Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

yếu tố pháp trong văn hóa việt từ thế kỉ xvii đến đầu thế kỉ xx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.72 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Đức An

YẾU TỐ PHÁP TRONG VĂN HÓA VIỆT
TỪ THẾ KỈ XVII ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Đức An

YẾU TỐ PHÁP TRONG VĂN HÓA VIỆT
TỪ THẾ KỈ XVII ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX
Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số

: 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của TS. Trần Thị Thanh Thanh. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Võ Đức An


LỜI CẢM ƠN

Cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Trần Thị Thanh
Thanh, người đã tận tình chỉ bảo, dìu dắt tôi từ những ngày đầu cho đến khi hoàn
thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, Phòng
Sau Đại học trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, khoa Lịch sử trường Đại học Sư
phạm Tp.HCM, trường THPT Tôn Đức Thắng (Ninh Thuận), trường THPT Chuyên
Lê Quý Đôn (Ninh Thuận), tập thể lớp cao học Lịch sử Việt Nam khóa 19 đã hỗ trợ
và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu cho đến khi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.

Tác giả


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Số lượng từ gốc Pháp có trong một số từ điển tiếng Việt
Bảng 3.2: Kết quả tổ chức giáo dục của thực dân Pháp ở Nam kì 1861 – 1886



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục các bảng
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................8
5. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................8
Chương 1: NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT VỚI
NƯỚC PHÁP .........................................................................................9
1.1. Sự xuất hiện của các nhà truyền giáo – Một tiền đề của yếu tố Pháp trong văn
hóa Việt ..............................................................................................................9
1.1.1. Hoạt động của Alexandre de Rhodes .......................................................9
1.1.2. Hoạt động của các giáo sĩ Hội Thừa sai Paris ........................................13
1.2. Quan hệ với các thương nhân – sự chuẩn bị tích cực cho sự thâm nhập của yếu
tố Pháp trong văn hóa Việt ...............................................................................19
1.2.1. Thời kì Đàng Trong – Đàng Ngoài ........................................................19
1.2.2. Thời kì các vua Nguyễn (nửa đầu thế kỉ XIX) .......................................27
Tiểu kết chương .......................................................................................................34
Chương 2: YẾU TỐ PHÁP TRONG CÁC LĨNH 36VỰC VĂN HÓA VẬT
CHẤT CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT ..................................................36
2.1. Sản xuất vật chất ................................................................................................36
2.1.1. Sản xuất nông nghiệp .............................................................................36
2.1.2. Sản xuất công nghiệp .............................................................................38

2.2. Hệ thống giao thông vận tải ...............................................................................40
2.3. Kiến trúc, điêu khắc ...........................................................................................42


2.4. Khoa học – kĩ thuật ............................................................................................47
Tiểu kết chương............................................................................................................ 50

Chương 3: YẾU TỐ PHÁP 51TRONG CÁC LĨNH VỰC VĂN HÓA TINH
51THẦN CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT ..............................................51
3.1. Tôn giáo .............................................................................................................51
3.1.1. Thiên chúa giáo góp phần làm phong phú thêm đời sống tâm linh của
người Việt Nam .....................................................................................52
3.1.2. Văn hóa Thiên chúa giáo góp phần làm kho tàng văn hóa Việt thêm
phong phú, đặc sắc ................................................................................53
3.1.3. Thiên chúa giáo góp thêm tiếng nói chân thành vào sự nghiệp đề cao và
bảo vệ đại đức làm người theo cách riêng của mình .............................55
3.2. Chữ Quốc ngữ ....................................................................................................58
3.3. Báo chí ...............................................................................................................64
3.4. Văn học ..............................................................................................................69
3.5. Ngôn ngữ ............................................................................................................75
3.6. Giáo dục .............................................................................................................78
3.6.1. Giáo dục thời kì 1861 – 1885 .................................................................79
3.6.2. Giáo dục thời kì 1886 – 1916 .................................................................85
Tiểu kết chương .......................................................................................................94
KẾT LUẬN ..............................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................103


1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quá trình tiếp xúc, giao lưu giữa các nền văn hóa luôn diễn ra trong tiến trình
lịch sử nhân loại. Đó là một nhu cầu tất yếu, một quy luật của phát triển. Trong quá
trình ấy, có thể xảy ra hiện tượng các yếu tố của nền văn hóa này thâm nhập vào
nền văn hóa kia hoặc nền văn hóa này vay mượn những yếu tố đặc sắc của nền văn
hóa kia rồi cải biến, điều chỉnh cho phù hợp dẫn đến sự tiếp biến văn hóa. Trong
tiến trình lịch sử, nền văn hóa Việt Nam đã từng giao lưu, tiếp xúc với nhiều nền
văn hóa khác nhau, trong đó có văn hóa phương Tây thông qua đại diện là văn hóa
Pháp. Sự tiếp xúc giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Pháp diễn ra từ khá sớm,
ngay từ thế kỉ XVII và đặc biệt mạnh mẽ trong những thập niên cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX trong hoàn cảnh Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Điều
này dẫn đến sự song song tồn tại của hai quá trình trong nền văn hóa Việt Nam
đương thời. Một mặt là sự đề kháng, phản kháng quyết liệt trước sự xâm nhập của
các yếu tố văn hóa Pháp. Mặt khác là sự lựa chọn những tinh hoa văn hóa Pháp rồi
cải biến cho phù hợp với tâm thức và mỹ cảm văn hóa của người Việt Nam. Đó
chính là quá trình hội nhập của nền văn hóa Việt Nam với thế giới để bổ sung
những yếu tố mới, hiện đại và tiến bộ vào nền văn hóa truyền thống, làm giàu đẹp
hơn, phong phú hơn, hiện đại hơn nền văn hóa dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.
Sự tiếp xúc, giao lưu với văn hóa phương Tây, chủ yếu thông qua văn hóa
Pháp, dẫn tới sự xuất hiện của những nhân tố mới trong nền văn hóa dân tộc: đạo
Thiên chúa, chữ quốc ngữ, nền giáo dục tân học, báo chí… Và các nhân tố xã hội
mới có quan hệ mật thiết với văn hóa: tầng lớp trí thức tân học, thị dân, cộng đồng
Thiên chúa giáo… Điều đó góp phần làm thay đổi diện mạo cho văn hóa Việt Nam
vào nửa đầu thế kỉ XX, đưa văn hóa Việt Nam bước đầu tham gia vào quá trình hội
nhập với văn hóa thế giới. Những nhân tố mới này phải chăng là những yếu tố Pháp
trong nền văn hóa Việt?
Luận văn này mong muốn góp phần giải đáp câu hỏi đó.



