Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Khảo sát truyện kể dân gian tày nùng xứ lạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.72 KB, 132 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







NGUYỄN THỊ TÂN HƢƠNG




KHẢO SÁT TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY- NÙNG XỨ LẠNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN











THÁI NGUYÊN, NĂM 2012




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ TÂN HƢƠNG




KHẢO SÁT TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY- NÙNG XỨ LẠNG



CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Huế






THÁI NGUYÊN, NĂM 2012



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Huế-
người thầy đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Em xin cảm ơn quý thầy, cô tổ Văn học dân gian, Ban chủ nhiệm Khoa

Ngữ văn, Bộ phận quản lý Khoa học- Sau đại học trường Đại học sư phạm
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các cô chú, anh chị ở Thư viện tỉnh Lạng
Sơn, ở Phòng Văn hoá, thư viện huyện Bình Gia cùng những người dân Tày,
Nùng ở Bình Gia- Lạng Sơn đã nhiệt tình cung cấp những tư liệu quý báu để
giúp em hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục và Đào tạo Lạng Sơn,
trường THPT Bình Gia, bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia
đình đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho em trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy cô giáo đã đọc và chỉ rõ những
thành công cũng như hạn chế trong luận văn tốt nghiệp này.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2012
Tác giả

Nguyễn Thị Tân Hƣơng




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Nxb : Nhà xuất bản
KHXH : Khoa học xã hội
H : Hà Nội

TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
PGS : Phó giáo sư
TS : Tiến sĩ
VHTT&DL : Văn hoá thể thao và du lịch
[X; Y] : Tài liệu tham khảo
X : Số thứ tự tài liệu tham khảo
Y : Trang tài liệu tham khảo


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố ở bất kì công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Tân Hƣơng





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
MỤC LỤC
Trang

Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 10
Chƣơng 1. VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI XỨ LẠNG VỚI SỰ HÌNH
THÀNH, TỒN TẠI VÀ LƢU TRUYỀN TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY - NÙNG 10
1.1. Vùng đất, con người xứ Lạng 10
1.1.1. Khái niệm xứ Lạng 10
1.1.2. Về điều kiện tự nhiên 12
1.1.3. Về điều kiện xã hội và lịch sử tộc người Tày- Nùng xứ Lạng 15
1.2. Văn hóa, văn học dân gian dân tộc Tày –Nùng xứ Lạng 26
1.2.1. Văn hóa, văn học dân gian xứ Lạng nói chung 26
1.2.2. Văn hóa, văn học dân gian dân tộc Tày – Nùng xứ Lạng: 28
Chƣơng 2. CÁC THỂ LOẠI TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY – NÙNG
XỨ LẠNG 34
2.1. Khái niệm truyện kể dân gian 34
2.2. Hiện trạng nguồn truyện kể Tày- Nùng xứ Lạng 34
2.3. Phân loại 35
2.4. Một số thể loại truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng 39
2.4.1. Thần thoại Tày- Nùng xứ Lạng 40
2.4.2. Truyền thuyết Tày- Nùng xứ Lạng 45
2.4.3. Truyện cổ tích Tày- Nùng xứ Lạng 50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY - NÙNG XỨ

LẠNG TRÊN MỘT SỐ BÌNH DIỆN 65
3.1. Về nhân vật, môtíp 65
3.1.1. Nhân vật 65
3.1.2. Một số môtif trong truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng 79
3.2. Sự đồng dạng và tính dị biệt trong truyện kể dân gian Tày, Nùng xứ Lạng 87
3.2.1. Sự đồng dạng 87
3.2.2. Tính dị biệt 92
3.3. Truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng với tín ngưỡng và lễ hội 97
3.3.1. Tín ngưỡng tiêu biểu. 99
3.3.2. Một số lễ hội liên quan. 102
PHẦN KẾT LUẬN 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do xã hội
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Bên cạnh tộc người Kinh(Việt) là
tộc người đa số, nước ta còn có năm mươi ba dân tộc anh em khác cùng
chung sống, gắn bó như Tày, H’Mông, Dao, Thái Do vậy, Việt Nam có
nhiều ngữ hệ và bản sắc văn hoá tộc người khác nhau. Trải qua nhiều thế kỷ,
cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống, kiên cường, ý chí để giữ
gìn từng thước đất của quê hương, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc yêu dấu. Trong
quá trình đó, Việt Nam đã hình thành một cộng đồng văn hoá vừa thống nhất,
vừa đa dạng. Mỗi một tộc người anh em lại có nghĩa vụ giữ gìn và phát triển bản

sắc, phát huy phong tục tập quán, vốn văn nghệ truyền thống của tộc người mình
Nằm trong dải đất địa đầu của Tổ quốc Việt Nam, xứ Lạng (Lạng Sơn)
là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em và cũng là vùng đất có người Tày –
Nùng cư trú đông nhất cả nước. Trong cộng đồng các tộc người Việt Nam,
người Tày, Nùng có số dân đông thứ hai sau người Việt (Kinh). Nhiều nghiên
cứu khoa học từ trước đến nay đã khẳng định người Tày- Nùng có vốn văn
hóa văn học dân gian chỉ phát triển sau người Kinh (Việt).
Chính vì vậy việc tìm hiểu văn học dân gian xứ Lạng đặc biệt là văn học
dân gian của người Tày- Nùng chính là để tăng cường sự hiểu biết về vốn văn
hóa dân gian của hai tộc người này, đồng thời để tăng cường sự tin cậy, đoàn
kết giữa các tộc người anh em là một việc có ý nghĩa lớn lao và dài lâu đối
với sự nghiệp xây dựng một đất nước Việt Nam giàu đẹp và văn minh, một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn thế, xứ Lạng
không chỉ là vùng đất giàu giá trị văn hóa mà còn là vùng đất cửa ngõ của
giao thương quốc tế quan trọng, văn hóa thương nhân đang dần lấn át đi văn
hóa truyền thống. Những giá trị cội nguồn đang dần bị mất đi bởi cuộc sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
mưu sinh cơm áo gạo tiền. Vì vậy, đang đặt ra những vấn đề cấp thiết và
mang tính thời sự trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Việc khai
thác, giữ gìn và phát huy nguồn mạch văn hóa dân tộc- văn học dân gian của
xứ Lạng - chính là một việc làm thiết thực để giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc Việt Nam.
1.2. Lý do nghệ thuật
1.2.1. Trải qua nhiều thế kỷ, trong quá trình lao động sản xuất và đấu
tranh xã hội, dân tộc Tày, Nùng nói chung và người Tày, Nùng ở xứ Lạng nói
riêng đã xây dựng cho mình một kho tàng văn học dân gian truyền thống
mang đậm bản sắc văn hóa tộc người, nhưng cũng không phá vỡ tính thống

