Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

những thành tựu của thơ đi sứ thời nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 151 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
____________________

Nguyễn Thị Thanh Diễm

NHỮNG THÀNH TỰU
CỦA THƠ ĐI SỨ THỜI NGUYỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
____________________

Nguyễn Thị Thanh Diễm

NHỮNG THÀNH TỰU
CỦA THƠ ĐI SỨ THỜI NGUYỄN
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số

: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. LÊ THU YẾN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, tài liệu trích dẫn, kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và nghiêm túc.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Diễm


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này, người viết
đã nhận được sự hướng dẫn tận tình và sự động viên, giúp đỡ của PGS.TS.
Lê Thu Yến. Tôi xin kính gửi lời tri ân chân thành nhất đến Cô!
Xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh, các Thầy Cô giáo khoa Ngữ Văn, các Thầy Cô phòng
Sau đại học, Thư viện trường đã luôn tạo điều kiện cho tôi học tập, tra
cứu, tham khảo tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Kính gửi lời cảm ơn đến những người thân, bạn bè đã luôn quan tâm,
động viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành công việc học tập và nghiên cứu đề
tài luận văn này!
Xin chân thành cảm ơn!


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm 2011
Học viên

Nguyễn Thị Thanh Diễm


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cám ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LỊCH SỬ THƠ ĐI SỨ ................................................................. 8
1.1. Khái niệm thơ đi sứ ................................................................................. 8
1.2. Bối cảnh xã hội thời Nguyễn .................................................................. 9
1.3. Lực lượng sáng tác ................................................................................ 20
Chương 2: THƠ ĐI SỨ THỜI NGUYỄN – NHỮNG THÀNH TỰU VỀ
MẶT NỘI DUNG .......................................................................................... 27
2.1. Thơ đi sứ thời Nguyễn – tiếng nói của lòng yêu nước ......................... 27
2.2.1. Lòng yêu nước gắn liền với tinh thần tự hào dân tộc ..................... 27
2.1.2. Lòng yêu nước gắn liền với lòng tự hào về nền văn hiến dân tộc .. 36
2.1.3. Lòng yêu nước gắn với khát vọng hòa bình ................................... 39
2.2. Thơ đi sứ thời Nguyễn – khúc hát nhớ nước thương nhà ..................... 44
2.3. Thơ đi sứ thời Nguyễn – Cảm quan mới về lịch sử .............................. 59
2.4.Thơ đi sứ thời Nguyễn – không gian của những nỗi buồn u ẩn ............ 71
Chương 3: THƠ ĐI SỨ THỜI NGUYỄN - NHỮNG THÀNH TỰU VỀ
MẶT NGHỆ THUẬT ................................................................................... 88
3.1. Thể loại thơ Đường luật nghiêm trang, cổ kính................................... 88
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................. 93
3.2.1. Câu thơ ............................................................................................ 93

3.2.2.Từ ngữ ............................................................................................ 106
3.3. Giọng điệu nghệ thuật ......................................................................... 119
3.3.1. Giọng u buồn, thiết tha ................................................................. 123
3.3.2. Giọng mỉa mai, căm giận .............................................................. 130
3.3.3. Giọng tự hào ................................................................................. 132
KẾT LUẬN .................................................................................................. 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 142


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, có thể nói thời trung
đại (thế kỉ X đến thế kỉ XIX) nói chung, thời Nguyễn nói riêng, việc thực hiện
nghĩa tu hiếu (sửa việc giao hiếu) và đạo giao lân (việc giao thiệp với các
nước láng giềng) đã trở thành phép trị nước của các vương triều Việt Nam.
Điều này đã được nhà bác học Phan Huy Chú khẳng định trong “Lịch triều
hiến chương loại chí”: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với các nước láng
giềng là việc lớn, mà những khi ứng thù lại rất quan hệ, không thể xem
thường, cho nên nghĩa tu hiếu chép ở kinh Xuân thu, đạo giao lân chép ở hiền
truyện, chính là đem lòng tin thực mà kết giao, người có quyền trị nước phải
nên cẩn thận.” [8, tr 185]. Lời nhận định trên giúp ta hiểu được vì sao trong
văn học trung đại thời Nguyễn có nhiều người làm thơ trên đường đi sứ đến
như vậy.
Thơ đi sứ thời Nguyễn có một vị trí đáng kể trong lịch sử đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Ngay từ buổi đầu của các triều đại Việt Nam, lĩnh
vực đi sứ nói chung và thơ đi sứ nói riêng đã gánh vác những nhiệm vụ hết
sức nặng nề. Trong những trận phá cường địch đem lại chiến công hiển hách,
ngoài công đầu của mặt trận quân sự thì lĩnh vực ngoại giao cũng đóng góp
không nhỏ: “Nước ta đời nhà Trần ứng tiếp với sứ nhà Nguyên, khi cương khi
nhu đều là đắc thế cả, cho nên từ năm Trùng hưng về sau mới có thể hết việc

binh đao, mà Bắc sứ thường thường phải khuất phục. Trong khoảng hơn trăm
năm, ngăn được sự dòm ngó của Trung Quốc mà tăng thêm thanh danh cho
văn hiến nước nhà, đó là nhờ sự giao tiếp đắc nghi giúp sức vậy.”[8, tr 255].
Cùng với bước đi của lịch sử, thơ đi sứ cũng đã sớm hình thành, kịp thời ghi
lại những nét son cả những gian nan nguy hiểm của cha ông trên lộ trình vạn
dặm đến Yên Kinh. Vì thế, dựng lại vóc dáng tiến trình văn học nước nhà