2

Hiện nay, việc nhận thức lịch sử Việt Nam một cách đầy đủ, khách quan đòi
hỏi người nghiên cứu cần tiếp cận nhiều nguồn tư liệu lịch sử khác nhau, cần có
thêm những kiến giải khoa học, nhận định thỏa đáng. Việc nghiên cứu về yếu tố
Pháp trong văn hóa Việt trong một thời kì lịch sử có thể góp phần cung cấp thêm tư
liệu, làm phong phú thêm tri thức lịch sử hiện có trong vấn đề giao lưu văn hóa giữa
Việt Nam với thế giới.
Đối với tác giả, luận văn này còn góp phần nâng cao kiến thức, trình độ
chuyên môn, phục vụ hiệu quả trong công tác nghiên cứu và giảng dạy của bản
thân.
Trong quá trình hội nhập của Việt Nam với thế giới hiện nay, quan hệ văn hóa
nếu được đẩy mạnh sẽ thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hữu nghị, giúp Việt Nam đạt
được những thành tựu mới về văn hóa – xã hội, từng bước nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người dân. Điều này chỉ có được khi chúng ta có đường lối, chính
sách văn hóa đúng đắn. Trong chừng mực nhất định, cơ sở khoa học của luận văn
có thể giúp cho các cơ quan chức năng có liên quan có thêm căn cứ để hoạch định
đường lối, chính sách trong quá trình giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với thế giới.
2. Lịch sử vấn đề
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu quan hệ Việt – Pháp nói chung và sự tiếp xúc,
giao lưu văn hóa Việt – Pháp nói riêng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ lâu.
Tuy nhiên, phần lớn giới nghiên cứu thường tìm hiểu một khía cạnh cụ thể, riêng lẻ,
mới phản ánh một phần của bức tranh về sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa Việt – Pháp.
Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau đây.
Về khía cạnh chính trị – ngoại giao:
Bộ Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, ghi chép về
toàn bộ lịch sử Việt Nam trong thế kỉ XIX dưới sự trị vì của vương triều Nguyễn
cũng như hơn 200 năm lịch sử Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Do được biên
soạn theo lối biên niên, Đại Nam thực lục chủ yếu chỉ cung cấp những thông tin lịch
sử về những hoạt động chính trị – ngoại giao của các vua Nguyễn, chưa thể hiện

được nhiều về sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa Việt – Pháp đương thời.


3

Tác phẩm Việt Nam ngoại giao sử của Ưng Trình do Văn Đàn xuất bản năm
1970 đề cập khá đầy đủ, chi tiết những hoạt động ngoại giao nước ta thời các chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn, trong đó quan hệ bang giao Việt – Pháp được dành
một vị trí quan trọng. Tuy nhiên vấn đề tiếp xúc, giao lưu văn hóa hầu như rất ít
được nhắc đến.
Luận án Tiến sĩ lịch sử Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn nửa đầu thế kỉ
XIX của Đinh Thị Dung năm 2001. Luận án đã nêu hoàn cảnh trong nước và thế
giới liên quan đến hoạt động ngoại giao của triều Nguyễn vào nửa đầu thế kỉ XIX,
trình bày và phân tích chính sách ngoại giao của các vua Nguyễn, trong đó có quan
hệ ngoại giao với Pháp.
Tác phẩm Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều
Nguyễn của Trần Nam Tiến, do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp.HCM xuất bản
năm 2006, đã đề cập khá chi tiết những hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam với các
nước phương Tây, trong đó có Pháp.
Trình bày về quan hệ chính trị – ngoại giao Việt – Pháp còn có thể kể đến Việt
– Pháp bang giao sử lược của Phan Khoang, Việt Nam thế kỉ XIX (1802 – 1884) của
Nguyễn Phan Quang, và một số bộ thông sử khác… Nhìn chung các công trình nói
trên chủ yếu chỉ đề cập tới quan hệ chính trị – ngoại giao giữa Việt Nam với Pháp,
ít trình bày về sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa hai nước.
Về khía cạnh kinh tế:
Tác phẩm Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỉ XVII, XVIII và đầu XIX của
Thành Thế Vỹ do Nhà xuất bản Sử học xuất bản năm 1961 đã đề cập bối cảnh trong
và quốc tế có liên quan đến ngoại thương nước ta trong các thế kỉ XVII, XVIII,
XIX, đồng thời nêu khái quát quan hệ và cách thức buôn bán giữa Việt Nam với các
nước, trong đó có quan hệ thương mại với Pháp.

Tác giả Đỗ Bang với Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, do
Nhà xuất bản Thuận Hóa xuất bản năm 1997, đã khai thác hiệu quả các sử liệu gốc
như Đại Nam thực lục, Mục lục châu bản triều Nguyễn… để trình bày chính sách và
hoạt động thương nghiệp của nhà Nguyễn, trong đó có buôn bán với Pháp.


4

Tác phẩm Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa của Nguyễn Văn
Khánh, do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2000. Với cách
tiếp cận hệ thống cấu trúc, tác phẩm đã trình bày các điều kiện và nguyên nhân dẫn
đến những biến đổi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam dưới thời thuộc Pháp từ đó
đánh giá những ảnh hưởng tiêu cực và tích cực của công cuộc khai thác thác địa của
chủ nghĩa thực dân Pháp trên đất nước ta.
Tác phẩm Những người Châu Âu ở nước An Nam của Charles B. Maybon, do
Nhà xuất bản thế giới xuất bản năm 2006. Là một nhà nghiên cứu phương Tây nên
tác giả có điều kiện khai thác thư từ, hồi kí, sổ sách… của các thương nhân, giáo sĩ
châu Âu đã đến nước ta, từ đó trình bày khá chi tiết hoạt động thương mại của các
công ty và thương nhân các nước châu Âu với nước ta, trong đó có Pháp. Đây là
công trình có giá trị tham khảo cho tác giả luận văn khi trình bày về quan hệ kinh tế
Việt – Pháp trong các thế kỉ XVII, XVIII.
Ngoài ra, về quan hệ kinh tế Việt – Pháp, còn có nhiều tài liệu khác đề cập tới:
Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh, xuất bản năm 1971.
Việt Nam Pháp thuộc sử của Phan Khoang, do Khai Trí xuất bản năm 1971.
Thị trường lúa gạo Nam Kỳ (1860 – 1945) của Nguyễn Phan Quang, do Nhà
xuất bản Tổng hợp Tp.HCM xuất bản năm 2004.
Những công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu trình bày về quan hệ kinh tế
Việt – Pháp ở nhiều khía cạnh khác nhau, chưa đề cập đến quá trình tiếp xúc, giao
lưu về văn hóa giữa hai nước.
Về khía cạnh văn hóa:

Ở lĩnh vực tư tưởng, tôn giáo thì có Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào
Việt Nam từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX của Nguyễn Văn Kiệm, do Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam và Trung tâm UNESCO bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc
Việt Nam xuất bản năm 2001. Tác phẩm trình bày bối cảnh và quá trình truyền bá
của Thiên chúa giáo vào nước ta, lí giải phần nào thái độ và phản ứng của các chính
quyền phong kiến đương thời trước sự du nhập của một tôn giáo mới… Đây là một


5

tài liệu tham khảo có giá trị cho tác giả luận văn khi trình bày về sự tiếp xúc, giao
lưu văn hóa Việt – Pháp trên lĩnh vực tôn giáo.
Về lĩnh vực chữ viết và ngôn ngữ thì có Từ gốc Pháp trong tiếng Việt của
Vương Toàn, do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1992. Trong công
trình này, tác giả đưa ra con số thống kê về số lượng từ gốc Pháp trong tiếng Việt,
chỉ ra những cách thức mà người Việt Nam tiếp nhận và Việt hóa những từ gốc
Pháp để làm giàu thêm kho từ vựng của ngôn ngữ dân tộc. Một phần kết quả nghiên
cứu của công trình này được tác giả luận văn sử dụng để làm rõ sự tiếp xúc, giao
lưu Việt – Pháp trên lĩnh vực ngôn ngữ.
Ngoài ra còn có Nguồn gốc chữ Quốc ngữ của Huỳnh Ái Tông; Việt Nam, chữ
viết, ngôn ngữ và xã hội của Nguyễn Phú Phong…
Ở lĩnh vực giáo dục, cho tới nay giới nghiên cứu đã có khá nhiều công trình
về giáo dục Việt Nam. Trước hết là Tìm hiểu giáo dục Việt Nam trước năm 1945
của Vũ Ngọc Khánh, do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1985. Ở công trình
này, tác giả đã lấy thế kỉ XIX làm cột mốc để chia nền giáo dục Việt Nam trước
năm 1945 thành 2 thời kì. Ở mỗi thời kì, tác giả trình bày khái quát về mục tiêu, nội
dung, tổ chức và phương pháp giáo dục của nền giáo dục Việt Nam.
Giáo dục Việt Nam thời cận đại của Phan Trọng Báu, do Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội xuất bản năm 1994. Công trình bao gồm 2 phần: phần thứ nhất nói về sự
hình thành và phát triển của nền giáo dục Việt Nam thời cận đại, do thực dân Pháp

tổ chức; phần thứ hai trình bày sự ra đời và phát triển của dòng giáo dục yêu nước
và cách mạng, do những nhà yêu nước sáng lập đối lập với nền giáo dục thực dân.
Tác giả đã khắc họa bức tranh toàn cảnh của một giai đoạn chuyển đổi, một bước
ngoặt quan trọng ở nước ta từ giáo dục Nho học phong kiến sang nền giáo dục thực
nghiệm.
Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng 8/1945 của Nguyễn Đăng
Tiến chủ biên, do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1996. Công trình đã đề cập
tới 2 thời kì của nền giáo dục nước ta trước Cách mạng tháng 8/1945: giáo dục Việt
Nam thời phong kiến và giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Về giáo dục Việt


6

Nam thời Pháp thuộc, tác giả đã trình bày sự hình thành và phát triển của hệ thống
giáo dục do thực dân Pháp quản lí – nền giáo dục Pháp – Việt và sự phản kháng của
nhân dân ta trước nền giáo dục thực dân thông qua dòng giáo dục yêu nước trong
nửa đầu thế kỉ XX.
Ngoài ra còn có Khoa cử và Giáo dục Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng, do
Nhà xuất bản Văn hóa xuất bản năm 1998; Lịch sử giản lược Hơn 1000 năm nền
giáo dục Việt Nam của Lê Văn Giạng, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản
năm 2003…
Ở lĩnh vực báo chí, đầu tiên là công trình Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi
thủy đến năm 1930 của Huỳnh Văn Tòng, do Trí Đăng xuất bản năm 1973. Có thể
nói đây chính là công trình biên khảo thuộc loại sớm nhất trình bày có hệ thống,
công phu về báo chí Việt Nam.
Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945 của Đỗ Quang Hưng chủ biên, do Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2000. Công trình nêu khát quát về
giai đoạn 1965 – 1945 trong lịch sử báo chí Việt Nam. Thông qua đó thể hiện mối
quan hệ của sự phát triển báo chí với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp,
sự đụng độ và tiếp xúc văn hóa Đông – Tây trên địa hạt báo chí, những giá trị xã

hội, chính trị và văn hóa của báo chí Việt Nam đương thời…
Ngoài ra, về sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa Việt – Pháp còn được đề cập trong
các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam:
Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, do Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1996.
Tìm hiểu văn hóa dân tộc của Đặng Việt Bích, do Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin xuất bản năm 2006.
Lịch sử Văn hóa Việt Nam của Huỳnh Công Bá, do Nhà xuất bản Thuận Hóa
xuất bản năm 2008.
Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa – Một góc nhìn từ Việt
Nam của Phạm Xuân Nam, được Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 2008.


7

Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập sự tiếp xúc, giao lưu văn
hóa Việt – Pháp từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XX ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đây
đều là những công trình có giá trị cả về mặt sử liệu và nhận thức khoa học. Mặc dù
vậy, vì nhiều lí do khác nhau, những bài nghiên cứu riêng biệt nêu trên vẫn chưa thể
khái quát một cách đầy đủ, chưa thể hiện được toàn cảnh của bức tranh về yếu tố
Pháp trong văn hóa Việt – kết quả của sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa Việt – Pháp
trong lịch sử. Do đó, một công trình chuyên khảo về yếu tố Pháp trong văn hóa Việt
từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XX là nhu cầu cần thiết đối với người nghiên cứu và
học tập lịch sử. Luận văn này được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những
tư liệu, những kết quả nghiên cứu và các kiến giải khoa học của các công trình
nghiên cứu nói trên, đồng thời làm rõ các vấn đề sau:
- Những cuộc tiếp xúc đầu tiên của người Việt với nước Pháp – tiền đề quan
trọng cho sự xuất hiện của yếu tố Pháp trong văn hóa Việt.
- Yếu tố Pháp trong các lĩnh vực văn hóa vật chất của nền văn hóa Việt.
- Yếu tố Pháp trong các lĩnh vực văn hóa tinh thần của nền văn hóa Việt.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như tên của luận văn đã chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là yếu tố
Pháp trong văn hóa Việt. Tiếp cận đối tượng này, chúng tôi tìm hiểu hai lĩnh vực
chủ yếu của đời sống văn hóa: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, ở đó có sự tiếp
xúc, giao lưu với văn hóa Pháp, tạo nên diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam.
Thông qua việc nghiên cứu này, chúng tôi hướng tới việc phản ánh quá trình
tiếp xúc, tiếp thu và tiếp biến của văn hóa Việt Nam với văn hóa Pháp. Đó là quá
trình từ sao chép, mô phỏng đến chọn lọc, điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với tâm
thức, ứng xử của người Việt Nam. Kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần cung cấp cơ
sở khoa học cho các nhà quản lí, hoạch định chính sách trên lĩnh vực văn hóa trong
bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới.
Phạm vi thời gian mà luận văn nghiên cứu là từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ
XX. Thế kỉ XVII chứng kiến sự tiếp xúc đầu tiên của văn hóa Việt với văn hóa
Pháp thông qua vai trò của các giáo sĩ và thương nhân. Còn đầu thế kỉ XX, với mốc