nhất chung của văn hóa Việt Nam. Nói cách khác văn học dân gian của tộc
người Tày –Nùng ở xứ Lạng với những nét đặc sắc riêng đã góp phần làm nên
bộ mặt phong phú, đa dạng nhưng thống nhất chung của văn học dân gian
Việt Nam.
1.2.2. Truyện kể dân gian Việt Nam nói chung và truyện kể dân gian các
dân tộc thiểu số nói riêng đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học xã hội và nhân văn trong đó có khoa học văn học dân gian. Việc nghiên
cứu truyện kể nói chung và truyện kể xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng nói
riêng có thể nói là một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng.
1.2.3. Việc chú trọng khai thác những di sản văn học của các dân tộc ít
người cùng với nhiệm vụ nghiên cứu, khai thác những di sản văn học quý báu
của dân tộc Kinh chính là việc góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng
nền văn hóa mới Xã hội chủ nghĩa ở một quốc gia đa dân tộc với nền văn hóa
“Thống nhất trong đa dạng”.
Xứ Lạng là một trong những cái nôi của văn hoá dân gian Tày, Nùng. Ở
đó hội tụ đầy đủ các loại hình văn học dân gian trong đó có truyện kể dân gian
là một di sản vô cùng phong phú, quý giá. Nó được xem là thể loại ổn định,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
phản ánh rõ nét đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và bản sắc con
người nơi đây. Nó vừa mang tính loại hình vừa mang tính đặc thù chưa từng
được nghiên cứu một cách hệ thống .
Hơn nữa hiện nay việc nghiên cứu học tập văn học dân gian địa
phương vào chương trình phổ thông vẫn chưa được chú trọng. Là giáo viên
THPT, tôi nghĩ nghiên cứu về truyện kể dân gian xứ Lạng của dân tộc Tày-
Nùng là một việc làm cần thiết để gìn giữ di sản phi vật thể của dân tộc Việt
Nam nói chung và của dân tộc Tày- Nùng ở xứ Lạng nói riêng.
Chính vì những lẽ trên và trên cơ sở tiếp tục kế thừa thành tựu của các

nhà nghiên cứu, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Khảo sát truyện kể dân
gian Tày- Nùng xứ Lạng với mong muốn đóng góp ý kiến của mình vào
công cuộc nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc ít người hiện nay đặc biệt
là thể loại truyện kể. Đồng thời cũng là người công tác và gắn bó với bà con
dân tộc Tày- Nùng một thời gian dài, tôi muốn góp tiếng nói tri ân của mình
với vùng đất, con người xứ Lạng. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng bài
giảng trong nhà trường và làm tài liệu cho những người quan tâm đến truyện cổ
Việt Nam nói chung và truyện kể xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện kể dân gian thuộc
loại hình tự sự bằng văn xuôi dân gian bao gồm các thể loại: Thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười và giai thoại. Theo
tài liệu mà chúng tôi thu thập được, việc sưu tầm và tìm hiểu thể loại truyện
cổ dân gian Việt Nam đã được các học giả quan tâm và tiến hành nghiên cứu
từ khá sớm.
Truyện cổ dân gian, hơn mọi thể loại khác có một sức hấp dẫn kì lạ và
vốn có một đời sống học thuật phong phú và sớm hơn rất nhiều so với các thể
loại khác của văn học dân gian.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
2.1. Trong công trình “ Tổng tập văn học dân gian người Việt” do GS.TS
Kiều Thu Hoạch chủ biên, các tác giả đã chỉ ra rằng “Truyện cổ dân gian Việt
Nam vốn được ghi chép, sưu tầm từ rất sớm trong các tác phẩm khởi đầu của
nền văn học như Báo cực truyện, Giao Chỉ Kí (Thế kỷ XII), Việt điện u linh
của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (Thế kỉ
XIV-XV); rồi những tập như Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Thiên Nam vân
lục (Nguyễn Hành), Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề), Truyền kì tân phả
(Đoàn Thị Điểm), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Tang thương ngẫu lục

(Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án)
Vào những thế kỷ sau như thế kỷ XIX và thời kỳ cận đại của thế kỷ
XX, việc sưu tầm, biên soạn truyện cổ dân gian ngày càng được nhiều người
chú trọng. Cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã có nhiều bộ sưu tập truyện cổ
ra đời do các văn sĩ có ý thức lưu tâm đến vốn văn học cổ truyền của nước
nhà đã ghi chép và xuất bản như Chuyện khôi hài (1882), Chuyện đời xưa
(1886) của Trương Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn (1880: tập 1, 1885: tập 2) của
Huỳnh Tịnh Của, Nam Hải dị nhân (1920) của Phan Kế Bính, Truyện cổ nước
Nam (1932-1934) của Nguyễn Văn Ngọc v. v
Từ sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt từ những năm 50 của thế kỷ XX,
vốn văn hóa dân gian nói chung và truyện cổ dân gian nói riêng lại càng được
coi trọng và việc sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu chúng được xem như những
hoạt động khoa học, một ngành khoa học độc lập, được nâng lên ở một cấp độ
mới. Kết quả của ngành nghiên cứu văn học dân gian và truyện cổ dân gian đã
đạt được là những kết quả khả quan, với một loạt công trình có tầm cỡ ra đời liên
tiếp như: Truyện cổ tích Việt Nam (1955) của Vũ Ngọc Phan, Lược khảo về thần
thoại Việt Nam (1956) của Nguyễn Đổng Chi, Lược thảo lịch sử văn học Việt
Nam (1957) của Nguyễn Đổng Chi, Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong v.v
2.2. Cùng với văn học dân gian của người Kinh, bộ phận văn học dân gian
của người Tày, Nùng- cư dân bản địa và là chủ thể ở vùng Đông Bắc (Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Bắc) với bản sắc riêng của một tộc người miền núi, đã góp phần làm nên bộ
mặt phong phú đa dạng của văn học dân gian Việt Nam Tuy nhiên, việc
nghiên cứu văn học dân gian Tày- Nùng đến thời điểm này vẫn còn nhiều
khoảng trống. Ngoài một số công trình sưu tầm và giới thiệu văn bản truyện
kể như Truyện kể Việt Bắc (1963), Truyện cổ Tày- Nùng (1974), Truyện cổ
các dân tộc ít người Việt Nam (1978), Truyện cổ Bắc Kạn (2000) thì các

công trình chuyên biệt về truyện kể dân gian Tày- Nùng lại có phần ít ỏi, chỉ
có vài ba công trình. Cụ thể như Sưu tập và khảo cứu truyện cổ Tày của hai
tác giả Vũ Anh Tuấn và Vi Hồng (tài liệu đánh máy 257 trang- Khoa ngữ văn
Đại học sư phạm Thái Nguyên). Tìm hiểu một cặp mẫu kể dân gian miền núi
dưới góc độ loại hình của tác giả Vũ Anh Tuấn (Tạp chí Văn học số 4- 1991),
Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số típ truyện kể dân gian Tày vùng Đông
Bắc Việt Nam của tác giả Vũ Anh Tuấn (Luận án PTS- 1991), Tìm hiểu quan
niệm về cái đẹp và nghệ thuật trong văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam của Hoàng Minh Lường (Luận văn Thạc sĩ Đại học sư phạm Hà Nội
1987-71 trang), Truyện thơ Nôm Tày- Đặc điểm nổi bật trong văn hóa dân
gian và văn hóa Tày của Hà Thị Bích Hiền (Luận văn Thạc sĩ Đại học sư
phạm Hà Nội 2000-98 trang). Hiện tượng vượt biển (Khảm Hải) trong đời
sống văn hóa dân gian Tày của Nguyễn Thị Nhin (Luận văn Thạc sĩ Đại học
sư phạm Hà Nội 2003- 100 trang), Khảo sát và so sánh một số típ truyện kể
dân gian Tày- Việt của Lương Anh Thiết (Luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm
Thái Nguyên 2003- 122 trang), Khảo sát những đặc điểm truyền thuyết của
người Tày ở Bắc Kạn của Mai Thu Thuỷ (Luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm
Hà Nội 2005- 100 trang)
2.3. Người Tày- Nùng là chủ thể văn hoá chính ở xứ Lạng. Văn hoá, văn
học dân gian của tộc người Tày- Nùng xứ Lạng là mảnh đất ẩn tàng những
“nguồn lợi” quý giá đòi hỏi phải có sự nhọc công tìm hiểu. Nghiên cứu về văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
học dân gian đặc biệt là khảo sát diện mạo chính của truyện kể dân gian Tày-
Nùng xứ Lạng cho đến thời điểm này theo khảo sát của chúng tôi thì chưa có
một công trình chuyên biệt nào. Chỉ có một số công trình nhỏ, lẻ riêng biệt về
văn học dân gian như công trình Đặc điểm dân ca đám cưới Tày, Nùng xứ
Lạng của Lộc Bích Kiệm (Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn 2004- 138 trang),

giới thiệu Truyện kể Tày, Nùng xứ Lạng của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn
(Chủ biên), Phạm Nguyên Long, Lâm Mai Lan trong công trình Địa chí
Lạng Sơn- Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội- 1999), Bước đầu tìm hiểu
thơ ca dân gian của người Tày, Nùng xứ Lạng của tác giả Thái Vân (Tạp chí
văn học số 11- 1996)
Tôi không có tham vọng là luận văn sẽ bao quát được hết vẻ đẹp lấp lánh
của văn hóa dân tộc Tày –Nùng, đời sống tâm tư, tình cảm mà đồng bào gửi
gắm trong kho tàng truyện kể xứ Lạng. Nhưng kế thừa các nghiên cứu đi
trước, đề tài của chúng tôi hy vọng bước đầu giải quyết được những vấn đề cụ
thể của truyện kể xứ Lạng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn của chúng tôi có tên là Khảo sát truyện kể dân gian
Tày -Nùng xứ Lạng. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi sẽ là truyện
kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng đã được sưu tầm, biên soạn và xuất bản.
Tài liệu chúng tôi chọn làm tài liệu khảo sát chính là tập Truyện cổ xứ
Lạng của dân tộc Tày và Nùng do Nguyễn Duy Bắc, Hoàng An, Hoàng Tuấn
Cư, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997. Cùng
với một số truyện sưu tầm trong công trình Lễ hội dân gian Lạng Sơn của
Hoàng Páo, Hà Văn Thanh, Bế Kim Loan, Vũ Kiều Oanh, Sở văn hoá thông
tin Lạng Sơn sưu tầm, giới thiệu và một số truyện trong Ai lên xứ Lạng của
Hà Văn Thư, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân, Vương Toàn, NXB Văn hoá dân
tộc, Hà Nội, 1994.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Ngoài ra chúng tôi còn mở rộng thêm biên độ khảo sát các truyện cổ của
các dân tộc Tày và Nùng ở các địa phương khác và một số dân tộc khác để
làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan. Nguồn tư liệu chủ yếu được trích
trong các công trình :