không thể không nói đến dòng văn học đi sứ này.
Thơ đi sứ còn là một bộ phận quý giá trong di sản văn học dân tộc. Sứ
giả nước Việt thời cổ, đặt chân lên Bắc quốc kể có hàng trăm, thơ đi sứ kể có
hàng vạn bài. Thời xưa, người đi sứ luôn có dũng khí bảo vệ lợi ích và uy tín
dân tộc; có nhân cách và học vấn. Họ xứng đáng đại diện cho nền văn hiến
dân tộc. Trong mười thế kỉ của văn học trung đại, một khối lượng lớn thơ đi
sứ ra đời. Trong số đó có phần lớn tác giả và thi phẩm xuất sắc của thời
Nguyễn như Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Phan Huy Chú, Lý Văn Phức,
Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu… và đặc biệt là Nguyễn Du. Thế nhưng, thơ
đi sứ thời này ít được chú ý. Tuy đã có một số bài viết nghiên cứu, song
những bài viết này dường như chưa đi cụ thể vào thơ đi sứ thời Nguyễn. Do
đó, để góp phần đi sâu vào việc tìm hiểu những di sản của nền văn học dân
tộc, thiết nghĩ việc tìm hiểu dòng thơ đi sứ thời Nguyễn có một ý nghĩa nhất
định.
Mặt khác, ngoại giao từ xưa đến nay luôn là một phương diện quan
trọng đối với việc an nguy, tồn vong, phát triển của một quốc gia. Thời đại
hôm nay là thời đại của giao lưu, hòa nhập khu vực và thế giới. Ngoài học vấn
uyên bác, có văn tài, các vị sứ thần thời Nguyễn còn là những người giỏi về
ứng xử, có cốt cách và dũng khí. Do đó, việc tìm hiểu thơ đi sứ thời Nguyễn
chính là dịp để chúng ta nhìn lại, nhìn sâu những bài học ngoại giao khéo léo,
tài tình và một lần nữa ngưỡng vọng tài hoa, tâm huyết, khí phách hào hùng
của cha ông ta. Đó chính là nơi mà yếu tố con người, yếu tố văn hoá phát huy

hết sức mạnh của nó, góp phần làm nên sức mạnh Việt Nam trong chiều dài
lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ đi sứ thời Nguyễn không kém về số lượng, chất lượng tác giả, thi
tập tác phẩm so với các bộ phận thơ khác. Theo bước đầu tìm hiểu thì thời


Nguyễn có khoảng hai mươi người đi sứ làm thơ với rất nhiều thi tập và bài
thơ. Thế nhưng các nhà nghiên cứu ít mặn mà với dòng thơ này, số bài nghiên
cứu về thơ đi sứ thời Nguyễn còn rất ít.
Một bài nghiên cứu có tính khái quát, hệ thống, bao quát đươc toàn bộ
dòng thơ đi sứ từ thời Trần đến thời Nguyễn trên cả hai mặt nội dung và nghệ
thuật là bài của Mai Quốc Liên “Thơ đi sứ, khúc ca của lòng yêu nước và ý
chí chiến đấu.” in trong Tạp chí Văn học, số 3-1979. Đến năm 1993, bài viết
được bổ sung làm Lời giới thiệu của tập Thơ đi sứ do Phạm Thiều và Đào
Phương Bình chủ biên. Đáng chú ý hơn những bài nghiên cứu khác, bài này
đi sâu vào nhiều mặt của thơ đi sứ: khái quát những đặc điểm chủ yếu của các
giai đoạn thơ đi sứ; điểm qua những nội dung của thơ đi sứ; vài nhận xét rất
tinh tế về nghệ thuật: “Thơ đi sứ nhiều bài có tứ thơ cao lời thơ lạ, cảm hứng
thanh thoát đẹp đẽ thoát ra khỏi khuôn sáo”,“đi sâu vào dòng thơ ấy chúng
ta sẽ thấy cái phong phú của hình thức nghệ thuật, tính nhiều vẻ của phong
cách, tính sáng tạo qua những đề tài cổ điển.” Tuy vậy, với tính chất là một
Lời giới thiệu cho tập thơ nên bài viết chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chung
chứ không đi sâu vào giai đoạn thơ đi sứ thời Nguyễn.
Năm 1981, trong cuốn “Văn học Việt Nam trên những chặng đường
chống phong kiến Trung Quốc xâm lược”, Nxb Khoa học xã hội, có bài viết
“Văn học bang giao nửa đầu thế kỉ XIX.”, Nguyễn Đổng Chi chọn một giai
đoạn – thơ bang giao thời Nguyễn và đã có nhấn mạnh về mặt nội dung của
thơ bang giao thời này.
Năm 2006, luận văn thạc sĩ văn học của Nguyễn Thị Kim Anh với đề

tài “Những thành tựu của thơ bang giao thời trung đại Việt Nam” có đi
sâu vào các giai đoạn thơ đi sứ thời trung đại nhưng cũng chưa nghiên cứu
riêng về phần thơ đi sứ thời Nguyễn.


Ngoài ra, còn một số bài nghiên cứu mà nội dung liên quan ít nhiều đến
thơ đi sứ thời Nguyễn như:
Văn chương Bùi Văn Dị của Nguyễn Đình Chú đăng trong Tạp chí
Văn học, số 8-1996.
Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức của ông qua chuyến đi
công cán vùng Hạ Châu của Claudine và Tạ Trọng Hiệp đang trong Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 5-1996 và số 7-1997.
Lạng Sơn trong hành trình thơ đi sứ của Trần Thị Băng Thanh đăng
trong Tạp chí Văn học, số 11-1996.
Nhìn chung, các bài nghiên cứu về thơ đi sứ thời Nguyễn chưa nhiều
lắm và do đó, vấn đề dường như đang còn bỏ ngõ. Các bài viết tuy chưa hoàn
chỉnh nhưng vẫn là những bài viết có giá trị, có tác dụng gợi mở nhiều hướng
đi, luận điểm, nội dung có ý nghĩa khoa học đối với mục đích nghiên cứu của
luận văn, là điểm tựa cho người viết luận văn đi tới đích. Vì thế, người viết
luận văn nghĩ rằng, việc nghiên cứu đề tài “Những thành tựu của thơ đi sứ
thời Nguyễn” là hữu ích, cần thiết cho nền thơ nói riêng và văn học Việt Nam
nói chung. Người viết hi vọng bài nghiên cứu nhỏ của mình có thể góp thêm
một tia nắng soi rọi những nụ hoa thơ trên cánh đồng di sản văn chương của
dân tộc.
3. Đóng góp chính của luận văn
Luận văn là tổng hợp kết quả nghiên cứu và ghi nhận những nét khái
quát của những người đi trước về thơ đi sứ thời Nguyễn.
Luận văn tập trung tìm hiểu diện mạo của thơ đi sứ thời Nguyễn để đưa
ra cái nhìn tương đối toàn diện và hệ thống:
- Lịch sử thơ đi sứ.

- Thơ đi sứ thời Nguyễn – những thành tựu về mặt nội dung.
- Thơ đi sứ thời Nguyễn – những thành tựu về mặt nghệ thuật.