8

năm 1919, là thời điểm kết thúc của chiến tranh thế giới lần thứ nhất, cũng kết thúc
một thời kì trong chính sách cai trị và khai thác của thực dân Pháp ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử để
phản ánh bản thân các sự kiện, hiện tượng cần nghiên cứu, đồng thời kết hợp với
phương pháp logic để nhận thức được bản chất, quy luật của các sự kiện, hiện tượng
lịch sử trong quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hóa Việt – Pháp.
Chúng tôi còn sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc. Với phương
pháp nghiên cứu này, tác giả luận văn xem toàn bộ văn hóa Việt Nam là một hệ
thống liên hoàn, bao gồm các yếu tố hợp thành và có mối liên hệ hữu cơ với nhau.
Luận văn chỉ đề cập tới những kết quả giao lưu do quá trình tiếp xúc trực tiếp giữa
Việt Nam với Pháp mang lại.

5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung của luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Những cuộc tiếp xúc đầu tiên của người Việt với nước Pháp
Chương 2: Yếu tố Pháp trong các lĩnh vực văn hóa vật chất của nền văn hóa
Việt
Chương 3: Yếu tố Pháp trong các lĩnh vực văn hóa tinh thần của nền văn hóa
Việt


9

Chương 1
NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT
VỚI NƯỚC PHÁP
1.1. Sự xuất hiện của các nhà truyền giáo – Một tiền đề của yếu tố Pháp trong
văn hóa Việt
1.1.1. Hoạt động của Alexandre de Rhodes
Từ cuối thế kỉ XV, sau các cuộc phát kiến địa lí, vùng Viễn Đông đã trở thành
điểm đến quen thuộc của các nhà thám hiểm, thương nhân và giáo sĩ phương Tây.
Do nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, trên ngã tư giao thương quốc tế, có bờ biển dài
với nhiều đảo và hải cảng quan trọng, Việt Nam sớm trở thành một vị trí chiến lược
trong nhãn quan kinh tế và chính trị của các nước phương Tây.
Những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên nước ta là các giáo sĩ Thiên chúa
giáo. Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết vào năm 1533, vua Lê
Trang Tông đã ban ra một chỉ dụ cấm đạo Thiên chúa. Theo đó, có một giáo sĩ tên
Inikhu theo đường biển đến giảng đạo tại các làng Ninh Cường, Quán Anh (huyện
Nam Chân) và làng Trà Lũ (huyện Giao Thủy) của tỉnh Nam Định.
Tháng 12/1624, một đoàn giáo sĩ dòng Tên (Jésuites) 1, do Gabriel de Mattos
dẫn đầu, đã đặt chân lên lãnh thổ Đại Việt. Trong đoàn có Alexandre de Rhodes 2 –

một giáo sĩ Pháp. Sau khi đến Đại Việt, A. de Rhodes khi ở Đàng Ngoài, lúc vào
Đàng Trong trước khi trở về châu Âu vào năm 1645. Tuy có mặt ở nước ta khoảng
8 năm nhưng A. de Rhodes lại có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng nền
móng cho giáo hội Thiên chúa giáo La Mã ở Đại Việt trong nửa đầu thế kỉ XVII.

Dòng tu do Ignace de Loyola (người Tây Ban Nha) lập năm 1534, là dòng tu chiến đấu chống lại dị giáo,
tuyệt đối trung thành với Giáo hoàng.
2
Ông sinh tại Avignon, miền nam nước Pháp. Theo một số sử liệu, linh mục Alexandre de Rhodes sinh năm
1591, nhưng nhiều nguồn khác ghi ông sinh năm 1593. Ông gia nhập dòng Tên tại Rôma ngày 24/4/1612,
thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở
thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn dưới bóng Giáo hoàng vì thời ấy Avignon là đất của
Giáo Hoàng, nên tên ông là Alexandre de Rhodes. Người Việt gọi Alexandre de Rhodes là Giáo sĩ Đắc Lộ.
1


10

Với thiên phú đặc biệt về ngoại ngữ, A. de Rhodes đã có thể nghe, hiểu và
giảng đạo bằng tiếng Việt chỉ 6 tháng sau khi đến Đại Việt. Sau đó, kế thừa các thế
hệ giáo sĩ trước đó, A. de Rhodes góp công lớn trong việc hoàn chỉnh dạng chữ viết
của tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh. Theo nhiều nhà nghiên cứu, chính trong thời
gian ở Việt Nam, A. de Rhodes đã hoàn thành cuốn Từ điển Việt – Bồ Đào Nha –
Latinh. Phải đến năm 1651 cuốn từ điển này mới được in ở Rôma, song chắc hẳn
khi còn ở dạng bản thảo nó đã được các giáo sĩ thừa sai ở Việt Nam đương thời biết
đến. Đó thực sự là một công cụ rất hữu ích để các giáo sĩ có thể trực tiếp giao tiếp
với người dân bản xứ và truyền đạo.
Nhờ khả năng nói tiếng Việt cùng những biện pháp truyền đạo khôn khéo, A.
de Rhodes rất thành công về mặt truyền đạo. Cho đến khi rời khỏi Đại Việt (1645),
ông và các cộng sự đã tạo dựng nền móng vững chắc cho Giáo hội Thiên chúa giáo

