Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận giữa kì môn luật sở hữu trí tuệ bảo hộ CDĐL ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.31 KB, 26 trang )

Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

MỞ ĐẦU
Ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này được đánh giá là sẽ mở ra rất nhiều cơ
hội cho Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế song sự kiện này cũng
đặt ra không ít khó khăn, thách thức và nông nghiệp được xem là lãnh vực sẽ phải
chịu nhiều áp lực nhất. Bước vào “sân chơi lớn” này, Việt Nam phải cam kết thực
hiện những chính sách phải cắt giảm thuế quan và tạo điều kiện thuận lợi cho hàng
hoá của nước ngoài xâm nhập vào thị trường nội địa. Hàng hoá từ các nước khác sẽ
tràn ngập thị trường Việt Nam trong đó không thể không kể đến các mặt hàng nông
sản của các nước như Trung Quốc, Thái Lan… Như vậy, vấn đề cạnh tranh hàng hóa
giữa Việt Nam với nước ngoài, đặc biệt là hàng nông sản là một câu hỏi đặt ra không
chỉ cho các nhà quản lí mà còn cho cả các doanh nghiệp. Xây dựng và phát triển
thương hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh được xem là một hướng đi đúng, trong đó
xác lập quyền đối với CDĐL cho hàng nông sản chính là cách làm hiệu quả nhất.
CDĐL chính là sự khẳng định về uy tín cũng như chất lượng đối với các sản phẩm.
Việc phải xác lập bảo hộ CDĐL cho hàng hóa, phải làm cách nào để những CDĐL đó
được thừa nhận một cách chính thức đồng thời phải làm sao để có thể duy trì được uy
tín cũng như chất lượng của các sản phẩm sau khi được bảo hộ mà vẫn hài hoà hoá lợi
ích giữa các chủ thể cùng tham gia sản xuất, kinh doanh các sản phẩm mang CDĐL.
Đây thực sự vẫn còn là một bài toán khó. Hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của
CDĐL cũng như nhận thức được những bất cập trong công tác xây dựng và quản lí
CDĐL của Việt Nam trong thời gian qua, nhóm em đã chọn cho mình đề tài “Bảo hộ
CDĐL ở Việt Nam”.

Nhóm 3

Trang 1



Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỈ DẪN ĐỊA LÍ
I. CHỈ DẪN ĐỊA LÍ VÀ VAI TRÒ CỦA CHỈ DẪN ĐỊA LÍ
1. Khái niệm:
1.1. Chỉ dẫn địa lí (CDĐL)
Tài sản trí tuệ được chia thành ba loại chính là: Quyền sở hữu công nghiệp và
Quyền tác giả và các quyền liên quan và quyền đối với giống cây trồng. CDĐL chính
là một trong số những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp.
1.1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lí theo pháp luật quốc tế
Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, cho đến nay CDĐL đã được đề cập trong ba
điều ước quốc tế là: Công ước Paris 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp (viết tắt là
Công ước Paris 1883), Thoả ước Madrid 1891 về chống chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối
về nguồn gốc hàng hoá (viết tắt là Thoả ước Madrid 1891) và Thoả ước Lisbon 1958
về bảo hộ và đăng kí quốc tế tên gọi xuất xứ hàng hoá (viết tắt là Thoả ước Lisbon
1958).
Công ước Paris 1883 cũng như Thoả ước Madrid 1891 đều không nhắc tới
thuật ngữ CDĐL mà chỉ nhắc tới hai thuật ngữ chỉ dẫn nguồn gốc (Indication of
Source) và tên gọi xuất xứ (Apellations of Origin). Tuy nhiên, cả Công ước và Thoả
ước kể trên không đưa ra được khái niệm về hai thuật ngữ này mà chỉ nhắc tới chúng
với tư cách là đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ. Đến năm 1958, Thoả ước
Lisbon về bảo hộ và đăng kí quốc tế tên gọi xuất xứ của hàng hoá ra đời đã lần đầu
tiên đưa ra khái niệm về tên gọi xuất xứ hàng hoá. Trong Thoả ước này, tên gọi xuất
xứ được hiểu là tên địa lí của một nước, một vùng hay một địa điểm cụ thể xác định
một sản phẩm có nguồn gốc chính tại nơi có điều kiện địa lí độc đáo và cần thiết để
tạo chất lượng đặc trưng của sản phẩm, bao gồm các yếu tố tự nhiên và con người.
Nhìn chung, những hiệp định này không thể trở thành công cụ hữu hiệu để bảo hộ
CDĐL bởi chúng chỉ bao gồm những điều khoản chung chung và có số lượng thành
viên tham gia quá ít.
Năm 1994, Hiệp định các vấn đề liên quan đến SHTT - TRIPS đã ra đời nhằm

thiết lập thiết lập các tiêu chuẩn quy định về bảo hộ và thực thi sở hữu trí tuệ quốc tế,
xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu đối với CDĐL. Hiệp định này đã đưa ra khái
Nhóm 3