* Truyện cổ Bắc Kạn, tập 1+ 2+ 3, Sở Văn hóa TTTT Bắc Kạn, 2000.
* Truyện cổ Tày – Nùng, Nxb Văn học, H, 1974.
* Truyện cổ Việt Bắc, Nxb Văn hoá - Viện văn học, H, 1963.
* Tổng tập văn học dân gian người Việt, Nxb Khoa học xã hội- H, 2009.
* Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, H, 2009.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu bao trùm của luận văn là tìm hiểu đặc điểm truyện kể dân gian
xứ Lạng của dân tộc Tày, Nùng trên bình diện thể loại, qua góc nhìn bản sắc
văn hoá tộc người, chỉ ra sự tác động của môi trường tự nhiên, văn hoá xã hội
hình thành nên những sáng tạo tinh thần đó, cụ thể là:
4.1. Tìm hiểu vùng đất xứ Lạng- nơi hình thành, lưu truyền những truyện
kể dân gian để cố gắng đi tìm lý do vì sao vùng đất và tộc người Tày, Nùng ở
đây lại lưu giữ một số lượng truyện kể dân gian phong phú, đặc sắc như vậy
4.2. Tiến hành khảo sát phân loại truyện kể dân gian xứ Lạng của đồng
bào Tày, Nùng theo tiêu chí thể loại mà các nhà foklore học đã đề xuất. Qua
đó làm sáng tỏ những đặc điểm tư tưởng -thẩm mỹ của truyện kể xứ Lạng của
dân tộc Tày- Nùng trong đời sống tâm hồn, tình cảm Tày, Nùng- hai dân tộc
có vị trí đứng thứ hai sau người Kinh- hai dân tộc có vai trò chủ thể văn hóa
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam để làm
sáng tỏ một giá trị văn hóa lâu đời và đặc thù, góp phần bảo tồn và gìn giữ di
sản văn hóa dân tộc, phát huy tác dụng giáo dục tốt đẹp của nó trong cuộc
sống hiện nay.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp
có tính phổ biến trong nghiên cứu khoa học như:

* Phương pháp sưu tầm, khảo sát: Văn học dân gian ra đời sớm và được lưu
lại trong trí nhớ của nhân dân bằng con đường truyền miệng. Vì vậy để có
thêm tư liệu trong quá trình khảo sát chúng tôi sử dụng phương pháp sưu tầm.
* Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp đưa ra được những số liệu
cụ thể, chính xác về vấn đề cần khảo sát. Từ đó dẫn đến những kết luận khách
quan.
* Phương pháp tổng hợp, hệ thống tư liệu : Phương pháp hệ thống là cách
đặt truyện cổ xứ Lạng của dân tộc Tày Nùng trong cùng một hệ thống như
truyện kể Bắc Kạn, truyện kể Việt Bắc, truyện kể Tày, Nùng để thấy được nét
chung cũng như nét riêng của nó
* Phương pháp phân tích, so sánh: phương pháp này tìm ra những điểm
giống và điểm khác của truyện cổ xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng và truyện
cổ dân tộc Tày- Nùng của các địa phương khác nói riêng và truyện cổ của các
dân tộc khác nói chung. Người viết phải phân tích, đối chiếu truyện cổ xứ
Lạng của dân tộc Tày- Nùng với truyện cổ của các địa phương, các dân tộc
khác.
* Phương pháp nghiên cứu liên ngành: phương pháp này dùng để lý giải
cho những đặc điểm của truyện cổ xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng. Kiến thức
của nhiều ngành khác nhau như : lịch sử, địa lý, dân tộc học, văn hóa học sẽ
rất hữu ích trong việc nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn:
- Phác họa diện mạo chung của truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng.
- Làm rõ đặc điểm nội dung, nghệ thuật của truyện kể dân gian Tày-
Nùng xứ Lạng và qua đó hiểu thêm đời sống văn hóa, tinh thần của con người
dân tộc Tày- Nùng nói riêng và xứ Lạng nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
- Góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của văn

học dân gian xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng nói riêng và văn học dân gian cả
nước nói chung. Từ đó khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc
của địa phương và của đất nước Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận. Phần Nội dung gồm ba chương:
Chƣơng I : Vùng đất, con người xứ Lạng với sự hình thành, tồn tại và
lưu truyền truyện kể dân gian Tày- Nùng.
Chƣơng II: Các thể loại truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng.
Chƣơng III: Đặc điểm truyện kể dân gian Tày – Nùng xứ Lạng trên một
số bình diện.
Phụ lục: Phần này của Luận văn bao gồm: Hệ thống những tác phẩm truyện
kể đã được sưu tầm và sưu tầm thêm (có thể có), được sắp xếp theo thể loại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI XỨ LẠNG VỚI SỰ HÌNH THÀNH, TỒN TẠI
VÀ LƢU TRUYỀN TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY - NÙNG

Trong phạm vi cho phép của đề tài, chúng tôi không có tham vọng đi sâu
vào mọi vấn đề thuộc điều kiện, tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của xứ
Lạng mà chỉ đi vào tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự hình thành và lưu
truyền truyện kể Tày- Nùng xứ Lạng. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu chúng tôi tập trung vào hai phương diện cụ thể: Vùng đất, con người và
văn hoá văn học dân gian xứ Lạng. Đặc biệt chúng tôi đi sâu vào các khía
cạnh về điều kiện tự nhiên, lịch sử tộc người Tày, Nùng và văn hoá văn học
dân gian của người Tày- Nùng xứ Lạng- đây chính là những yếu tố có tác