ở nước ta. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kiệm lúc bấy giờ ở Đàng Trong,
Thiên chúa giáo đã được truyền bá rộng rãi ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Thuận Hóa và Quảng Bình với khoảng 50.000 giáo dân. Còn ở Đàng Ngoài, số giáo
dân lên tới 100.000 người, tập trung chủ yếu ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Nội và các
vùng lân cận [31, tr.54].
Đồng thời với truyền đạo, A. de Rhodes còn rất chú ý đào tạo đội ngũ thầy
giảng người bản xứ để hỗ trợ cho mình trong việc truyền đạo và duy trì đời sống
đạo cho giáo dân trong trường hợp vắng các thừa sai và linh mục. Sáng kiến này của
A. de Rhodes đã được các thế hệ giáo sĩ thừa sai áp dụng triệt để. Nhờ vậy mà ngay
trong những thời điểm cấm đạo nghiêm ngặt nhất thì sinh hoạt đạo của các giáo dân
vẫn được duy trì.
Là người Pháp nên dù hoạt động ở dòng đạo của người Bồ Đào Nha, A. de
Rhodes vẫn không quên nghĩa vụ của một công dân đối với Tổ quốc. Trong quá
trình truyền đạo, ông đã chú ý tới khả năng thương mại của Đại Việt và giới thiệu
khả năng đó cho các thương nhân Pháp. Thông qua 2 tác phẩm là Hồi kí truyền đạo
và Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, A. de Rhodes mô tả khá chi tiết tình hình chính
trị - xã hội ở hai Đàng, chính sách của các chính quyền phong kiến ở Đàng Ngoài và


11

Đàng Trong đối với các thương nhân và giáo sĩ nước ngoài, đời sống người dân
cùng phong tục, tập quán… Chẳng hạn A. de Rhodes nhận xét về Đàng Ngoài như
sau: “… xứ Đàng Ngoài, bởi vị trí của nó tiếp cận với Trung Hoa, là nơi kinh
doanh tốt và có thể trở thành địa điểm thương mại rất quan trọng. Người Trung
Hoa đến đây buôn bán rất đông, họ mang tới đồ sứ, vải nhuộm và mang về các
hàng tơ lụa và gỗ phượng hoàng. Người Nhật ngày xưa cũng năng tới đây buôn
bán, nhưng từ 25 năm nay họ không đến nữa. Đây là chỗ nên chiếm lấy, nếu đến
lập cơ sở buôn bán ở đây các lái buôn Âu châu sẽ tìm thấy một nguồn lợi nhuận và
của cải dồn dào” [30, tr.27].

Rõ ràng đây là những nguồn thông tin quý, đáng tin cậy cho các thương nhân
Pháp nếu muốn đến Đại Việt để làm ăn, buôn bán.
Nhưng đó vẫn chưa phải là đóng góp quan trọng nhất của A. de Rhodes cho
lợi ích của nước Pháp ở Viễn Đông.
Năm 1649, A. de Rhodes trở lại Roma để vận động Tòa thánh Vatican chọn
một nước bảo trợ mới cho công cuộc truyền đạo đang thuận lợi ở Viễn Đông, trong
đó có Đại Việt, để thay thế cho Bồ Đào Nha lúc này đã không còn đủ sức đảm
đương 3. Kết quả là vào tháng 5/1658, sau khi A. de Rhodes qua đời một thời gian,
Tổng hội truyền giáo Vatican chấp thuận cho các giáo sĩ thừa sai Pháp được thay
thế các giáo sĩ Bồ Đào Nha trong việc điều hành công cuộc truyền giáo ở Viễn
Đông 4. Người Bồ Đào Nha phản ứng quyết liệt khi tuyên bố không chở các giám
mục người Pháp sang Viễn Đông, thậm chí còn bắt giam các giám mục và giáo sĩ
Pháp. Vì vậy, chỉ thị chính thức của Giáo hội La Mã cho các giám mục Thế diện
Tông tòa Pháp nhấn mạnh rằng họ phải tránh không đi qua miền đất truyền giáo của
3

Vùng Viễn Đông, trong đó có Việt Nam, theo tinh thần của sắc chỉ Inter Coetera được Giáo hoàng
Alexandre VI ban hành ngày 4/5/1493 và điều ước Tordesillas kí giữa hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha
năm 1594, là thuộc quyền độc quyền truyền giáo và thăm dò thực dân của Bồ Đào Nha.
4
Theo đó, 3 giáo sĩ Pháp là FranÇois Pallu, Pierre de la Motte Lambert và Ignace Cotolendi được cử là Thế
diện tông tòa ở Viễn Đông: Pallu cai quản Đàng Ngoài, Lào và các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Hồ Quảng, Tứ
Xuyên, Quảng Tây của Trung Quốc; Lambert phụ trách Đàng Trong và các tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến,
Quảng Đông, đảo Hải Nam và các đảo lân cận còn Cotolendi trông coi địa phận Nam Kinh, Bắc Kinh, Sơn
Tây, Thiểm Tây, Sơn Tây của Trung Quốc, xứ Triều Tiên và Tartari. Các giáo sĩ thuộc quốc tịch khác, hoặc
bất cứ dòng nào, kể cả giáo sĩ Bồ Đào Nha, nếu hoạt động trong những địa phận nói trên cũng đều phải phục
tùng các giám mục người Pháp.


