Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN GIẢI QUYẾT NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CÔNG tác KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG cơ sở GIÁO dục PHỔ THÔNG TRÊN địa bàn TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.16 KB, 17 trang )

BM 01-Bia SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
PHÒNG KHẢO THÍ VÀ KIỂM ĐỊNH CLGD
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIẢI QUYẾT NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH
TRIỂN KHAI CÔNG TÁC KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG CƠ SỞ
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI

Người thực hiện: Hoàng Công Khảm
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: ............................. 
(Ghi rõ tên bộ môn)

- Lĩnh vực khác: Quản lý hành chính Nhà nước
Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN
 Mô hình
 Phần mềm
 Phim ảnh
 Hiện vật khác





BM02-LLKHSKKN

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Hoàng Công Khảm
2. Ngày tháng năm sinh: 22/02/1965
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: Trung Dũng – Biên Hòa – Đồng Nai
5. Điện thoại:

(CQ)/

(NR); ĐTDĐ: 0985.247.838

6. Fax:

E-mail:

7. Chức vụ: chuyên viên
8. Đơn vị công tác: Phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sỹ Hóa học
- Năm nhận bằng: 2012
- Chuyên ngành đào tạo: Hóa Vô cơ
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Hóa học
Số năm có kinh nghiệm: 17
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 02 bài báo khoa học
1. Synthesis of AlFe-Keggin by sol-gel method, 2011, Journal of Chemistry,
Vol. 49 (5AB), P.696-701.

2. Tổng hợp AlFe-Montmorillonite từ Bentonite Lâm Đồng, 2011, Tạp chí Hóa
học T.49 (6A),Tr. 393-402.


BM03-TMSKKN

GIẢI QUYẾT NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI
CÔNG TÁC KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG CƠ SỞ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, giáo dục giữ
một vị trí quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, góp phần vào việc xây dựng một nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, giáo dục ở các
cấp học và trình độ đào tạo đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức
mới, nhất là tình trạng chất lượng giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số
75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, đang
triển khai đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, tiếp tục đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất, và đẩy mạnh
công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào
tạo nhằm nhanh chóng tạo bước chuyển biến lớn về chất lượng giáo dục [1].
Thực hiện tốt công tác quản lý chất lượng, đảm bảo chất lượng và kiểm định
chất lượng là một đòi hỏi của ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Nội dung
các công việc liên quan đến công tác chất lượng giáo dục từ trước đến nay ngành
Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện. Tuy nhiên trong thực tế còn nhiều đơn
vị thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo theo nội dung các văn bản chỉ đạo, điều lệ,
qui chế, làm đến đâu hay đến đó. Chất lượng lượng giáo dục chưa được đặt ra như
là một nhu cầu thiết thân liên quan đến sự tồn tại hay không tồn tại của đơn vị đó.
Mục đích kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông nhằm xác định

mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn của cơ sở giáo dục phổ thông
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục; thông báo công khai với các cơ quan quản lý nhà
nước và xã hội về thực trạng chất lượng giáo dục; để cơ quan chức năng đánh giá và
công nhận cơ sở giáo dục phổ thông đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục [2].
Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông là mức độ yêu cầu
mà cơ sở giáo dục phổ thông phải đáp ứng để được công nhận đạt tiêu chuẩn chất


lượng giáo dục. Mỗi tiêu chuẩn bao gồm các tiêu chí (mức độ yêu cầu cụ thể của
mỗi tiêu chuẩn), trong mỗi tiêu chí có các chỉ số đánh giá chất lượng cơ sở giáo
dục phổ thông (mức độ yêu cầu cụ thể cần đáp ứng của mỗi tiêu chí).
Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông được thực hiện trình tự theo
các bước sau đây:
- Tự đánh giá của cơ sở giáo dục phổ thông.
- Đăng ký kiểm định chất lượng giáo dục của cơ sở giáo dục phổ thông.
- Đánh giá ngoài và đánh giá lại (nếu có) cơ sở giáo dục phổ thông.
- Công nhận cơ sở giáo dục phổ thông đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục và
cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục.
Căn cứ vào kết quả đánh giá ngoài nếu cơ sở giáo dục nào đạt được từ 80%
số lượng các tiêu chí đạt yêu cầu trở lên sẽ được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
cấp giấy chứng nhận cơ sở giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục với thời
hạn 5 năm đối với trường Tiểu học, 4 năm với trường Trung học cơ sở và Trung
học phổ thông [2].
Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ Kiểm định, phòng Khảo thí và
Kiểm định chất lượng giáo dục chúng tôi luôn phân tích, xác định những khó khăn,
vướng mắc với mục đích tìm ra những giải pháp tối ưu có thể được, để công tác kiểm
định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có hiệu quả nhất,
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của tỉnh nhà. Đó chính là nội dung đề tài:
“Giải quyết những khó khăn trong quá trình triển khai công tác kiểm định chất
lượng cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”