động sâu sắc đến đối tượng nghiên cứu.
1.1. Vùng đất, con ngƣời xứ Lạng
Qúa trình nảy sinh, tồn tại và phát triển của văn học dân gian nói chung
và truyện kể dân gian nói riêng bao giờ cũng gắn liền với điều kiện lịch sử,
văn hoá, xã hội và tâm lý của con người. Do vậy, trước khi khảo sát các thể
loại truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng, cần phải có những tìm hiểu về
vùng đất, con người xứ Lạng.
1.1.1. Khái niệm xứ Lạng
“ Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò ”
Câu ca ấy có từ rất xa xưa vọng mãi cho đến muôn đời nay như đã đã đi
vào tiềm thức con người xứ Lạng nói riêng và con người Việt Nam yêu quê
hương, đất nước nói chung, nó như một lời mời tha thiết của người xứ Lạng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
đối với khách muôn phương hãy đến với xứ Lạng và cũng như một cách giới
thiệu về xứ Lạng rất thơ, rất đậm sắc thái dân gian.
Vậy tại sao lại gọi là xứ Lạng và xứ Lạng có từ bao giờ ?
Sách Cơ sở văn hoá Việt Nam giải thích: tên “xứ” là một khái từ được
sử dụng khá linh hoạt trong dân gian. Có khi nó được dùng để chỉ một không
gian hẹp như xứ đồng, hay một xóm nào đó. Có khi từ này lại được dùng chỉ
một không gian rộng hơn: xứ Đông, xứ Đoài, xứ Nam, xứ Bắc, tức là bốn xứ
xung quanh kinh thành Thăng Long thời nhà Trần, nhà Lê; hoặc dùng chỉ các
xứ như xứ Lạng, xứ Nghệ Các từ này, khi thì tương đương với một trấn như
các phân chia địa giới phong kiến, nhưng có khi lại không, mà tương đương
với một tỉnh Dù thế nào, “xứ” vẫn là từ dùng để biểu đạt sự khác biệt giữa

các vùng đất, chứng tỏ sự phân biệt trong tâm thức dân gian. Điều đáng quan
tâm là, khi phân biệt các xứ, người dân từ trong lịch sử đã có ý thức phân biệt
sự khác nhau về văn hoá.
Theo các tác giả Nguyễn Cường, Đoàn Mạnh Phương, Hoàng Văn
Nghiệm, Đặng Đình Trấn, Trần Anh Tuấn trong cuốn Lạng Sơn nơi địa đầu
tổ quốc khi nghiên cứu về văn hóa xứ Lạng cho rằng “Xứ Lạng được coi là
một tiểu vùng văn hóa riêng biệt nằm trong vùng văn hóa Việt Bắc- Đông
Bắc. Ngay từ xứ Lạng(trước chỉ tỉnh Lạng Sơn) cũng đã hàm nghĩa đây là
một vùng văn hóa dân gian (FOLKLORE) và xứ là một từ chỉ một vùng có thể
rộng mà có thể hẹp, rất hẹp và thường do dân gian gọi mà thành và xứ cũng
thường ứng với một đơn vị hành chính nhất định mà thường gọi là một tỉnh.
Từ xứ ngày nay chỉ để gọi trong dân gian trong văn hóa văn nghệ, nó không
được coi là một đơn vị hành chính quốc gia. Từ xứ gọi là một vùng xứ để gây
một ấn tượng cảnh quan nào đó của một vùng có cái gì đó nổi bật và riêng
biệt. Ngày nay vẫn có các vùng quê hương được gọi là xứ, trong đó có xứ
Lạng, nhưng không nhiều chẳng hạn như xứ Huế, xứ Nghệ, xứ Lạng, xứ
Thanh, xứ Quảng” .[ 5, 33-34 ]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Còn trong cuốn Ai lên xứ Lạng của nhóm tác giả Hà Văn Thư, Hoàng
Nam, Vi Hồng Nhân, Vương Toàn thì “Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà
văn hoá, nhà thơ đặt câu hỏi vì sao gọi là xứ Lạng? Xứ Lạng có nghĩa là gì ?
Cái tên gọi xưa nay nó quen thuộc, nó gần gũi thân thương đến mức như tên
gọi của chính ta, như cơm ăn nước uống và không khí thở hàng ngày. Nhưng
hồ dễ mấy ai đã giải thích được một cách thấu đáo dù là người sống rất lâu ở
xứ Lạng chăng nữa! Để lý giải được hai từ đó và một số vấn đề khác nữa,
năm 1985, Sở văn hoá thông tin tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức một cuộc hội thảo
khoa học về xứ Lạng- Lạng Sơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã thử lý giải nó