12


người Bồ và nếu chẳng may bị bắt hoặc bị phát giác thì họ không được nói lộ mục
đích, quốc tịch và cả chức trách truyền đạo nữa.
Quyết định trên của Tòa thánh Vatican chứng tỏ sự suy yếu của thế lực người
Bồ Đào Nha ở Viễn Đông và bước đầu đánh dấu quá trình xâm nhập của người
Pháp ở khu vực này. Từ tiền đề thuận lợi đó, Nhà nước và Giáo hội Pháp tích cực
chuẩn bị cho công cuộc mở rộng ảnh hưởng của Pháp ở Viễn Đông. Được sự phê
chuẩn của vua Louis XIV, ngày 27/10/1663, Hội thừa sai Paris (Société des
missions étrangères de Paris – MEP) chính thức ra đời. Hội có nhiệm vụ đào tạo
những giáo sĩ thừa sai đi truyền giáo ở vùng Viễn Đông, đồng thời với hoạt động
truyền đạo, phát triển thế lực kinh tế, chính trị của nước Pháp. Ban chủ sự của Hội
chủ yếu là những người trong chính giới và quý tộc Pháp. Bản điều trần của Hội
Thừa sai Paris gửi Quốc hội Pháp vào năm 1790 có đoạn viết: “Hội Thừa sai Paris
là tổ chức duy nhất của hội các thầy tu thế tục gồm toàn người Pháp có sứ mạng
mang ánh sáng của đức tin và phát huy ảnh hưởng của nước Pháp đến các nước
phương Đông …”, và giáo sĩ của Hội “không quên lợi ích của nước mình… Họ đã
và sẽ mãi mãi có nhiệm vụ thông báo cho nhà nước mọi phát kiến và tin tức cần
thiết mà họ đã đạt được bằng con đường thương mại. Họ tạo điều kiện cho việc
buôn bán mà nước Pháp đã tiến hành ở các xứ phương Đông và chính họ đã tổ
chức ra công ty Đông Ấn đầu tiên…, các giáo sĩ của Hội tin tưởng rằng nhà nước
sẽ có sự che chở đặc biệt đối với Hội… Được như thế, toàn thể hội viên của Hội sẽ
có thêm nhiệt tình để phục vụ quốc gia và đồng bào mình, với lòng hăng hái chưa
bao giờ có, trong khả năng có thể…” [30, tr.33].
Những sự kiện nêu trên cho phép ta nhận định Hội Thừa sai Paris là một tổ
chức truyền giáo do nhà nước Pháp đứng ra tổ chức, bảo trợ. Hội có nhiệm vụ thông
qua và kết hợp với truyền giáo để hỗ trợ cho công cuộc thực dân Pháp trong phạm
vi hoạt động của mình. Những hoạt động sau đó của Hội ở nước ta đã minh chứng
cho nhận định đó.
Việc nước Pháp nhận được quyền truyền giáo ở vùng Viễn Đông cùng với sự
thành lập của Hội Thừa sai Paris đã đánh dấu một bước ngoặt lớn của cuộc truyền



13

bá đạo Thiên chúa vào Việt Nam. Kể từ đây, nước Pháp nắm độc quyền truyền giáo
cũng như bành trướng thế lực ở đây. Hai phương diện đó luôn được thể hiện trong
suy nghĩ và hành động của các giáo sĩ thừa sai Pháp khi đến Việt Nam.
*
*

*

Như vậy, trong chừng mực nhất định, xét về mặt văn hóa, với những hoạt
động tích cực của mình, A. de Rhodes đã trở thành chiếc cầu nối cho sự tiếp xúc,
gặp gỡ giữa hai nền văn hóa Việt – Pháp trong lịch sử. Nói một cách khác, A. de
Rhodes là một biểu hiện sống của sự giao lưu văn hóa Việt – Pháp. Đó là minh
chứng quan trọng cho quá trình du nhập của yếu tố Pháp vào Đại Việt vào thế kỉ
XVII.
1.1.2. Hoạt động của các giáo sĩ Hội Thừa sai Paris
Sau khi được thành lập, bên cạnh hoạt động truyền giáo, Hội Thừa sai Paris đã
góp phần tích cực trong việc môi giới cho thương nhân Pháp và cung cấp những
thông tin quan trọng, cần thiết cho âm mưu thực dân của Pháp ở Việt Nam. Điều
này được thể hiện thông qua những việc làm của những đại diện Tông tòa như
P. Lambert, F. Pallu và các giáo sĩ thừa sai Bourges, Deydier…
Do sự phong tỏa của người Bồ Đào Nha, sau khi nhận chức đại diện Tông tòa,
P. Lambert phải đi bộ sang Viễn Đông và đến Xiêm năm 1661. Năm 1669, Lambert
đến Đàng Ngoài trên một tàu buôn Pháp cùng với giáo sĩ Bourges. Sau khi được
chính quyền Lê – Trịnh cho phép mua đất để mở cửa hàng, Lambert vào Đàng
Trong một thời gian rồi về lại Xiêm. Kể từ đó, Lambert vẫn thường xuyên liên lạc
với chúa Nguyễn. Năm 1679, Lambert qua đời ở Xiêm, để lại cuốn Monito ad

missionarios và nhiều tập hồi kí chứa đựng những tư liệu quý cho thương nhân và
chính giới Pháp về tình hình nước ta đương thời.
Còn F. Pallu đến Xiêm vào năm 1664. Năm 1674, ông định đi kinh lý các giáo
phận ở Đàng Ngoài song không thành vì gặp bão lớn phải dạt sang Philippines.
Năm 1681, sau khi được phong làm Giám mục tổng quản toàn Trung Quốc, Pallu
cử hai giáo sĩ Geffrard và Lefèbre đem tặng vật và thư của vua Louis XIV dâng lên


14

vua Lê xin cho công ty Đông Ấn Pháp được mở thương điếm ở Đàng Ngoài và
quyền được tự do truyền đạo. Kết quả khá thuận lợi, Bourges và Deydier đã được
phép truyền giáo ở Đàng Ngoài. Với thành công bước đầu đó, Pallu thường xuyên
viết thư về cho vua Louis XIV và ban lãnh đạo Công ty Đông Ấn thúc giục họ phải
có hành động gấp để tăng cường sự hiện diện về kinh tế, chính trị của nước Pháp ở
Đàng Ngoài.
Cũng trong khoảng thời gian trên, các giáo sĩ Bourges, Deydier cũng hoạt
động tích cực ở Đàng Ngoài. Deydier sang Đại Việt trước, đã trà trộn với thương
nhân Pháp để ở lại truyền đạo. Còn Bourges đến Đàng Ngoài vào năm 1669 cùng
với Lambert và sau đó ở lại truyền giáo cùng với Deydier. Cả hai thường xuyên gửi
thư về Pondichéry (Ấn Độ) – trụ sở của công ty Đông Ấn để cung cấp thông tin.
Sau khi thuyết phục được chúa Trịnh đồng ý cho người Pháp được tự do buôn bán ở
Đàng Ngoài, Bourges và Deydier thúc giục ban lãnh đạo công ty Đông Ấn phải
thiết lập ngay mối quan hệ thương mại với Đại Việt, nếu không sẽ bị các thương
nhân Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh… chiếm đoạt.
Mối liên hệ chặt chẽ giữa các giáo sĩ thừa sai Pháp với công ty Đông Ấn Pháp
trong việc chiếm lĩnh thị trường Đại Việt đã dẫn tới một chương trình hành động
quy mô lớn mà người thực thi là giám mục Pigeau de Béhaine 5 (thường gọi là Bá
Đa Lộc).
Năm 1766, cùng với 4 giáo sĩ thừa sai khác, Pigeau de Béhaine được cử tới

Đàng Trong. Tháng 7/1767, Béhaine đến Hà Tiên và ở nhà Dòng Hà Tiên. Năm
1770, nhà Dòng này bị cháy, Béhaine phải tạm rời sang Pondichéry (Ấn Độ). Tháng
2/1774, Béhaine được phong làm Giám mục Adran và đến tháng 3/1775, ông trở lại

5

Pigeau de Béhaine sinh ngày 2/2/1741, tại quê mẹ là vùng Origny-en-Thiérache (Pháp). Hậu tố "de

Béhaine" không có hàm ý chỉ ông thuộc dòng dõi quý tộc mà chỉ là tên của một điền trang nhỏ Béhaine, gần
vùng Marle, nơi cha ông là chủ điền trang. Thời thanh niên, ông theo học trong trường dòng và được đào tạo
để trở thành một nhà truyền giáo ở hải ngoại của Hội Thừa sai Paris. Ông rời Pháp từ cảng Lorient vào đầu
năm 1766 với sứ mạng truyền giáo tại Đàng Trong.


