Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn PHƯƠNG PHÁP vận DỤNG bản đồ tư DUY vào VIỆC ôn tập một CÁCH HIỆU QUẢ môn SINH học 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.13 MB, 22 trang )

Đề tài:
PHƯƠNG PHÁP VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀO VIỆC ÔN TẬP
MỘT CÁCH HIỆU QUẢ MÔN SINH HỌC 12
MỤC LỤC
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................Trang 1
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN........................................................................Trang 3
III. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI.
......................................................................................................... Trang 4
IV. NỘI DUNG ĐỀ TÀI..................................................................Trang 5
V. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI...........................................................Trang 19
VI. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG ............Trang 20
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................Trang 21

1


Đề tài:
PHƯƠNG PHÁP VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀO VIỆC ÔN TẬP
MỘT CÁCH HIỆU QUẢ MÔN SINH HỌC 12
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Cùng với sự phát triển của thời đại, thước đo quan trọng cho năng lực sáng
tạo của mỗi người trong nền kinh tế tri thức chính là tốc độ tư duy, khả năng
chuyển hóa thông tin thành kiến thức và từ kiến thức tạo ra giá trị, tạo ra sản
phẩm. Thế hệ trẻ Việt Nam, những "công dân thời WTO" đang có cơ hội sử dụng
công cụ kì diệu là máy tính và Internet để hội nhập và phát triển cùng một thế giới
đang vận động và thay đổi đến từng giây.
Tuy nhiên, trong một thế giới bùng nổ thông tin như hiện nay thì học tập chăm
chỉ vẫn chưa phải là giải pháp tối ưu, bởi khi có nhiều sự lựa chọn thì vấn đề
không chỉ là học cái gì mà còn là học như thế nào và sử dụng công nghệ gì.
Các phương pháp luận học tập đã đem lại thành công cho người học trong quá khứ
đang gặp nhiều thách thức. Thông tin đa chiều và thực tế yêu cầu người học không


chỉ có kiến thức mà còn có khả năng tạo ra giá trị gia tăng từ kiến thức.
Đổi mới phương pháp dạy và học đã và đang là vấn đề được ngành Giáo dục
đào tạo quan tâm chỉ đạo. Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học,
vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm
được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm
là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học.
Trong thực tế hiện nay, để chuẩn bị kiến thức cho các bài kiểm tra, các kì
thi nhiều học sinh chưa biết cách ôn tập, đa số học sinh học thuộc lòng, học vẹt,
thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, hoặc
không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
Trong giảng dạy các tiết ôn tập trước các lần kiểm tra, trước các kì thi, GV
cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, giản đồ ý,… nhưng vẫn chưa đạt hiệu quả
cao và chưa thật sự gây được sự húng thú, tập trung ôn tập của các em học sinh vì
các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét.
Bộ môn Sinh học là một môn học có tính đặc thù rất khác với các môn học
khác: Môn học nghiên cứu các đối tượng sống bao gồm: nghiên cứu các đặc điểm
cấu tạo, các quá trình sinh lí, hóa sinh, các mối quan hệ giữa các tổ chức sống với
nhau và với môi trường, sự vận động của thế giới sống qua không gian và thời
gian..... thì phương pháp chuyển tải bằng sơ đồ thường mang lại hiệu quả cao.
Theo nhiều kết quả nghiên cứu của các chuyên gia tâm lí học, bộ não là một
cỗ máy liên kết tư duy mở rộng. Đối với bộ não,“một hình ảnh có giá trị hơn cả
ngàn từ” vì nó huy động rất nhiều kĩ năng tư duy trên võ não: màu sắc, hình thể,
đường nét, kích thước, kết cấu, nhịp điệu, thị giác đặc biệt là sự tưởng tượng. Bản
đồ tư duy ( BĐTD) khai thác được thế mạnh đó, nó phát huy được tiềm năng to
lớn của não. Vì vậy, việc sử dụng bản đồ tư duy trong việc ôn tập chuẩn bị cho các
kì thi bằng cách mô tả kiến thức dưới dạng bản đồ, học sinh chỉ cần nhìn vào bản
đồ tư duy là có thể tự hệ thống lại kiến thức mà không mất nhiều thời gian làm “đề
2



cương, đáp án”, mặt khác phương pháp này cũng sẽ dần hình thành cho HS tư duy
mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ
thống, khoa học, tất cả HS ôn tập kiến thức một cách hào hứng, giúp học sinh học
tập một cách chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não, …
Theo Tiến sĩ Trần Ðình Châu, Vụ trưởng, Ủy viên thường trực Ban chỉ đạo
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” : "Nếu so
sánh với phương pháp dạy học truyền thống chỉ chú trọng đọc - chép thì dạy học
bằng BĐTD góp phần đổi mới căn bản và toàn diện tổ chức hoạt động dạy học,
nhất là vận dụng vào dạy học kiến thức mới hoặc hệ thống hóa kiến thức phù
hợp với từng đối tượng khác nhau.
Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài " Phương pháp vận dụng bản đồ tư
duy vào việc ôn tập một cách hiệu quả môn Sinh học 12"
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Đổi mới phương pháp dạy học chỉ mang lại kết quả cao khi HS phát huy
được vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo, biết đổi mới phương pháp học tập, biết tự
học, biết tạo hứng thú trong học tập của bản thân.
Trong nhà trường, hoạt động dạy học là trung tâm để thực hiện nhiệm vụ
chính trị được giao, thực hiện sứ mệnh “trồng người”. Hoạt động dạy học chỉ đạt
hiệu quả cao khi tạo lập được môi trường sư phạm lành mạnh, bầu không khí thân
thiện, phát huy ngày càng cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, từ đó
góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng GD toàn diện.
Nghiên cứu về hoạt động của bộ não con người, người ta chỉ ra rằng bộ não
hoạt động gồm hai phần: Não phải nhạy cảm với các thông tin về màu sắc, nhịp
điệu, hình dạng, tưởng tượng, … sẽ tác động kích thích não trái. Não trái thích hợp
với các từ ngữ, con số, tư duy, phân tích, … cho ra sản phẩm. Do đó người ta tìm
cách kích thích não phải tốt nhất. Trình bày vấn đề theo sơ đồ, biểu đồ bao giờ
cũng gây hứng thú.
Trước nay, chúng ta ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số.
Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não - não trái, mà
chưa hề sử dụng kỹ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin

về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng. Hay nói cách khác, chúng ta
vẫn thường đang chỉ sử dụng 50% khả năng bộ não của chúng ta khi ghi nhận
thông tin. Phương pháp ôn tập bằng BĐTD sẽ giúp chúng ta sử dụng sức mạnh
của não bộ để tư duy, ghi nhớ kiến thức cũ một cách hiệu quả nhất.
Tấm bản đồ tư duy sẽ là công cụ giúp học sinh ôn thi các môn một cách có
hệ thống và hiệu quả. Những từ khóa ở các nhánh chính, nhánh phụ sẽ được bán
cầu não trái ghi nhận dễ dàng nhờ các ý tưởng liên kết một cách chặt chẽ. Ngoài ra,
màu sắc tươi tắn và hình vẽ vui nhộn minh họa cho từ khóa trên những nhánh ấy sẽ
được bán cầu não phải lưu giữ, giúp bộ não làm việc nhịp nhàng và đồng bộ.
Không để bán cầu não trái (thiên về khoa học) làm việc còn bán cầu não phải
(thiên về nghệ thuật) thì cứ ngủ yên.
Phương pháp ôn tập bằng bản đồ tư duy cũng giúp chúng ta kiểm tra lại kiến
3


thức đã học, làm tăng mức độ hiểu biết và nâng cao khả năng thuyết trình trước
đông người. Ngoài ra, BĐTD còn rèn thêm khả năng vẽ, kích thích trí tưởng tượng,
sáng tạo. Mỗi khi ôn tập cuối kỳ, chỉ cần nhìn vào BĐTD là các em học sinh đã có
thể tự hệ thống lại kiến thức mà không mất nhiều thời gian làm “đề cương, đáp án”
BĐTD là một phương pháp ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng
nghĩa của nó: “Sắp xếp” ý nghĩ của chúng ta bằng hình vẽ.
III. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI:
1) Thuận lợi:
Về phía bản thân:
+ Bản thân thực sự yêu nghề, tâm huyết với nghề, luôn có tinh thần cầu thị .
+ Được bồi dưỡng đầy đủ các khóa tập huấn, các lớp chuyên đề về các chủ trương,
chính sách đổi mới của Bộ GD - ĐT dưới sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện của Sở
GD - ĐT Đồng Nai.
+ Luôn kịp thời thực hiện và thực hiện một cách nghiêm túc các chủ trương đổi
mới của ngành, đặc biệt là chủ trương đổi từ cách dạy học truyền thụ một chiều

sang dạy học theo “phương pháp dạy – học tích cực”.
+ Bên cạnh đó là sự quan tâm giúp đỡ tận tình của Ban Giám Hiệu nhà trường,
quý đồng nghiệp và các em HS trong quá trình thực hiện đề tài.
Về phía nhà trường:
+ BGH luôn tạo điều kiện, hỗ trợ giáo viên trong việc thực hiện các chủ trương,
chỉ đạo của ngành đề ra .
+ BGH cũng luôn kịp thời khen ngợi các giáo viên có kết quả cao về tỉ lệ học
sinh đạt trên 5 điểm và đạt từ 8 điểm trở lên sau các kì thi.
+ Luôn cập nhật các thông tin về giáo dục từ Bộ và Sở giáo dục,triển khai và
giúp đội ngũ GV cụ thể hóa công văn từ Sở giáo dục một cách kịp thời và mang
tính đồng bộ.
+ Cơ sở vật chất của nhà trường có một số trang thiết bị hiện đại hổ trợ cho việc
thực thi các tiết dạy đạt hiệu quả hơn.
Về phía học sinh:
+ Vì đã là năm cuối cùng của cấp học phổ thông nên đa số HS có ý thức học tập
một cách nghiêm túc và tập trung hơn những năm học trước.
+ Nhiều học sinh tỏ ra yêu thích bộ môn Sinh và cũng có nhiều học sinh theo khối
B để thi đại học.
+ Kĩ năng hoạt động nhóm trong việc học tập của HS ngày càng được nâng cao.
Đa số các em rất thích hoạt động nhóm trong học tập, đặc biệt là trong việc ôn tập
trước các kì thi.
+ Các em HS đều rất muốn tìm cho mình một phương phương pháp học tập mới
mà đem lại hiệu quả cao.
2) Khó khăn:
+ Tuy GV rất cố gắng chỉ dẫn cho HS những phương pháp học ôn tập mới hiệu
quả nhưng nhiều em học sinh tư duy còn chậm, chưa tỏ ra nhanh nhạy trong việc
vận dụng phương pháp mới để ôn tập.
+ Vẫn còn một số ít HS chưa xác định được động cơ học tập,chưa có ý thức trong việc học.
+ Việc học ở nhà của học sinh còn bị động và mang tính đối phó.
4