nhằm làm sáng tỏ nhiều vấn đề còn chưa xác định, đất nước ta có bao nhiêu
vùng gọi là xứ ? xứ Quảng, xứ Huế, xứ Nghệ, xứ Thanh và xứ Lạng
Tổng hợp các nghiên cứu thì xứ Lạng theo các nhà nghiên cứu đã đưa ra
giả thiết từ Lạng là một từ Hán- Việt cổ kết hợp với từ Lũng trong ngôn ngữ
Tày, Nùng dưới dạng ngữ âm Hán- Việt cổ, theo ngữ nghĩa cổ để chỉ địa danh
các điểm cư trú Tày, Nùng. Xứ Lạng là xứ sở gồm có nhiều lũng. Và như vậy,
Lạng có nghĩa là “Núi cao đẹp” như hình dáng núi Lạng đã được miêu tả. Xứ
Lạng là xứ sở của những lũng, là xứ sở núi non hùng tráng lâu đời, mang
nặng mối tình gắn bó Việt- Tày- Nùng lịch sử, thấm sâu ngay trong bản thân
địa danh” [48, 7-8].
Như vậy, xứ Lạng được định nghĩa theo cách nào đi chăng nữa thì đến
với xứ Lạng ngay trong bản thân địa danh đã gợi cho ta biết bao điều phải
khám phá về một vùng đất giàu bản sắc văn hoá. Một vùng đất là không gian
sinh tồn cho những truyện kể dân gian mang hương sắc hoa hồi, chất men say
của rượu nồng và tình người đằm thắm nơi xứ Lạng
1.1.2. Về điều kiện tự nhiên
Trong dải đất nước hình chữ S Việt Nam duyên dáng, mềm mại thì xứ
Lạng chính là dải đất địa đầu của Tổ Quốc. Xứ Lạng là một điểm nút giao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
thông, kinh tế quan trọng, phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Nam giáp tỉnh
Bắc Giang, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Cạn. Phía Đông Bắc giáp khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây
Trung Quốc. Xét về địa lý hành chính thì xứ Lạng là mảnh đất biên cương có
đường biên giới dài với Trung Quốc, là điểm xuất phát của trục đường giao
thông Bắc- Nam- Quốc lộ 1A, là điểm gặp gỡ của các quốc lộ 1A, 1B, 4B
chạy dọc theo biên giới Việt- Trung. Chính vì thế xứ Lạng được coi là vùng
đất “ phên giậu”, là “cửa ngõ chính” trong những cuộc đối thoại và đối đầu

với Trung Quốc qua nhiều thời kỳ lịch sử. Đồng thời thì đó cũng là điều kiện
cho “ sự giao lưu văn hoá hằng xuyên Nam- Bắc” của xứ Lạng. Với vị trí địa
lý thuận lợi như vậy tự bản thân xứ Lạng đã tạo cho mình những tiềm năng
thương mại du lịch và giao lưu kinh tế quốc tế và văn hóa làm nên bộ mặt đa
sắc trong vườn hoa văn hóa nghìn sắc của đất nước Việt Nam.
Xứ Lạng là nơi có địa hình riêng biệt. Là miền núi, nhưng xứ Lạng có
dòng sông Kỳ Cùng thơ mộng bắt nguồn từ Đình Lập qua Lộc Bình, Cao Lộc,
qua thành phố Lạng Sơn, xuôi về Văn Quan, Văn Lãng, Tràng Định và lại đổ
về Trung Quốc. Và đây là một trong hai con sông ở nước ta chảy hướng Bắc,
đổ vào sông Long Châu bên Trung Quốc rồi đổ ra Trung Biển Đông, tạo
thành một thung lũng dài với những cánh đồng lòng chảo nổi tiếng trong xứ
như cánh đồng Thất Khê, cánh đồng Lộc Bình, cánh đồng Na Sầm màu mỡ,
phù sa. Ở về phía Tây, xứ Lạng có dãy núi đá vôi hùng vĩ- dãy Kai Kinh nằm
trong cánh cung Bắc Sơn, Ngân Sơn rộng lớn, hùng tráng và lại tạo thành một
lòng máng khác hướng nước chảy về Đông Bắc Bộ, chính dãy núi này cũng là
một yếu tố tác động đến lối sống, tập quán canh tác, phong tục của đồng bào
xứ Lạng.
Cùng với cánh đồng khác trong xứ như cánh đồng Bình Gia, cánh đồng
Ba Xã, Yên Bình Phúc, Chi Lăng Xứ Lạng không chỉ có núi đất, thung lũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
mà cùng với đó là dãy núi đá vôi Bắc Sơn sừng sững và kiêu hãnh với tư cách
là “người bảo vệ” nền văn hóa khảo cổ học nổi tiếng trong nước và thế giới-
văn hóa Bắc Sơn với những dấu tích đặc trưng là những chiếc rìu đá mài và
dấu Bắc Sơn trên đá. Những dấu tích đó cho thấy từ rất xa xưa xứ Lạng đã có
cho mình một nền văn hóa riêng.
Cũng như cả nước, Lạng Sơn là vùng đất nằm trong khu vực Đông Nam
Á, vùng “ Châu Á gió mùa” nơi cây cỏ và sinh vật phong phú với những cảnh

quan thiên nhiên đặc sắc, núi non trùng điệp, gần thì xanh thẫm, xa thì mờ ảo
như tranh thủy mặc. Đi qua những thung lũng, những đèo, bên thì núi dựng
đứng, bên thì suối róc rách, trên cao chim hót líu lo. Vào bất cứ ngả đường
nào của xứ Lạng cũng vậy, cảnh sắc thiên nhiên tươi xanh bốn mùa, với hoa
rừng nở rực rỡ ven đường, quanh làng bản và những cánh rừng hồi bạt ngàn
xanh với hương hồi thơm ngào ngạt làm say lòng người. Cùng với đó là
những dải núi đá vôi chạy dài từ đông sang tây đầy những hang động, mái đá
thuận tiện cho con người cổ xưa chọn làm nơi cư trú, những cánh rừng bao la
với nhiều loại thực phẩm ngon ngọt có thể nuôi sống các loài động vật cũng
như làm môi trường rộng rãi cho con người nối tiếp nhau săn bắn, hái lượm.
Một vùng đất có đồi núi, có rừng rậm với nhiều loại thảo mộc, thú rừng thực
sự là một không gian lý tưởng cho cuộc sống của con người thời cổ. Vẻ đẹp
hòa quyện của núi và mây hùng vĩ, của hang và động với cảnh trí tuyệt vời kỳ
ảo, những địa danh ẩn trong đó là trầm tích của những huyền thoại thơ mộng.
Thiên nhiên đầy thơ mộng, kỳ thú cũng là không gian xuyên suốt trong những
câu chuyện kể, những giai thoại đẫm chất thơ của vùng rừng núi xứ Lạng. Có
lẽ vì địa hình như vậy mà trong hầu hết các truyện cổ xứ Lạng không gian chủ
yếu là cảnh núi non hùng tráng với núi đá và rừng xanh. Ẩn chứa trong các
cảnh quan thiên nhiên là những sự tích riêng, những hồn riêng. Đồng bào xứ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Lạng sống hoà đồng với thiên nhiên, đất trời. Đó chính là điều kiện để ươm
mầm văn hoá xứ Lạng trong quá khứ, trong hiện tại và chắc chắn cả trong
tương lai nữa.
1.1.3. Về điều kiện xã hội và lịch sử tộc người Tày- Nùng xứ Lạng
1.1.3.1. Về điều kiện xã hội và lịch sử các tộc người xứ Lạng
Xứ Lạng là nơi có các dân tộc ít người chiếm số đông (84,74% tổng số
dân của tỉnh), là nơi chung sống của nhiều dân tộc anh em trong đó dân tộc