Trang 2


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

niệm về CDĐL như sau: “CDĐL được hiểu là một chỉ dẫn nhằm xác định một sản
phẩm cón xuất xứ từ lãnh thổ của một quốc gia thành viên hoặc từ một vùng, một khu
vực địa lí của nước đó, mà chất lượng, danh tiếng hay các đặc tính khác của sản phẩm
chủ yếu do nguồn gốc địa lí này mang lại”.
1.1.2. Khái niệm chỉ dẫn địa lí theo pháp luật của Việt Nam
Năm 1995, Việt Nam đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm về tên gọi xuất xứ trong
Bộ Luật Dân sự 1995 như sau:
“Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lí của nước, địa phương dùng để chỉ xuất
xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các
tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lí độc đáo và ưu việt, bao gồm
yếu tố tự nhiên, con.người.hoặc.kết.hợp.cả.hai.yếuttố.đó”.
1

Khái niệm này tương đối.phù.hợp.với.Công.ước.Paris.1883. Trước yêu cầu hội

nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, Việt Nam cần phải bổ sung những quy định về
CDĐL. Chính vì vậy, năm 2000 chúng ta đã đưa ra những quy định đầu tiên về CDĐL
thông qua Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 của Chính phủ về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, CDĐL, tên thương mại và bảo
hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Theo
Nghị định này, CDĐL được hiểu là:

“...thông tin về nguồn gốc địa lí của hàng hoá đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh,
dùng để chỉ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một
quốc gia;
b) Thể hiện trên hàng hoá, bao bì hàng hoá hay giấy tờ giao dịch;
c) Liên quan tới việc mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn ra rằng hàng hoá nói
trên có nguồn gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc
trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của loại
hàng hoá này có được chủ yếu do nguồn gốc địa lí tạo nên“.
Quy định về CDĐL trong Nghị định 54 đã tương đối phù hợp với những quy
định trong Hiệp định TRIPS và chính thức được đưa vào Luật SHTT 2005. Trong luật

1

Nhóm 3

Trang 3


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

này, “CDĐL là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương,
vùng lãnh thổ, hay quốc gia cụ thể”.
Những điều kiện để một CDĐL được bảo hộ không được đưa ra ngay trong
định nghĩa mà được quy định riêng tại điều 79. Điều khoản này quy định như sau:
“CDĐL được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Sản phẩm mang CDĐL có nguồn gốc địa lí từ khu vực, địa phương vùng
lãnh thổ hoặc nước tương ứng với CDĐL;
b) Sản phẩm mang CDĐL có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do
điều kiện địa lí của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương

ứng với CDĐL đó quyết định.”
Như vậy, có thể thấy rằng sản phẩm mang CDĐL là những sản phẩm có danh
tiếng, có chất lượng đặc thù và những đặc tính đó chủ yếu do điều kiện địa lí của địa
phương, khu vực hoặc nước tương ứng với CDĐL đó quyết định. Danh tiếng, uy tín
của sản phẩm liên quan chặt chẽ tới lịch sử của sản phẩm và được xác định thông
qua mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó bằng cách đánh giá
mức độ rộng rãi mà người tiêu dùng biết đến và lựa chọn sản phẩm đó. Chất lượng,
đặc tính của sản phẩm mang CDĐL được xác định bằng một số chỉ tiêu định tính,
định lượng hoặc cảm quan về vật lý, hoá học, vi sinh và các chỉ tiêu đó phải có khả
năng kiểm tra được bằng phương pháp kĩ thuật hoặc do chuyên gia thẩm định bằng
các phương pháp kiểm tra phù hợp.
Các điều kiện địa lí liên quan đến CDĐL bao gồm cả yếu tố tự nhiên và yếu tố
về con người. Các yếu tố này phải mang tính quyết định đối với danh tiếng, chất
lượng cũng như đặc tính của sản phẩm. Yếu tố tự nhiên ở đây bao gồm các yếu tố về
khí hậu, thuỷ văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái và các điều kiện tự nhiên khác. Yếu
tố con người bao gồm kĩ năng, kĩ xảo của người sản xuất kết hợp với quy trình sản
xuất truyền thống của địa phương. Chính yếu tố con người góp phần không nhỏ trong
việc tạo nên nét đặc trưng của sản phẩm CDĐL.
1.2. Phân biệt chỉ dẫn địa lí với một số đối tượng khác
1.2.1. Phân biệt chỉ dẫn địa lí với chỉ dẫn nguồn gốc
Chỉ dẫn nguồn gốc là bất kì dấu hiệu hay cách thức thể hiện nào dùng để chỉ
dẫn ra rằng một hàng hoá có nguồn gốc từ một quốc gia, một khu vực hay một nơi cụ
Nhóm 3

