Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

khảo sát truyện cổ dân gian ê đê dưới góc độ loại hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.01 KB, 167 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Ngọc Trang

KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ DÂN GIAN Ê ĐÊ
DƯỚI GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Ngọc Trang

KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ DÂN GIAN Ê ĐÊ
DƯỚI GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ QUỐC HÙNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu, phòng Khoa học Công


nghệ - Sau đại học, thầy cô Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi học tập nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin dành phần trang trọng để cảm ơn TS. Hồ Quốc Hùng – thầy đã tận
tình giảng dạy, hướng dẫn tôi sự cẩn trọng, nghiêm túc trong công việc khoa
học, động viên tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn.
Tp. Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 3 năm
2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1.TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ
CỔ Ê ĐÊ

VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI TRUYỆN

7
1.1. Vài nét về dân tộc Ê đê ........................................................................................ 7
1.1.1. Địa bàn cư trú và tổ chức xã hội ................................................................... 7
1.1.2. Những biểu hiện về sắc thái văn hóa ............................................................ 9
1.2. Vấn đề phân loại truyện cổ dân gian Ê đê ......................................................... 13
1.2.1. Tình hình sưu tầm và phân loại .................................................................. 13
1.2.2. Đề xuất tiêu chí phân loại ........................................................................... 21

Chương 2 :THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT


45

2.1. Thần thoại .......................................................................................................... 45
2.1.1. Về đề tài ...................................................................................................... 45
2.1.1.1. Thần thoại giải thích sự tạo lập thế giới............................................... 45
2.1.1.2. Thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên ..................................... 52
2.1.1.3 Thần thoại giải thích nguồn gốc tộc người ........................................... 53
2.1.2. Các mô típ trong thần thoại Ê đê ................................................................ 56
2.1.2.1. Mô típ người khổng lồ kiến tạo ........................................................... 56
2.1.2.2. Mô típ hồng thủy.................................................................................. 57
2.1.2.3. Mô típ quả bầu ..................................................................................... 59
2.1.2.4. Mô típ cây nối trời và đất ..................................................................... 62
2.2Truyền thuyết ....................................................................................................... 64
2.2.1. Về đề tài – cốt truyện .................................................................................. 64
2.2.1.1. Truyền thuyết lịch sử ........................................................................... 64
2.2.1.2 Truyền thuyết địa danh ......................................................................... 71
2.2.2 Các môtíp trong truyền thuyết ..................................................................... 74
2.2.2.1 Môtíp gươm thần .................................................................................. 74
2.2.2.2 Môtíp thực hiện sứ mệnh ...................................................................... 76
Chương 3 :TRUYỆN CỔ TÍCH

78

3.1Truyện cổ tích thần kì .......................................................................................... 78


3.1.1. Về đề tài – Cốt truyện ................................................................................. 78
3.1.1.1. Cổ tích về nhân vật mồ côi .................................................................. 78
3.1.1.2. Cổ tích về nhân vật dũng sĩ .................................................................. 88

3.1.1.3 Cổ tích về nhân vật mang lốt ................................................................ 96
3.1.2. Các mô típ chính ......................................................................................... 98
3.1.2.1 Môtíp sự ra đời kì lạ.............................................................................. 98
3.1.2.2 Mô típ bà Đuôn Sun .............................................................................. 99
3.1.2.3 Mô típ thần Rồng ................................................................................ 100
3.1.2.4. Mô típ về sự xuất hiện con số 7 ........................................................ 100
3.2 Truyện cổ tích thế sự......................................................................................... 102
3.2.1. Về đề tài – cốt truyện ................................................................................ 102
3.2.1.1. Nhóm truyện kể địa danh ................................................................... 102
3.2.2.2. Nhóm truyện kể khác ......................................................................... 104
3.2.2. Các mô típ chính ....................................................................................... 107
3.2.2.1. Mô típ sụt đất ..................................................................................... 107
3.2.2.2 Mô tip hóa thân ...................................................................................... 109
3.2.2.3. Mô típ đá thiêng ................................................................................. 109
3.1.2.4. Mô típ hồn lúa ................................................................................... 111
3.3. Truyện cổ tích loài vật ..................................................................................... 113
3.3.1. Về đề tài .................................................................................................... 113
3.3.2. Những mô típ chính .................................................................................. 115
3.3.2.1. Mô típ xử kiện.................................................................................... 115
3.3.2.2 Mô tip mẹo lừa .................................................................................... 115
KẾT LUẬN

117

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 119
PHỤ LỤC .............................................................................................................................. 130


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Dân tộc Ê đê là dân tộc có bề dày văn hóa lịch sử, sinh sống lâu đời ở
Đăk Lăk, chiếm tỉ lệ đông nhất trong số các dân tộc thiểu số ở Đăk Lăk.
Người Ê đê từ xa xưa đã có một nền văn học dân gian phong phú. Trong đó
có một bộ phận truyện cổ đặc sắc chiếm một vị trí đáng kể trong đời sống văn
hóa. Người Ê đê gọi kho tàng truyện kể của mình là klei đưm (klei có nghĩa là
lời, bài, chuyện; đưm là những câu chuyện xưa). Truyện cổ nảy sinh từ chính
cuộc sống lao động của đồng bào Ê đê. Trong sinh hoạt văn hóa truyền thống,
ngoài kể khan (sử thi), các già làng và nghệ nhân còn kể clay đưm cho con
cháu nghe dưới ánh lửa bập bùng trong những ngôi nhà sàn. Mỗi một câu
chuyện thấm đẫm trong đó biết bao triết lí nhân sinh, cách cảm cách nghĩ của
cả một cộng đồng dân cư có bản sắc văn hóa riêng, tập tục riêng trên một địa
bàn cư trú gắn liền với núi rừng Tây Nguyên. Đọc truyện cổ Ê đê, người ta
thấy được bức tranh đời sống tinh thần có nhiều nét độc đáo của người Ê đê
trên dải đất Tây Nguyên. Nghiên cứu truyện cổ Ê đê sẽ là một công việc khoa
học hứa hẹn nhiều khám phá thú vị. Tuy nhiên, truyện cổ là một khái niệm
bao quát gồm nhiều thể loại. Tiếp cận truyện cổ dân gian Ê đê không thể bỏ
qua vấn đề nghiên cứu về loại hình của nó. Hiện nay, chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu truyện cổ Ê đê một cách hoàn chỉnh về mặt thể loại.
Việc xác định truyện cổ Ê đê dưới góc độ thể loại là một việc cần thiết. Vì
vậy, đề tài của luận văn tập trung xác định vấn đề thể loại của truyện cổ dân
gian Ê đê từ hệ thống đến cấu tạo cốt truyện. Chúng tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu này trong một bối cảnh cấp thiết. Hiện nay, ngoài một số lượng ít
ỏi truyện cổ Ê đê đã được sưu tầm và xuất bản, truyện cổ Ê đê vẫn tồn tại
trong đời sống cộng đồng người Ê đê nhưng đang phải đối diện với nguy cơ