15

Hà Tiên. Đây cũng là thời điểm quân Tây Sơn đã lật đổ được chính quyền chúa và
đang truy bắt Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đến mãi tận Hà Tiên.
Trong thời gian ở Pondichéry, Bá Đa Lộc đã hoạch định một kế hoạch để tăng
cường ảnh hưởng của Pháp ở Đàng Trong. Theo đó, ông tin rằng nếu cải giáo được
người có cương vị sẽ kế thừa vương quyền thì có thể chinh phục Đàng Trong một
cách nhanh chóng. Do vậy, ngay khi trở lại Hà Tiên, Bá Đa Lộc tìm cách bắt liên
lạc với người trong dòng họ chúa Nguyễn. Với sự giúp đỡ của giáo dân, Bá Đa Lộc
đã cứu được Nguyễn Ánh trong một trận bao vây của quân Tây Sơn ở làng Cao
Giang (Hà Tiên). Đó là sự khởi đầu cho mối quan hệ gắn bó giữa Bá Đa Lộc và
Nguyễn Ánh.
Năm 1777, sau khi chiếm lại được Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho và Sài Gòn,
Nguyễn Ánh đã cho mời Bá Đa Lộc về ở hẳn với mình như một cố vấn. Từ đó, Bá
Đa Lộc đem hết khả năng giúp đỡ Nguyễn Ánh xây dựng lại lực lượng để phản
công Tây Sơn, khôi phục lại vương quyền.

Sau những thất bại liên tiếp trước quân Tây Sơn, với sự gợi ý của Bá Đa Lộc,
Nguyễn Ánh quyết định tìm kiếm sự giúp đỡ từ nước Pháp. Để cầu viện Pháp, ngoài
việc đồng ý giao hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc đưa sang Pháp làm tin, Nguyễn Ánh
còn thảo sẵn một văn bản 13 điều. Theo đó, nếu giúp đỡ Nguyễn Ánh, Pháp sẽ được
cù lao Hàn (Đà Nẵng), đảo Côn Lôn và quyền tự do buôn bán ở Đàng Trong. Ngoài
ra, Nguyễn Ánh cũng viết thư riêng cho vua Pháp lúc bấy giờ là Louis XVI. Bức
thư có đoạn viết: “Mặc dù bản quốc và quý quốc cách xa nhau vạn dặm, nhưng tôi
chắc rằng Hoàng đế sẽ vui lòng tin tưởng ở lòng thành thực của tôi nên tôi mới
quyết định, sau khi đã thảo luận với giám mục Bá Đa Lộc, để đệ lời yêu cầu lên
Hoàng đế. Tôi gửi giám mục con tôi để Hoàng đế có thể tin ở giám mục, và để giám
mục giúp tôi trở lại bản quốc” [62, tr.164].
Không khó để lí giải động cơ thực sự của Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc trong sự
kiện nêu trên. Khi tích cực giúp đỡ Nguyễn Ánh giành lại vương quyền, Bá Đa Lộc
hi vọng sẽ thuyết phục được Nguyễn Ánh cải giáo để có thể thuận lợi Thiên chúa
hóa Đàng Trong, tăng cường ảnh hưởng chính trị của Pháp ở đây. Còn về phía


16

mình, khi tạo lập quan hệ với nước Pháp, Nguyễn Ánh muốn lợi dụng thực lực và
kỹ thuật quân sự phương Tây để giành chiến thắng trong cuộc chiến sống còn với
quân Tây Sơn. Trong tình thế không còn nhiều lựa chọn, Nguyễn Ánh quyết định
cậy nhờ Pháp – một quốc gia lúc đó còn khá xa lạ đối với chính bản thân ông và
người dân Đàng Trong thông qua vai trò trung gian của Bá Đa Lộc. Vì lợi ích gia
tộc, Nguyễn Ánh đã xem nhẹ hậu quả của những ràng buộc với Pháp sau này. Nhiều
nhà nghiên cứu hoàn toàn có lí khi cho rằng mối liên hệ với Pháp của Nguyễn Ánh
đã khởi đầu một bi kịch cho vương triều Nguyễn về sau.
Ngày 19/11/1784, Bá Đa Lộc cùng hoàng tử Cảnh mang theo thư cầu viện của
Nguyễn Ánh xuống thuyền sang Pháp. Tháng 2/1785, khi ghé qua Pondichéry (Ấn
Độ), Bá Đa Lộc đã vận động các nhà cầm quyền Pháp ở đây giúp đỡ Nguyễn Ánh.

Tháng 2/1787, Bá Đa Lộc về đến Pháp. Trong thời gian ở Paris, Bá Đa Lộc tích cực
tuyên truyền về những lợi ích thương mại ở Đàng Trong. Theo Bá Đa Lộc thì: “Một
căn cứ Pháp ở Nam kì chắc chắn sẽ tạo ra một phương tiện đối lập lại ảnh hưởng
lớn lao của người Anh… Với những tài nguyên chắc chắn hơn, và những viện trợ ở
xa hơn là trông chờ ở châu Âu, để có thể khống chế trên tất cả những biển Trung
Quốc, những quần đảo, cuối cùng là để làm chủ tất cả thương mại ở phần đất trên
thế giới” [73, tr.39].
Tháng 5/1787, thông qua các giám mục ở Toulouse và xứ Narboune, Bá Đa
Lộc được gặp vua Louis XVI và Bộ trưởng bộ Hải quân De Castries. Kết quả là
ngày 25/11/1787, bản dự thảo Hiệp ước viện trợ cho Nguyễn Ánh được đệ lên vua
Louis XVI xét duyệt. Vào ngày 28/11/1787, bản hiệp ước 10 điều được kí kết chính
thức tại Versailles giữa Thượng thư bộ Ngoại giao Pháp là Mont Morin và Bá Đa
Lộc – đại diện cho Nguyễn Ánh. Theo hiệp ước, Pháp sẽ giúp Nguyễn Ánh khôi
phục đất đai bằng cách gửi sang thường xuyên 4 tàu chiến, 1.200 người, 200 pháo
binh và 250 lính châu Phi cùng các loại quân phí, quân trang và trọng pháo. Đổi lại,
Nguyễn Ánh sẽ nhường cho Pháp chủ quyền và sở hữu tuyệt đối về quần đảo Côn
Lôn và cảng Hội An ngay sau khi quân đội Pháp chiếm lại được cảng này. Thương
nhân Pháp được độc quyền tự do buôn bán ở Đàng Trong, được chính quyền Đàng