II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
Điều 17, Luật Giáo dục 2005 quy định: Kiểm định chất lượng giáo dục là
biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội
dung giáo dục đối với nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc kiểm định chất
lượng giáo dục được thực hiện định kỳ trong phạm vi cả nước và đối với từng cơ
sở giáo dục. Kết quả kiểm định chất lượng giáo dục được công bố công khai để xã
hội biết và giám sát [3].


Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành được hệ thống văn bản quy định về
kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông, bao gồm:
Quyết định số 04/2008/QĐ-BGDĐT ngày 04/02/2008, Quy định về tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường Tiểu học (Bộ tiêu chuẩn chất lượng
trường Tiểu học); Quyết định số 80/2008/QĐ-BGDĐT ngày 30/12/2008, Quy định
về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường Trung học phổ thông (Bộ tiêu
chuẩn chất lượng trường Trung học phổ thông); Thông tư số 12/2009/TT- BGDĐT
ngày 12/05/2009, ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục
trường Trung học cơ sở.
Chỉ thị số 46/2008/CT-BGDĐT về việc tăng cường công tác đánh giá và
kiểm định chất lượng giáo dục, ngày 05/8/2008. Theo đó, trong năm học 20082009, mỗi Sở Giáo dục và Đào tạo triển khai đánh giá khoảng 2,5% số trường Tiểu
học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông (trung bình mỗi sở có 10 trường)
trên các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau theo các tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành nhằm xác định thực trạng
chung của các cơ sở giáo dục phổ thông.
Quyết định số 83/2008/QĐ-BGDĐT ngày 31/12/2008, Quy định về quy
trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục cơ sở giáo dục phổ thông; Công
văn số 7880/BGDĐT-KTKĐCLGD ngày 08 tháng 9 năm 2009, hướng dẫn tự đánh
giá cơ sở giáo dục phổ thông; công văn số 9040/BGDĐT-KTKĐCLGD ngày 12
tháng10 năm 2009, hướng dẫn đánh giá ngoài và đánh giá lại cơ sở giáo dục phổ

thông.
Như vậy, hệ thống văn bản quy định kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục
phổ thông do Bộ GDĐT ban hành đã trang bị đầy đủ về mặt pháp quy và công cụ
cần thiết về kiểm định chất lượng giáo dục để các Sở GDĐT tiến hành triển khai
trên thực tế ở địa phương mình.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1. Những khó khăn trong quá trình triển khai công tác kiểm định chất
lượng cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là một trong 7 tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ với diện tích


5.866,4 km2 với 9 huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hoà. Trên địa bàn
tỉnh hiện có 38 dân tộc đang sinh sống, người Kinh chiếm đại đa số, thứ nhì là
người Hoa, thứ đến là các dân tộc bản địa như Chơ-ro, Mạ, Xtiêng .... Nhiều dân
tộc đã có ngôn ngữ riêng, cư trú trên địa bàn Đồng Nai lâu đời, có bề dày về lịch
sử và văn hoá. Thế nhưng, Tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ phổ thông [4], điều này rất
thuận lợi cho công tác giáo dục của địa phương.
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, từ năm 1995 đến nay nền giáo
dục ở Đồng Nai đã phát triển không ngừng về quy mô trường lớp và các loại hình
đào tạo; hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh với các ngành học từ Mầm non,
Phổ thông, Thường xuyên, Chuyên nghiệp – Dạy nghề đến Đại học. Với cơ sở
giáo dục phổ thông có đủ hai loại hình trường công lập và ngoài công lập. Năm
2012, trên địa bàn toàn tỉnh có 64 trường Trung học phổ thông (gồm 43 trường
công lập và 21 trường ngoài công lập), 171 trường Trung học cơ sở, 304 trường
Tiểu học , 01 Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.
Được sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT), từ năm học 2008 –
2009 đến nay Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai đã và triển khai công tác kiểm
định chất lượng giáo dục đến các trường Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học
phổ thông trên địa bàn toàn tỉnh. Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ
phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục chúng tôi xác định các khó khăn

