Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Những kiến thức cơ bản về ngân sách nhà nước và tài chính công tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.55 KB, 60 trang )

Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển
kinh tế của nước ta. Đảng và Nhà nước đã chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế bao
cấp tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt từ
năm 1991 trở đi nền kinh tế nước ta đã thực sự bắt nhịp được theo cơ chế kinh tế mới,
đất nước cũng đã có nhiều sự thay đổi và phát triển trên nhiều phương diện, nhất là vai
trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của Nhà nước được đề cao hơn bao
giờ hết. Để đảm trách tốt được vai trò này, Nhà nước cần có những biện pháp và công
cụ hữu hiệu để can thiệp vào hoạt động kinh tế. Một trong những công cụ quan trọng
để Nhà nước can thiệp đúng lúc và kịp thời một cách toàn diện vào nền kinh tế chính
là ngân sách nhà nước. Mỗi một nhà nước khi thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động
thì đều có ngân sách nhà nước đế đảm bảo thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình,
giúp thực hiện được tốt chức năng và nhiệm vụ đó thì đòi hỏi phải có một ngân sách nhà
nước cân đối và ổn định. Từ quá khứ đến hiện tại cũng đã có nhiều quan đi ểm, học
thuyết khác nhau bàn về cân đối ngân sách nhà nước nhưng trong thực tiền đ ề làm
được vấn đề này là rất khó khăn, vì tình hình kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia luôn
biến đổi không ngừng nó có thể là tăng trưởng, phát triển nhưng cũng có thể rơi vào
khủng hoảng, suy thoái. Điều này dẫn đến ngân sách nhà nước có thể rơi vào tình
trạng bội chi hay bội thu. Vì vậy mỗi quốc gia cần lựa chọn và vận dụng những
phương cách khác nhau phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước mình để cân
đối ngân sách nhà nước cho hiệu quả.
Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, vấn đề cân đối ngân sách nhà nước là rất
quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Bời lẽ, ngân sách nhà nước là công cụ tài
chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn xã hội, giải quyết những vấn đề khó khăn
của đất nước, đem lại sự công bằng cho người dân,... Nhưng để đảm bảo tốt những vai
trò trên thì ngân sách nhà nước phải được cân đối. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian
vừa qua, ngân sách nhà nước không ổn định và mất cân đối đã kéo theo những hậu quả
làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nãy sinh như:
thu vào ngân sách nhà nước không đủ chi dẫn đến nợ nước ngoài nhiều, lạm phát tăng
nhanh, không có nguồn tài chính để đầu tư đúng mức vào hoạt động kinh tế... Để khắc
phục những vấn đề trên, chính phủ đã có nhiều cổ gắng trong việc cải cách quản lý


hành chính, đổi mới chính sách thu, chi ngân sách để hướng tới một ngân sách nhà
nước được cân đối nhằm góp phần thúc đây kinh tế phát triển, ổn định xã hội và kiêm
soát tình trạng lạm phát đang diển ra ở nước ta và đưa Việt Nam tiến vào thời kì hội
nhập của nền kinh tế thế giới. Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề phức tạp
nhưng nó có một vai trò quan trọng đối với kinh tế đất nước trong thời kỳ chuyển đổi,


hội nhập và cùng với những lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Những kiến thức cơ
bản về ngân sách nhà nước và tài chính công tại Việt Nam” làm đề tài luận văn của
mình. Qua đó tôi hy vọng có được những hiểu biết và nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề
cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam, góp phần hoàn thiện những chính sách về cân
đối ngân sách nhà nước trong thời kỳ mới đưa đất nước phát triển cùng thế giới.
1. Phạm vi nghiên cửu
Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề rất rộng và phức tạp. Nhưng do hạn chế về
thời gian nghiên cứu nên trong luận văn của mình tôi chỉ tập trung nghiên cứu những
vấn đề sau:
Giới thiệu những vấn đề chung về cân đối ngân sách nhà nước.
Cân đối ngân sách nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế thị trường.
Những đề xuất hoàn thiện tình hình cân đối ngân sách của nước ta dựa trên thực
trạng cân đối ngân sách nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài luận văn này tôi hướng tới những mục đích sẽ đạt được sau đây:
Hệ thống lại những quan điểm, những định nghĩa về ngân sách nhà nước và cân
đối ngân sách nhà nước từ đó đưa những quan điểm phù hợp nhất với nước ta trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đưa ra những nội dung cơ bản về cân đối ngân sách nhà nước ở nước ta hiện
nay, tìm hiểu và nhận xét về tình hình cân đối ngân sách nhà nước ta trong thời gian
vừa qua, từ đó tìm ra những ưu khuyết điểm của chính sách cân đối ngân sách nhà
nước từ đó đề xuất những giả pháp tích cực và hữu hiệu về vấn đề cân đối ngân sách nhà
nước ở nước nhằm thúc đây kinh tế - xã hội phát triển ổn định và bền vững.

3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu luận văn của mình, tôi đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học như: so sánh, phân tích và đánh giá, thống kê, thu
thập tài liệu,...để thể hiện nội dung luận văn của mình mang tính chất của một đề tài
nghiên cứu khoa học.
4. Bố cục của đề tài
Bố cục của luận văn được người viết trình bày như sau: Phần lời nói đầu, phần nội
dung và phần kết luận. Trong phần nội dung gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về ngân sách nhà nước và cân đối
ngân sách nhà nước.
-

Chương 2: Nội dung cơ bản của vấn đề cân đối ngân sách nhà nước.
- Chương 3: Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ khi

chuyến đổi sang cơ chế thị trường đến nay và hướng hoàn thiện.


Để hoàn thành đề tài luận văn này, tôi đã sử dụng những kiến thức được học trong nhà
trường, cùng với việc nghiên cứu các tài liệu có liên quan như: Sách, tạp chí, internet
và những số liệu thực tế. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhờ sự dạy bảo,
hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của Cô Lê Huỳnh Phương Chinh cùng các bạn trong
lớp, trong khoa. Tuy nhiên do kiến thức còn nhiều hạn chế nên việc nghiên cứu và
trình bày đề tài của tôi khó tránh khỏi những thiếu xót. Em kính mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của quý thầy cô và bạn bè để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Sau cùng xin cho em gửi đến các thầy cô, cùng tất cả các bạn, đặc biệt là cô Lê Huỳnh
Phương Chinh lời cám ơn chân thành và sâu sắc nhất


Chương I:

Những vấn đề lý luận chung về ngân sách nhà nước và cân đối ngân sách nhà
nước
1.1. Khái quát về ngân sách nhà nước
1.1.1.