17

Trong bảo vệ tính mạng và tài sản một cách đặc biệt. Và khi nước Pháp có chiến
tranh với bất kì quốc gia nào thì Nguyễn Ánh phải gửi giúp binh lính, thuỷ thủ,
lương thực, tàu chiến và nhận đài thọ mọi trang bị và nuôi dưỡng…
Hiệp ước Versailles là mốc quan trọng đầu tiên trong lịch sử quan hệ chính trị
Việt – Pháp. Nó chứng tỏ ý đồ xâm lược của Pháp đối với nước ta, bất chấp những
khó khăn mà Pháp đang gặp phải lúc bấy giờ.
Sau khi hiệp ước Versailles được kí kết, vua Louis XVI đã giao cho hầu tước
De Conway – Toàn quyền kiêm Tổng tư lệnh Pháp ở Ấn Độ thực hiện việc giúp đỡ

Nguyễn Ánh. Nhưng sự bùng nổ của cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 khiến hiệp
ước Versailles không được thực thi trong thực tế. Công cuộc can thiệp chính trị quân sự của Pháp ở Đàng Trong vào cuối thế kỉ XVIII đã không thực hiện được.
Tuy vậy, Bá Đa Lộc vẫn quyết định hành động với tư cách cá nhân. Ông vận
động giới tư bản thuộc địa quyên tiền mua tàu chiến, vũ khí và tuyển người sang
giúp Nguyễn Ánh. Tháng 9/1788, tàu Dryade đến Côn Lôn chở theo khoảng 1000
súng. Mấy tháng sau, tàu Garonne chở đại bác đến, rồi tàu Cook, tàu Moyse chở
đến các loại quân trang, quân dụng.
Một số tài liệu còn ghi lại rõ tên tuổi 18 người Pháp và 2 người châu Âu khác
trước sau sang giúp Nguyễn Ánh, trong số đó có một số người chỉ ở một thời gian
ngắn rồi lại đi, nhưng cũng có những người ở lại rất lâu, thậm chí sau khi Nguyễn
Ánh lên ngôi vua (1802) họ đã nhận chức và làm việc trong triều đình nhà Nguyễn
như Chaigneau, Vannier… Bên cạnh đó, trong quân đội của Nguyễn Ánh thời kì
này có rất nhiều người phương Tây tham gia. Theo tác giả G. Taboulet trong cuốn
Hành động của người Pháp ở Đông Dương, dẫn lời của Vannier, thì bấy giờ trong
quân đội của Nguyễn Ánh có 14 sĩ quan và 80 binh lính người Pháp. Taboulet cũng
dẫn một bức thư của Bá Đa Lộc đề ngày 18/7/1794 nói rằng có khoảng 40 người Âu
trong lục quân. Taboulet dựa vào hai nguồn tài liệu nói trên, ước đoán rằng số lượng
người Pháp giúp Nguyễn Ánh có khoảng 100 người [54, tr.136].
Có không ít người đã đề cao quá mức những đóng góp của Bá Đa Lộc trong
việc giúp đỡ Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn. Chúng tôi cho rằng nhận định đó


18

chưa thật sự thỏa đáng. Trên thực tế, sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc và một số lính đánh
thuê người Pháp có thể giúp cho lực lượng của Nguyễn Ánh mạnh hơn, song không
thể coi đó là yếu tố quyết định. Nguyễn Ánh có thể đánh bại được quân Tây Sơn
trước hết là nhờ ý chí và năng lực của Nguyễn Ánh, do nội bộ Tây Sơn bị chia rẽ
sau khi vua Quang Trung qua đời…
Tuy vậy, không thể phủ nhận chính những người Pháp sang giúp Nguyễn Ánh

đã ngày càng tham gia nhiều vào nội tình Đại Việt. Thông qua mối liên hệ với
Nguyễn Ánh, họ “trở thành những sứ giả trung gian và tích cực trong các hoạt
động mượn quân và mua súng của tập đoàn Nguyễn Ánh, những điệp viên và cố vấn
đắc lực trong các hoạt động do thám và tác chiến” [66, tr.79]. Các hoạt động này
chính là bước khởi đầu cho công cuộc thực dân của Pháp tại Việt Nam. Do vậy,
chúng tôi cũng cho rằng mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh với Bá Đa Lộc là một vết
đen trong lịch sử xác lập quyền lực của nhà Nguyễn và cá nhân Nguyễn Ánh – Gia
Long.
*
*

*

Như vậy, từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX, quan hệ Việt – Pháp về cơ bản
được khởi đầu và đẩy mạnh thông qua vai trò của các giáo sĩ Thiên chúa giáo. Các
giáo sĩ thừa sai Pháp tìm đến Đại Việt trước hết là để truyền bá đạo Thiên chúa. Tuy
nhiên đồng thời với truyền giáo, họ cũng đảm nhận luôn một sứ mạng chính trị quan
trọng – dọn đường cho sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân Pháp ở nước ta. Mọi
hành động của họ, tùy từng hoàn cảnh và khả năng cụ thể đều hướng về mục tiêu
chinh phục toàn diện vùng đất mới cho công cuộc thực dân của Pháp, trong đó sự
chinh phục phần hồn được coi như một thành tố của sự nghiệp đó.
Thực tế lịch sử cho thấy từ A. de Rhodes đến Bá Đa Lộc, người Pháp đã có
những bước tiến dài, vững chắc trong công cuộc xâm nhập vào Đại Việt. Với A. de
Rhodes, Pháp đã gạt bỏ ảnh hưởng của Bồ Đào Nha, nắm độc quyền truyền giáo
cũng như bành trướng thế lực ở nước. Những hoạt động tích cực của các thành viên
thuộc Hội thừa sai Paris, đặc biệt là Bá Đa Lộc, đã có tác dụng lôi kéo sự chú ý của


×