sẽ mất đi vĩnh viễn khi chịu sự tác động của nếp sống hiện đại. Chỉ còn
những bậc cao niên nhớ được truyện cổ và khi lớp người già lần lượt ra đi,
những truyện kể kì diệu cũng sẽ theo họ đi vào quên lãng.
Chúng tôi mong rằng đề tài nghiên cứu của luận văn sẽ làm được công

việc phân loại truyện cổ Ê đê một cách hoàn chỉnh và sẽ là bước mở đầu cho
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn về truyện cổ dân gian Ê đê sau
này.
2. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành sưu tầm và khảo sát toàn bộ truyện cổ dân gian Ê đê, chúng
tôi xác định mục đích nghiên cứu của luận văn là : xây dựng diện mạo truyện
cổ dân gian Ê đê một cách có hệ thống từ cách phân loại đến hệ thống cốt
truyện và đi vào mô típ để thấy được đặc trưng về thể loại của truyện cổ Ê đê.
3. Lịch sử vấn đề
Hiện tại, chúng tôi tìm được và khảo sát những tài liệu liên quan đến
đề tài của luận văn như sau:
Công trình Văn hóa dân gian Ê đê của tác giả Ngô Đức Thịnh (Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1992), bài viết Một vài đặc điểm của thần thoại Ê
đê của tác giả Ngọc Anh (Tạp chí Văn học số 3 năm 1996), Văn học dân gian
Ê đê, Mơ nông của tác giả Trương Bi (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2007),
bài viết Clay đưm của người Ê đê của tác giả Đỗ Hồng Kì (Tạp chí Dân tộc
học số 2 năm 2011).
Trước hết là tài liệu Văn hóa dân gian Ê đê. Đây là công trình nghiên cứu
về tổng thể văn hóa của dân tộc Ê đê. Trong đó tác giả khảo sát về kiến trúc
nghệ thuật, luật tục cũng như các lễ thức trong đời sống cộng đồng Ê đê. Tài
liệu này có dành vài trang điểm qua vài nét về sử thi và truyện cổ. Ở đây
truyện cổ Ê đê được xem xét như một bộ phận cấu thành của văn hóa dân gian
Ê đê và được phân loại thành ba bộ phận: truyền thuyết, truyện cổ tích và


truyện ngụ ngôn. Thể loại thần thoại không thấy được nói đến. Điều này đặt
ra cho chúng tôi một nghi vấn về vấn đề phân loại. Bởi lẽ thần thoại là hình
thức nghệ thuật ra đời đầu tiên của loài người. Một dân tộc có bề dày văn hóa,
có một đời sống tinh thần gắn chặt với tín ngưỡng vạn vật hữu linh như dân
tộc Ê đê chắc hẳn phải tồn tại những câu chuyện thần thoại ở một số lượng

nào đó.
Thứ hai là công trình Văn học dân gian Ê đê, Mơ nông, tác giả Trương
Bi đã khai thác những vấn đề cơ bản của văn học dân gian Ê đê. Bên cạnh sử
thi, lời nói vần, truyện cổ Ê đê được dành khá nhiều trang viết và được trình
bày theo sự phân loại của tác giả. Theo Trương Bi, truyện cổ Ê đê chỉ có hai
tiểu loại là thần thoại và truyện cổ tích. Như vậy, theo tác giả này, truyện cổ Ê
đê không xuất hiện thể loại truyền thuyết.
Thứ ba là bài viết Một vài đặc điểm của thần thoại Ê đê của tác giả
Ngọc Anh. Tác giả chỉ đề cập đến nhóm truyện thần thoại trong truyện cổ Ê
đê. Theo tác giả, người Ê đê có một mảng truyện thần thoại rất phong phú và
đã tiến hành phân chia tiểu loại trong thần thoại thành các nhánh nhỏ trên cơ
sở nội dung phản ánh của thần thoại: thần thoại giải thích các hiện tượng tự
nhiên, thần thoại phản ánh tinh thần đấu tranh chinh phục thiên nhiên, thần
thoại phản ánh đời sống xã hội.
Thứ tư là bài viết Clay đưm của người Ê đê, tác giả Đỗ Hồng Kì đã khẳng
định giá trị của truyện cổ dân gian Ê đê nói chung qua việc đánh giá vắn tắt về
nội dung và nghệ thuật của truyện. Tác giả dẫn ra ba thể loại trong truyện cổ
Ê đê để minh họa cho những luận điểm của mình. Đó là thể loại truyền thuyết,
truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn. Ngoài ra, bài viết này không đề cập đến
vấn đề phân loại.
Từ những công trình trên có thể thấy, truyện cổ Ê đê còn nhiều điểm
thuộc về vấn đề phân loại chưa có sự nhất quán, đã được quan tâm đánh giá


nhưng chưa được nghiên cứu sâu. Điều đó cho thấy vấn đề phân loại truyện
cổ Ê đê cũng có nhiều sự khác biệt với nhiều quan điểm phân loại khác nhau.
Đây chính là lí do để chúng tôi tiến hành khảo sát trong đề tài luận văn này.
4. Phạm vi đề tài
Căn cứ vào nhiệm vụ khoa học của luận văn, chúng tôi tiến hành khảo
sát toàn bộ truyện cổ dân gian Ê đê đã được xuất bản. Những văn bản truyện

có được trong quá trình điền dã sưu tầm chỉ mang tính chất tham khảo. Chúng
tôi chỉ tập hợp những văn bản truyện của người Ê đê ở địa bàn tỉnh Đăk Lăk
để phục vụ cho công việc nghiên cứu đồng thời chú ý xem xét truyện cổ Ê đê
trong mối quan hệ gắn liền với đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Ê đê ở
tỉnh Đăk Lăk. Do chưa đủ tài liệu và điều kiện cần thiết, chúng tôi mới chỉ
dừng ở việc phân loại và nghiên cứu theo cốt truyện, nhân vật và mô tip.
Theo đó, chúng tôi tiến hành thống kê và phân loại, chỉ ra những đặc
điểm của truyện cổ Ê đê ở từng thể loại. Việc thống kê mô tip cũng chỉ giới
hạn ở những thể loại mà chúng tôi thấy ổn định về phong cách thể loại .
Những thể loại nào mờ nhạt, chúng tôi chỉ dừng ở việc đánh giá về đề tài và
nêu một số suy nghĩ về hiện tượng của nó.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, miêu tả
Sau khi tập hợp văn bản truyện, chúng tôi thống kê các tác phẩm theo
số liệu cụ thể, miêu tả đề tài, kết cấu và phân chia các mô tip.
5.2. Phương pháp phân tích, so sánh
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích
để tìm hiểu đề tài, cấu tạo cốt truyện. Trong chừng mực chúng tôi có tiến
hành đối chiếu giữa truyện cổ Ê đê với truyện của dân tộc Kinh và một số dân
tộc cùng cư trú trên địa bàn Tây Nguyên.
5.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành


Chúng tôi có kết hợp tìm hiểu thể loại trên góc độ dân tộc học để hỗ trợ
cho việc khảo sát truyện cổ.
5.4. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa
Chúng tôi tiến hành phân loại những tác phẩm đã tập hợp được, lựa
chọn tác phẩm theo tiêu chí đã đặt ra và sắp xếp chúng vào từng mảng truyện,
nhóm truyện, nhóm mô típ để nhận diện được bản chất và đặc điểm thể loại
của chúng.