Khái niệm ngân sách nhà nước

Một Nhà nước muốn tồn tại và phát triển cần có một nguồn quỹ tài chính (Nguồn quỹ
này được Nhà nước huy động từ trong xã hội) để phục vụ cho hoạt động của Nhà
nước, giúp Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, sự ra
đời của Nhà nước cũng kéo theo sự hình thành về ngân sách nhà nước.
Ở giai đoạn đầu của lịch sử phát triển Nhà nước, quỹ tài chính được hình thành với
mục đích đảm bảo cho sự tồn tại của bộ máy nhà nước.Tuy nhiên, quỹ tài chính này
chưa đảm bảo đầy đủ các yếu tố để được gọi là ngân sách nhà nước. Vì nó chưa đảm
bảo tính minh bạch và rõ ràng trong cách sử dụng, quản lý và phân phối các nguồn lực
tài chính. Lúc này, các nguồn lực tài chính huy động được hoàn toàn không phải vì
mục đích phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội, mà còn phục vụ cho những mục đích
chi tiêu riêng, khác của những chủ thể đứng đầu Nhà nước. Đặc trưng này được biểu
hiện rõ nhất là ở thời kỳ Nhà nước phong kiến, nguồn lực tài chính của Nhà nước tập
trung trong tay nhà Vua và hoàn toàn do nhà Vua quyết định phân chia và chi tiêu nó
như thế nào. Chính vì thế, việc sử dụng nguồn lực tài chính của quốc gia không được
minh bạch, rõ ràng, theo hướng tiêu cực và chủ quan của một người. Đặc biệt, người
dân không thể kiểm soát được những khoản đóng góp của mình vào quỹ tài chính đã
chi tiêu cho việc gì và mình đã được hưởng những lợi ích gì.
Ngân sách nhà nước đã xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, từ thời kỳ phong kiến
nhưng thuật ngữ “ ngân sách nhà nước” được thừa nhận với một ý nghĩa đầy đủ của nó
khi mầm móng tư bản chủ nghĩa ra đời 1. Lúc này nhà Vua không còn quyền tự quyết
đổi với các khoản thu chi của quốc gia nữa mà nó đã được chuyên giao lại cho Quốc
hội. Điều đó cũng tạo ra một bước ngoặt mới về việc quản lý và sử dụng ngân sách
1 Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Tư Pháp, 2007, Trang 9,10.



nhà nước được minh bạch và rõ ràng hơn. Ngân sách Nhà nước là một thuật ngữ xuất
hiện lần đầu tiên ở Anh vào thế kỷ 17. Khi đó, ngân sách nhà nước được hiểu là một
nguồn quỹ hoặc là túi tiền của người quản lý ngân khố, nó là toàn bộ những khoản thu
chi thuộc về Nhà nước và do Nhà nước thực hiện. Cho đến ngày nay, ngân sách nhà
nước được hiểu là bảng kế hoạch tài chính lớn nhất của một quốc gia bao gồm tất cả
các khoản thu chi phục vụ cho chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, thông
qua đó đảm bảo những lợi ích công cộng của xã hội.
Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát, vừa liên quan đến lĩnh vực
kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý Nhà nước. Vì vậy hiện nay có nhiều ý kiến
khác nhau định nghĩa về ngân sách Nhà nước, nhưng thể hiện rõ nhất và đầy đủ nhất
về bản chất của ngân sách nhà nước là hai định nghĩa trên hai phương diện kinh tế và
pháp lý.
 Ngân sách nhà nước xét về phương diện kinh tế 2: Trước hết là một khái niệm
thuộc phạm trù kinh tế học hay hẹp hơn là tài chính học. Theo đó, ngân sách nhà nước
là bảng dự toán về các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoản thời hạn nhất
định, thường là một năm. Từ định nghĩa đó ta thấy có 2 yếu tố cơ bản trong ngân sách
nhà nước:
+ Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia, thông
qua hành vi kinh tế là xác lập nội dung thu chi liên quan đến ngân quỹ của Nhà nước.
Do đó phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện cho toàn thê nhân dân trong
quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên thực tế, đế đảm bảo
cho việc thu, chi ngân sách có hiệu quả và phù hợp với người dân. Ngoài ra, Quốc hội
còn là người giám sát chính phủ trong quá trình thi hành ngân sách và có quyền phê
chuân bảng quyết toán ngân sách hàng năm do chính phủ đệ trình khi năm ngân sách
kết thúc.
+ Ngân sách nhà nước có hiệu lực trong vòng một năm, tức là việc dự toán thu,
chi đã được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách đó tính từ ngày 01/01 đến ngày

2 Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 11-12.


31/12 hàng năm. Đây là khoản thời gian mà pháp luật quy định nhằm giới hạn rỏ việc
thực hiện dự toán ngân sách nhà nước. Khoản thời gian này có thể trùng hoặc không
trùng với năm dương lịch tùy theo tập quán của mỗi nước. Việc quy định rỏ thời gian
này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân sách nhà nước, tránh sự tùy
tiện, độc đoán của Nhà nước trong việc thu nộp và chi tiêu ngân sách.
 Ngân sách nhà nước xét về phương diện pháp lý

3

: Theo phương diện này,

ngân sách nhà nước cũng không có nhiều khác biệt so với phương diện kinh tế, nó đều
nói về các khoản thu, chi do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm. Khi tiếp cận ngân sách nhà nước qua phương diện kinh tế, ta
thấy đó là một bảng kế hoạch tài chính khổng lồ của một quốc gia, trong đó dự liệu các
khoản thu chi và tiền tệ trong một năm. Còn ở phương diện pháp lý, ngân sách nhà
nước được hiểu là một đạo luật đặc biệt của mỗi quổc gia do Quốc hội ban hành và
chính phủ thực hiện trong một thời hạn xác định. Nhưng khác với những đạo luật
thông thường, ngân sách nhà nước được cơ quan lập pháp tạo ra theo trình tự thủ tục
riêng và hiệu lực thi hành của đạo luật này được xác định rõ ràng là một năm.
Theo Điều 1 luật ngân sách nhà nước 2002, ngân sách nhà nước được định nghĩa là:
“Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước
Qua những quy định và phân tích về ngân sách nhà nước ta thấy, ngân sách nhà nước
chính là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành, dự toán về các khoản thu chi
thực hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh đó ngân sách nhà nước còn là

một công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết hoạt động kinh tế xã hội của đất nước. Trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động như hiện nay thì
ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
- Trước hết, ngân sách nhà nước là công cụ có hiệu lực của Nhà nước để
điều chỉnh thu nhập của toàn xã hội hạn chế sự phân hóa giàu nghèo đảm bảo sự công
bằng trong xã hội, góp phần giải quyết các vấn đề của xã hội như: trợ cấp thất nghiệp,
3Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 14-15.