Từ đó, góp thêm vào nền văn học tiếng nói tích cực, lòng yêu nước,
niềm tự hào với tinh thần chiến đấu, nhân ái của người Việt. Và đây cũng là
dịp giúp cho người viết và người đọc có điều kiện đi sâu khám phá, tiếp cận,
lĩnh hội được cái hay cái đẹp của mảng thơ cổ quý giá này.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu giới hạn trong những vấn đề có liên quan đến thơ

đi sứ thời Nguyễn, cụ thể gồm ba nội dung chính:
- Lịch sử thơ đi sứ.
- Thơ đi sứ thời Nguyễn – những thành tựu về mặt nội dung.
- Thơ đi sứ thời Nguyễn – những thành tựu về mặt nghệ thuật.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát chủ yếu các thi phẩm trong tập Thơ đi sứ do Phạm

Thiều và Đào Phương Bình chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993. Ngoài
ra, để nội dung bài viết được đầy đủ, luận văn còn sử dụng thêm một số thi
phẩm đi sứ trong các tập thơ khác:
- Nguyễn Du toàn tập, tập 1, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học,
1996.
- Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn nghệ, 2007.
- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, in lần 2, Nxb Văn học, 1976.

- Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X – XIX), tập 1, Nxb Giáo
dục.
- Tổng hợp văn học Việt Nam, tập 9A, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993.
- ….
4.3. Phương pháp nghiên cứu
4.3.1. Phương pháp lịch sử
Thơ đi sứ thời Nguyễn là một bộ phận trong văn học trung đại Việt


Nam và mang tính đặc trưng của văn học trung đại: văn – sử bất phân. Hay
nói cách khác, văn học quấn quýt chặt chẽ với điều kiện lịch sử và không ở
đâu mối quan hệ văn học – lịch sử lại thể hiện rõ rệt hơn dòng thơ đi sứ. Nhờ
phương pháp này, ta có thể nhận ra được các giai đoạn thơ đi sứ. Thơ đi sứ
thời Nguyễn tuy có những điểm chung với thơ đi sứ thời Trần, thời Lê – Tây
Sơn, nhưng giữa chúng vẫn có những điểm dị biệt. Điều này chủ yếu do hoàn
cảnh lịch sử, thời đại quy định.
4.3.2 Phương pháp loại hình
Thơ đi sứ thời Nguyễn và thơ ca trong văn học trung đại nói chung,
phần lớn các tác giả hay dùng chữ Hán hay chữ Nôm làm phương tiện sáng
tác và đều sử dụng thể thơ Đường luật. Vì thế, phương pháp khảo sát, phân
tích thơ đi sứ thời Nguyễn không giống cách phân tích tìm hiểu thơ hiện đại.
Người viết sử dụng phương pháp loại hình để thấy được đặc trưng của thơ đi
sứ thời Nguyễn là sử dụng thể thơ Đường luật cổ kính trang nghiêm.
4.3.3. Phương pháp cấu trúc – hệ thống
Ngoài những quan hệ hướng ngoại, tác phẩm văn học luôn luôn tồn tại
quan hệ hướng nội: quan hệ giữa các yếu tố trong một chỉnh thể nghệ thuật.
Mặt khác, thơ đi sứ thời Nguyễn là một bộ phận của thơ ca trung đại, rộng
hơn là thơ ca Việt Nam, có nghĩa là nó tồn tại trong một hệ thống nhỏ trong
nhiều hệ thống tương quan: thơ trung đại, thơ hiện đại. Vì vậy, người viết
luận văn dùng phương pháp cấu trúc – hệ thống để thấy rõ mối quan hệ giữa

các yếu tố trong cấu trúc bài thơ; giữa thơ đi sứ thời Nguyễn, thơ cổ điển và
thơ hiện đại Việt Nam.
Các phương pháp trên được sử dụng thường xuyên trong luận văn kết
hợp với các thao tác: thống kê và đối chiếu.


5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn triển khai vấn đề trên 3
chương chính: Chương 1: Lịch sử thơ đi sứ; Chương 2: Thơ đi sứ thời
Nguyễn – những thành tựu về mặt nội dung; Chương 3: Thơ đi sứ thời
Nguyễn – những thành tựu về mặt nghệ thuật.
Ở chương 1, người viết trình bày khái quát lịch sử thơ đi sứ nói chung
và thơ đi sứ thời Nguyễn nói riêng để có một cái nhìn tổng quan về hoàn cảnh
sáng tác, lực lượng sáng tác cũng như những đặc điểm cơ bản của mảng thơ
này.
Ở chương 2 và chương 3, người viết đi sâu vào trình bày những thành
tựu về mặt nội dung và nghệ thuật của thơ đi sứ để qua đó có một cái nhìn cụ
thể về nó. Trong chương 2, những thành tựu về mặt nội dung của thơ đi sứ
thời Nguyễn, chúng tôi tạm chia thành 4 tiểu mục nhỏ như sau:
* Thơ đi sứ thời Nguyễn – tiếng nói của lòng yêu nước.
* Thơ đi sứ thời Nguyễn – khúc hát nhớ nước thương nhà.
* Thơ đi sứ thời Nguyễn – cảm quan mới về lịch sử.
* Thơ đi sứ thời Nguyễn – không gian của những nỗi buồn u ẩn.
Việc phân chia như trên chắc chắn sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp vì
tác phẩm là một khối thống nhất hoàn chỉnh, là sự đan xen của nhiều cung bậc
cảm xúc khác nhau nhưng chúng tôi hi vọng việc phân chia như vậy phần nào
giúp chúng ta thấy rõ từng nội dung chính trong thơ đi sứ.
Chương 3 khai thác thơ đi sứ thời Nguyễn ở phương diện hình thức
nghệ thuật bao gồm thể thơ, ngôn ngữ nghệ thuật và giọng điệu nghệ thuật. Ở
phần này, chúng tôi chú ý đến những kế thừa và sáng tạo của các tác giả trong

khuôn khổ thể loại. Đồng thời chúng tôi cũng thực hiện thao tác thống kê để
qua đó có cơ sở đưa ra những nhận xét về hình thức nghệ thuật của các tác
phẩm.