cần giải quyết trong công tác kiểm định chất lượng giáo dục như sau:
Một là: Cán bộ phụ trách công tác kiểm định chất lượng giáo dục tại Sở và
các Phòng Giáo dục và Đào tạo còn thiếu (phòng Khảo thí và Kiểm định có 02
chuyên viên, mỗi phòng GDĐT chỉ có 01 chuyên viên phụ trách Kiểm định), phải
kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ, nghiệp vụ về kiểm định có được chỉ qua các đợt tập
huấn ngắn hạn một vài ngày do Bộ GDĐT tổ chức, chưa có cán bộ được đào tạo
bài bản về công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông.
Các đơn vị cơ sở không có nhân sự chuyên trách công tác tự đánh giá, các
trường học sử dụng giáo viên kiêm nhiệm nên không có chuyên môn nghiệp vụ về
công tác tự đánh giá, dẫn tới việc triển khai và thực hiện chậm, nội dung tự đánh
giá còn nhiều thiếu sót.


Hai là: Nhiều đơn vị trường học chưa có nhận thức đúng đắn đối với công
tác kiểm định chất lượng giáo dục, lãnh đạo các đơn vị chưa có quyết tâm trong
việc triển khai thực hiện nhiệm vụ tự đánh giá và công khai mức chất lượng giáo
dục, việc tự đánh giá chất lượng của đơn vị chủ yếu mang tính hình thức, đối phó.
Ba là: Công tác kiểm định chất lượng giáo dục đòi hỏi nhiều thời gian, nhân
lực, trí tuệ; nhưng từ khi triển khai thực hiện (năm học 2008 - 2009) đến thời điểm
hiện tại Bộ GDĐT chưa có hướng dẫn thực hiện kinh phí cho hoạt động này nên
địa phương chưa có cơ sở để triển khai thực hiện.
Bốn là: Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông và bộ
Tiêu chuẩn công nhận trường chuẩn quốc gia chưa có sự tích hợp thành một bộ
tiêu chuẩn Tiêu chuẩn đánh giá chung, gây nhiều khó khăn cho các đơn vị trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao và gây ra sự chồng chéo trong quản lý.
2.2. Phân tích nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trong quá trình triển
khai công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông
Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông ở Việt Nam là công việc hoàn
toàn mới. Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục mới được thành lập giữa
năm 2003 theo Nghị định số 85/2003/NĐ-CP, ngày 18 tháng 7 năm 2003 của Chính

phủ; năm 2005 phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục Sở GDĐT Đồng Nai
thành lập theo Quyết định số 2278/2005/QĐ-UBND, ngày 27/6/2005 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Đồng Nai, thực hiện hai nhiệm vụ chính trị là Khảo thí và Kiểm định chất
lượng giáo dục. Ban đầu thành lập chỉ có 03 cán bộ chuyên viên, chủ yếu thực hiện
nhiệm vụ Khảo thí, từ năm học 2009 - 2010 đến nay có 05 cán bộ chuyên viên trong đó
có 02 cán bộ chuyên viên phụ trách công tác kiểm định. Tuy vậy, so với yêu cầu của
nhiệm vụ vẫn còn thiếu, nghiệp vụ về công tác kiểm định chỉ được tập huấn trong thời
gian ngắn chưa đáp ứng nhu cầu của thực tế; đặc biệt chưa tham mưu cho Ban Giám
đốc sở ở tầm chiến lược về Kiểm định chất lượng giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh. Bên
cạnh đó, mỗi Phòng GDĐT chỉ có 01 chuyên viên phụ trách công tác kiểm định, do đó
việc triển khai các nội dung kiểm định đến cơ sở chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của kế
hoạch đặt ra. Mặt khác, các đơn vị trường học không có nhân sự chuyên trách công tác
tự đánh giá, giáo viên kiêm nhiệm thêm công việc tự đánh giá, dẫn tới quá trình trường


tự xem xét, nghiên cứu trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng còn lúng túng
trong việc tìm ra nội hàm của các tiêu chí, nhiều nhận định còn chung chung,
trùng lắp trong nhiều tiêu chí, giống báo cáo thành tích, thiếu minh chứng đính
kèm. Đó là khó khăn, vướng mắc đầu tiên cần giải quyết.
Khó khăn thứ hai theo chúng tôi là rất quan trọng, có tính quyết định đó là:
Nhận thức của không ít lãnh đạo các đơn vị trường học về Kiểm định chất lượng
cơ sở giáo dục phổ thông chưa đúng đắn, chưa thấy rõ công tác tự đánh giá của
đơn vị là để xác định về tình trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục, nhân
lực, cơ sở vật chất cũng như các vấn đề liên quan khác một cách khoa học, từ đó
tiến hành điều chỉnh các nguồn lực và thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn
chất lượng [5], do đó chưa quyết tâm trong việc thực tự đánh giá nhằm công khai
mức chất lượng. Theo chúng tôi, nguyên nhân khách quan dẫn đến điều khó khăn
này là các đơn vị đại đa số là trường công lập, được ngân sách nhà nước bao cấp,
được phân công tuyển sinh theo địa bàn dân cư, nên tính cạnh tranh về chất lượng
để thu hút người học không được đặt lên hàng đầu. Nguyên nhân khách quan này