+ Đa số HS không có một mục tiêu rõ ràng trong học tập, một số HS nếu đặt được
mục tiêu học tập thì lại không có một kế hoạch nào cụ thể về những công việc,
mức độ công việc, thời gian thực hiện công việc để đạt được mục tiêu đó, đa số HS
theo lối suy nghĩ “đến đâu hay đến đó”, chính điều này lại hình thành thói quen
làm việc không có kế hoạch của các em sau này.
+ Cũng do đây là năm cuối cùng của cấp học, các kì thi tập trung lại diễn ra liên
tục, đặc biệt là áp lực tâm lí của các em đối với 2 kì thi quan trọng nhất là kì thi tốt
nghiệp và kì thi ĐH- CĐ nên nhiều em tỏ ra mệt mỏi, làm giảm tiến độ và hiệu quả
của việc học, một số em đôi lúc có thái độ buông xuôi.
+ Vì môn sinh thi tốt nghiệp và đại học, cao đẳng đều là hình thức thi trắc nghiệm
cho nên một số học sinh còn chủ quan, lơ là, chưa có thái độ học tập hợp lí.
IV. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Những hạn chế của việc ôn tập kiểu truyền thống :
Đại đa số các em HS ôn tập bằng cách cầm sách hoặc vở ghi trên lớp và đọc
thuộc lòng từng câu từng từng ý hặc một số em học thuộc bằng cách ghi ra giấy.
Mặc dù các câu, các ý đã được rút gọn nhưng cũng đang rất dài và khó mà nhớ hết.
Vì vậy để học thuộc nội dung chính của một bài đã khó và mất nhiều thời gian thì việc
học thuộc lòng cả một chương hay toàn bộ nội dung chương trình của một bộ môn lại
càng trở nên quá vất vả và mất rất nhiều thời gian. Trong 1 câu văn có 2 loại từ:
+ Từ khóa: chiếm khoảng 20-40% nhưng chứa gần 100% thông tin.
+ Từ thứ yếu: chiếm khoảng 60-80% nhưng chứa ít thông tin.
 Ôn tập theo kiểu học thuộc truyền thống thì cả thời gian và cả trí nhớ đều
bị lãng phí.
Các em có thể thuộc những bài cần ôn sau khi đọc nhiều lần nhưng lại có thể
quên gần hết ngay sau một thời gian ngắn sau đó. Muốn ôn lại các em lại phải ôn
lại từ đầu.
Ôn tập theo kiểu này cũng không tận dụng được tối đa não bộ: chỉ tận dụng
chức năng nảo trái( xử lý về từ ngữ, con số, đườn g nét…), chưa tận dụng chức

năng của não phải( nhạy cảm với màu sắc, hình ảnh, tưởng tượng, hình dạng, nhịp
điệu…)  khả năng ghi nhớ thông tin bị giảm.
2.Việc ôn tập kiến thức bằng bản đồ tư duy.
2.1. Khái niệm bản đồ tư duy
- Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc
sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực.
- Bản đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây với nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc
xung quanh. “Cái cây” ở giữa bản đồ là một hình ảnh trung tâm, là ý tưởng chính.
Nối với nó là các nhánh lớn, nhỏ thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính.
Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ
5


hơn nữa nhằm thể hiện vấn đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và
các kiến thức, hình ảnh luôn được kết nối với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức
tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
- Có 3 kiểu BĐTD cơ bản nhằm giúp các em HS sắp xếp kiến thức và ôn tập
một cách hiệu quả:
+ BĐTD tổng quát: được tạo ra dựa trên bảng mục lục trong sách, nó mang
lại một cái nhìn tổng quát về toàn bộ môn học và giúp các em HS định lượng được
lượng kiến thức mà các em cần phải chuẩn bị cho kì thi.
+ BĐTD theo từng chương riêng biệt: Một bản đồ tư duy lí tưởng không nên
chỉ lưu lại những ý chính mà còn phải thể hiện đầy đủ tất cả các chi tiết hỗ trợ quan
trọng khác như : các bảng dữ liệu, đồ thị và các loại biểu đồ khác.
+ BĐTD theo bài hoặc theo từng mục:Mỗi BĐTD dùng để tóm tắt một bài
học hoặc một mục của bài học.
2.2. Ý nghĩa của bản đồ tư duy
Bản đồ tư duy là một kỹ thuật hình họa, với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình
ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp, tương thích với cấu trúc, hoạt động và chức năng

của não bộ. Bản đồ tư duy hoạt động dựa trên hai nguyên tắc chủ chốt là tưởng
tượng và liên kết. Não bộ của con người chính là bộ máy nhân và nó nhân các ý
tưởng bằng sự liên kết.
Nhiều em HS đã từng lắc đầu ngao ngán trước những trang sách, trang vở dày
đặc những chữ là chữ. Thì giờ đây, những trang sách, chương sách, thậm chí cuốn
sách sẽ hoàn toàn có thể được thu nhỏ lại bằng “nắm tay” khi chúng ta biết chắt lọc
những thông tin cốt lõi bằng những từ khóa và thể hiện nó trên bản đồ tư duy.
Những từ khóa ở các nhánh chính, nhánh phụ sẽ được bán cầu não trái
ghi nhận dễ dàng nhờ các ý tưởng liên kết một cách chặt chẽ. Ngoài ra, màu sắc
tươi tắn và hình vẽ vui nhộn minh họa cho từ khóa trên những nhánh ấy sẽ
được bán cầu não phải lưu giữ, giúp bộ não làm việc nhịp nhàng và đồng bộ.
Thực nghiệm trên văn bản cho thấy nhiều câu dài ngoằng nhưng chỉ có vài
từ chứa đựng thông tin. Số từ còn lại chúng ta không cần để tâm bởi nó thuộc loại
những từ chêm xen đưa đẩy, quán ngữ mà thôi. Chúng sẽ “tự giác” xuất hiện khi
chúng ta cần tạo câu để triển khai từ khóa.
Nhiều người sẽ hỏi, với mấy từ “lơ thơ” và vài hình vẽ “giỡn chơi” trong đầu thì
làm được gì trong phòng thi? Xin thưa, nó lợi hại lắm đấy. Theo quy luật của hoạt động
nhận thức được lập trình trong bản đồ tư duy, “đường đi” của ngôn ngữ sẽ không bị
nghẽn. Chúng ta sẽ ngạc nhiên khi chỉ với vài từ khóa được bộ nhớ đưa ra, ý tưởng sẽ
được hình thành và ngôn ngữ xuất hiện một cách dồi dào để diễn đạt ý tưởng ấy. Có thể
hình dung rằng bản đồ tư duy là bộ khung của vấn đề, chúng ta chỉ việc dùng ngôn ngữ
“đắp” vào để bộ khung trở thành “ngôi nhà” văn bản hoàn chỉnh.
Khả năng vẽ kém có thể là trở ngại cho chúng ta khi lập bản đồ tư duy. Hãy
yên tâm, vẽ không đẹp là chuyện nhỏ. Có khi những hình vẽ vô lý và "xấu như ma"
sẽ giúp bạn nhớ lâu một vấn đề nào đó. Bản đồ tư duy còn có khả năng cho bạn cái
nhìn ở cấp độ “vĩ mô” của văn bản. Những nhánh chính, nhánh phụ sẽ tự động cấu
trúc các đoạn văn để hình thành một văn bản hoàn chỉnh.
2.3. Cách thực hiện
6