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Thực hiện đề tài này, luận văn sẽ xác lập được một hệ thống truyện cổ
dân gian đã được sưu tầm từ trước đến nay. Hệ thống tư liệu này được xác lập
theo quan niệm của người viết, mong rằng có thể trở thành tư liệu tham khảo
cho những người có nhu cầu nghiên cứu sâu hơn.
Kế thừa có chọn lọc công trình của người đi trước, chúng tôi mong
rằng luận văn sẽ xây dựng được diện mạo đầy đủ và góp một cách nhìn mới
mẻ, khoa học về vấn đề phân loại truyện cổ Ê đê. Từ công trình này, chúng tôi
hi vọng tạo thêm một điểm nhấn trong bức tranh tổng thể về văn hóa tộc
người Ê đê.
7. Kết cấu của luận văn
Theo nhiệm vụ đặt ra, ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có ba chương tập trung vào các vấn
đề sau:
- Chương 1 : Tổng quan về dân tộc Ê đê và vấn đề phân loại truyện cổ Ê đê
- Chương 2 : Thần thoại và truyền thuyết
- Chương 3 : Truyện cổ tích


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ VÀ VẤN ĐỀ
PHÂN LOẠI TRUYỆN CỔ Ê ĐÊ
1.1. Vài nét về dân tộc Ê đê
1.1.1. Địa bàn cư trú và tổ chức xã hội
Người Ê Đê hay Đêgar, còn có các tên gọi khác là Anăk Ea Ðê, Ra Ðê
(hay Rhađê), Êgar, là tộc người có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo,
ngữ hệ có dân số khá đông trong khu vực Đông Nam Á. Tùy theo vùng cư trú,
người Ê đê vẫn có những nét khác biệt ít nhiều về phương ngữ, sinh hoạt văn
hóa, tạo nên các nhóm địa phương khác nhau như nhóm Kpă, Atham, Mdthur,
Ktul, Bih.
Tỉnh Đăk Lăk là địa bàn sinh sống của 40 dân tộc thiểu số khác nhau.

Theo số liệu điều tra của Ban dân tộc tỉnh Đăk Lăk, người Ê đê ở Đăk Lăk
vào tháng 12/2003 là 271.111 người. Đồng bào Ê đê sống tập trung ở vùng
trung tâm Đăk Lăk – thành phố Buôn Mê Thuột và các huyện Krông Pach,
Krông Buk, Easup, Mdrah. Ngoài ra còn ở một vài tỉnh lân cận như phía Nam
tỉnh Gia Lai, phía Tây Khánh Hoà, Phú Yên. Người Ê đê có quan hệ gần gũi
với các dân tộc láng giềng cùng chung một nguồn gốc Mã lai – Đa đảo như
Chăm, Gia rai, Churu, Raglai và dân tộc Mnông cùng sinh sống trên cao
nguyên Đăk Lăk. Trong đó mối quan hệ với đồng bào Giarai, Mnông có thể
xem là gần gũi hơn cả, nhất là trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Một số
trường ca, truyện cổ phổ biến của người Ê đê cũng thấy ở người Giarai,
Mnông do quá trình cộng cư tương tác văn hóa.
Tổ chức xã hội của người Ê đê theo chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ là
người làm chủ trong gia đình, con cái mang họ mẹ, con trai không có quyền
được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú bên nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ


không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái
mình và khi chết thì được mang về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ
đẻ.
Người Ê đê lấy buôn làm đơn vị tổ chức xã hội cơ bản tương đương với
khái niệm làng của người Việt. Kết cấu buôn truyền thống là các gia đình lớn
mẫu hệ và một số gia đình nhỏ, các gia đình trong buôn đều có quan hệ hữu
cơ với nhau hoặc cùng thân tộc hoặc cùng huyết thống trong quan hệ hôn
nhân.
Buôn là không gian tụ cư của nhiều ngôi nhà dài, quy mô lớn nhỏ của
buôn phụ thuộc vào số gia đình mẫu hệ sống trong buôn. Buôn nhỏ có ít nhất
từ 20 đến 40 ngôi nhà, buôn lớn khoảng từ 50 đến 100 ngôi nhà. Mỗi buôn có
một người đứng đầu gọi là khua buôn. Khua buôn là người được quyền tổ
chức cúng bến nước (pô tuh pin êa) hằng năm. Trước đây, khi có dịch bệnh
hoặc một tai họa nào đó xảy ra cho buôn làng, người Ê đê lại chọn một địa thế

mới để dựng buôn mới. Số lượng các gia đình mẫu hệ này phải có giới hạn để
thuận tiện cho những lần di chuyển. Hầu hết các buôn ngày nay đều trải qua
nhiều lần xây dựng lại do nhiều nguyên nhân nên hình thức tổ chức và qui mô
của buôn của buôn có những đổi thay tùy theo từng thời kì. Ngày nay, với sự
phát triển của kinh tế xã hội, cơ cấu tổ chức buôn của người Ê đê có những
đổi thay. Nhiều buôn Ê đê có khuynh hướng định canh định cư nên số gia
đình nhỏ mẫu hệ trong buôn có thể nhiều hơn. Buôn của người Ê đê thường
được xây dựng gần các trục lộ chính theo hướng Bắc Nam trên những địa thế
tương đối bằng phẳng cao ráo, gần nguồn nước, thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Bộ máy điều hành buôn gồm có khua buôn (chủ bến nước), pô phat
kđi (xử kiện), pô iêô yang (cúng thần). Các thành viên này hỗ trợ khua buôn
điều hành tổ chức xã hội theo từng trọng trách của mình. Quan hệ giữa khua
buôn và các thành viên trong buôn là quan hệ hai chiều, khua buôn phải là