dẫn đến nguyên nhân chủ quan là tính ỳ của các lãnh đạo trường học, nên việc
nhận thức để thay đổi một giải pháp quản lý mới là rất khó khăn. Đây là một khó
khăn cần giải quyết có tính căn cơ về chiến lược giáo dục của tỉnh nhà.
Khó khăn thứ ba không kém phần quan trọng để thúc đẩy nhanh công tác
kiểm định chất lượng giáo dục đạt hiệu quả là nguồn kinh phí chi trả cho công tác
đánh giá ngoài và đặc biệt là chi cho công tác tự đánh giá của các trường học; vì
đây là một quá trình liên tục được thực hiện theo kế hoạch, được giành nhiều công
sức, thời gian, có sự tham gia của các đơn vị và cá nhân trong nhà trường. Khó khăn
này xuất phát từ nguyên nhân của nhà quản lý, cụ thể là Bộ GDĐT. Tuy Bộ GDĐT
có quy định nguồn kinh phí lấy từ ngân sách, nhưng từ khi triển khai công tác kiểm
định đến thời điểm hiện tại Bộ vẫn chưa có văn bản hướng dẫn mức chi, đây có thể
xem là sự yếu kém trong sự phối hợp của các Bộ, Ngành liên quan.
Khó khăn cơ bản thứ tư mà nguyên nhân liên quan đến nội dung các Bộ tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông trùng lặp với Bộ tiêu chuẩn
công nhận trường chuẩn quốc gia, do đó việc triển khai trên thực tế bị chồng chéo về


chức năng nhiệm vụ, gây nhiều khó khăn cho các đơn vị trường học trong việc thực
hiện nhiệm vụ được giao và khó khăn trong quản lý điều hành của Sở GDĐT.
2.3. Đánh giá chung
Như vậy, những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai công tác
kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được xác
định là: Sự thiếu về số lượng và chất lượng của đội ngũ phụ trách công tác kiểm
định chất lượng giáo dục từ Sở, Phòng GDĐT đến các đơn vị trường học; Sự nhìn
nhận không đúng mức về nhiệm vụ kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông
của không ít lãnh đạo các trường học; Sự không rành mạch về chức năng nhiệm vụ
giữa Vụ Giáo dục Trung học và Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục; Sự
thiếu phối kết hợp Bộ giáo dục và Đào tạo với các Bộ, Ngành liên quan trong việc
giải quyết nguồn kinh phí chi cho công tác Kiểm định.
Hiện nay, thực hiện công tác kiểm định chất lượng có tính nội bộ là một vấn

đề khó, đòi hỏi Bộ GDĐT phải có chiến lược lâu dài phù hợp với yêu cầu của từng
giai đoạn phát triển. Phòng Khảo thí và Kiểm định cơ quan Sở GDĐT xác định rõ
các nguyên nhân dẫn đến những khó khăn cơ bản như đã đề cập ở trên để tham mưu
với các cấp lãnh đạo từng bước giải quyết sao cho thực hiện công tác kiểm định chất
lượng cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đạt hiệu quả nhất trong
từng giai đoạn cụ thể; góp phần không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục của tỉnh
nhà, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
2.4. Các giải pháp đã thực hiện
Nhận thức sâu sắc về các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai
nhiệm vụ kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh, lãnh đạo
phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục cơ quan Sở đã tham mưu Ban
Giám đốc chỉ đạo thực hiện các giải pháp trước mắt:
Thứ nhất: Tập huấn nghiệp vụ và hướng dẫn các đơn vị thực hiện chỉ đạo
của Bộ GDĐT đối với công tác Kiểm định chất lượng giáo dục.
Tham dự đầy đủ, đúng thành phần các khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
chuyên môn do Bộ GDĐT triệu tập. Thành phần tham dự tập huấn gồm có lãnh
đạo và chuyên viên phụ trách một số phòng chức năng Sở GDĐT, lãnh đạo và


chuyên viên phụ trách các Phòng GDĐT, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, cán bộ
làm thư ký hội đồng tự đánh giá các trường Trung học phổ thông, Trung học cơ sở
và trường Tiểu học.
Tổ chức các hội nghị triển khai các văn bản pháp quy của Bộ GDĐT về
công tác Kiểm định chất lượng giáo dục và hướng dẫn về nội dung về nghiệp vụ
lập báo cáo tự đánh giá theo bộ tiêu chuẩn chất lượng giáo dục mà Bộ GDĐT đã
ban hành đến các đơn vị:
Hội nghị lần thứ nhất ngày 02/4/2009 (Công văn số