Chương 1: LỊCH SỬ THƠ ĐI SỨ
1.1. Khái niệm thơ đi sứ
Không phải đến thời Nguyễn, thơ đi sứ mới được hình thành. Trong
mười thế kỉ trung đại, việc bang giao, đi sứ chính thức được thiết lập từ thời
Trần (1258) đến cuối triều Nguyễn (1884) với một số lượng lớn các thi tập lấy
đề tài từ lĩnh vực ngoại giao với các tên bắt đầu bằng “Hoa trình” hoặc “Sứ
trình”. Riêng thời Nguyễn có các thi tập như Hoa thiều ngâm lục của Phan
Huy Chú như Sứ trình chỉ lược thảo, Sứ trình đồ bản của Lý Văn Phức, Sứ
trình thi tập của Phan Thanh Giản, Sứ trình vạn lý tập của Nguyễn Văn Siêu,
Sứ trình yếu loại khúc của Bùi Quỹ … Đó là loại thơ các sứ thần sáng tác
trong khi đi sứ, phản ánh hoạt động quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta. Bên cạnh đó còn có những bài thơ của một số nhân vật đi
công cán, hiệu lực nước ngoài chứ không phải trên đường đi sứ dưới triều
Nguyễn như Cao Bá Quát đi Indonesia, Hà Tông Quyền đi Nam Dương…
Thơ đi sứ thường viết về tình yêu đất nước, tả cảnh, vịnh sử, hoài cảm
về quê hương, nỗi buồn u ẩn… Đề tài không mới nhưng đi sâu vào nội dung
của từng đề tài thì thơ đi sứ vẫn có nét đặc thù. Chẳng hạn, nói về niềm tự hào
dân tộc thì loại thơ nào cũng có nhưng trong thơ đi sứ vì được nảy sinh trong
hoàn cảnh đặc biệt nên nội dung cũng khác biệt. Đi sứ là dịp các sứ thần thực
hiện một cuộc đấu tranh về văn hóa hay một cuộc biểu dương về văn hóa.
Việc ứng đối và thù tạc trong khi đi sứ đã trở thành vấn đề hết sức hệ trọng,
không thể xem thường. Khi đứng trước sân rồng Bắc quốc uy nghi cũng là lúc
mà bản lĩnh và trí tuệ của người được đi sứ được thăng hoa cao nhất và vì thế,
niềm tự hào dân tộc được biểu hiện trên nhiều bình diện khác nhau, sáng tạo
và linh hoạt.

Thơ đi sứ mang nội dung hoài cảm quê hương có sắc thái rất riêng.
Ngày xưa đi sứ, đường xa vạn dặm, một lần đi là mấy năm xa Tổ quốc, xa


quê hương, nỗi nhớ nhà lúc nào cũng canh cánh trong lòng và được đẩy lên ở
độ cao nhất. Vì thế, nỗi nhớ càng được ý thức sâu hơn. Chính vì ý thức sâu
hơn nên tình yêu ấy cứ dâng trào mãnh liệt, chân thực, trực tiếp, không ẩn
giấu, không bóng gió xa xôi.
Viết về lịch sử, nếu thơ vịnh sử chủ yếu lấy sự kiện, nhân vật từ Nam
sử thì thơ đi sứ chủ yếu lấy từ Bắc sử. Đó là những Chiêu Quân, Dương Quý
Phi, Tam liệt nữ, Hạng Võ, Nhạc Phi, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Cù Thức Trĩ,
Minh Thành Tổ, Tô Tần, Mã Viện, Tần Cối…
Như vậy, thơ đi sứ là loại thơ làm ra trên đường đi sứ, trong những
chuyến đi dương trình hiệu lực. Thơ đi sứ phong phú về đề tài. Cũng là những
đề tài truyền thống nhưng tình yêu nước, nỗi nhớ quê hương, vịnh sử… trong
thơ đi sứ có màu sắc, phong thái đặc biệt không lẫn lộn với bất cứ dòng thơ
nào.
1.2. Bối cảnh xã hội thời Nguyễn
Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam,
bắt đầu khi hoàng đế Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây
Sơn và sụp đổ hoàn toàn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945 – tổng
cộng là 143 năm. Triều đại Nhà Nguyễn được ghi nhớ với hai giai đoạn
chính: giai đoạn độc lập (1802 – 1858) và giai đoạn bị đế quốc Pháp xâm lăng
và đô hộ (1858 - 1945). Giai đoạn độc lập (1802 – 1858) là giai đoạn mà các
vua nhà Nguyễn đang nắm toàn quyền quản lý đất nước, kéo dài 56 năm và
trải qua 4 đời vua, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Giai đoạn bị
Pháp xâm lăng và đô hộ (1858-1945) là giai đoạn kể từ việc quân Pháp
đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Tháng 8 năm
1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó rút vào xâm
chiếm Sài Gòn. Tháng 6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh

miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để


tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam kỳ). Sau khi củng cố vị
trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt
những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở Bắc Kỳ.
Giai đoạn này kết thúc khi Bảo Đại tuyên bố thoái vị năm 1945.
Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1428 – 1789) năm 1527 rồi
bị đánh đuổi bởi thế lực phù Lê năm 1592, Việt Nam bước ngay vào thời kỳ
Nam – Bắc phân tranh của hai họ Trịnh – Nguyễn, vốn là hai thế lực lớn của
phong trào phù Lê. Cuộc chiến Nam – Bắc triều chấm dứt bởi phong trào
nông dân Tây Sơn của ba anh em họ Nguyễn năm 1771. Nguyễn Ánh, một
người của nhà Nguyễn còn sống sót ở Phú Xuân (nay là Huế), sau vụ thảm sát
bởi phong trào nông dân lúc bấy giờ, đã chạy đến vùng Mê Kông lánh nạn và
đã bền bỉ xây dựng lực lượng trong suốt hai mươi năm. Năm 1802, sau khi
đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong và Đàng Ngoài
cũ, Nguyễn Ánh tự đặt niên hiệu là Gia Long (Gia Long là chỉ từ Gia Định
(vùng đất bao gồm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và khu vực lân cận) đến
Thăng Long, mang ý nghĩa là toàn bộ Việt Nam), lập ra nhà Nguyễn. Các vua
Nguyễn từ Gia Long (1802 – 1847), Minh Mạng (1820 – 1840) đến Triệu Trị
(1841- 1847), Tự Đức (1848- 1843) kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền
thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng, suy vong.
Tuy nhiên, trong hơn nửa thế kỉ tồn tại dưới triều Nguyễn, xã hội Việt Nam
hầu như không phát triển lên được theo chiều hướng tiến bộ của thời đại, mâu
thuẫn xã hội sâu sắc làm bùng lên hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn của nông
dân, của các dân tộc ít người và cuối cùng trở thành đối tượng xâm lược của
chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Thành lập và thống trị trong thế kỉ XIX, nhà Nguyễn thừa hưởng được
thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất
đất nước, làm chủ một lãnh thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau bao



gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ. Do mặc cảm với vị trí của mình, năm
1803, Gia Long cử sứ bộ do Lê Quang Định đứng đầu, sang nhà Thanh xin
quốc hiệu và đầu năm 1804 chính thức công bố tên nước là Việt Nam. Kinh
đô đóng ở Phú Xuân (Huế).
Nhà Nguyễn ra đời và tồn tại không những trong một bối cảnh đặc biệt
của đất nước mà còn trong tình hình thế giới có nhiều biến chuyển lớn. Thắng
lợi của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa
thực dân và của sự giao lưu buôn bán quốc tế. Hàng loạt nước châu Á lần lượt
rơi vào ách đô hộ thực dân và Việt Nam cũng không tránh khỏi mối đe doạ
đó.
Tình hình xã hội và đời sống của nhân dân :
Cũng như các triều đại trước, dưới thời Nguyễn, xã hội Việt Nam chia
thành hai giai cấp lớn: thống trị và bị trị.
Giai cấp thống trị bao gồm vua, quan, thơ lại trong hệ thống chính
quyền và giai cấp địa chủ. Vua và hoàng tộc (với cách gọi chung là Tôn thất)
giờ đây đã trở thành một lớp người đông đảo, có đặc quyền, nhất là con cháu
gần gũi của nhà vua. Họ có dinh thự, ruộng vườn rộng rãi và được một hệ
thống cơ quan, đứng đầu là phủ Tôn nhân, chăm lo, bảo vệ. Các quan chức
xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau nhưng do vị thế của mình, trở
thành lớp người đối lập với nhân dân, hạch sách, bóc lột nhân dân. Tất nhiên,
trong số họ cũng có những người thanh liêm, trung thực, biết lo lắng cho cuộc
sống của nhân dân, sự ổn định của xã hội. Ở họ, hệ tư tưởng Nho giáo được
củng cố. Giai cấp địa chủ giờ đây đã trở thành một lực lượng đông đảo, vừa
có thế trong quan trường vừa có nhiều uy quyền ở làng xã. Xu thế phát triển
của chế độ sở hữu ruộng đất Việt Nam không tạo ra những địa chủ lớn có
ruộng đất tập trung ở bắc cũng như ở nam. Do đó giai cấp địa chủ vừa là cơ
sở xã hội của nhà nước Nguyễn vừa luôn luôn phải dựa vào lực lượng hào lí ở



làng xã và quyền lực chính trị của nhà nước để tồn tại. Có thể thêm vào đây
hệ thống thổ tù ở các vùng dân tộc ít người.
Giai cấp bị trị bao gồm toàn bộ nông dân, thợ thủ công, thương nhân,
một số dân nghèo thành thị. Lớp người bị lưu đày, nô tì cùng gia quyến sống
ở các đồn điền cũng tăng lên đáng kể.
Đời sống nhân dân: Tuyệt đại đa số cư dân là nông dân, dân bản mường
vùng dân tộc ít người. Họ có ít nhiều ruộng đất tư để cày cấy, sinh sống.
Thêm vào đó là khẩu phần ruộng công nhỏ nhoi vừa xa, vừa xấu. Nhiều người
phải chạy vạy buôn bán ở các chợ làng, chợ huyện hoặc làm thủ công, gánh
vác thuê cho các nhà buôn bán. Họ là lớp người gánh chịu mọi tai hoạ của tự
nhiên, mọi thiệt thòi, bất công của xã hội. Như đã thấy ở trên, chế độ binh
dịch và công tượng của nhà Nguyễn khá nặng nề mặc dầu được ít nhiều ưu
đãi về ruộng đất. Số dân còn lại phải gánh chịu mọi thứ thuế má, sưu dịch.
Về ruộng đất, nhà Nguyễn phân khu vực để đánh thuế (3, 4 hay 5 tuỳ
theo triều vua). Các loại ruộng đất đều phải chịu thuế. Những năm mất mùa,
nhà nước thường miễn giảm thuế hoặc cho nợ. Trường hợp thuế thiếu lâu
ngày, nhà nước cho nộp thay bằng tiền (chế độ đại nạp). Thuế nhân đinh cũng
được chia theo khu vực và hạng người. Mức thuế từ 3 – 4 tiền đến 1 quan 8
tiền. Quy định về thóc nộp thuế rất ngặt nghèo: phải thật khô, tốt. Thóc hơi
ẩm đều không được nhận. Theo quy định, mỗi năm một dân đinh phải chịu 60
ngày lao dịch. Trong thực tế, nhân dân phải làm khá nặng trong những năm
nhà Nguyễn xây dựng lại kinh thành, cung điện, dinh thự. Năm 1807, kinh
thành Huế vừa xây xong, Gia Long lại điều động hàng ngàn dân đinh, quân
lính Thanh Hoá, Nghệ An, Bắc Thành vào sửa chữa liên miên hàng chục năm.
Minh Mạng lên ngôi, sai phá dỡ cung điện vua Lê ở Hà Nội lấy nguyên liệu
chở về Huế xây dinh thự… Trong một cuộc tuần du ra Bắc Kì của Thiệu Trị
năm 1842, số quân lính và người theo hầu lên đến 17.500 người với 44 con



voi, 172 con ngựa. Nhân dân dọc đường phải xây dựng 44 hành cung cho vua
nghỉ.
Như đã thấy ở trên, thiên tai, mất mùa thường xuyên đe doạ cuộc sống
của người dân nghèo. Sau mỗi lần vỡ đê, lụt lội lớn, mùa màng hư hại, nhân
dân lại bỏ làng đi phiêu tán kiếm ăn. Năm 1833, theo lời tâu của Nguyễn
Công Trứ, dân đói các tỉnh đến kiếm ăn ở Hải Dương hơn 27.000 người. Trận
bão năm 1842 làm tỉnh Nghệ An đổ sập 40.753 ngôi nhà, chết 5240 người.
Dịch tả lớn gây tổn hại hàng vạn sinh linh. Chẳng hạn, năm 1820, dịch tả phát
ra từ mùa thu qua mùa đông làm chết khoảng 54.000 người. Năm 1840, dịch
tả lại phát sinh ở Bắc Kì làm chết hơn 67.000 người. Trong hai năm1849 –
1850, dịch tả lại hoành hành từ Bắc chí Nam, số người chết lên đến 589.460
người.
Về quan hệ ngoại giao:
Quan hệ với các nước láng giềng:
Cũng như các triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long tiến hành
ngoại giao là Trung Quốc. Trước khi ra Bắc, tháng 5 năm 1802, Nguyễn Ánh
đã lên ngôi vua ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long. Một mặt xưng đế, lập
niên hiệu, mặt khác vào tháng 5, Nguyễn Ánh đã cử Trịnh Hoài Đức làm
chánh sứ sang Quảng Đông để cầu nhà Thanh giúp đỡ trong vấn đề Tây Sơn
còn chưa giải quyết xong. Khi ấy, Trịnh Hoài Đức đã mang theo quốc thư của
Nguyễn Phúc Ánh và vật phẩm, bao gồm cả sắc thư và kim ấn được nhận từ
triều Thanh mà Nguyễn Văn Toản của triều đình Tây Sơn bỏ lại khi rút lui,
đồng thời giải theo ba hải tặc của nhà Thanh bị bắt làm tù binh. Họ đặt chân
đến Quảng Đông vào tháng 7. Đây là lần tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa
triều Nguyễn và triều Thanh.
Khi Trịnh Hoài Đức đến Quảng Đông, triều đình nhà Thanh không đề
cập đến vấn đề quốc hiệu, chỉ cho biết rằng họ Nguyễn chưa thống nhất đất