người công minh, chính trực, bình đẳng và dân chủ. Khi quy định một việc hệ
trọng liên quan đến quyền lợi của cộng đồng, khua buôn đều phải thông qua ý
kiến dân chủ của buôn theo luật tục. Vai trò của khua buôn trong xã hội Ê đê
sẽ càng được nâng lên thông qua uy tín của gia đình phía vợ. Có thể nói chức
vụ khua buôn thuộc về dòng nữ, tức là thuộc về gia đình vợ, còn khua buôn
chỉ là người đại diện gia đình điều hành công việc của buôn. Thông qua vai
trò và quyền lực của khua buôn, có thể nói rằng đằng sau người khua buôn
chính là sự điều hành của người phụ nữ của buôn làng. Người phụ nữ Ê đê là
người có vai trò trực tiếp đối với gia đình mẫu hệ đồng thời họ có vai trò gián
tiếp đối với thiết chế tổ chức xã hội.
1.1.2. Những biểu hiện về sắc thái văn hóa
Như đã nói, trong số những dân tộc định cư lâu đời ở Đăk Lăk, dân tộc
Ê đê có số dân đông nhất, có nền văn hóa giàu bản sắc truyền thống. Đời sống
của người Ê đê gắn bó mật thiết với núi rừng. Buôn làng của họ nằm giữa núi
rừng, tồn tại giữa thiên nhiên hùng vĩ. Trong xã hội truyền thống của họ, từ

nhà cửa đến chuyện ăn mặc, vui chơi, lễ hội cho đến khi trở về cát bụi cũng
không tách khỏi núi rừng. Rừng vì vậy là mẫu số chung của văn hóa Ê đê.
Nói về bản sắc văn hóa của dân tộc Ê đê, có thể nhận định đó là nền
văn hóa mang đậm tính chất mẫu hệ. Bước vào các buôn làng của người Ê đê
sinh sống, người ta sẽ ấn tượng ngay về những ngôi nhà dài có khi phải đến
cả trăm mét. Đặc biệt nhà dài của họ có hình dáng giống chiếc thuyền mang
đậm hình ảnh ông bà tổ tiên ở vùng hải đảo khi xưa đã lênh đênh trên biển cả
để tìm đất sống. Ngôi nhà dài đã được các sử thi ca ngợi: dài như tiếng chiêng
ngân, dài bằng một hơi ngựa chạy, dài đến nỗi con chim bay mỏi cánh cũng
không hết… Trong những ngôi nhà dài đó là cả đời sống của một gia đình
mẫu hệ. Những thành viên sống trong nhà dài gồm có hai vợ chồng cùng với
con cháu ruột và con của chị em gái trong nhà, cùng với những người đàn ông


(anh hoặc em trai) chưa vợ hoặc li dị vợ, và cả những người là con nuôi.
Người làm chủ căn nhà này là người phụ nữ, không phải người đàn ông. Bà
chủ nhà được xem như bà tổ của dòng họ (còn gọi là “nồi cơm cái” hay “nồi
cơm mẹ”). Ngôi nhà dài sẽ là nơi ở của tất cả các thành viên vốn là hậu duệ
của bà tổ. Bà chủ nhà cũng như bao người phụ nữ bình thường khác, làm
công việc nội trợ, trông coi con cháu… nhưng lại có trách nhiệm và uy quyền
khá lớn. Bà cùng với người chồng có bổn phận giảng giải và dạy bảo cho con
cháu về phong tục tập quán của dân tộc mình. Bà điều hành công việc trong
gia đình như quản lí của cải, phân chia tài sản. Trong gia đình hoặc dòng họ,
nếu cần quyết định một việc trọng đại nào đó như mua bán, cưới hỏi, nếu
không thông qua ý kiến của nữ chủ nhà thì không được phép thực hiện. Giả sử
người con trai của nữ chủ nhà muốn kết hôn, nếu chỉ có những người anh em
trai trong gia đình đồng ý mà không có sự chấp thuận của bà và các chị em
gái trong nhà, đám cưới sẽ không được tổ chức. Khi làm lễ cúng trong gia
đình, bà chủ nhà là người đầu tiên cầm cần rượu rồi đến những người phụ nữ
trong dòng họ rồi sau cùng mới đến lượt những người anh em trai của bà. Và

trong các nghi lễ nông nghiệp, người phụ nữ làm chủ dòng họ cũng là người
thực hiện các thao tác như cầm cần rót rượu, mặc dù người đàn ông là người
tổ chức các nghi lễ đó. Khi bà chủ nhà đã già yếu hoặc qua đời, vai trò “nồi
cơm cái” lại được truyền cho người chị gái cả trong gia đình. Và người chị gái
cả này cũng đóng vai trò như một người mẹ trong gia đình. Và nếu người chị
gái cả này là một bà góa đã già thì người con gái cả của bà sẽ thay mặt bà giữ
quyền người mẹ. Cách tổ chức sinh hoạt cũng như cấu trúc của gia đình Ê đê
trong ngôi nhà sàn đã nói lên một cách tổng thể về sự chi phối của dòng nữ
trong gia đình cũng như trong cộng đồng.
Trong lĩnh vực hôn nhân, người phụ nữ cũng là người chủ động. Sau đám
cưới, người đàn ông sẽ về cư trú bên gia đình nhà vợ. Người Ê đê ngày trước


có một tập tục khá độc đáo là tục nối dây (chuê nuê). Tập tục hôn nhân này
nhằm gìn giữ sự liên minh giữa các dòng họ và để bảo vệ tài sản phía dòng họ
nữ. Cụ thể là khi vợ chết, chồng có thể lấy em vợ hay chị vợ. Còn khi người
chồng chết, người vợ sẽ lấy anh trai hoặc em trai chồng… Ngày nay thì tập
tục này không còn nữa.
Về tín ngưỡng, người Ê đê theo tín ngưỡng đa thần. Họ quan niệm mọi
vật đều có yang (hồn). Thờ cúng là một hoạt động chi phối sâu sắc đời sống
của người Ê đê. Họ có hai hệ thống nghi lễ chính: nghi lễ vòng đời người và
nghi lễ nông nghiệp. Nghi lễ vòng đời người gồm có lễ cầu sinh nở dễ dàng,
đặt tên, cầu chúc sức khỏe…Nghi lễ nông nghiệp gồm có lễ tìm đất, cúng
thần gió, cúng cào cỏ, trỉa lúa, cầu mưa, mừng lúa mới… Các nghi lễ nông
nghiệp xuất hiện đa dạng không chỉ để thỏa mãn đời sống tinh thần của cộng
đồng mà còn là sự thể hiện ý thức trân trọng của người Ê đê đối với tài
nguyên đất, nước và rừng. Lễ hội là hoạt động văn hóa thường thấy ở dân tộc
Ê đê. Họ có nhiều lễ hội trong đó lễ bỏ mả có thể xem là lễ hội độc đáo nhất.
Hầu hết các lễ hội của người Ê đê không thể thiếu một nhạc cụ quan trọng
chính là cồng chiêng. Cồng chiêng không chỉ là một nhạc cụ truyền thống của