439/SGDĐT-


KTKĐCLGD ngày 10/3/2009): Triển khai Bộ tiêu chuẩn chất lượng trường Tiểu
học (Quyết định số 04/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 04/02/2008); Bộ tiêu chuẩn chất
lượng trường Trung học phổ thông (Quyết định số 80/2008/QĐ-BGDĐT ngày
30/12/2008), Quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục cơ sở
giáo dục phổ thông (Quyết định số 83/2008/QĐ-BGDĐT ngày 31/12/2008).
Hội nghị lần thứ hai ngày 13/08/2009 (Công văn số: 1312/ SGDĐTKTKĐCLGD; 1313/ SGDĐT-KTKĐCLGD ngày 23/7/2009): triển khai Bộ tiêu
chuẩn chất lượng trường Trung học cơ sở (Thông tư số 12/2009/TT- BGDĐT ngày
12//05/2009).
Thứ hai: Đôn đốc, kiểm tra các đơn vị thực hiện công tác Tự đánh giá.
Đầu mỗi năm học Sở đều có văn bản chỉ đạo nhiệm vụ năm học đối với nội
dung Kiểm định chất lượng giáo dục, nội dung chủ yếu đề ra tiến độ yêu cầu các
đơn vị lập báo cáo Tự đánh giá theo bộ tiêu chuẩn chất lượng của bậc học. Xác
định tự đánh giá chất lượng giáo dục là một giải pháp quản lý cho lãnh đạo các cơ
sở giáo dục phổ thông.
Thường xuyên kiểm tra đôn đốc tiến độ về công tác kiểm định, từ khâu lập
kế hoạch thực hiện, ban hành quyết định thành lập hội đồng tự đánh giá ở cơ sở, tổ
chức làm việc của các nhóm chuyên trách, xây dựng cơ sở dữ liệu của nhà trường,
thu thập thông tin minh chứng, viết phiếu đánh giá đối với các tiêu chí. Sau khi
nhận được báo cáo tự đánh giá của các đơn vị, phòng chức năng của Sở khẩn
trương phân công cán bộ nghiên cứu, đóng góp ý kiến đối với từng tiêu chí trong
báo cáo, nhằm hoàn thiện nội dung báo cáo.


Thứ ba: Năm học 2009 – 2010 đã tổ chức thực hiện thí điểm đối với 3 đơn
vị thuộc 3 bậc học đó là trường Tiểu học An Hảo, trường Trung học cơ sở Hùng
Vương thuộc thành phố Biên Hòa và trường Trung học phổ thông Đoàn Kết huyện
Tân Phú.
Cán bộ, chuyên viên phụ trách của Sở đã về tận các đơn vị tổ chức các buổi
tập huấn về nghiệp vụ viết báo cáo tự đánh giá chất lượng giáo dục, góp phần
hướng dẫn, giải thích các thắc mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Phối hợp với dự án Chương trình phát triển Trung học hỗ trợ kinh phí cho
02 đơn vị trường Trung học phổ thông Đoàn Kết và trường Trung học cơ sở Hùng
Vương trong quá trình triển khai thực hiện thí điểm.
Thứ tư: Tổ chức hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất
lượng giáo dục ngày 18/3/2012 (công văn số 181/SGDĐT-KTKĐCLGD ngày 21
tháng 02 năm 2011; 374/BC-SGDĐT ngày 23 tháng 3 năm 2011). Phân tích đánh
giá công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh, chỉ ra các
hạn chế cơ bản như: Trình độ chuyên môn của cán bộ, chuyên viên, giáo viên được
phân công phụ về đo lường đánh giá chất lượng giáo dục tại Sở, Phòng GDĐT và
các đơn vị còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ. Tiến độ công việc còn
chậm, chưa đạt yêu cầu của Sở đề ra theo công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ
năm học về lĩnh vực Kiểm định chất lượng giáo dục. Trên cơ sở đó xác định các
công việc trọng tâm cần xử lý tiếp theo là:
Tiếp tục xác định công tác tự đánh giá chất là giải pháp quản lý tốt nhất để
nâng cao chất lượng giáo dục của các đơn vị.
Mục tiêu là xây dựng đội ngũ làm công tác kiểm định cho cơ sở giáo dục phổ
thông, thông qua đó để nâng cao nhận thức và nghiệp vụ cho lãnh đạo các đơn vị
trường học về công tác kiểm định chất lượng giáo dục; thay đổi cách nhìn nhận về
công tác quản lý và chỉ đạo, nâng tầm nhìn chiến lược của đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục, tăng cường năng lực quản lý, chỉ đạo và tổ chức các hoạt động giáo dục.
Nội dung chủ yếu là tổ chức tập huấn về công tác tự đánh giá. Thành phần tham dự
là chuyên viên phòng Khảo thí và Kiểm định, phòng Giáo dục Trung học, phòng
Giáo dục Tiểu học, Tổ trưởng tổ phổ thông của các Phòng GDĐT và tất cả các Hiệu