Có hai cách vẽ bản đồ tư duy: vẽ bằng tay hoặc bằng máy vi tính. Nếu vẽ
bằng tay thì người học chỉ cần một tờ giấy A4 hoặc lớn hơn, một hộp bút màu loại có
đầu nhọn. Còn vẽ bằng máy vi tính thì người học có thể sử dụng các phần mềm Mind
Mapping như phần mềm Mindjet MindManager Pro7 hoặc vẽ bằng chương trình
Microsoft Word. Đối với HS phổ thông thì vẽ bản đồ tư duy bằng tay sẽ dễ dàng và
thiết thực hơn cho việc học. Cụ thể là:
- Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề: Hình ảnh
càng hấp dẫn càng giúp chúng ta tập trung được vào chủ đề và giúp bộ não hoạt động
hưng phấn. Có thể bổ sung từ ngữ vào hình ảnh chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
- Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính với các tiêu đề phụ: Tiêu đề phụ
được viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh dày để làm nổi bật. Nhánh chính
đó được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng ( từ khóa)
để viết trên các nhánh.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung
thuộc nhánh chính đó và các chi tiết hỗ trợ: Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng
chữ in thường, luôn để các nhánh của BĐTD uốn cong tự nhiên làm cho bản đồ tư
duy cuốn hút và không bị nhàm chán vì các đường cong được tổ chức rõ ràng sẽ
thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều. Số lượng nhánh chính và phụ ít hay
nhiều phụ thuộc vào nội dung của vấn đề cần thể hiện.
Các nhánh trên bản đồ nên được thể hiện bằng những màu khác nhau. Cạnh từ
khóa có thể vẽ những hình ảnh vui tươi, ngộ nghĩnh để làm cho bản đồ “bắt mắt” hơn.
Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo: Để trí tưởng tượng bay bổng,
chúng ta có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật và
giúp chúng lưu váo trí nhớ của chúng ta tốt hơn.
2.4. Cách đọc bản đồ tư duy
Cấu trúc của bản đồ tư duy không xuất phát từ trái sang phải và từ trên xuống dưới
theo kiểu truyền thống. Thay vào đó, bản đồ tư duy được vẽ, viết và đọc theo hướng bắt
nguồn từ trung tâm di chuyển ra phía ngoài và sau đó là theo chiều kim đồng hồ. Các từ
khóa được viết và đọc theo hướng từ trên xuống dưới trong cùng một nhánh chính.

2.5. Phạm vi vận dụng BĐTD trong dạy học
Bản đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ
thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì nó giúp GV và HS trong việc trình bày các ý
tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua sơ đồ, tóm tắt thông tin
của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường
khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới… Sau đây là một số ứng dụng cụ thể của Bản
đồ tư duy trong dạy học ở trường phổ thông:
2.5.1. Lập kế hoạch
Giáo viên dùng bản đồ tư duy để lập kế hoạch giảng dạy, kế hoạch chủ nhiệm
cho một năm học, một học kỳ, một tháng hay kế hoạch cho một tuần cụ thể. Còn
HS thì có thể xây dựng bản đồ tư duy cho các kế hoạch học tập, cũng như kế hoạch
cho các hoạt động khác như thể dục, thể thao, các hoạt động ngoại khóa...
2.5.2. Thảo luận nhóm
7


Bản đồ tư duy tạo nên sự đồng thuận trong nhóm, các thành viên đều suy
nghĩ tập trung vào một vấn đề chung cần giải quyết, các ý kiến đưa ra của mỗi cá
nhân đều được liên kết với chủ đề, tránh được hiện tượng lan man và đi lạc chủ đề.
Mọi thành viên trong nhóm đều đóng góp ý kiến và cùng nhau xây dựng bản đồ tư
duy do nhóm mình thiết kế.
Bản đồ tư duy giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách
rõ ràng và hệ thống, việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn và dể thuyết
trình được nội dung bài học.
2.5.3. Trình bày bài giảng
Giáo viên có thể ứng dụng bản đồ tư duy vào trong việc dạy học như soạn
bài giảng, trình bày bài giảng... Sử dụng một bảng đen lớn hay máy chiếu, giáo
viên có thể vẽ phần tương ứng của bản đồ tư duy trong khi đang giảng bài. Cách
biểu thị quy trình tư duy như thế sẽ làm rõ cấu trúc bài học, đồng thời duy trì được
sự chú ý của HS, giúp các em nhớ và hiểu bài dễ hơn, cũng có thể cho HS tự hoàn