chính sách trợ giúp cho những người có thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn, chi
chính sách dân số, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai,...Để thực hiện được việc này, Nhà
nước đã sử dụng công cụ thuế điều chỉnh những người có thu nhập cao trong xã hội,
tạo nguồn thu về cho ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết
hoạt động kinh tế của một quốc gia. Thông qua các hoạt động: cấp phát vốn, đầu tư cơ
sở vật chất hạ tầng cho các ngành then chốt, mũi nhọn của đất nước, áp dụng các chính
sách thuế để định hướng đầu tư phát triển kinh doanh... Nhà nước đã đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển ổn định và tạo thế cân bằng giữa các ngành nghề, địa phương của đất
nước. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động hiện nay, sự thay đổi về
giá cả, mất cân bằng về cung cầu, lạm phát xảy ra thì vai trò điều tiết của ngân sách
nhà nước góp phần quan trọng vào việc bình ốn thị trường, kiềm chế lạm phát. Nhà
nước thực hiện các biện pháp giảm chi, tăng thu và huy động nguồn vốn từ trong nhân
dân để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước, sử dụng quỹ dự trữ nhà nước để điều tiết
nền kinh tế.
- Ngân sách nhà nước còn là công cụ đế hướng dẫn tiêu dùng của xã hội,
xuất phát từ đặc điểm ngân sách nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất để thực hiện
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Vì vậy hàng năm nhà nước phải chi một khoản
tiền rất lớn cho hoạt động của bộ máy nhà nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp đồng thời chi cho các khoản nhằm bình ổn, phát triển kinh tế - xã hội. Ngân sách
nhà nước có chứa đựng những khoản dự toán chi ngân sách hàng năm để định hướng
việc chi tiêu cho xã hội, khoản chi nào là phù hợp, là cần thiết giúp cân đối với các
khoản thu năm đó, tránh tình trạng chi tiêu lãng phí, tràn lan dẫn đến thâm hụt ngân

sách nhà nước.
1.1.2.

Đặc điểm ngân sách nhà nước

Thông qua định nghĩa về ngân sách nhà nước, ta thấy ngân sách nhà nước là một loại
hình ngân sách đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ mang những đặc điểm chung của
các loại ngân sách thông thường, mà còn hàm chứa những đặc điểm riêng thể hiện bản
chất của một loại hình ngân sách của một quốc gia như:
Ngân sách nhà nước vừa là một bảng kế hoạch tài chính vừa là một đạo luật của
một quốc gia. Ngân sách nhà nước chính là toàn bộ các khoản thu, chi của một quốc
gia đã được dự toán thực hiện trong một năm, việc thiết lập ngân sách nhà nước không
chỉ mang tính kỹ thuật nghiệp vụ kinh tế giống như các loại ngân sách thông thường
khác mà nó còn mang tính kỹ thuật pháp lý, ngân sách nhà nước được soạn thảo và
thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đặc biệt phải được Quốc hội xem xét,
biểu quyết thông qua giống như việc ban hành một đạo luật. Đặc điểm này đã làm cho
ngân sách nhà nước khác hẳn với các loại ngân sách thông thường khác như: ngân


sách của gia đình của các tổ chức chính trị - xã hội,... Ngân sách nhà nước đảm bảo về
giá trị pháp lý và bắt buộc các chủ thể liên quan phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ
của mình giống như việc thực hiện, chấp hành một đạo luật. Còn các loại ngân sách
khác thì việc thực hiện và chấp hành của các chủ thể có liên quan, chỉ dừng ở mức độ
thỏa thuận để ràng buộc trách nhiệm của mỗi người.
Ngân sách nhà nước là bảng kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, sẽ được
Quốc hội biểu quyết thông qua trước khi trao cho chính phủ thi hành. Đặc điểm này
thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp trong quá
trình xây dựng và thực hiện ngân sách. Trong đó cơ quan lập pháp thường có vai trò áp
đảo hơn, cơ quan hành pháp chỉ là cơ quan thừa hành thực hiện bảng kế hoạch tài
chính mà Quốc hội đã thông qua, nhưng đồng thời còn phải chịu sự giám sát của Quốc

hội trong khi thực thi nhiệm vụ ngân sách nhà nước nhằm hạn chế sự lạm quyền của
các cơ quan hành pháp bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động
tài chính nhà nước. Điều này bộc lộ lên nét đặc trưng riêng của ngân sách nhà nước mà
ở các loại hình ngân sách khác không có, ngân sách nhà nước được thiết lập và thi
hành có sự tham gia, giám sát của nhân dân theo phương cách trực tiếp hay gián tiếp
thông qua vai trò của Quốc hội, có sự tham gia của cơ quan hành pháp, cơ quan lập
pháp và có sự phân chia nhiệm vụ rõ ràng giữa hai cơ quan này. Trong khi đó, các loại
hình ngân sách khác thì Nhà nước để cho chính chủ thể đó tự quyết định và tự chịu
trách nhiệm về hậu quả xảy ra. Một số cơ quan hành pháp của Nhà nước chỉ tham gia
kiểm tra, giám sát trong những trường hợp cần thiết, mà không tạo nên mối tương
quan giữa cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp.
Ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi nhằm phục vụ hoạt động của bộ
máy nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình vì
lợi ích chung của toàn xã hội. Bộ máy nhà nước muốn hoạt động được cần có một số
tiền rất lớn để chi tiêu và sổ tiền đó được trích ra từ ngân sách nhà nước. Nhà nước
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình nhằm bảo đảm cho sự phát triển của toàn
xã hội, phục vụ lợi ích của toàn dân, không phân biệt người giàu nghèo hay đẳng cấp
địa vị xã hội. Đặc biệt ngân sách nhà nước còn ưu tiên đê giúp đỡ phục vụ cho những
người nghèo, hỗ trợ để giảm bớt những tệ nạn xã hội. Vì vậy chính phủ luôn tìm cách
thỏa mãn giữa nhiệm vụ thu và nhiệm vụ chi đã được hoạch định và cho phép thực
hiện bởi Quốc hội. Đặc điểm này đã thể hiện một bản chất rất riêng của ngân sách nhà
nước, ngân sách nhà nước phục vụ cho toàn xã hội, toàn dân, không phân biệt người
giàu, người nghèo hay cá nhân, tổ chức nào để đảm bảo cho sự phát triển của cả đất
nước. Còn các loại ngân sách khác chỉ bao hàm được một sổ đối tượng cụ thể và
những mục tiêu hẹp hơn.