Nùng chiếm 43,86 %, dân tộc Tày chiếm 35,9 %, dân tộc Kinh 15,26%, dân
tộc Dao 3,54%, dân tộc Hoa, dân tộc Sán chay và dân tộc H’Mông (Ngoài ra
còn có một số dân tộc khác như Thái, Mường, Êđê, Sán Dìu. Với sự tụ cư của
nhiều các dân tộc anh em như vậy đã giúp cho xứ Lạng gần như có đầy đủ các
sắc thái văn hóa và cũng như một bức tranh thu nhỏ (tuy chưa thật đầy đủ)
của vùng văn hóa Đông –Bắc. Trong số các dân tộc ở xứ Lạng thì tộc người
Tày, Nùng là hai tộc người xuất hiện sớm nhất được coi là hai dân tộc bản địa
ở xứ Lạng và cũng là hai dân tộc có số dân đông nhất, có nhiều ảnh hưởng
đến các dân tộc khác cùng tụ cư ở xứ Lạng nói riêng và ở vùng Đông- Bắc nói
chung. Điều kiện xã hội và lịch sử hai tộc người này chúng tôi xin được trình
bày ở phần sau.
Trong phần này, chúng tôi tập trung giới thiệu một cách khái quát nhất
về cộng đồng các tộc người sống cùng trên mảnh đất xứ Lạng xoay quanh chủ
thể Tày, Nùng. Bởi lẽ cùng với chủ thể văn hóa là người Tày, Nùng thì các
tộc người này cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng bản sắc văn hóa
xứ Lạng để từ đó tạo thành bản sắc văn hóa Việt nói chung. Lịch sử các tộc
người cùng chung sống trên mảnh đất xứ Lạng đã được đề cập tới trong nhiều
các công trình nghiên cứu như Địa chí Lạng Sơn, Lạng Sơn nơi địa đầu Tổ
quốc. Cụ thể ở xứ Lạng có các dân tộc như sau
Dân tộc Kinh là dân tộc có số dân đông nhất Việt Nam. Ở xứ Lạng dân
tộc Kinh chiếm 15% dân số toàn tỉnh, là dân tộc đông thứ ba sau dân tộc Nùng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Tày. Do đặc điểm lịch sử, tộc người Kinh ở Lạng Sơn có hai nguồn: Nguồn
cổ và nguồn mới hay còn gọi là người Kinh đến trước và người Kinh đến sau
(khai hoang).
Nguồn cổ là những người Kinh bản địa là một trong những cư dân đầu
tiên của tỉnh. Nguồn gốc là con cháu nhà Mạc (cuối thế kỷ XVI) và những

quan quân nhà Mạc bị thất bại trước lực lượng Lê Trịnh, nên đã chạy lên
Lạng Sơn- Cao Bằng vừa lánh nạn vừa củng cố lực lượng. Đi theo họ là rất
đông họ hàng thân thích. Xứ Lạng trở thành căn cứ địa của những người Kinh
thân Mạc từ dưới xuôi lên. Họ ở thành làng mạc riêng, xây thành đắp lũy kiên
cố. Hiện nay còn lại nhiều di tích nhà Mạc ở Lạng Sơn. Nhiều người Kinh đã
ở xen kẽ trong những bản làng Tày- Nùng, một phần đã Tày- Nùng hóa, một
số khác vẫn giữ nguyên dân tộc. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng giữa
người Tày, Nùng và Kinh từ xa xưa đã có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Dân gian ta đã có câu thành ngữ được truyền tụng từ nhiều đời Kinh già hoá
thổ. Câu nói đó có lẽ được bắt nguồn từ thực tế lịch sử Việt Nam thời xa xưa,
khi vua Minh Mạng thực hiện chính sách Cải thổ quy lưu (bỏ quan người dân
tộc, đưa lưu quan từ kinh đô lên trực tiếp nắm quyền cai trị). Vì vậy có thể
nói giữa Tày, Nùng, Việt có sự giao thoa văn hoá khá sâu sắc.
Người Kinh khai hoang, người Kinh mới lên Lạng Sơn, họ di cư đến
Lạng Sơn theo chương trình khai hoang phát triển kinh tế miền núi do nhà
nước kêu gọi. Đó là những cán bộ, bộ đội lên công tác và chiến đấu rồi lập
nghiệp, lập gia đình, ở lại nơi xứ Lạng. Với nhiệt huyết sẵn có, vừa có trình
độ văn hóa, có kinh nghiệm sống, am hiểu phong tục tập quán địa phương,
các cán bộ người Kinh cùng gia đình của họ sống hòa đồng với các dân tộc,
giúp đỡ các dân tộc, họ thường được nể trọng trong cộng đồng làng bản.
Trong đời sống văn hóa, người Kinh rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, coi
vua Hùng là vị tối thượng của cả dân tộc. Họ đề cao các anh hùng dân tộc,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
danh nhân văn hóa không những của dân tộc mình mà của nhiều dân tộc anh
em khác. Hàng năm người Kinh có rất nhiều các lễ hội phong phú với bản sắc
vùng, miền rõ rệt. Người Kinh xây dựng được cho mình một kho tàng văn
hóa, văn học dân gian rất phong phú, đa dạng và là chủ thể chính trong văn