nước, cũng không thuộc nước phiên thuộc nên không thể nhận cống vật. Vì

vậy, Nguyễn Ánh lại cử Lê Quang Định với tư cách là sứ cầu phong xin nhà
Thanh phong quốc hiệu là Nam Việt và phong vương cho mình. Đối với triều
đình nhà Thanh, việc sắc phong không thành vấn đề, nhưng tuyệt đối không
chấp nhận tên nước là Nam Việt. Lí do là Nam Việt trùng với tên Nam Việt
mà Triệu Đà dựng nước trước đó (B.C. 207~B.C.111), ngầm hiểu là khu vực
bao gồm tỉnh Quảng Đông đến tỉnh Quảng Tây nên mang nghĩa không lành.
Sau khi bàn bạc, nhà Thanh đổi chỗ hai chữ và đề nghị tên Việt Nam. Bằng
việc này, nhà Thanh muốn thể hiện uy quyền là nước bá chủ. Phía nhà
Nguyễn hài lòng với cái tên này vì chữ “Việt” của Việt Thường là đất của tổ
tiên truyền lại đứng trước, chữ “Nam” đứng sau nên chấp thuận. Vấn đề quốc
hiệu được giải quyết cũng là lúc quan hệ hữu hảo giữa hai nước được chính
thức hóa.
Theo Đại Nam thực lục thì từ khi đó (năm 1803), “Lễ bang giao” đã
được hình thành. Triều đình nhà Thanh ngay lập tức đã cử sứ giả đi tuyên
phong. Nguyễn Ánh đã tiến hành nghi thức tuyên phong tại Thăng Long vào
tháng 1 năm 1804 và lên ngôi “Việt Nam quốc vương”. Mặc dù thủ đô của
triều Nguyễn khi đó là Huế nhưng việc sắc phong được tiến hành ở Thăng
Long, sau này trở thành thông lệ. Đến thời vua Tự Đức (1848 – 1883), theo
thỉnh cầu của vua Tự Đức, nghi lễ sắc phong được nhà Thanh chấp nhận cho
cử hành tại Huế.
Quan hệ giữa triều đình nhà Nguyễn và triều Thanh được giải quyết ổn
thỏa: Việt Nam phải triều cống hai năm một lần, 4 năm phải cử sứ giả sang
chầu một lần hoặc gộp hai lần triều cống làm một. Điều này cũng giống như
đối với triều Tây Sơn. Ngoài sứ thần chính quy, các sứ giả lâm thời phụ trách
việc chúc mừng, cầu phong, tạ ân, điếu vấn,… cũng được cử sang. Nhà Thanh
đã yêu cầu nhà Nguyễn cử sứ thần và bắt đầu triều cống từ năm 1803. Theo


yêu cầu của nhà Thanh, năm 1803 và 1805, sứ tạ ân được thay thế bằng sứ
triều cống năm 1804. Nhà Nguyễn đã theo đó mà làm. Song có lúc sứ triều

cống kiêm luôn sứ tạ ân, khi số lượng sứ giả lâm thời không nhiều do có khi
nhà Thanh yêu cầu ngừng cử sứ chúc mừng và sứ điếu vấn. Cho đến năm
1839, năm cuối đời Minh Mạng (1820 – 1840), do triều cống được quy định
thành bốn năm một lần giống như đối với Lưu Cầu và Xiêm La nên con số
này càng giảm. Mặt khác, đối với các vật phẩm triều cống, triều Thanh đã cắt
giảm rất nhiều cho vương triều Tây Sơn và nhà Nguyễn so với nhà Lê, chỉ
bằng nửa giá trị trước đây, nên giá trị vật chất của triều cống càng trở nên mờ
nhạt. Số lượng sứ giả và giá trị vật phẩm triều cống của nhà Nguyễn với nhà
Thanh đã giảm so với thời kì đầu, song quan hệ triều cống bình thường giữa
hai nước không thay đổi. Nhưng khi vụ loạn Thái Bình thiên quốc nổ ra (1851
– 1864), nhà Thanh đã yêu cầu ngừng triều cống và trong vòng mười sáu năm
sau đó không có sứ giả nào được cử đi. Cụ thể, quan hệ triều cống tạm ngừng
sau khi nhà Nguyễn cử sứ giả sang theo quy định vào năm 1852, năm ngay
sau vụ loạn xảy ra, đến năm 1868 thì được nối lại. Từ sau đó, nhà Nguyễn cử
sứ thần sang nhà Thanh bốn lần vào các năm 1870, 1872, 1876 và 1880. Sau
này, vào năm 1883, giữa lúc nội cung Huế có biến, Hiệp Hòa (7~11/1883)
định cử sứ giả sang nhà Thanh cầu phong để củng cố địa vị của mình. Vấn đề
là, vùng Đông Kinh lúc bấy giờ bị quân đội Pháp chiếm giữ nên đã không thể
sử dụng đường bộ như trước đây. Vì vậy, Hiệp Hòa đã thỉnh cầu nhà Thanh
cho đi bằng đường biển và được chấp thuận. Song ngay sau đó ông đã bị
quyền thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường hạ độc nên không thực
hiện được. Sứ giả cuối cùng của nhà Nguyễn sang nhà Thanh là sứ giả sang
xin sắc phong cho Kiến Phúc(1883 – 1884), ngay sau đời vua Hiệp Hòa. Tuy
nhiên, Kiến Phúc cũng không được sắc phong vì chỉ sau khoảng nửa năm trên
ngôi vị đã chết vì bệnh tật. Kết cục, quan hệ triều cống giữa nhà Nguyễn và


nhà Thanh được tiến hành liên tục trong tám mươi năm, từ năm 1803, đã
chấm dứt khi Việt Nam hoàn toàn trở thành thuộc địa của thực dân Pháp theo
hiệp ước Pa-tơ-nốt (còn gọi là hiệp ước Huế lần thứ hai hoặc hiệp ước Giáp