Ngân sách nhà nước được thiết lập và vận hành theo bốn nguyên tắc cơ bản sau:
+ Nguyên tắc ngân sách nhất niên: Nguyên tắc này ra đời đầu tiên ở nước
Anh vào cuối thế kỷ 17 nhưng sau đó lại trở thành nguyên tắc được thừa nhận tại các

nước có nền dân chủ phát triển sớm ở châu Âu như: Pháp, Đức. Nguyên tắc này hàm
chứa hai nội dung cơ bản sau: Mỗi năm, Quốc hội sẽ biểu quyết ngân sách một lần
theo hạn kỳ do luật định và bản dự toán ngân sách nhà nước này chỉ có hiệu lực thi
hành trong một năm, chính phủ là người được phép thi hành bản dự toán đó 4. Ở Việt
Nam, nguyên tắc này đã được ghi nhận trong luật, các khoản thu và chi ngân sách nhà
nước được thực hiện trong một năm, tính từ ngày 01/01 đến ngày 31/12 năm dương
lịch. Nguyên tắc này được đặt ra nhằm mục đích giúp cho Nhà nước kiếm soát kịp thời
các hoạt động thu, chi của quốc gia, tránh sự lãng phí, đảm bảo sự dân chủ cho người
dân. Nhân dân có quyền tham gia vào việc quản trị nguồn tài chính của đất nước thông
qua người đại diện của mình là Quốc hội.
+ Nguyên tắc ngân sách đơn nhất: Nguyên tắc này cũng lần đầu tiên
được xây dựng ở Anh, Pháp, Đức,.. .và ngày nay nó được thừa nhận ở nhiều nước trên
thế giới. Nguyên tắc này hiểu theo cách thông thường, là mọi khoản thu và chi tiền tệ
của quốc gia trong một năm chỉ được phép trình bày trong một văn kiện duy nhất, đó
là bản dự toán ngân sách sẽ được chính phủ trình quốc hội quyết định để thực hiện 5. Ở
4Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 28.

5 Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 30, 31.


nước ta chưa có một quy định cụ thể, chính thức nào về nguyên tắc này, nhưng trong
luật ngân sách nhà nước có quy định: “Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp được
quyền quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước các cấp trong trường họp cần
thiết...” đã thể hiện sự vận dụng linh hoạt nguyên tắc này ở nước ta. Nguyên tắc này
hướng tới mục tiêu: đảm bảo tính khả thi cho dự toán ngân sách nhà nước trong quá
trình thực hiện, giúp cho Quốc hội dễ dàng kiểm soát và theo dõi hoạt động của ngân
sách nhà nước. Vì mọi vấn đề có liên quan đều được tập trung trong một văn kiện, từ
đó sẽ giúp cho các cơ quan có thẩm quyền có cách nhìn bao quát và đầy đủ về tình
hình ngân sách của quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước sẽ đề ra được những nhiệm vụ
khả quan hơn của ngân sách năm sau.

+ Nguyên tắc ngân sách toàn diện: Nguyên tắc này xuất hiện vào khoản thế kỷ 17, 18
ở các nước châu Âu. Nguyên tắc này được thể hiện qua hại nội dung sau: Mọi khoản
thu và chi đều phải được ghi cụ thể, rõ ràng trong bảng dự toán ngân sách hàng năm đã
được Quốc hội quyết định; các khoản thu và chi không được phép bù trừ cho nhau mà
mọi khoản thu dùng để tài trợ cho mọi khoản chi 6. Thực hiện tốt nguyên tắc này, bảng
dự toán ngân sách nhà nước sẽ đảm bảo được thiết lập rõ ràng, cụ thể, minh bạch và
đầy đủ. Nước ta cũng đã ghi nhận và vận dụng nguyên tắc này bằng những quy định
cụ thể trong luật.
+ Nguyên tắc ngân sách thăng bằng: Nguyên tắc này cũng đã xuất hiện khá sớm ở
các quốc gia trên thế giới. Lúc đầu các nhà tài chính học cho rằng, sự thăng bằng của
ngân sách nhà nước là một ý niệm kế toán nhiều hơn là ý nghĩa về phương diện kinh tế
hay pháp lý. Theo đó, sự thăng bằng của ngân sách nhà nước được hiếu là tông sô thu
phải cân bằng với tong số chi trong năm ngân sách. Còn các nhà tài chính học đương
đại đưa ra quan điểm mới về sự thăng bằng của ngân sách nhà nước là: Sự thăng bằng
ngân sách không hoàn toàn không đồng nghĩa với sự cân bằng giữa tổng thu và tổng
chi mà thực chất là sự cân bằng giữa tổng thu hoa lợi và tổng chi có tính chất phí tổn 7.
6Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Tư Pháp, 2007, Trang 32.

7Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Tư Pháp, 2007, Trang 34, 35.


Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận trong luật ngân sách nhà nước Việt Nam hiện
hành. Nguyên tắc này đã giúp xác định được tình trạng ngân sách nhà nước đang ở
mức thăng bằng, bội thu hay thâm hụt tại một thời điểm để từ đó đưa ra những hướng
giải quyết vấn đề ngân sách nhà nước cho phù hợp. Hiện nay nguyên tắc ngân sách
thăng bằng vẫn chưa đảm bảo thực hiện tốt ở nhiều quốc gia, do những biến đổi về
tình hình kinh tế - xã hội liên tục xãy ra như: khủng hoảng kinh tế, lạm phát, thiên
tai,...
Ngân sách nhà nước là công cụ chủ yếu giúp nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm
vụ của mình. Với công cụ này, Nhà nước đảm bảo cho sự vận hành của nền kinh tế - xã

hội theo hướng ổn định và phát triển, đem lại sự công bằng và bình đẳng cho mọi
người dân, giải quyết kịp thời những vấn đề khó khăn của đất nước. Để thực hiện tốt
được các vấn đề trên, Nhà nước đã lập kế hoạch thu chi cụ thể của một năm được sự
xét duyệt và phê chuẩn của các cơ quan có thẩm quyền, rồi đưa ra thi hành trên thực tế
nhằm hướng tới mục tiêu đạt được sự cân đối giữa các khoản thu chi ngân sách nhà
nước và hoàn thành nhiệm vụ mà năm ngân sách đề ra.
1.2. Khái quát về cân đối ngân sách nhà nước
1.2.1.