trưởng/Phó Hiệu trưởng các trường Trung học phổ thông. Đối với trường Trung học
sở và các trường Tiểu học được lựa chọn là các Hiệu trưởng của trường thuộc các
khu vực khác nhau từ thành phố Biên Hòa đến các huyện miền núi. Giảng viên mời
từ Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục. Phối hợp với phòng Giáo dục
Trung học, Giáo dục Tiểu học trong việc chọn cử chuyên viên phụ trách bậc học

tham dự tập huấn và phòng Kế hoạch tài chính cơ quan Sở để chi trả kinh phí theo
quy định hiện hành. Thời gian tổ chức tập huấn 02 ngày, trong tháng 10 năm 2012,
tại hội trường A Sở GDĐT.
Phân cấp công tác quản lý về kiểm định chất lượng giáo dục cho các Phòng
GDĐT, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm định cho báo cáo viên của các đơn vị.
Cử 01 giáo viên tham gia lớp Cao học về kiểm định chất lượng giáo dục.
Tiếp tục tổ chức đánh giá ngoài đối với các đơn vị đã hoàn thành báo cáo tự
đánh giá có chất lượng.
Đề xuất với cấp thẩm quyền có nguồn kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi triển
khai thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất lượng giáo dục.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
1. Nhận thức của lãnh đạo các đơn vị cơ sở giáo dục phổ thông
Sau 3 năm từ 2008 đến 2011 thực hiện triển khai công tác kiểm định cơ sở
giáo dục phổ thông trên phạm vi toàn tỉnh cho thấy: Nhận thức về các giải pháp
quản lý theo các tiêu chuẩn chất lượng giáo dục của phần đông lãnh đạo các đơn vị
trường học chuyển biến rõ, thể hiện qua việc đã chỉ đạo đơn vị mình triển khai
công tác tự đánh giá, báo cáo kịp thời theo yêu cầu của Sở GDĐT. Giải pháp quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn của bậc học được quan tâm chú trọng và khá phổ
biến trong các đơn vị trường học. Tham gia đầy đủ các đợt tập huấn do Bộ và Sở
GDĐT tổ chức.
Thống kê số lượng tham gia tập huấn công tác tự đánh giá và đánh giá ngoài
Sở GDĐT tổ chức

Bộ GDĐT tổ chức

Phòng GDĐT

THPT

THCS


Tiểu học

Tự đánh giá

Đánh giá ngoài

22

120

22

22

137

29

2. Kết quả công tác tự đánh giá của các đơn vị trong 3 năm học vừa qua đối


với các đơn vị đủ điều kiện theo quy định tại Điều 7, Quyết định 83/2008/QĐBGDĐT.
Bậc
học

Năm học 2008-2009
Đã
hoàn
thành


Chưa
hoàn
thành

Chưa
thực
hiện

Năm học 2009-2010
Đã
hoàn
thành

Chưa
hoàn
thành

Chưa
thực
hiện

Năm học 2010-2011
Đã
hoàn
thành

Chưa
hoàn
thành


Chưa
thực
hiện

THPT 14

15

27

17

13

26

19

12

25

(SL/%)

28.07

47.37

30.36


23.21

46.43

32.76

21.43

44.64

THCS 15

80

41

21

102

13

24

100

12

(SL/%)


11.03

58.82

30.15

15.44

75.00

9.56

17.65

73.53

8.82

TH

15

12

8

21

9


5

26

7

2

(SL/%)