Trang 4


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

thể. Tuy nhiên, hàng hóa đó không nhất thiết phải có những đặc tính chất lượng đặc

thù do yếu tố địa lí tạo nên. Những chỉ dẫn này chỉ có giá trị về mặt quản lí chứ không
mang lại một sự bảo đảm về mặt chất lượng của sản phẩm.
Theo cách hiểu của Hiệp định TRIPS, CDĐL không chỉ chỉ ra nơi xuất xứ của
hàng hoá mà nó còn thể hiện chất lượng, uy tín hoặc đặc tính riêng biệt của hàng hoá
có được do môi trường địa lí, bao gồm yếu tố tự nhiên cũng như yếu tố con người
mang lại.
1.2.2. Phân biệt chỉ dẫn địa lí với tên gọi xuất xứ
Tên gọi xuất xứ đã được định nghĩa trong Thoả ước Lisbon 1958 và định
nghĩa này khá tương đồng với CDĐL của Hiệp định TRIPS. Theo Thoả ước Lisbon
1958, tên gọi xuất xứ chỉ những sản phẩm có mối liên hệ chặt chẽ, khách quan với địa
phương mà nó mang tên. Điều này có nghĩa là cả nguyên liệu sản xuất và sản phẩm
đều phải được làm ra từ một vùng lãnh thổ nhất định mà sản phẩm mang tên và chất
lượng hoặc đặc tính của sản phẩm có được là nhờ vào các yếu tố địa lí của vùng lãnh
thổ đó. Không giống như tên gọi xuất xứ, mối liên hệ giữa sản phẩm mang CDĐL và
địa phương sản xuất được giảm nhẹ hơn. Tất cả các khâu của quy trình sản xuất ra sản
phẩm không nhất thiết phải diễn ra tại khu vực địa lí mà sản phẩm mang tên, chẳng
hạn như nguyên liệu sản xuất có thể nhập từ một nơi khác, nhưng sản phẩm vẫn duy
trì được chất lượng đặc trưng vẫn đảm bảo được uy tín, danh tiếng của sản phẩm. Như
vậy, có thể thấy tên gọi xuất xứ hàng hoá chính là một dạng đặc biệt của CDĐL.
Theo Điều 786 Bộ Luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam thì “Tên gọi xuất xứ
hàng hóa là tên địa lí của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước,
địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù
dựa trên các điều kiện địa lí độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người,
hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.”
Theo Điều 7, Nghị định 63/CP của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công
nghệ (SHCN): “Một tên gọi xuất xứ hàng hóa được bảo hộ phải là tên địa lí của một
nước hoặc một địa phương là nơi mà hàng hóa tương ứng được sản xuất và hàng hóa
đó phải có tính chất, chất lượng đặc thù do yếu tố địa lí (tự nhiên, con người) của
nước, địa phương đó quyết định”.


