hình thức
nào quan trọng hơn cả. Tất cả đều cùng góp phần tạo nên sức sống mới, sự đa dạng,
phong phú, linh hoạt trong quá trình trần thuật của tác phẩm tự sự nói chung cũng như
khẳng định tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà nghệ sĩ.

1.2. Chủ thể trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
Bảng khảo sát phương thức trần thuật trong những truyện ngắn viết về đề tài
tình yêu của Phạm Thị Hoài (trong tập truyện ngắn Mê lộ của Phạm Thị Hoài)
Chủ thể trần thuật
Ngôi thứ III
Tác phẩm

STT

Ngôi thứ I

Điểm


Điểm

nhìn

nhìn

Nhân

hướng

hướng

chứng

ngoại

nội

1

Trong cơn mưa

2

Người đàn bà với hai con chó nhỏ

x

3


Mê lộ

x

4

Năm ngày

5

Vệt son

Nhân
vật
chính

Hỗn
hợp

x

x
x

24


6


Người suy tư

x

7

Hành trình của những con số

x

8

Hoa sữa

9

Khách

x

10

Một cái gì

x

11

Hai mươi năm sau


x

12

Bảy nổi ba chìm

13

Chín bỏ làm mười

x

Tổng cộng

x
x
0

9

0

4

0

Bảng khảo sát phương thức trần thuật trong những truyện ngắn viết về đề tài
tình yêu của Nguyễn Thị Thu Huệ (trong 31 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ)
Chủ thể trần thuật
Ngôi thứ III

Tác phẩm

STT

Ngôi thứ I

Điểm

Điểm

nhìn

nhìn

Nhân

hướng

hướng

chứng

ngoại

nội

1

Tân cảng


2

Huyền thoại

3

Xin hãy tin em

4

Nước mắt đàn ông

5

Còn lại một vầng trăng

6

Dĩ vãng

7

Thiếu phụ chưa chồng

x

8

Rượu cúc


x

9

Tình yêu ơi, ở đâu?

x

10

Biển ấm

11

Một trăm linh tám cây bằng lăng

12

Người đàn bà ám khói

13

Phù thủy

Nhân
vật
chính

Hỗn
hợp


x
x
x
x
x
x

x
x
x
x

25


×