42.86

34.29

22.86

60.00

25.71

14.29

74.29

20.00

5.71

24.56


Công nhận cơ sở giáo dục phổ thông đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục và
cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục 3 đơn vị: Trường Tiểu học An
Hảo và Trường Trung học cơ sở Hùng Vương thuộc thành phố Biên Hòa; Trường
Trung học phổ thông Đoàn Kết huyện Tân Phú.
Kết quả thống kê cho thấy: Sau 3 năm triển khai thực hiện công tác kiểm
định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã đạt được
những thành công bước đầu; nhận thức về kiểm định chất lượng giáo dục của các
đơn vị ngày càng được nâng cao; Công tác tự đánh giá được triển khai khá đồng bộ
ở các cấp học. Tuy nhiên, đa số các đơn vị chưa công khai mức chất lượng trên
website của trường, còn lúng túng về thu thập thông tin minh chứng trong việc
đánh giá các tiêu chí và đặc biệt kế hoạch cải tiến chất lượng của các tiêu chí chưa
rõ ràng.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Để các Sở GDĐT thúc đẩy việc kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ
thông theo các bộ tiêu chuẩn đã ban hành. Bộ GDĐT cần sớm có văn bản ban hành
định mức chi cho công tác kiểm định chất lượng giáo dục.


Cần thống nhất bộ Tiêu chuẩn công nhận trường chuẩn quốc gia và bộ Tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục thành một bộ tiêu chuẩn Tiêu chuẩn đánh giá
chung để giảm áp lực cho cơ sở. Nên quy định điều kiện cần để đạt trường chuẩn
quốc gia là phải qua kiểm định chất lượng giáo dục đạt cấp độ kiểm định cao nhất.
Để làm được công tác kiểm định chất lượng giáo dục đòi hỏi phải có một bộ
phân chuyên trách, có chuyên môn sâu về lĩnh vực kiểm định, quản lý, đánh giá
chất lượng giáo dục khách quan; độc lập tương đối với công tác chỉ đạo chuyên
môn; Do đó về lâu dài cần có các Trung tâm kiểm định chất lượng độc lập ở các
vùng miền, không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, coi công tác kiểm định là
một dịch vụ.

2. Đối với UBND tỉnh Đồng Nai
Tăng cường chỉ đạo Đài truyền hình Đồng Nai, Báo Đồng Nai về công tác
tuyên truyền kiểm định chất lượng giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh để nhân dân được
biết. Trong chu kỳ kiểm định 5 năm đối với trường Tiểu học, 4 năm với trường
Trung học cơ sở và Trung học phổ thông nếu trường nào không đạt mức chất lượng
thấp nhất (cấp độ 1) thì buộc thôi việc đối với Hiệu trưởng của trường công lập,
không cho phép tuyển sinh đối với trường ngoài công lập.
Hiện tại phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục Sở GDĐT còn
thiếu 2 chuyên viên phụ trách kiểm định bậc Tiểu học và Mầm non, Mẫu giáo; đề
nghị Sở Nội vụ năm học 2012 – 2013 tăng thêm biên chế cho Sở GDĐT về công tác
kiểm định chất lượng giáo dục.
V. KẾT LUẬN
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, đòi hỏi ngành Giáo dục và
Đào tạo phải thực hiện tốt công tác quản lý chất lượng, đảm bảo chất lượng. Do đó
kiểm định chất lượng là công tác không thể thiếu được của ngành Giáo dục và Đào
tạo. Việc xác định những nguyên nhân đem đến những khó khăn cần giải quyết như
đã đề cập ở trên giúp các nhà quản lý ở Trung ương cũng như địa phương phải có
nhìn nhận xác đáng về công tác kiểm định và phải có những thay đổi mang tính
chiến lượng lâu dài về giáo dục đào tạo trên phạm vi cả nước.


Để kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông đòi hỏi lãnh đạo các đơn
vị phải có nghiệp vụ chuyên môn về công tác kiểm định chất lượng giáo dục, đồng
thời phải có nhận thức đúng đắn về tự đánh giá chất lượng giáo dục, đây chính là
giải pháp quản lý tốt nhất và cũng chính là lộ trình đầy đủ nhất để nâng cao và duy
trì chất lượng giáo dục và đào tạo của đơn vị do mình quản lý.
Những khó khăn của công tác kiểm định chất lượng giáo dục hiện nay còn
nhiều, các đơn vị trường học đại đa số là trường công lập, được ngân sách nhà nước
bao cấp; bản thân cán bộ làm công tác kiểm định lại được hưởng lương từ ngân sách
nhà nước, thực hiện công tác kiểm định nội bộ. Nhà nước cần có lộ trình thành lập

các Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục độc lập.
Trong những năm sắp tới, giáo dục và đào tạo là một loại hình dịch vụ mà
những người làm công tác trong ngành giáo dục và đào tạo sẽ phải đáp ứng cho xã
hội, vì vậy đòi hỏi phải nâng cao chất lượng là một tất yếu. Nhà trường nếu đáp
ứng đủ được các tiêu chí chất lượng, được kiểm định và công nhận đạt chuẩn chất
lượng sẽ có sức thu hút lớn đối với các bậc cha mẹ trong việc chọn trường cho con
em mình theo học; đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của các cơ quan quản lý giáo dục
và xã hội./.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chỉ thị số 46/2008/CT-BGDĐT về việc tăng cường công tác đánh giá và
kiểm định chất lượng giáo dục, ngày 05/8/2008.
[2] Quyết định số 83/2008/QĐ-BGDĐT ngày 31/12/2008, Quy định về quy
trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục cơ sở giáo dục phổ thông.
[3] Luật Giáo dục năm 2005.
[4] Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Lâm Hiếu
Trung (chủ biên), NXB Đồng Nai, năm 1999.
[5] Công văn số 7880/BGDĐT-KTKĐCLGD ngày 08/9/2009, Hướng dẫn tự
đánh giá cơ sở giáo dục phổ thông.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Hoàng Công Khảm


BM04-NXĐGSKKN

SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
PHÒNG KT&KĐ CLGD

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Đồng Nai, ngày 04 tháng 6 năm 2012

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2011 - 2012
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm: Giải quyết những khó khăn trong quá trình triển khai công tác
kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Họ và tên tác giả: Hoàng Công Lhảm Chức vụ: Chuyên viên
Đơn vị: Phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 

- Phương pháp giáo dục



- Lĩnh vực khác: Quản lý hành chính nhà nước

Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị 



Trong Ngành 

1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây)
-


Có giải pháp hoàn toàn mới

-

Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có




2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây)
-

Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao 
-

Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại
đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và
dễ đi vào cuộc sống:

Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng:
Tốt 
Khá 
Đạt 
Sau khi duyệt xét SKKN, Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có
ký tên xác nhận và chịu trách nhiệm của người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và
đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm.
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)


• Lưu ý:
- Sáng kiến kinh nghiệm soạn thảo trên máy vi tính và in ra giấy khổ A4;
quy định canh lề: trên 2,0 cm, dưới 1,5 cm, trái 3,0 cm, phải 1,5 cm; Font chữ Việt
Nam UNICODE (Times New Roman); size chữ 14pt.
- Tất cả biểu mẫu đóng thành tập theo thứ tự: Bìa (BM01-Bia SKKK), Lý
lịch khoa học (BM02-LLKHSKKN), Thuyết minh đề tài (BM03-TMSKKN),
Phiếu nhận xét, đánh giá của đơn vị (BM04-NXĐGSKKN).
- Ở Bìa SKKN phải ghi rõ tên lĩnh vực, tên bộ môn để đảm bảo thuận tiện,
chính xác trong việc phân loại, phân công chuyên gia đánh giá thẩm định.
- File soạn thảo SKKN của cá nhân gửi Hội đồng thi đua của đơn vị để
tổng hợp chung vào 01 đĩa CD và gửi qua email cho Hội đồng khoa học Sở
GD&ĐT cùng với danh sách chung của đơn vị.

- Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN (như phần mềm ứng
dụng, phim, ảnh) được gửi kèm SKKN như đĩa CD (không nhận đĩa mềm), các mô
hình đồ dùng dạy học gửi kèm sáng kiến kinh nghiệm phải được đóng thùng bên
ngoài có dán nhãn theo mẫu (BM 01-Bia SKKN).
- Số lượng hồ sơ SKKN của từng cá nhân (gồm bản in SKKN, đĩa CD
phần mềm ứng dụng, phim, ảnh; mô hình đồ dùng dạy học do lãnh đạo đơn vị tổng
hợp gửi trực tiếp cho Hội đồng khoa học Sở GD&ĐT):
+ Chiến sĩ thi đua cơ sở: 02 bộ;
+ Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh: 06 bộ.
- Hội đồng khoa học Sở GD&ĐT không nhận 01 SKKN có từ 02 tác giả
trở lên cùng thực hiện; không nhận SKKN khi chưa thực hiện đầy đủ nội dung quy
định.



×