chỉnh bản đồ tư duy.
2.5.4. Ghi chép, tóm tắt, hệ thống hóa nội dung bài học, đưa ra các ý tưởng
HS có thể sử dụng bản đồ tư duy để học bài mới hay ghi chép, tóm tắt, hệ
thống hóa nội dung bài học. So với cách ghi chép theo kiểu truyền thống, tức là ghi
chép thông tin bằng cách sử dụng các kí tự và chữ số theo đường thẳng, thì việc ghi
chép bằng công cụ BĐTD hiệu quả hơn nhiều. Kĩ thuật ghi chép này cho phép HS
nhanh chóng ghi lại các ý tưởng bằng các từ khóa, sắp xếp một cách cơ bản
thông tin khi nó được truyền tải và cho HS cơ hội để hình thành những mối liên hệ
và liên tưởng. HS cũng có thể tham gia vào bài học bằng cách bổ sung những suy
nghĩ, quan điểm và cảm nghĩ của chính mình. Đồng thời, trong kĩ thuật ghi chép
này, HS còn sử dụng cả màu sắc, hình ảnh để lưu trữ thông tin nên rất dễ nhớ
vì đã tận dụng được chức năng của cả não trái lẫn não phải trong việc ghi nhớ.
Như vậy, bản đồ tư duy có vai trò rất quan trọng trong dạy học và đặc biệt
đổi mới cách tổ chức dạy học của giáo viên đồng thời góp phần bồi dưỡng năng
lực tự học cho học sinh trung học phổ thông phù hợp với các mục tiêu đổi mới
phương pháp dạy học: dạy học theo hướng hoạt động học tập chủ động, chống lại
thói quen học tập thụ động.
2.6. Những lưu ý khi thiết kế bản đồ tư duy.
2.6.1. Các quy tắc khi lập BĐTD.
1.Tờ giấy nên để ngang để có thể bắt đầu BĐTD từ giữa trung tâm của tờ giấy
giúp tự do thể hiện sáng tác mà không bị gò bó bởi khuôn hình chật hẹp của tờ
giấy, nên dùng hình ảnh, hình vẽ để làm trung tâm (keyword).
2. Có hệ thống phân cấp cho cái khung (cấu trúc) của BĐTD, những nhân tố
quan trọng nhất được đặt gần hình ảnh trung tâm, nên viết màu, in hoa những ý
tưởng chính (nhánh cấp 1)
3. Dùng các mối liên kết để mở rộng BĐTD đến bước cuối cùng,hãy nhìn vào
các từ khóa ở các nhánh chính cấp 1, những từ khóa này giúp ta bừng sáng các ý
tưởng mới.Vẽ những nhánh nhỏ hơn từ các nhánh cấp 1 để phù hợp với mối liên
quan vừa tạo lập. Vẽ nhánh cấp 2 từ nhánh cấp 1 và có thể vẽ thêm vài nhánh trống
(để viết thêm khi ta có thêm ý tưởng)

4. Số lượng các cấp độ nhánh là vô tận tùy thuộc vào số ý tưởng mà ta có thể
8


nghĩ được, cần viết ra càng nhiều ý càng tốt, không e ngại khi viết ra những điều
bình thường mà ta nghĩ là ngớ ngẩn, “Cách tốt nhất để có được một ý tưởng tốt là
bạn phải có thật nhiều ý tưởng” (The best way to get a good idea is to get a lot of
ideas – Linus Carl Pauling – Nobel hòa bình 1963)
5. Các nhánh nhỏ có thể thúc đẩy sự suy nghĩ và ý tưởng liên quan đến từ
khóa của nhánh trước. Nên vẽ các nhánh theo thứ tự kim đồng hồ tạo nên hệ thống
sắp xếp hợp lí và cảm giác thuận hơn.
6. Tiếp tục quá trình thêm các nhánh nhỏ tới khi nào tất cả ý tưởng và sự suy
nghĩ được trình bày trên BĐTD.
2.6.2. Lưu ý khi ghi chép trên bản đồ tư duy
- Nghĩ trước khi viết
- Viết ngắn gọn
- Viết có tổ chức
- Viết lại theo ý của mình, nên chừa khoảng trống, vẽ thêm nhánh trống
để có thể bổ sung ý (nếu sau này cần)
2.6.3. Điều cần tránh khi lập BĐTD
- Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng
- Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết
- Dành quá nhiều thời gian để ghi chép.
- Tránh cầu kì (tô vẽ nhiều quá) hoặc BĐTD đơn giản quá không có
thông tin, chỉ có các đề mục.
2.7. Vận dụng BĐTD trong ôn tập chuẩn bị cho các kì thi môn Sinh học 12.
Sau 3 năm vận dụng BĐTD trong việc giảng dạy một số bài Sinh học 12 và
hướng dẫn học sinh vận dụng BĐTD trong việc ôn tập môn Sinh học 12, bản thân
tôi thấy rằng:
- Vận dụng BĐTD vào việc ôn tập, hệ thống hóa kiến thức cũ thì dễ tiến hành

hơn việc vận dụng nó vào việc dạy học kiến thức mới. Vì trong những tiết ôn tập,
cá nhân học sinh hoặc nhóm học sinh có thể tự vẽ BĐTD cho mình sau một vài gợi
ý của GV. Còn đối với tiết dạy bài mới thì thời gian chỉ có 45 phút, hầu như là
không đủ để học sinh vừa lĩnh hội kiến thức mới vừa lập được BĐTD để hệ thống
hóa kiến thức của bài, cách hiệu quả trong trường hợp này là sau khi dạy xong GV
yêu cầu học sinh về nhà lập BĐTD cho bài vừa học.
- Thời gian đầu làm quen với việc vận dụng BĐTD vào việc học và ôn tập,
một số em HS còn tỏ ra e ngại hoặc không nghiêm túc tiếp thu phương pháp mới,
nhưng bên cạnh đó có một rất em rất nhanh nhạy sẽ thiết kế và thuyết trình bản đồ
tư duy trước lớp một cách dễ dàng. Nhờ vậy GV cùng với những em này sẽ gây
được sự hứng thú cho những em còn lại cùng thử sức với BĐTD.
- Vì là tiết ôn tập nên tất cả các nội dung, các bài, các chương cần ôn học sinh
đều đã được học và hiểu. Cho nên việc vận dụng BĐTD là hoàn toàn khả thi và sẽ
đem lại hiệu quả cao hơn so với tiết lĩnh hội kiến thức mới.
- GV chỉ cần hướng dẫn cho các em HS thiết kế BĐTD trong lần đầu tiên một
9