Thân) ký vào năm 1884.
Trong lúc đó, nhà Nguyễn lại dùng lực lượng quân sự khống chế Cao
Miên, đặt thành Trấn Tây, bắt Lào thần phục. Quan hệ với Xiêm cũng thất
thường, lúc thân thiện, hoà hoãn, lúc tranh chấp.
Quan hệ với các nước phương Tây: Từ thế kỉ XVII, các giáo sĩ và
thương nhân phương Tây đã đến Việt Nam truyền đạo, buôn bán. Quan hệ
này yếu đi vào nửa sau thế kỉ XVIII, mặc dầu các giáo sĩ đạo Thiên chúa vẫn
lén lút tăng cường hoạt động. Trong cuộc chiến tranh Tây Sơn, Nguyễn Ánh
đã nhờ giáo sĩ Ađrăng (còn gọi là Bá Đa Lộc) đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp
xin viện trợ quân sự. Mặc dầu hiệp ước giữa hai bên không được thực hiện vì
sự ngăn trở của cách mạng tư sản Pháp, Bá Đa Lộc vẫn cố gắng thực hiện ý
đồ của mình. Gia Long lên ngôi, chịu ơn Bá Đa Lộc, buộc phải giữ quan hệ
tốt với nước Pháp, nhưng lạnh nhạt dần với Tây Ban Nha, Anh, Mỹ với triết
lý “từ ngàn xưa đã răn dạy rằng đừng có vời những người ở nơi xa xôi đến”.
Vả lại, thực tiễn các nước xung quanh cũng làm ông lo lắng. Điều này thể
hiện rõ lúc cuối đời, chọn Minh Mạng làm người kế vị (không chọn con của
hoàng tử Cảnh – đã chết). Trong giờ phút hấp hối Gia Long còn trối lại với
Minh Mạng: “Việc khủng bố tín ngưỡng bao giờ cũng tạo cơ hội cho những
cuộc biến động và gây thù oán trong dân gian, lại thường khi làm sụp đổ ngôi
vua”. Hiểu được ý cha, Minh Mạng tỏ ra dứt khoát trong việc khước từ người
phương Tây, kể cả Pháp. Năm 1825, Pháp xin đặt lãnh lần nữa vẫn không đạt
kết quả. Anh, Mỹ nhân đó cố nhảy vào nhưng không được. Tinh thần “đóng
cửa”, cự tuyệt quan hệ với các nước phương Tây được duy trì cho đến lúc
bùng nổ cuộc xâm lược của thực dân Pháp.


Trì hoãn được ít nhiều cuộc xâm lược có thể xảy ra của các nước
phương Tây nhưng nhà Nguyễn lại không tận dụng được thời gian, tăng
cường sức tự vệ của đất nước.
Về giáo dục và văn học :

Từ giữa thế kỉ XVIII, giáo dục ngày càng sa sút. Ở Đàng Ngoài, năm
1750 theo đề nghị của Thự phủ sự Đỗ Thế Giai, chúa Trịnh cho các thí sinh kì
thi Hương được nộp 3 quan, gọi là tiền thông kinh, để miễn khảo hạch. Kết
quả là, như nhận định của Phan Huy Chú “người làm ruộng, người đi buôn
cho chí người hàng thịt, người bán vặt đều làm đơn nộp tiền xin thi. Ngày vào
thi đông đến nỗi giày xéo lên nhau, có người chết ở cửa trường. Trong trường
thi, nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người thi thay… những người
thực tài mười phần không đậu một”. Xuất hiện cái danh hiệu “sinh đồ 3 quan”
và “trường thi thành ra chỗ buôn bán”. Tuy nhiên, chúa vẫn mở đều các khoa
thi và chỉ cần lấy đỗ mỗi khoa 5 người, 8 người hay có khoa lấy 2
người…chất lượng thấp nhưng cũng xuất hiện những người giỏi như Lê Quý
Đôn, Ngô Thời Sĩ, Bùi Huy Bích, Hồ Sĩ Đống, Phan Huy Ích, Ngô Thời
Nhậm v.v…
Bên cạnh đó, năm 1721, chúa Trịnh cho mở trường học võ, dùng các
quan tướng thông thạo võ nghệ để dạy cho con cháu các quan. Năm 1724,
chuẩn định phép thi võ gồm hai cấp: Sở cử (như thi Hương) và Bác cử (như
thi Hội). Người đỗ kì Bác dược gọi là Tạo sĩ, được ban mũ áo, xướng danh
ngang hàng với Tiến sĩ bên văn.
Sự sa sút của giáo dục, chiến tranh đã dẫn đến chỗ học hành, thi cử
đình trệ. Thời Tây Sơn, với tinh thần dân tộc quật cường, Quang Trung ra
“chiếu lập học” chấn chỉnh lại việc học tập, thi cử, cho mở trường công ở các
xã để con em nhân dân có điều kiện đi học. Ông cũng bắt các “sinh đồ 3
quan” thi lại để thải hồi những kẻ dốt nát, tổ chức những kì thi Hương đầu


tiên. Một chủ trương tiến bộ lớn của Quang Trung là đưa chữ Nôm vào thi cử,
trong trường thứ 3, sĩ tử phải làm thơ phú bằng chữ Nôm, lại lập Sùng chính
viện (do La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đứng đầu) phụ trách giáo dục, dịch các
sách kinh ra văn Nôm, dự định đưa chữ Nôm làm văn tự chính thống của đất
nước. Tiếc rằng, sau khi ông chết, Quang Toản và những người giúp việc