Các học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước

Cân đối ngân sách là một vấn đề quan trọng được đặt ra đối với mỗi Nhà nước, nó đảm
bảo cho Nhà nước đó thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng ở t ừng
thời kỳ khác nhau thì chức năng và nhiệm của Nhà nước sẽ có sự thay đổi, nó được m ở
rộng và nâng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Đăc biệt khi nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường, Nhà nước đã có sự can thiệp vĩ mô vào hoạt động kinh tế.
Do đó, ngân sách nhà nước đã trở thành công cụ đắc lực để Nhà nước can thiệp vào
hoạt động kinh tế và vấn đề cân đối ngân sách nhà nước lại càng được quan tâm hơn
với nhiều học thuyết bàn về nó.
1.2.1.1.

Lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách


Theo lý thuyết này, nội dung của cân bằng ngân sách rất đơn giản: “Mỗi năm số thu
phải ngang với số chi”8. Quan điểm này bao gồm hai nguyên tắc cơ bản sau: Một là,
tổng số những khoản chi không được quá tổng số những khoản thu. Hai là, tổng số
những khoản thu của ngân sách không bao giờ được lớn hơn tống sổ những khoản chi
của ngân sách. Tức là ngân sách nhà nước phải được cân bằng tuyệt đối, bội chi hay
bội thu ngân sách đều biêu hiện sự lãng phí về nguồn lực trong nhân dân.Ngoài ra,

thuyết này còn đòi hỏi ngân sách nhà nước phải cân bằng cả khi lập dự toán và trong
quá trình thực hiện, nếu chỉ cân bằng khi lập dự toán còn trong quá trình thực hiện lại
không cân bằng thì không thể coi là cân bằng thực sự.
1.2.1.2.

Các học thuyết hiện đại về cân đối ngân sách nhà nước

Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường tự do cạnh tranh thì sự can thiệp của
Nhà nước vào hoạt động kinh tế đóng một vai trò rất quan trọng, đảm bảo sự ổn định
và phát triển của nền kinh tế, lúc này cân đối ngân sách lại trở thành một công cụ thiết
yếu hơn. Trong bối cảnh đó, quan điểm về cân đối ngân sách nhà nước cũng có nhiều
thay đổi.
Lý thuyết về ngân sách chu kỳ
Nen kinh tế trãi qua một chuồi dài các chu kỳ, mồi chu kỳ đều trãi qua giai đoạn
phồn thịnh và suy thoái. Ở giai đoạn phồn thịnh của nền kinh tế thì của cải vật chất tạo
ra nhiều, năng suất lao động xã hội cao, thất nghiệp ít,... Do đó nguồn thu vào ngân
sách nhà nước sẽ lớn hơn nhu cầu chi tiêu và ngân sách nhà nước thường ở tình trạng
bội thu. Vì vậy nếu không xem xét cân đối ngân sách nhà nước theo chu kỳ, Nhà nước
rất dễ dùng số bội thu này chi tiêu vào những việc không cần thiết. Ngược lại, khi có
khủng hoảng xãy ra nền kinh tế chuyển sang giai đoạn suy thoái, của cải vật chất tạo ra
ít, năng suất lao động của xã hội thấp, thất nghiệp gia tăng,... Dần đến việc thu ngân
sách gặp nhiều khó khăn, ngoài ra Nhà nước còn chi tiền để phục hồi nền kinh tế và
giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh làm cho ngân sách nhà nước dễ rơi vào tình

8Xem: Trần Đình Ty, Quàn lý tài chính công, NXB Lao Động 2003, Trang 326.


trạng bội chi9. Như vậy, theo thuyết này sự cân bằng ngân sách nhà nước sẽ không duy
trì được trong khuôn khổ một năm mà sẽ duy trì trong khuôn khổ một chu kỳ kinh tế.
Nghĩa là, nguyên tắc cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước vẫn được tôn trọng

nhưng sự cân bằng ngân sách nhà nước phải thực hiện trong một chu kỳ phát triển kinh
tế.
Lý thuvết về ngân sách cố ý thiếu hụt
Lý thuyết cổ điển đã chỉ ra, muốn thăng bằng ngân sách trong giai đoạn suy
thoái thì phải giảm thu hoặc tăng chi10. Nhưng cả hai phương pháp này đều kiềm hãm
sự phát trien kinh tế, làm cho nền kinh tế càng đình trệ hơn. Do vậy khi kinh tế rơi vào
giai đoạn suy thoái, phải tránh sự kiềm hăm đó bằng cách cố găng hy sinh thăng bằng
ngân sách, phải sử dụng sự mất cân đối ngân sách, tăng chi tiêu để đưa nền kinh tế
thoát khỏi suy thoái. Tuy nhiên, việc cố ý tạo sự thiếu hụt ngân sách nhà nước có thể
ảnh hưởng xấu đến chính sách tiền tệ, lạm phát gia tăng. Nhưng những người ủng hộ
thuyết này cho rằng: “Sự phục hồi kinh tế sẽ đem lại nguồn để ngân sách nhà nước trở
về tình trạng cân bằng và đẩy lùi lạm phát”.
Thuyết hạn chế tiêu dùng thi hành trong thời chiến
Thuyết này cho rằng, vì muốn thỏa mãn nhu cầu của chiến tranh ngân sách nhà
nước phải chi tiêu rất nhiều, trong khi đó khối lượng tài sản cung cấp trên thị trường lại
9Xem: Trần Đinh Ty, Quàn lý tài chính công, NXB Lao Động 2003, Trang 328, 329.

10

Xem: Trần Đình Ty, Quàn lý tài chính công, NXB Lao Động 2003, Trang 330.


khan hiếm hơn thời bình11. Lúc này ngân sách nhà nước phải thiết lập một chế độ hạn chế
chi tiêu và kiếm soát giá cả. Chế độ này sẽ hướng người dân đến việc chi tiêu không
hết số thu nhập có khả năng sử dụng của mình, do đó Nhà nước sẽ tìm cách thu hồi số
tiền dư đó vào ngân sách nhà nước bằng cách đánh thuế hoặc phát hành công trái.
Tóm lại, mỗi thuyết bàn về cân đối ngân sách ở mồi khía cạnh, góc độ và thời điểm
khác nhau nhưng cùng hướng tới vấn đề làm sao cho ngân sách nhà nước được cân
bằng. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay thì thuyết cổ điển không còn phù hợp nữa
vì quá cứng nhắc, việc duy trì chính sách chi tiêu theo thuyết này tuy rất cần thiết

nhưng không thể đem đến sự phát triển bền vững cho nền kinh tế. Các thuyết hiện đại
thì đưa ra những biện pháp mạnh hơn để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước nhưng
trong điều kinh tế chuyển đổi và hội nhập như nước ta hiện nay, chúng ta cần phải lựa
chọn và vận dụng hợp lý các lý thuyết đó để đưa đất nước phát triển.
1.2.2.

Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước là một bảng kể hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự trù
các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế quá trình thu chi
ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi
sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp
ứng nhu cầu chi tiêu trong năm đó, hoặc có khi mức thu lại vượt xa những khoản chi.
Do vậy các khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được tính toán chính xác và
phù hợp với thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước trong trạng thái cân bằng, ổn
định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng đê đảm bảo cho ngân sách nhà
nước được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính và kinh
tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới huy động được nguồn thu vào ngân sách
nhà nước, còn kinh tế không ổn định, kém phát triển thì nguồn thu vào ngân sách nhà
nước giảm và còn phải chi nhiều để hỗ trợ. Điều đó dẫn đến ngân sách nhà nước bị
mất cân đối.

11

Xem: Học viện tài chính, Giáo trinh quán lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 265.


Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu mà
Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một năm và sự phân
phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó

Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương quan
giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tuông quan giữa tổng thu và
tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các
khoản chi của ngân sách nhà nước
Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà nước là
cân đối về phân bổ và chuyên giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung ương
và địa phương và giữa các địa phương với nhau đế thực hiện chức năng và nhiệm vụ
được giao.
Cân đối ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về sổ lượng biểu hiện
qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện qua các khía cạnh khác
nhau. Tựu trung lại ta có thể hiểu: Cân đối ngân sách nhà nước là một bộ phận quan
trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu
và chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nước
đã đề ra trong từng lĩnh vục và địa bàn cụ thể.
1.2.3.

Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước

Từ những quan niệm về cân đối ngân sách nhà nước ta có thể rút ra một số đặc điêm
cơ bản sau đây:
- Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và
chi ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nó
vira là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, vira bị ảnh hưởng bởi
các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Cân đối ngân sách nhà nước không phải là đê thu chi cân
đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt lượng, mà cân đối ngân sách nhà nước nhằm
thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội của Nhà nước đồng thời các chỉ tiêu
kinh tế - xã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Tuy
nhiên việc tính toán thu, chi không phản ánh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh tế- xã
hội, mà cân đối ngân sách nhà nước có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một
cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, bằng khả năng quản lý hoặc phân bổ nguồn

lực có hiệu quả.
- Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các
khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp
trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng ngân sách nhà
nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Cân bằng thu- chi ngân sách
nhà nước chỉ là tương đối chứ không thể đạt mức tuyệt đối được vì hoạt động kinh tế


luôn ở trạng thái biến động Nhà phải điều chỉnh hoạt động thu, chi cho phù hợp. Bên
cạnh đó, cần phân bố nguồn thu cho hợp lý đê đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội
giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân bằng mà rơi vào tình trạng
bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu.Trong
quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số thu, chi
ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa tùng khoản thu,
chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó
đê làm cơ sở phân bố và chuyến giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân
sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách một cách tông thể đê
đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
1.2.4.

Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kỉnh tế thị trường

Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng đê Nhà nước can thiệp vào
hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối ngân sách
nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước
thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi tiêu
hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh
tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các mục

tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền
kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán
được,...
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã
lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bố ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt
chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách.
Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước phân định nguồn
thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau
thì sẽ đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra.
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm
thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một điều
kiện kinh tế - xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế - xã hội rất khó khăn
làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sổng của người dân, có những vùng
điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc sống của người
dân được nâng lên. Vì vậy cân đối ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự công bằng,
giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy


động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển đê
hổ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế kém phát
triên. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phát huy lợi thế của từng địa
phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó dựa trên tiềm năng có san của địa
phương.
Tóm lại, , Ngân sách nhà nước vừa là công cụ tài chính quan trọng, vừa là đạo luật của
một quốc gia. Nó được thiết lập và vận hành cùng với sự tồn tại và phát triển của quốc
gia đó. Đặc biệt trong thời kỳ chuyển đổi và hội nhập như hiện nay, ngân sách nhà
nước và vấn đề cân đối ngân sách càng đóng vai trò quan trọng hơn vào sự phát triển
đất nước, bình ổn xã hội. Hiểu và vận dụng tốt các học thuyết về cân đối ngân sách
nhà nước sẽ giúp nước ta có thể giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về ngân sách

nhà nước trong thời gian vừa qua. Ngân sách nhà nước được cân đối, ổn định sẽ giúp
Nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình đối với toàn dân, toàn xã hội.


Chương II:

NỘI DUNG VẤN ĐỀ CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1 Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề rất quan trọng và cần thiết để Nhà nước
thực hiện tổt chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng để ngân sách nhà nước được
giữ ở mức cân đối và ồn định thì không đơn giản, vì nó còn phụ thuộc nhiều yếu tố
như: Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Hiện nay, vấn đề lạm phát
tăng nhanh, khủng hoảng kinh tế, thiên tai,... đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thu,
chi ngân sách nhà nước. Sự không ổn định trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà
nước đã dẫn đến tình trạng mất cân đối ngân sách nhà nước. Đối với Việt Nam, từ khi
đất nước chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, cùng với vai trò của Nhà nước được
nâng lên trong hoạt động kinh tế thì việc cân đối đối ngân sách nhà nước ngày càng
được chú trọng hơn. Nắm được tầm quan trọng của cân đối ngân sách nhà nước trong
sự nghiệp phát triển đất nước và ổn định xã hội, nước ta đã đưa ra những chính sách và
biện pháp để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối. Nhưng trước hết nước ta
cần phải xây dựng nguyên tắc cân đối ngân sách phù hợp với điều kiện kinh tế, chính
trị và xã hội của nước mình thì việc cân đối mới đảm bảo hiệu quả. Mặt khác, việc xây
dựng nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước phải được bắt đầu từ việc xác định vai trò
của nhà nước và phù hợp với từng bối cảnh cụ thể12.
Theo luật ngân sách nhà nước 2002 thì ngân sách nhà nước được cân đối dựa trên
nguyên tắc sau:
+ Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp
phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi, thì số
bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách. Nguyên
tắc này đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện

12 XemrNguyễn Thị Bình Minh và Bùi Thị Mai Hòa, “Cân đoi ngân sách nhà nước nhìn từ góc độ lý luận và
thực tiến” , Tạp chí tài chính số 10/2006, Trang 33.


sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường
xuyên được sử dụng để trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên
cùng với thu bù đắp được sử dụng để chi đầu tư phát triển 13. Trong đó, chi đầu tư phát
triển được chú trọng hơn, vì nó có thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách
nhà nước nhưng phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên, vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà
nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội
của một quốc gia. Nó tạo ra những điều kiện cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền
kinh tế, cũng từ đó kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn
đề xã hội của đất nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình.
Vì vậy chi đầu tư phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên
tắc cân đối ngân sách nhà nước.
+ Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước
ngoài. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không sử
dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân
sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thị tnrờng như hiện
nay thì vấn đề bội chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối với một quốc gia. Nhưng
chưa hẳn bội chi ngân sách nhà nước là biêu hiện sự yếu kém của nền kinh tế, mà nó
còn là một trong các cách thức tạo ra sự cân đối ngân sách nhà nước trong dài hạn,
đảm bảo cho nền kinh tế - xã hội phát triển và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi
nên dành cho mục đích phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ
khi đến hạn là rất cần thiết để đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối, tận dụng
được nguồn vốn vay một cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không
mang tính chất thu hồi vốn và không tạo thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ
đê dành cho mục đích phát triển. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối
với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung

ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách
13
Xem: Nguyễn Thị Bình Minh và Bùi Thị Mai Hòa, “Cân đối ngân sách nhà nước nhìn từ góc độ lý luận vù
thực tiến ” , Tạp chí tài chính số 10/2006, Trang 38.


cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định, nhưng không vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp
tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư xây
dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
+ Nguyên tắc này đã tạo cho chính quyền địa phương có được nhiều ưu thế hơn
trong việc quyết định ngân sách cấp mình, vấn đề cho phép cấp tỉnh vay nợ là cần
thiết, giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong việc tạo ra những
điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và đảm bảo vấn đề xã hội của
địa phương mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại được tính vào thu trong cân đối
ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách tổng thể thì ngân sách địa phương tôn
trọng nguyên tắc phải cân bằng thu chi theo quy định của luật ngân sách nhà nước năm
2002, song thực chất ngân sách địa phương có bội chi và khoản bội chi này lại không
tính vào trong bội chi ngân sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong
cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra việc quy định tỷ lệ tối đa chung cho
mọi địa phương là 30% (trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lý, vì mỗi địa
phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng quản lý
nợ và hoàn trả nợ là khác nhau.
Ngoài những nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước theo quy định của luật hiện hành,
thì trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước thì cần phải dựa trên hệ thống các
nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công hiệu quả như:


Tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính: Đê kiểm soát được các nguồn
tài chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối ngân sách nhà nước phải đánh giá

đúng
nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ
nguồn
lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối
ngân
sách nhà nước thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên
cần
phải được gắn kết với nhau. Trong chi tiêu ngân sách nhà nước cần tập trung chi
vào
những khoản cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến
lược
mà chính phủ đề ra.



Tính linh hoạt và tính tiên liệu: Trong cân đối ngân sách nhà nước, tính
linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết, vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý và


điều
phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi đế nhà nước
thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao
quyền

cho

người quản lý trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính. Tính tiên
liệu
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu

quả.
Nguyên tắc này đòi hỏi cân đối ngân sách nhà nước phải chú ý đến sự cân đối
trong
ngắn hạn và dài hạn, và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều
chỉnh
mất cân đối ngân sách nhà nước.


Tính trung thực: Khi cân đối ngân sách nên dựa vào những dự toán đã
được lập từ thực tế tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, mà không có sự thiên
vị

về

vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Những dự toán quá lạc quan sẽ dễ đưa
đến

sự

vi phạm tính kỷ luật tài chính và dẫn đến việc không thực hiện được những chiến
lươc,
chính sách Nhà nước đã đề ra.


Thông tin, minh bạch và trách nhiệm: Đây là vấn đề rất cần thiết trong
cân đối ngân sách nhà nước. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính trung thực và
giúp
người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý. Thông tin chính xác và kịp thời
về
chi phí, đầu ra và kết quả đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối ngân

sách
nhà nước đạt hiệu quả. Tính minh bạch và trách nhiệm trước hết yêu cầu những
người
ra quyết định phải có tất cả những dữ liệu và thông tin thích hợp, phải chịu trách
nhiệm về quyết định của mình.


2.2 Cân đối giữa các khoản thu và khoản chỉ ngân sách nhà nước trong cơ
cấu ngân sách nhà nước
Trong ngân sách nhà nước, cơ cấu các khoản thu và chi ngân sách nhà nước có liên
quan mật thiết đến vấn đề cân đối ngân sách nhà nước.Vì cân đối ngân sách chính là
sự cân bằng về các khoản thu và chi ngân sách, đảm bảo cho sự cân bằng này thì trong
quá trình cân đối ngân sách nhà nước phải dựa trên một cơ cấu ngân sách hợp lý và
được phân định rõ ràng. Cơ cấu ngân sách nhà nước sẽ giúp cho cân đối ngân sách nhà
nước thực hiện dễ dàng và xác thực hơn. Dựa vào cơ cấu thu, Nhà nước sẽ xác định
được những khoản thu vào ngân sách nhà nước trong một năm tài khóa, từ đó làm cơ
sở tiền đề cho việc tiến hành thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước và Nhà nước
có thế dựa vào những khoản thu đã được dự kiến sẵn đế lên kế hoạch chi tiêu hợp lý
trong năm đó. Ngược lại, các khoản chi ngân sách nhà nước là mục tiêu hướng tới và
là giới hạn để xây dựng kế hoạch thu ngân sách nhà nước. Nhà nước dựa vào cơ cấu
chi ngân sách nhà nước. Từ đó dự trù được các khoản phải chi trong năm, nhưng
phải đảm bảo được sự phối hợp cân đối giữa các khoản thu và chi ngân sách nhà nước
để đạt được mục tiêu ngân sách đề ra. Ta thấy, các khoản thu và chi ngân sách nước có
mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau trong suốt một năm ngân sách và cùng hướng
tới mục tiêu đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối và ổn định.
Cơ cấu các khoản thu trong cân đối ngân sách nhà nưóc
Nhìn từ góc độ kinh tế: Thu ngân sách nhà nước được hiểu là nguồn vốn tiền tệ của Nhà
nước do Nhà nước huy động để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của chính bộ máy nhà nước
đó.
Nhìn từ góc pháp lý: Thu ngân sách nhà nước đó là những khoản thu theo những hình

thức pháp lý nhất định. Theo đó, thu ngân sách nhà nước được cụ thể hóa trong văn bản
pháp luật thực định như sau:
“Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ
hoạt động kinh tê của Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ chức và cả nhân, các
khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật" (Khoản 1 Điều 2
Luật ngân sách nhà nước 2002).
Các khoản thu của ngân sách nhà nước chủ yếu được chia thành hai loại sau:


Thu có tính chất hoa lợi: Theo thông lệ các khoản thu có tính chất hoa lợi bao

gồm: Khoản thu về thuế; khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; khoản đóng góp tự
nguyện của tổ chức, cá nhân; khoản thu từ viện trợ không hoàn lại của nước ngoài cho
chính phủ;... Trong đó khoản thu về thuế được xem là quan trọng và thường xuyên nhất,
nó đóng góp một phần lớn vào nguồn thu của ngân sách nhà nước.