cách tỉ mỉ. Sau đó qua các BĐTD của các mục, các bài, các chương tiếp theo HS sẽ
tự thiết kế theo ý của chính bản thân mình, như vậy các em sẽ nhớ rất nhanh và rất
lâu sản phẩm của mình.
- Theo tôi, để giúp thiết kế một BĐTD chuẩn và đầy đủ thì thao tác quan trọng
nhất là cần phải nắm được các từ khóa. Trong các quyển sách giáo khoa, chỉ có 20%
trong tổng số từ chưa đựng những thông tin cần để thu hoạch toàn bộ kiến thức của
môn học, đảm bảo đạt điểm cao trong kì thi. Như vậy, khi ôn tập, các em HS chỉ
việc ôn lại 20% từ khóa trong BĐTD là có thể nắm bắt được đầy đủ thông tin của
môn học, giúp giảm bớt được 80% thời gian học mà vẫn đạt hiệu quả cao nhất.
Sau đây tôi xin đưa ra một quy trình lập BĐTD hướng dẫn các em HS
khối 12 ôn thi tốt nghiệp THPT môn Sinh học 12 theo kinh nghiệm của bản thân
trong 3 năm thực hiện cho thấy HS rất hứng thú tập trung ôn tập, đạt hiệu quả cao:

Lưu ý: Trước khi ôn tập, mỗi em HS cần phải chuẩn bị một quyển vở dạng
kẹp bằng giấy A4.
Bước 1: Đầu tiên, tôi yêu cầu mỗi em tự thiết kế một BĐTD tổng quát để khái quát
hóa và hệ thống hóa lại toàn bộ chương trình Sinh học 12 vừa học xong: BĐTD
này các em hoàn toàn có thể tự thiết kế được cho mình dựa vào bảng mục lục trong
SGK với cách bố trí thứ tự các nội dung, màu sắc và kí hiệu khác nhau của từng
em. Trên tấm bản đồ này thể hiện được các phần, các chương và các bài trong
chương trình Sinh học 12.
Kiến thức thi tốt nghiệp tapapj trung chủ yếu là Sinh học 12. Chương trình Sinh
học 12 gồm 3 phần tiếp theo của lớp 10 và 11:
- Phần 5: Di truyền học.
- Phần 6: Tiến hóa.
- Phần 7: Sinh thái học
Tôi yêu cầu BĐTD này chỉ cần thể hiện được các phần, các chương học của mỗi
phần và các bài học của mỗi chương học.
Dưới đây là 1 sản phẩm của HS của tôi cho BĐTD trong bước 1 này:

10


Bước 2: Tiếp theo tôi yêu cầu các em thiết kế BĐTD cho từng mục của từng bài
rồi ghép lại thành BĐTD cho từng bài.
Để làm được bước này thì thao tác quyết định là cần phải liệt kê ra được các từ
khóa của từng mục và của cả bài. Từ khóa ở đâu? Có một số em học khá có thể tự suy
nghĩ và nhớ ra, tuy không được đầy đủ. Đại đa số là các em không tự nhớ ra được, tôi sẽ
yêu cầu các em mở vở ghi ra và cùng các em tìm và gạch chân từ khóa( Tôi chỉ thực hiện
mẫu một lần ở một bài nào đó sau đó HS hoàn toàn có thể tự làm ).
Để tìm từ khóa thì các em hoàn toàn không cần dùng SGK vì câu văn bản
trong SGK chứa quá nhiều từ thứ yếu không cần thiết, câu văn bản trong vở ghi đã
rất ngắn gọn, cô đọng (vì GV đã lược bỏ phần nhiều các từ thứ yếu) và lại đảm bảo

chuẩn kiến thức kĩ năng và đã cắt bỏ phần giảm tải theo công văn hướng dẫn của
Sở. Ví dụ gạch chân từ khóa trong bài "Gen, mã di truyền và quá trình nhân đôi
ADN" (dựa trên nội dung ghi chép trong vở của học sinh) như sau:
I/ Gen:
1. Khái niệm:
- Gen là một đoạn của phân tử ADN mang thông tin mã hoá một sản phẩm xác
định (chuỗi pôlipeptit hay một phân tử ARN).
11


II/ Mã di truyền
- Khái niệm: - Mã di truyền là trình tự sắp xếp các nuclêôtit trong gen quy định
trình tự sắp xếp các axit amin trong prôtêin. Mã di truyền là mã bộ ba.
- Đặc điểm của mã di truyền:
+ Mã di truyền được đọc từ 1 điểm xác định theo từng bộ ba (không gối lên nhau).
+ Mã di truyền có tính phổ biến (tất cả các loài đều có chung 1 bộ mã di truyền, trừ
một vài ngoại lệ).
+ Mã di truyền có tính đặc hiệu (1 bộ ba chỉ mã hoá 1 loại axit amin).
+ Mã di truyền mang tính thoái hoá (nhiều bộ ba khác nhau cùng mã hoá cho 1 loại
axit amin, trừ AUG và UGG)
- Có tất cả 64 bộ ba trong đó có 3 bộ ba kết thúc không mã hóa axit amin (UAA,
UAG, UGA) và 1 bộ ba mở đầu( AUG)
III. Quá trình nhân đôi ADN(tái bản ADN)
- Nơi xảy ra: trong nhân tế bào.
- Nguyên tắc nhân đôi: nguyên tắc bổ sung ( A - T, G - X) và nguyên tắc bán bảo
tồn (giữ lại một nữa) .
- Diễn biến: gồm 3 bước :
+ Bước 1 : Tháo xoắn phân tử ADN
Nhờ các enzim tháo xoắn, 2 mạch đơn của phân tử ADN tách nhau dần tạo nên
chạc tái bản (hình chữ Y) và để lộ ra 2 mạch khuôn.