không nối tiếp được.
Đầu thế kỉ XIX, Gia Long lên ngôi định tổ chức lại việc giáo dục thi cử
nhưng không làm được. Năm 1807 quy chế thi hương mới được ban hành
khoa thi Hương đầu tiên được tổ chức, chủ yếu ở Bắc Thành (số đỗ rất ít), từ
sau đó, số trường thi Hương trong cả nước rút xuống còn 6, kì hạn thi không
cố định. Năm 1822, nhà Nguyễn mới có điều kiện mở khoa thi Hội đầu tiên
(có 8 người đỗ tiến sĩ). Năm 1829, Minh Mạng cho lấy thêm học vị Phó bảng
(Tiến sĩ hạng 3), kì hạn thi cũng không cố định. Chẳng hạn từ đầu đến năm
1851 có 14 khoa thi Hội, lấy đỗ 136 tiến sĩ, 87 phó bảng. Tài liệu học tập, nội
dung thi không có gì thay đổi. Trường Quốc tử giám đặt ở Huế, lấy con em
quan chức, các thổ quan, người học giỏi ở địa phương vào học. Giáo dục thi
cử thời Nguyễn sa sút về nhiều mặt so với các triều đại trước. Một điểm mới
đáng chú ý là năm 1836, Minh Mạng cho thành lập “Tứ dịch quán” để dạy
tiếng nước ngoài (Pháp, Xiêm…).
Cũng như ở các thế kỉ trước, văn học chữ Hán không còn chiếm ưu thế
nữa mặc dầu vẫn nổi lên các nhà thơ, nhà văn lỗi lạc như Lê Quý Đôn, Ngô
Thời Sĩ, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Bùi Huy Bích, Đoàn Nguyễn Thục,
Nguyễn Thiếp, Trịnh Sâm, Ngô Thế Lân, Nguyễn Cư Trinh v.v… của thế kỉ
XVIII và Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Minh Mạng, Tự Đức, Tùng Thiện
vương, Tuy lí vương v.v… của thế kỉ XIX. Xuất hiện những bộ sưu tập thơ
như Toàn Việt thi tập, Hoàng Việt văn hải của Lê Quý Đôn, Lịch triều thi sao
của Bùi Huy Bích v.v… cùng một số tác phẩm thuộc thể kí sự như Thượng


kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí của các tác giả họ Ngô,
Vũ trung tuỳ bút, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ, Công dư tiệp ký
của Vũ Phương Đề v.v…
Văn học dân gian tiếp tục phát triển dưới nhiều thể loại khác nhau từ
tục ngữ, phương ngôn đến ca dao, vè, hát giặm… Với tư tưởng xây dựng một
nền văn hoá riêng cho mình, người dân lao động Việt Nam đã truyền nhau

hàng loạt thơ ca nói lên phong cảnh, đặc sản địa phương, kinh nghiệm sản
xuất, các ngành nghề, sinh hoạt xã hội, quan hệ nam nữ v.v… và đặc biệt là
những bài thơ dài, dạng sử thi, ca ngợi người anh hùng của mình như “Vè bà
Thiếu phó”, “Vè Ba Vành” v.v… Đương thời, nhà nước Lê – Trịnh cũng như
Nguyễn cấm nhân dân khắc in truyện dân gian của mình, cho nên việc sáng
tác ít đi mà thơ văn truyền lại đến nay cũng không nhiều. Văn học trào phúng
cũng phát triển (dưới dạng truyền miệng) với Trê Cóc, Trạng Quỳnh, Trạng
Lợn, Truyện tiếu lâm các loại v.v… Bằng tiếng cười châm biếm mỉa mai,
nhân dân đã đả kích, phê phán những thói hư, tật xấu cũa xã hội phong kiến,
lột trần bộ mặt giả dối, tham lam, dâm ô, dốt nát của bọn vua quan, nho sĩ, địa
chủ, cường hào. Cuộc đấu tranh chống phong kiến, chống áp bức, bóc lột
không chỉ biểu hiện quyết liệt bằng vũ khí, bạo lực mà còn cả trên mặt trận
văn học.
Các thể thơ Nôm như lục – bát, song thất lục bát trở nên phổ biến và
ngày càng điêu luyện qua thơ ca dân gian đã ảnh hưởng sâu sắc đến các thi sĩ
Nho gia. Xuất hiện các tập thơ tiếng Việt (Nôm) dài vừa có nội dung sâu sắc
vừa có hình thức hài hoà như Cung oán ngâm khúc của Ôn như hầu Nguyễn
Gia Thiều, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm… và đạt đến đỉnh cao hoàn
thiện với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cả 3 tác phẩm xuất sắc đó vừa phản
ánh tâm tư của người đương thời đối với thực tiễn xã hội ở những mức độ
khác nhau, vừa nói lên nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến


buổi suy tàn, cũng là phản ánh ý thức cá nhân trong tình cảm lứa đôi. Xuất
thân từ một gia đình quan chức cao cấp của nhà Lê – Trịnh, Nguyễn Du
không những được học hành tốt lại được tiếp xúc với nhiều lớp người khác
nhau ở kinh thành Thăng Long. Ông cũng từng được chứng kiến cả một giai
đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc và tuy đứng về phía đối lập, hình ảnh người
anh hùng Quang Trung và phong trào Tây Sơn luôn luôn ghi sâu vào trí óc
ông. Khi nhà Nguyễn thành lập, ông đã ra làm việc và tận mắt chứng kiến

những đổi thay của các thập kỉ đầu thế kỉ XIX. Truyện Kiều đã ra đời và từ
thực trạng đó vừa phản ánh tinh thần nhân đạo và tư tưởng hoà hợp Nho,
Phật, Lão của bản thân tác giả vừa là bản cáo trạng của xã hội đương thời.
Bên cạnh Truyện Kiều (hay “Đoạn trường tân thanh”) Nguyễn Du còn để lại
nhiều bài thơ nói lên tình cảm của mình trước những đổi thay của xã hội đầu
thời Nguyễn.
Về thơ Nôm, bên cạnh những tác giả trên còn nổi lên những thi sĩ như
công chúa Ngọc Hân với bài Ai tư vãn, Hồ Xuân Hương với những bài thơ
mang đậm màu sắc dân gian, nói lên ý thức đòi quyền bình đẳng của người
phụ nữ và Bà huyện Thanh Quan với những bài thơ đậm chất hoài cổ, lưu
luyến một quá khứ đẹp đẽ đã qua và nhiều nhà thơ khác…
1.3. Lực lượng sáng tác
Việc cử các sứ thần sang Trung Hoa ngoài mục đích triều cống, xin
phong vương còn có mục đích khác như sang mừng vua mới lên ngôi, mừng
việc phong hoàng thái tử, tạ ơn vua Trung Hoa đã cho áo mũ, lịch, phong
vương v.v… Ngoài ra, phải kể đến các sứ bộ Việt Nam sang để điều đình việc
các biên thần của thiên triều lấn chiếm đất đai vùng biên giới hoặc xin hoãn
binh, hoặc giải quyết hậu quả chiến tranh giữa hai nước. Như vậy, việc đi sứ
hết sức quan trọng đối với vận mệnh của quốc gia. Chính vì thế, những người
được cử đi sứ điều là những quan lại tài giỏi, “trí dũng song toàn”. Những sứ


×