Thu có tính chất hoa lợi dựa vào hai yếu tố sau: Những khoản thu làm tăng ngân quỹ
nhưng không làm tăng trái khoản (tức là làm tăng các khoản nợ).


Thu không có tính chất hoa lợi: Theo quan điểm của Philip E.Taylor, khoản

thu không có tính chất hoa lợi được hiểu là những khoản thu làm tăng ngân quỹ nhưng
đồng thời cũng làm tăng một số lượng tương ứng các trái vụ của quốc gia 14 15. Tức là thu
vào ngân sách nhà nước bao nhiêu thì cũng sẽ dùng để chi tưong ứng như vậy, nó
không góp phần làm tăng ngân sách nhà nước. Các khoản thu này bao gồm: Thu về
vay nợ và viện trợ có hoàn lại; thu về lệ phí và phí;...
Trong cơ cấu các khoản thu ngân sách nhà nước, có những khoản thu cơ bản và mang
tính chất thường xuyên ảnh hưởng lớn đến vấn đề cân đối ngân sách nhà nước ở nước

ta hiện nay như: các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh
tế của nhà nước; các khoản thu từ các hoạt động viện trợ; các khoản đóng góp tự
nguyện của cá nhân và tổ chức.
2.2.1.1

Thu từ thuế, phí và lệ phí

Thuế, phí và lệ phí đềư là nguồn thu chủ yếu, thường xuyên của ngân sách nhà nước.
Các khoản thu này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn cho ngân sách nhà
nước và là công cụ để Nhà nước điều hành, quản lý xã hội góp phần thực hiện công
bằng xã hội. Các khoản thu này mang gía trị pháp lý cao, vì nó gắn liền với quyền lực
của nhà nước13. Nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí vừa đảm bảo để ngân sách nhà nước
14
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 23.

15
Học viện tài chính, Giáo trình quán lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 159.


chi cho tiêu dùng, vừa hỗ trợ cho chi đầu tư phát triển và chi cho tiêu dùng. Khi những
nguồn thu này bị tổn thất thì thường kéo theo tình trạng ngân sách nhà nước thu không
đủ chi, làm mất cân đối ngân sách nhà nước.
Thuế là khoản thu mang tính cường chế của Nhà nước, nhằm động viên một bộ phận
thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc chi tiêu hàng hóa, dịch vụ và từ việc lưu
giữ, chuyển dịch tài sản của các tổ chức và cá nhân tập trung vào quỳ ngân sách nhà
nước để phục vụ nhu cầu chi tiêu của nhà nước 16. Thu từ thuế là nguồn thu chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong tổng thu ngân sách nhà nước chiếm khoản 90%, bỡi vì thuế đánh
vào tất cả các hoạt động tiêu dùng của xã hội như: hoạt động sản xuất, chế tạo, sữa
chữa, chế biến,... Còn đối với cá nhân, thuế đánh vào tất cả các thu nhập thường
xuyên và bất thường của họ dựa vào những quy định cụ thể của luật thuế. Thuế là

khoản thu mang tính pháp lý cao, được cụ thể hóa thành luật và do Quốc hội thông
qua. Đe đảm bảo thuế trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, Nhà nước
cần phải xác lập một hệ thống thuế có khả năng bao quát đầy đủ các nguồn thu đã,
đang và sẽ phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức thu nộp thuế phải
chặt chẽ, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời.
Phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng không
thuần túy theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà các tố chức, cá nhân phải trả
khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó 17. Việc thu phí là hết sức cần thiết, khách quan,
16
Học viện tài chính, Giáo trình quán lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 115.

17
Lê thị Nguyệt Châu, Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Tủ sách đại học cần Thơ 2007, Trang 49.


phù hợp với vai trò quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Thu phí sẽ làm tăng thu nhập
cho ngân sách nhà nước, từ đó làm tăng khả năng đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất
hàng hóa và các dịch vụ công cộng, đảm bảo công bằng xã hội. Các khoản thu từ phí
cũng có thể là những khoản thu đưa vào ngân sách nhà nước, cũng có thể là những
khoản thu đê lại cho các đơn vị thu sử dụng. Đối với các khoản thu về cho ngân sách
nhà nước, đây là một trong những nguồn thu quan trọng của các cấp ngân sách và
được đưa vào cân đối chung của ngân sách các cấp.
Lệ phí là những khoản thu gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý
của nhà nước cho các cá nhân và tổ chức nhằm phục vụ cho công việc quản lý hành
chính nhà nước theo quy định của pháp luật18. Khoản tiền này không phải là giá dịch
vụ mà là khoản thu phục vụ cho yêu cầu quản lý của nhà nước. Chỉ có một số cơ quan
thuộc bộ máy nhà nước mới được phép thu lệ phí và phải được quy định cụ the trong
văn bán pháp luật hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Lệ phí là nguồn thu nộp
hoàn toàn vào ngân sách nhà nước và là nguồn thu thường xuyên của ngân sách các
cấp.Vì vậy thu lệ phí được bố trí trong cân đối thu chi của ngân sách các cấp, đảm bảo

cho nhu cầu chi bình thường của ngân sách cấp đó.
2.2.1.2

Các khoán thu ngoài thuế, phí và lệ phí

Ngoài nguồn thu cơ bản từ thuế, phí và lệ phí thì ngân sách nhà nước còn bao gồm
những nguồn thu khác bổ sung vào ngân sách nhà nước. Những nguồn thu đó không
mang tính chất thường xuyên, ổn định và chỉ là phần đóng góp khá nhỏ vào ngân sách
nhà nước nhưng nó cũng đảm bảo cho Nhà nước có nguồn vốn đế thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, góp phần cân đối giữa hoạt động thu chi của ngân sách
nhà nước.


Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước: Bao gồm tiền thu hồi vốn của

nhà nước tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay của nhà nước đổi với các tổ chức
và cá nhân, thu nhập của nhà nước từ việc góp vốn vào các cơ sở kinh tế, kể cả thu từ
lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về thuế của tổ chức kinh tế có sự tham gia góp
vốn của nhà nước.
18
Lê thị Nguyệt Châu, Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Tủ sách đại học cần Thơ 2007, Trang 49.


×