+ Bước 2 : Tổng hợp các mạch ADN mới
ADN - pôlimerara xúc tác hình thành mạch đơn mới theo chiều 5’ → 3’ (ngược
chiều với mạch làm khuôn). Các nuclêôtit của môi trường nội bào liên kết với
mạch làm khuôn theo nguyên tắc bổ sung (A – T, G – X).
Trên mạch khuôn(3’ → 5’) mạch mới được tổng hợp liên tục.
Trên mạch khuôn (5’ → 3’) mạch mới được tổng hợp gián đoạn tạo nên các
đoạn ngắn (đoạn Okazaki), sau đó các đoạn Okazaki được nối với nhau nhờ enzim
nối Ligaza.
+ Bước 3 : Hai phân tử ADN được tạo thành
Các mạch mới tổng hợp đến đâu thì 2 mạch đơn xoắn đến đó → tạo thành phân tử
ADN con, trong đó một mạch mới được tổng hợp còn mạch kia là của ADN ban
đầu (nguyên tắc bán bảo tồn).
Học sinh của tôi đã thiết kế bản đồ tư duy cho bài này như sau:

12


13


Giới thiệu một số sản phẩm khác của HS:
Bài 4. Đột biến gen( Sinh 12 CB)

Mục I- Bài 5- NST và đột biến cấu trúc NST( Sinh học 12 CB)

14


Bài 6: Đột biến số lượng NST( Sinh học 12 CB)


15


Chủ đề: Đột biến NST( Sinh học 12 CB)

16


Bản đồ tư duy cho chương 1( Sinh học 12 CB)

Bài 35: Môi trường sống và các nhân tố sinh thái( Sinh học 12 CB)

17


Bài 42: Hệ sinh thái( Sinh học 12 CB)

Bước lập bản đồ tư duy cho toàn bộ chương trình Sinh học 12 đã xong.
Để tiết kiệm thời gian trên lớp, GV chỉ yêu cầu HS thiết kế một số bài điển hình
tại lớp,còn lại các em tự thiết kế ở nhà.
Bước 3: HS sử dụng bản đồ tư duy vào việc ôn tập và lập kế hoạch ôn tập.
Ngay sau khi vẽ xong, lập tức ghi các thời điểm ôn lại vào góc nhỏ trên sơ
đồ, đồng thời ghi các thời điểm đó vào sổ tay để xem và thiết lập thời gian.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy: Thời gian ôn luyện lý tưởng gồm 4 mốc
như sau: 10 phút, 1 ngày, 1 tuần và 1 tháng sau khi vẽ. Các bước ôn luyện như sau:
Nhìn qua sơ đồ, không đọc nội dung mà ước chừng thời gian để có thể ghi lại hết
18


các nét và từ khóa. Chỉnh đồng hồ báo thức đúng thời lượng rồi bắt đầu học bài

bằng việc ghi lại từng nhánh sơ đồ. Đối chiếu bài làm với bản chính. Có thể trong
lần đầu sẽ thiếu sót một vài từ khóa, một vài nhánh, hãy nhìn kỹ những từ khóa đó
để chắc chắn sẽ không quên trong lần ôn tiếp theo.
Bước 4: Tôi dành ra một vài tiết trong quỹ thời gian ôn tập trên lớp để cho HS thi
vẽ BĐTD theo nhóm( dưới dạng đơn giản, không cần dùng màu cũng không cần
hình vẽ). Sau đó cho các đại diện các nhóm nhận xét, bổ sung. Đừng coi thường
hiệu quả của bước này bạn nhé.
Bước 5: Thời gian nước rút, tôi sẽ đầu tư ra đề chuẩn theo cấu trúc đề thi tốt
nghiệp THPT của Bộ và tự tổ chức cho các em thi thử tốt nghiệp tai hội trường
của nhà trường. Việc này vừa kiểm nghiệm kết quả ôn tập của học sinh nhờ BĐTD
vừa rèn kĩ năng làm bài thi trắc nghiệm và phần nào giúp học sinh làm quen với
không khí thi tốt nghiệp..
Ngoài ra, trước đó tôi cũng ra một số đề để các em về nhà tự ôn luyện và tôi
sẽ cùng học sinh sửa đề trên lớp vào những tiết sau.
Bước 6: Cô và trò cùng sửa đề thi thử và đề các em làm ở nhà để cùng nhận xét,
rút kinh nghiệm. Sau đó GV căn dặn HS những điều cần thiết trước kì thi nói
chung và với bộ môn sinh học nói riêng.
V. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
1. Thái độ của học sinh đối với giải pháp trong đề tài
Tôi đã tranh thủ khoảng 10 phút trong tiết ôn tập cuối cùng của năm học để
tìm hiểu thái độ của học sinh .
Sau đây là thang đo thái độ của HS (dựa theo tài liệu "Nghiên cứu sư phạm
ứng dụng" - Cục nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục- Bộ GD-ĐT) đối với việc vận
dụng bản đồ tư duy vào việc ôn tập hệ thống hóa kiến thức:
Rất
không
đồng ý
1
2
3