người Ê đê. Trong quan niệm của họ, cồng chiêng chính là một phương tiện
thiêng liêng để con người giao tiếp với thần linh. Âm thanh cồng chiêng gắn
bó với mỗi người Ê đê từ lúc chào đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Ngoài
ra người Ê đê còn có một loạt các nhạc cụ phục vụ cho các nghi lễ trong tang
ma như kèn đing năm, đing buôt, đing tuut… Các loại nhạc cụ này cũng phản
ánh đời sống tinh thần của dân tộc Ê đê.
Trong quan niệm cổ truyền, người Ê đê cho rằng vạn vật xung quanh
con người đều có hồn vía (yang) như núi, sông, cây cỏ, chiêng, ché… Thậm
chí giọt sương, hòn sỏi cũng có yang. Riêng đối với con người, yang được gọi
là Mngăt, thường quen gọi là hồn. Hồn quyết định sự tồn tại của thân xác. Khi


hồn đau thì thân thể cũng bị đau. Các yang của đồ vậy cũng như con người,
có yang tốt yang xấu, có yang hữu ích mà cũng có yang phá hại. Nó có thể vui
mà cũng có thể buồn, có thể mạnh mà cũng có thể yếu. Con người có thể nghe
tiếng nói của vật, nhất là vật thiêng để hỏi ý kiến của chúng qua những giấc
mơ. Khi chạm đến các vật, để cho chúng đồng tình, người ta thường hỏi han,
vỗ về các vật. Chẳng hạn trước khi chặt cây thì khấn. Và trước khi đào ché
rượu lên để uống thì bảo với ché : “Tôi lấy bà lên không phải là để làm việc
này việc nọ mà để tiếp khách quý, để cúng thần”. Quan niệm các vật có
“yang” dẫn đến việc đặt tên riêng cho các vật quý như chiêng, ché. Cũng từ
quan niệm đó mà người ta có sự chăm chút, tô điểm cho các vật. Trong các lễ
cúng quan trọng, người ta đeo các chuỗi hạt cho các ché quý. Các đồ vật vừa
được chế tạo cũng được phong cho một “yang”. Khi đồ vật đó ra đời cũng có
nghĩa là nó đã có hồn vía.Vì vậy cho dù là sử dụng bất kì đề vật gì, con người
cũng phải biết quý trọng và sử dụng một cách đúng đắn. Chẳng hạn như ngôi
nhà dài của người Ê đê, khi mới làm xong nó đã có yang vì bản thân nó được
làm bằng gỗ, mà gỗ dưới dạng cây cối trong rừng là nơi trú ngụ của các
thần… Quan niệm mọi vật đều có linh hồn đã khiến cho cuộc sống của người
Ê đê có một sự giao hòa rất tinh tế với vạn vật xung quanh.

Tóm lại, nói về bản sắc văn hóa của dân tộc Ê đê, chúng tôi tập trung
chú ý mấy đặc điểm: Thứ nhất, nguyên tắc mẫu hệ chi phối sâu sắc cách tổ
chức buôn làng, gia đình cũng như quan hệ hôn nhân của người Ê đê. Thứ hai,
tổ chức buôn làng và các hoạt động lễ hội, tín ngưỡng cho thấy tính cộng
đồng biểu hiện rất rõ trong đời sống văn hóa của họ. Và thứ ba, tín ngưỡng
vạn vật hữu linh luôn thường trực trong tâm thức của cộng đồng Ê đê và đã
trở thành một niềm tin sâu sắc trong nhận thức và ứng xử của họ.
Tìm hiểu sơ lược những đặc điểm về tổ chức xã hội, về văn hóa của người
Ê đê, chúng tôi muốn tìm hiểu sự xuyên thấm của đời sống văn hóa trong các


thể loại của của truyện cổ Ê đê. Những ảnh hưởng của văn hóa mẫu hệ, tính
cộng đồng và tín ngưỡng vạn vật hữu linh được biểu hiện khá rõ nét trong hệ
thống các thể loại truyện cổ của người Ê đê mà chúng tôi sẽ khảo sát ở
chương sau.
1.2. Vấn đề phân loại truyện cổ dân gian Ê đê
1.2.1. Tình hình sưu tầm và phân loại
* Tình hình sưu tầm
Truyện cổ Ê đê đã sớm được sưu tầm từ năm 1985, được tuyển chọn và
in trong các tuyển tập sau đây:
- Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên do Đặng Nghiêm Vạn
sưu tầm, xuất bản năm 1985, tập 1, gồm có 31 truyện: Sự tích sông Krông
Buk, Truyền thuyết Krông Pa, Sự tích Biển Hồ, Sự tích hang A Đrênh, Vì sao
có hồ Lăk, Nấm Hồng và Nấm Đỏ, Sự tích con voi, Vì sao heo ăn cám chó ăn
cơm, Chỉ có ông thợ rèn phạt được tội khỉ, Tổ chim tồ rộc, Vượn trắng, Y
Đăm tai to, Rum Dú với gái nhà trời, H bia Ngo, Y Tơ Lông giết trăn tinh, Pơ
nan giết cọp, Anh em Pơrôngpha, Đăm Thí, Chàng Gơrăn Dơhông, Hơ Điêu
và Y Nhớt, Hơ Kung và Y Du, Nung Kuang và bác cháu chàng Rít, Anh em
chàng Rit, Đăm Ktỉa Truôi, Anh em chim cút, Cô gái đẹp và hạt gạo, Hồn lúa
và lão Mtao, Y Luăc, Gà và Chó, Khỉ và Rùa, Nhóm truyện về con thỏ tinh

ranh.
- Truyện cổ Ê đê do Y Điêng và Hoàng Thao tuyển chọn, xuất bản năm
1988, gồm có 16 truyện: Sự tích người Ê đê lên sống trên mặt đất, Hơ Kung
và Y Du, nàng Ngo và chàng Rit, Chàng Gơ răn Dơhông, Anh em chàng Rit,
Chàng Bun Lô và nàng Tac Ty, Đăm Kơtỉa Truôi, Bảy anh em trai và nàng A
Rế, Nung Kuang và bác cháu chàng Rit, Y Tăn và Y Măn, Chàng Cóc, Anh