hóa, văn học dân gian Đại Việt. Trong đời sống tín ngưỡng, Phật giáo in dấu
ấn đậm nét trong tâm thức người Kinh. Tuy nhiên trong ý thức hệ người Kinh,
sâu sắc và thiêng liêng nhất vẫn là tổ tiên và Tổ quốc. Vì thế mà tất cả những
gì thuộc về cội nguồn luôn in đậm trong ký ức của mỗi người từ lúc trẻ thơ và
theo họ suốt cuộc đời dù phải xa quê hương.
Khi đến với xứ Lạng, họ đã coi xứ Lạng là quê hương của mình. Họ đã
pha dòng máu của mình với đồng bào Tày, Nùng và đem theo nền văn hoá
miền xuôi lên miền núi và phổ biến nó trong cộng đồng Tày, Nùng nói riêng
và các dân tộc khác ở xứ Lạng mà họ cùng sinh sống. Sự hoà hợp giữa những
yếu tố dân tộc vốn có và những yếu tố văn hoá Việt ngày càng ăn sâu vào đời
sống người Tày, Nùng làm cho nền văn hoá của cộng đồng Tày, Nùng của xứ
Lạng có mảng mầu riêng chung đa sắc.
Tộc người Dao đứng thứ chín trong 54 dân tộc anh em. Dân tộc Dao ở
trong nhóm ngữ hệ Mèo- Dao. Tên tự gọi là Dìu Mền, Kìn Mền, Kềm Mùn
nghĩa là người ở núi, người ở rừng, cách gọi này thường dùng trong sinh hoạt
hàng ngày. Trước đây người Dao còn có tên gọi là Mán, nhưng ngày nay
không còn dùng nữa. Người Dao xuất hiện ở Lạng Sơn từ thế kỷ XVI do
những cuộc thiên di từ nam Trung Hoa sang. Người Dao cư trú ở Lạng Sơn
gồm bốn nhóm ngành Dao chủ yếu, thuộc hai phương ngữ đó là: Dao Lù
Đảng còn gọi là Dụ Cùm, Cóc Mần. Dao Lù Giang còn gọi là Thanh Phán.
Dao Đỏ còn gọi là Dụ Lạng, Quế Lâm. Dao Thanh Y còn gọi là Pờ ây.
Trước đây người Dao là dân tộc chủ yếu sống du canh du cư trên các
triền núi cao. Do vậy làng bản và địa bàn cư trú thường không ổn định và ít

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
khi kiên cố. Ngày nay, tộc người này đã định canh định cư dần ổn định cuộc
sống và có nhiều thay đổi về kinh tế, văn hóa. Bên cạnh việc trồng cây nông
nghiệp, họ còn chăn nuôi và làm nghề thủ công, như nghề dệt vải, đan lát, rèn,

chạm bạc, làm đồ trang sức. Trang phục người Dao rất độc đáo, được thêu
thùa đẹp, màu sắc đậm, tươi sáng và có trang trí nhiều đồ trang sức. Người
phụ nữ Dao thường mặc quần chẹt. Về đời sống tinh thần, người Dao có nền
văn hoá dân gian khá phong phú, đó là các truyện kể dân gian, truyện thơ, dân
ca, tục ngữ, ca dao đều rất sâu sắc.
Dân tộc Sán Chay: Xứ Lạng không phải là địa bàn cư trú chính của dân
tộc Sán Chay, theo số liệu thống kê thì đây là dân tộc đứng thứ năm trong
tỉnh. Dân tộc Sán Chay còn gọi là Cao Lan, Sán Chỉ, Mán Cao Lan, Hờn Bận.
Người Sán Chay có hai nhóm phân biệt với nhau về ngôn ngữ đó là: Nhóm
nói tiếng Cao Lan gần gũi với tiếng Tày, Nùng và nhóm nói tiếng Sán chỉ gần
với thổ ngữ Hán. Tuy phân thành hai nhóm nhưng người Sán Chay vẫn có
nhiều gắn bó chặt chẽ với nhau về phong tục tập quán, giống nhau về đặc
điểm văn hoá. Trong các bản làng của người Sán Chay dân cư sống tập trung
đông đúc. Trước năm 1954, họ chủ yếu ở nhà sàn, trong căn nhà truyền thống
luôn có hình ảnh con trâu nước, đó là một biểu tượng của họ. Trong đời sống
tinh thần, người Sán Chay có những đặc điểm riêng, họ có mảng truyện cổ
phong phú kể về sáng tạo vũ trụ, nguồn gốc loài người và hình tượng các
nhân vật anh hùng chinh phục thiên nhiên. Họ có hình thức dân ca Sinh ca
xuất hiện từ lâu đời, trong đó hội tụ rất nhiều các tri thức về tự nhiên, xã hội
và con người. Hàng năm vào ngày mồng sáu tháng giêng họ lại tổ chức hội
vào xuân, trong hội có các trò chơi dân gian và múa hát rất độc đáo. Đến và
định cư ở xứ Lạng, người Sán Chay đã đưa văn hoá của mình vào sống chung
với văn hoá xứ Lạng làm nên bản sắc văn hoá Việt.
Dân tộc Hoa cũng là một dân tộc thiểu số ở xứ Lạng. Ở Việt Nam, người
Hoa có nhiều tên gọi khác nhau như người Quảng Đông, Hải Nam, Liêm

×