4
5
6

Tôi chắc chắn mình có khả
năng thiết kế BĐTD
Tôi chắc chắn mình có thể
vận dụng được BĐTD vào
việc ôn tập
Cô giáo rất tận tình trong
việc hướng dẫn tôi thiết kế,
đọc và vận dụng BĐTD
Tôi chắc chắn mình rất
hứng thú và thích phương
pháp ôn tập này
Tôi thấy phương pháp ôn
tập này rất hiệu quả
Tôi chắc chắn mình sẽ
vững tâm trong kì thi
19

Không
đồng ý

Bình Đồng ý
thường

Rất
đồng ý



Phạm vi khảo sát: 4 lớp học sinh khối 12 tôi dạy( 12A1,2,3,4), tổng số học
sinh là 145 HS. Kết quả như sau:
Rất
Không
Bình Đồng ý
Rất
không đồng ý thường
đồng ý
đồng ý
1 Tôi chắc chắn mình có khả
0%
0%
17%
69%
14%
năng thiết kế BĐTD
2 Tôi chắc chắn mình có thể
vận dụng được BĐTD vào
0%
2%
35%
52%
11%
việc ôn tập
3 Cô giáo rất tận tình trong
việc hướng dẫn tôi thiết kế,
0%
0%
0%

31%
69%
đọc và vận dụng BĐTD
4 Tôi chắc chắn mình rất
hứng thú và thích phương
0%
5%
20%
50%
25%
pháp ôn tập này
5 Tôi thấy phương pháp ôn
0%
3%
18%
52%
27%
tập này rất hiệu quả
6 Tôi chắc chắn mình sẽ
0%
6%
20%
50%
24%
vững tâm trong kì thi
2. Kết quả học tập của học sinh sau khi thực hiện giải pháp của đề tài
- Thi HK II khối 12: Đề của Sở GD_ĐT Đồng Nai Học kỳ 2 năm học 2012 – 2013.
.Tỉ lệ học sinh trên 5 điểm như sau:
Điểm kiểm tra học kỳ 2 điểm
Điểm kiểm tra học kỳ 2 điểm từ

Sĩ số 4
dưới 5
5 trở lên
lớp
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
145
01
0,65%
144
99,35%
Trong đó số HS đạt trên 8 điểm chiếm 70/145 = 48,3%.
- Thi thử tốt nghiệp do tôi tự tổ chức: kết quả như sau.
Sĩ số 4
Điểm kiểm tra học kỳ 1 điểm
Điểm kiểm tra học kỳ 2
lớp
dưới 5
điểm từ 5 trở lên
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Lần 1
146
02
1,3%
143

98,7%
Lần 2
146
00
0%
145
100%
VI. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Bản đồ tư duy có vai trò rất quan trọng trong dạy học và đặc biệt đổi mới cách tổ
chức dạy học của giáo viên đồng thời góp phần bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh
trung học phổ thông phù hợp với các mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học: dạy học
theo hướng hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động..
Các thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy bằng BĐTD đều có chung nhận xét
rằng, vật liệu làm BĐTD dễ kiếm, cách làm đơn giản và có thể vận dụng với bất kỳ
điều kiện nào của các nhà trường hiện nay, đặc biệt là đối với các trường vùng sâu,
20


vùng xa. BĐTD có thể được vẽ trên giấy bìa, bảng phụ, sử dụng bút chì, màu,
phấn, tẩy... hoặc cũng có thể thiết kế trên powerpoint hay các phần mềm chuyên
dùng để hỗ trợ thiết kế BĐTD. Với các trường có cơ sở hạ tầng thông tin tốt, có thể
cài vào phần mềm máy tính cho cán bộ, giáo viên, học sinh sử dụng.
Theo đánh giá của nhiều giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, BĐTD sau khi
ứng dụng vào các tiết học đã mang lại hiệu quả thiết thực như: Giúp học sinh thuộc
bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học. Mặt khác,
dạy học bằng BĐTD giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi,
hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng
cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh, nhất là
những học sinh khá, giỏi. Học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém.
Tuy nhiên, trong quá trình dạy học không có một phương pháp nào được coi là

vạn năng, mỗi phương pháp có thể được sử dụng hiệu quả với từng mục đích khác
nhau hay nói cách khác là không có một phương pháp giảng dạy nào được xem là tối
ưu, có thể áp dụng cho mọi nội dung, mọi học phần, mọi đối tượng. Phải tùy vào các
trường hợp cụ thể mà áp dụng linh hoạt các phương pháp và khai thác có hiệu quả các
phương tiện và công cụ hiện có để quá trình day- học đạt hiệu quả tốt nhất.
Cuối cùng, mặc dù tôi đã cố gắng nghiên cứu tài liệu chuyên môn, thu thập
thông tin từ nhiều nguồn để có " Phương pháp vận dụng bản đồ tư duy vào việc ôn
tập một cách hiệu quả môn Sinh học 12", nhằm áp dụng cho bản thân và thảo luận
trao đổi với các đồng nghiệp nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót.
Xin kính mong được sự nhận xét, đóng góp ý kiến của quý thầy,quý cô và
các bạn đồng nghiệp!
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Sách giáo khoa sinh học 12 ban CB, NXB giáo dục.
* Tony & Bary Buzan (2008), The Minmapp- Sơ đồ tư duy, NXB Tổng hớp thành
phố Hồ Chí Minh.
* Tony Buzan, Bản đồ tư duy trong công việc- Minmap at word, NXB Lao động- Xã
hội.
* Trần Đình Châu (2009), Sử dụng bản đồ tư duy- Một biện pháp hiệu quả hỗ trợ
học sinh học tập môn Toán, Tạp chí Giáo dục kì 2, tháng 9.
*Adam Khoo, Tôi tài giỏi bạn cũng thế!- dịch giả Trần Đăng khoa – Uông Xuân
Vy, NXB phụ nữ.
* Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, Cục nhà giáo và cán bộ quản lí cơ sở
giáo dục - Bộ GD- ĐT, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

21


22




×