em Kun Koi, Chàng rể Khỉ, Hồn lúa và lão chủ nô, Nhóm truyện về con thỏ
tinh ranh, Rùa và Khỉ.
- Truyện cổ Ê đê, tập 2, xuất bản năm 1997 do Trương Bi, Y Wơn tuyển
chọn, có 23 truyện: Sự tích các dân tộc, Sự tích hang A Đrênh, Sự tích bốn
mùa xuân hạ thu đông, Sự tích Hồ Lăk, Hai anh em Đăm Thí và Đăm Di,
Chàng Y Siêm, Chàng Y Rit và Khỉ bảy đầu, Lấy chồng heo, Sự tích cồng
chiêng, Sự tích kèn Đing Năm, Sự tích điệu múa tung khắc, Sự tích Drai
Hling, Sự tích Drai Sáp, Sự tích Krông Buk, Sự tích dòng Krông Hnăng, Sự
tích tượng nhà mồ, Sự tích Ea Hleo, Sự tích cây Knia, Sự tích con voi, Chuột
nâu và Y Rit, Cọp vật nhau với cái cối, Chàng Y Rit và con thỏ nâu, Sự tích
đảo Sing Gar Pour.
- Truyện cổ Tây Nguyên xuất bản năm 1999, do Đỗ Thiện và Ngọc Anh
tuyển chọn, có 3 truyện: Nạn hồng thủy, Hơ Kung và Y Du, H Bia Ngo và Y
Rit.
- Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 1, xuất bản năm 1999, tuyển tập
này có trích in 1 truyện cổ Ê đê : Thế giới thần linh
- Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, xuất bản năm 2000:
+ Ở tập 3 có tuyển chọn 2 truyện: Quả bầu vàng, Thế giới các thần.
+ Ở tập 14 có 5 truyện: Bác thợ săn lạc trong rừng, Con mèo khôn ngoan,
Bác Blông Bluê, Bác thợ săn và cô gái đười ươi, Cô gái đẹp và hạt gạo.
+ Ở tập 15 có 6 truyện : H Bia Yăk Yơng, Cả nhà Mtao biến thành khỉ, Sự
tích chiếc vòng ngày cưới, Chàng cá sấu, Chàng cơm cháy, Thần Rắn và cô

gái H Long.
+ Ở tập 16 có tuyển chọn 5 truyện: Truyền thuyết về nữ tù trưởng A Duôn H
Du, Sự tích kèn Đing buốt và kèn đinh năm, Thần Rồng và anh em nhà Y Rắc,
Y Rin, Cây kiếm của Thần Rồng, Sự tích đảo Singapor


- Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, xuất bản năm 2002, tập 2
có tuyển chọn 19 truyện: Sự tích hang A Đrênh, Sự tích Biển Hồ, Sự tích
dòng sông Krông Buk, Vì sao có hồ Lăk, Sự tích con voi, Tổ chim tồ rộc, Chỉ
có ông thợ rèn phạt được tội khỉ, Đăm Thí, Vượn trắng, Y Tơ lông giết trăn
tinh, Pơ nan giết cọp, Hơ Kung và Y Du, Nung Kuang và bác cháu chàng Rit,
Anh em chim cút, cô gái đẹp và hạt gạo, Hồn lúa và lão Mtao, Y Luăc, Gà và
chó, Khỉ và Rùa, Nhóm truyện về con thỏ tinh ranh.
- Trong công trình nghiên cứu dân tộc học Người Ê đê – Một xã hội mẫu
quyền, xuất bản năm 2004, tác giả Anne De Hautecloque – Howe có dẫn 4
truyện cổ Ê đê sưu tầm được: A Ma Mang, Y Kum, A Ma Sat, Chim xử kiện.
Ở Đăk Lăk, Sở văn hóa thông tin đã tổ chức sưu tầm truyện cổ trong các
buôn làng của người Ê đê, cho in rải rác trên tạp chí Văn hóa Đăk Lăk. và cho
xuất bản thành các tập truyện được lưu giữ ở Bảo tàng Đăk Lăk. Chúng tôi
liệt kê các tác phẩm cụ thể như sau:
- Tạp chí văn hóa Đăk Lăk Số 1 năm 2003 có in 2 truyện: Truyện Mẹ con
nàng H Bia và chú dê con, Chuột trắng.
- Tạp chí văn hóa Đăk Lăk Số 3 năm 2004 có in 3 truyện: Tục đặt tên, Quả
bầu vàng, Hồ Chư Lăm.
- Tạp chí văn hóa Đăk Lăk Số 1 năm 2005 có in 2 truyện: Gà đẻ trứng
vàng, Chàng Y Rit và lông gà thần.
- Tập truyện Quả bầu vàng, xuất bản năm 2002 do Trương Bi, Y Wơn sưu
tầm gồm có 14 truyện: Quả bầu vàng, Dũng sĩ diệt cọp, Cả nhà Mtao biến
thành khỉ, Sự tích điệu múa tung khắc, Y Do chữa bệnh cho Mtao, H Bia Plêô
và anh trai thủy thần, Y Kluch chém trăn thần, H Liu và H La, , Tháp Yang

Prong, Sự tích Buôn Ur, , Chàng Y Dú, Y Nan nuôi cá lóc, Chàng Y Ban.
- Tập truyện Sự tích hạt gạo, xuất bản năm 2003, do Trương Bi, Y Wơn sưu
tầm gồm có 7 truyện: Sự tích hạt gạo, Sự tích dòng sông Krông Hmlai, Sự


tích núi Mẹ bồng con, Sự tích núi Cư Mta, Đàn trâu nhà trời, Sự tích núi Mẹ
và con, Đá đẻ con, Thanh gươm thần.
- Tập truyện Bác thợ săn lạc trong rừng, xuất bản năm 2005 do Trương Bi,
Y Wơn sưu tầm gồm có 5 truyện : Ánh sáng và bóng tối, Hai chị em và con
quỷ Yăk Yơng, Bác thợ săn lạc trong rừng, Hbia Đung và Dăm Bhu, Bác
Blông Bluê.
- Truyện cổ Tây Nguyên, xuất bản năm 2006, do Trương Bi, Y Wơn tuyển
chọn gồm 13 truyện: Hạt dẻ thần kì, Sự tích các dân tộc, Con ếch Ea Đuk,
Cây kơpang và ngôn ngữ loài người, Đăm Thí, Đường lên mặt đất, Lấy trộm
lửa của trời, Con dê và loài người, Sự tích loài ong, Con voi bảy ngà, Sự tích
chiêng tre, Sự tích Cư Mta, Cây tông lông, Sự tích sông Sêrêpôk, Cây si trên
sông Sêrêpôk.
- Tập truyện Nữ tù trưởng A Duôn H Du, do Trương Bi, Y Wơn tuyển chọn
xuất bản năm 2007, gồm có 10 truyện: Y Luăc, Chàng cơm cháy, Y Yu, Y Ya,
Y Din lên mặt trăng, H wan lên mặt trời, Con kiến và con voi, Chàng Y Niăk,
chàng Yang Mda, Y Nan nuôi cá lóc, Anh chàng mắc nợ, Chàng nghèo tát
biển, Chàng Rit và voi bay, Lấy chồng trăn, Đàn trâu nhà trời, Chàng Y Ban,
Dòng họ Niê Mla, Rắn thần và Hơ Rit, Thằng bé lọ nồi, Y Tô cháu của trời,
cọp nuôi Y Rit
- Tập truyện Sự tích con voi trắng do Trương Bi, Y Wơn sưu tầm năm 2008
gồm có 6 truyện: Sự tích con voi trắng, Sự tích đảo Sing Gar Pour, Sự tích
chiếc vòng ngày cưới, Chàng cá sấu, Truyện H Bia Yăk Yơng, Đá đẻ con.
Thống kê những truyện đã được sưu tầm, số truyện cổ dân gian Ê đê mà
chúng tôi thu thập được là 135 truyện. Trong quá trình thực hiện luận văn,
chúng tôi cũng tiến hành công việc sưu tầm tại buôn Ea Khit (huyện Krông

Ana), buôn Niêng (huyện Buôn Đôn), buôn Ki (phường Thành Nhất ở Buôn
Mê Thuột) và buôn Bua (xã Hòa Xuân ở Buôn Mê Thuột). Số lượng văn bản


thu thập được là 10 bản kể, : Hơ Kung và Y Du, Nàng Plêô và anh trai thủy
thần, Lươn thần và cậu cháu chàng Rit, Lươn thần và Y Rit, Chàng Đăm Thí,
lấy chồng Trăn, Y But Sin, Hang A Đrênh, Chàng Y Tô, Nạn hồng thủy.
Những bản kể này chủ yếu là những dị bản của tài liệu công bố như đã nêu.
Nhưng chính những dị bản này đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong việc
giải mã những vấn đề về đời sống thực tế và vấn đề phân loại truyện cổ Ê đê.
Chúng tôi nhận thấy hiện nay và cả về sau, công việc sưu tầm sẽ gặp phải
nhiều khó khăn vì thế hệ những người còn ghi nhớ được truyện cổ đang dần
dần vắng bóng. Họ là những già làng, những bậc cao niên trong buôn làng.
Thời gian và tuổi tác làm mờ nhòa dần những kí ức của họ về truyện cổ và có
một thực tế là đời sống của đồng bào Ê đê đã chuyển biến mạnh mẽ, cuộc
sống hiện đại đã chi phối đến từng gia đình trong buôn. Họ không còn lưu giữ
được nguyên vẹn nếp sinh hoạt truyền thống. Truyện cổ không có không gian
văn hóa để lưu truyền, phổ biến. Dần dần người ta quên đi di sản truyện cổ
quí giá của dân tộc mình. Qua quá trình thực tế điền dã, chúng tôi nhận thấy
công việc sưu tầm truyện cổ Ê đê hiện nay chưa được quan tâm đúng mức.
Những tích truyện xưa của người Ê đê vẫn còn lưu giữ trong dân gian, đặc
biệt trong những buôn làng ở vùng sâu vùng xa. Nhưng không còn mấy ai lưu
tâm đến việc tìm kiếm và bảo tồn truyện cổ. Chúng tôi mong rằng trong thời
gian sắp tới có thể thực hiện được những chuyến sưu tầm tại những buôn làng
mà chúng tôi chưa có điều kiện đến thăm.
* Tình hình phân loại
Xem xét vốn truyện cổ đã tập hợp được cũng như những tài liệu phân
tích, đánh giá và phân loại truyện cổ Ê đê, chúng tôi nhận thấy tình hình phân
loại như sau:
Trong Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số (xuất bản năm 2000),

người sưu tầm tiến hành tuyển chọn 13 truyện cổ dân gian Ê đê vào tuyển tập


này và phân chia các truyện theo từng thể loại thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích. Chúng tôi liệt kê các truyện đã được xếp đặt theo từng tập:
- Thần thoại: Quả bầu vàng, Thế giới các thần (Tập 3)
- Truyện cổ tích loài vật : Bác thợ săn lạc trong rừng, Con mèo khôn ngoan
(Tập 14)
- Truyện cổ tích sinh hoạt : Bác Blông Bluê, Bác thợ săn và cô gái đười ươi,
Cô gái đẹp và hạt gạo (Tập 14)
- Truyện cổ tích thần kì: H Bia Yăk Yơng, Cả nhà Mtao biến thành khỉ, Sự
tích chiếc vòng ngày cưới, Chàng cá sấu, Chàng cơm cháy, Thần Rắn và cô
gái H Long. (Tập 15)
Ở công trình Văn hóa dân gian Ê đê, khi bàn về văn học dân gian Ê đê,
tác giả Ngô Đức Thịnh có dành vài trang đánh giá về truyện cổ Ê đê. Tác giả
đã đưa ra một cách xác định truyện cổ Ê đê với các thể loại cơ bản là truyền
thuyết, truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn. Tác giả chưa đưa ra một tiêu chí
nào làm cơ sở cho sự phân loại mà chỉ đơn thuần liệt kê các nhóm truyện, nêu
nội dung và lấy ví dụ một số truyện làm dẫn chứng. Theo tác giả:
Thứ nhất, truyền thuyết về tên núi tên sông có thể kể đến các truyện sau:
Hang A Đrênh, Sự tích dòng sông Krông Buk.
Thứ hai, truyện cổ tích có thể kể đến các truyện: Anh em chàng Rit, Đăm
Ktỉa Truôi, Chàng Cóc, Sự tích kèn đing năm, Nàng H Bia Ngo, Chàng nghèo
tát biển.
Thứ ba, truyện ngụ ngôn có thể kể đến các truyện: Thỏ và Hổ, Thỏ và Ốc,
Thỏ bán bà già cho Mtao làm vợ.
Như vậy, theo cách phân loại này, truyện cổ Ê đê không tồn tại thể loại
thần thoại. Chúng tôi không đồng ý với quan điểm này bởi lẽ qua khảo sát,
chúng tôi tìm được ít nhất hai văn bản truyện mang đậm màu sắc thần thoại,
truyện được tóm tắt như sau:



- Truyện Hạt dẻ thần kì kể về vị thần sáng tạo vũ trụ:
Thuở xưa, vũ trụ là một hạt dẻ to lớn vô cùng, có một vị thần khổng lồ
từ trong hạt dẻ đứng dậy, đội nửa hạt dẻ lên cao thành bầu trời, nửa còn lại
thần đạp xuống chân thành trái đất. Vị thần này dùng hai bàn tay đào đất đá
nặn ra loài người, cỏ cây muôn vật. Chỗ thần đào biến thành sông, dấu chân
thần biến thành đầm lầy. Thần vo tròn hai tảng đá ném lên trời thành mặt
trăng và mặt trời, xong việc thần biến đi đâu mất.
- Truyện Quả bầu vàng kể về nguồn gốc các dân tộc:
Buôn làng Ê đê đang sống yên vui bỗng bị mưa lũ nhấn chìm trong
biển nước, chỉ còn lại hai anh em Khốt và Kho sống sót, hai người ngồi trong
một trái bầu để lánh nạn. Trái bầu đưa họ đến một vùng đất lạ, họ tìm một cái
hang gần đó để trú ngụ. Hai anh em tìm được hạt bầu trong quả bầu, họ đem
gieo chúng trước cửa hang và thu hoạch được một quả bầu khổng lồ, họ chọc
thủng quả bầu và từ lỗ thủng đó có sáu mươi đôi nam nữ chui ra. Sáu mươi
đôi nam nữ chia nhau đi khắp mọi nơi sinh cơ lập nghiệp đó cũng chính là
nguồn gốc của các dân tộc ngày nay.
Trong bài viết Một vài đặc điểm của thần thoại Ê đê, tác giả Ngọc Anh
đã khẳng định về một bộ phận thần thoại rất phong phú của người Ê đê. Ngọc
Anh đã tiến hành phân chia các tiểu loại trong thần thoại thành các nhánh nhỏ
dựa trên nội dung phản ánh: thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên, thần
thoại phản ánh tinh thần đấu tranh chinh phục thiên nhiên, thần thoại phản
ánh đời sống xã hội. Trong quá trình mô tả thần thoại Ê đê, tác giả Ngọc Anh
có dẫn một số thần thoại để minh họa: Chuyện về Aê Diê, Kho Y Rit, Hơ Kung
và Y Du, Thế giới thần linh, Sự tích về đất trời, Hang A Đrênh.
Chúng tôi nhận thấy cách phân loại của tác giả Ngô Đức Thịnh xem ra
chưa hợp lí. Số lượng 11 văn bản truyện đưa ra ở các thể loại truyền thuyết,



truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn chưa thể làm toát lên cái nhìn tổng thể về bức
tranh truyện cổ dân gian của người Ê đê.
Ở công trình Văn học dân gian Ê đê, Mnông, tác giả Trương Bi phân loại
truyện cổ Ê đê chỉ với hai thể loại là thần thoại và truyện cổ tích. Chúng tôi
cũng không thấy tác giả đưa ra một tiêu chí cụ thể nào để phân loại. Như vậy,
theo Trương Bi, truyện cổ Ê đê không tồn tại thể loại truyền thuyết. Quan
điểm này hoàn toàn trái ngược với tác giả Ngô Đức Thịnh. Trong khi đó, ở
bài viết Clay đưm của người Ê đê, tác giả Đỗ Hồng Kì cũng khẳng định bên
cạnh truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn, truyền thuyết là một bộ phận khá
quan trọng của truyện cổ dân gian Ê đê và dẫn ra 2 truyện làm dẫn chứng:
Hang A Đrênh, Chàng Đăm Thí.
Trong số các tài liệu có đề cập đến vấn đề phân loại, tài liệu Văn học dân
gian Ê đê, Mnông có thể xem là qui mô hơn cả. Tác giả Trương Bi tập hợp
48 truyện cổ dân gian Ê đê và phân loại thành các tiểu loại.
Thứ nhất, thể loại thần thoại với các tiểu loại:
- Thần thoại giải thích nguồn gốc của vũ trụ (1 truyện): Hạt dẻ thần kì
- Thần thoại giải thích các địa danh (8 truyện): Vì sao có hồ Lăk, Truyền
thuyết về dòng sông Krông Pa, Sự tích Drai Hling, Sự tích Drai Sáp, Truyền
thuyết về dòng sông Krông Buk, Sự tích suối Ea Hleo, Sự tích dòng sông
Krông Hnăng, Hang A Đrênh.
- Thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên (5 truyện): Truyện ánh sáng và
bóng tối, Hơ Kung và Y Du, Sự tích bốn mùa xuân hạ thu đông, Nấm Hồng
Nấm Đỏ, Những người đầu tiên.
- Thần thoại giải thích về nguồn gốc muôn loài (4 truyện): Người hóa voi, Sự
tích cây kơ nia, Gà và Chó, Hồn lúa và lão chủ nô.
- Thần thoại giải thích về nguồn gốc tộc người (4 truyện): Quả bầu vàng,
Hang A đrênh, Sự tích người Ê đê lên mặt đất, Những người đầu tiên.


- Thần thoại giải thích các hiện tượng khác (7 truyện): Sự tích tượng nhà mồ,

Sự tích kèn đing năm, Hai anh em Đăm Thí và Đăm Di, Tục để cơm nguội, Sự
tích điệu múa tung khắc, Đá đẻ con, Thanh gươm thần.
Thứ hai, thể loại truyện cổ tích với các tiểu loại:
- Truyện về nhân vật dũng sĩ (3 truyện): Chàng Gơ răn Dơ hông, Bảy anh em
trai và nàng A Rế, Y Kluch chém trăn thần.
- Truyện về các nhân vật có địa vị thấp kém trong xã hội (8 truyện): Đăm Ktỉa
Truôi, Anh em chàng Rit, Y Nan và voi bay, Nung Kuang và bác cháu chàng
Rit, Rum Dú và gái nhà trời, Chàng Y Rit và con thỏ nâu, Anh em Kun Koi,
Chàng nghèo tát biển.
- Truyện về nhân vật xấu xí mà có tài (3 truyện): Chàng rể khỉ, Thằng bé lọ
nồi, Y Đăm tai to.
- Truyện về loài vật (5 truyện) : Thỏ và hổ, Thỏ và ốc, Thỏ và lão Mtao bụng
to, Thỏ chọn bạn đổi công, Thỏ cọp và cái cối.
Như vậy, việc phân loại truyện cổ dân gian Ê đê cho đến nay vẫn chưa đi
đến một sự thống nhất và thiếu một tiêu chí rõ ràng để khu biệt thể loại. Trước
di sản văn học dân gian có giá trị của đồng bào Ê đê, trước tình hình nhận
diện truyện cổ Ê đê còn nhiều nan giải, chúng tôi mạnh dạn vận dụng những
tiêu chí khoa học của các nhà nghiên cứu để tiến hành phân chia thể loại
truyện cổ Ê đê một cách thật đầy đủ và chính xác.
1.2.2. Đề xuất tiêu chí phân loại
Việc phân loại truyện cổ dân gian sẽ gặp rất nhiều trở ngại nếu chỉ
phân loại một cách cảm tính mà không dựa trên những tiêu chí mang tính
khoa học. Và đôi khi phải kết hợp vận dụng nhiều tiêu chí để soi chiếu, xác
định loại thể của một đối tượng, nhận ra sự giao thoa thể loại giữa chúng.
Prop có ý kiến cho rằng “Đặc trưng của thể loại thể hiện ở chỗ thực tại được
phản ánh là thực tại nào. Thực tại ấy được miêu tả bằng những biện pháp


×