Nhóm 3

Trang 5


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

Quyền SHCN đối với tên gọi xuất xứ hàng hóa chỉ phát sinh trên cơ sở văn
bằng bảo hộ do cơ quan có thẩm quyền cấp. Giấy chứng nhận quyền sử dụng tên gọi
xuất xứ hàng hóa có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp, trừ trường hợp xuất hiện các
yếu tố làm mất tính đặc thù như quy định.
Quyền nộp đơn yêu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng tên gọi xuất xứ
hàng hóa gồm mọi tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm có tính
chất, chất lượng đặc thù tại địa phương có tên địa lí tương ứng với tên gọi xuất xứ
hàng hóa. Quyền nộp đơn này không được chuyển giao.
Các yếu tố thể hiện tính chất đặc thù của sản phẩm, hàng hóa mang tên gọi xuất
xứ hàng hóa rất đa dạng, có thể là đặc trưng về chất lượng (tính chất lí, hóa, sinh, cảm
quan), về những thuộc tính khác của sản phẩm, đặc trưng về điều kiện tự nhiên (khí
hậu, địa hình, thổ nhưỡng, thủy văn) về con người (bí quyết, công nghệ sản xuất, chế
biến truyền thông, kỹ năng, kỹ xảo) và gắn với một khu vực địa lí có ranh giới xác
định (bằng bản đồ) với địa danh cụ thể. Các yếu tố đặc trưng phải có khả năng kiểm
tra được vì đó là những yếu tố có ý nghĩa quan trọng trong khâu kiểm soát việc sử
dụng, vì vậy phải tìm ra phương pháp để thẩm định các yếu đó.
Ví dụ: Nước mắm Phú Quốc, rượu vang Đà Lạt, cà phê Buôn Ma Thuột là tên
gọi xuất xứ hàng hóa đã được bảo hộ của Việt Nam.
1.2.3 Phân biệt chỉ dẫn địa lí và nhãn hiệu hàng hoá
CDĐL chính là những cụm từ hay những biểu tượng giúp người ta nhận ra sản
phẩm có nguồn gốc từ một quốc gia, một vùng hay một địa phương nào đó nơi mà
danh tiếng, chất lượng cũng như các đặc tính khác của sản phẩm do chính nguồn gốc
địa lí đó mang lại.

Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau. . Như vậy, nhãn hiệu có thể là chữ cái hoặc chữ số, hình ảnh hoặc
hình vẽ, hình khối hoặc sự kết hợp các yếu tố này. Các dấu hiệu được bảo hộ dưới
hình thức nhãn hiệu chủ yếu nhằm phân biệt một sản phẩm hay một dịch vụ với một
sản phẩm hay dịch vụ khác trên thị trường. Nó không hề có sự bảo đảm về mặt chất
lượng hay các đặc tính cơ bản của sản phẩm gắn liền với nơi xuất xứ. Chỉ có một công
ty hay một cá nhân có quyền sở hữu nhãn hiệu này. Điều này lại hoàn toàn trái ngược

Nhóm 3

Trang 6


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

so với CDĐL bởi tất cả các nhà sản xuất ở trong khu vực hay địa phương có CDĐL
đều có quyền sử dụng nó nếu như họ có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn đã đề ra.
Ngoài ra, khái niệm nhãn hiệu hàng hoá thường liên quan đến việc sản xuất
riêng rẽ trong khi đó CDĐL lại liên quan đến việc sản xuất tập thể. Việc bảo hộ một
nhãn hiệu là tương đối đơn giản hơn so với việc bảo hộ một CDĐL. Đối với CDĐL,
vai trò của Nhà nước quan trọng hơn so với nhãn hiệu vì CDĐL chính là tài sản của
quốc gia và CDĐL mang lại nhiều lợi ích cho những nhà sản xuất sử dụng CDĐL đó.
Một điểm khác biệt nữa là nhãn hiệu có thể tự do được hình thành trong khi
CDĐL chỉ liên quan đến tên gọi địa lí hoặc truyền thống địa phương và cách gọi tên
này phải được dựa trên địa danh nơi sản phẩm ra đời. Ví dụ, một doanh nghiệp tại
Thái Nguyên không thể sử dụng tên gọi xuất xứ Shan tuyết Mộc Châu cho sản phẩm
chè của mình vì sản phẩm chè sản xuất tại Thái Nguyên có các đặc tính về chất lượng
không giống như chè sản xuất tại Mộc Châu. Chính vì vậy mà CDĐL không thể
chuyển nhượng được trong khi đó hàng ngày chúng ta vẫn đang sử dụng các sản phảm
mang nhãn hiệu được li – xăng (license). Như vậy, những nhãn hiệu mang CDĐL

không thể được bảo hộ nếu như việc sử dụng nhãn hiệu đó có thể gây ra sự hiểu nhầm
về nguồn gốc hàng hoá. Thông thường, luật các nước đều loại bỏ những cụm từ về địa
lí ra khỏi các nhãn hiệu được đăng kí.
Nhãn hiệu tạo thành một quyền SHTT cá nhân. Quyền đối với nhãn hiệu này
được chuyển nhượng, chia tách và được hưởng sự bảo hộ trên lãnh thổ quốc gia hay
quốc tế tuỳ theo hình thức đăng kí bảo hộ. Bảo hộ nhãn hiệu là bảo hộ có hạn định,
nghĩa là nhãn hiệu được bảo hộ từ khi đăng kí bảo hộ nhưng người sở hữu nó phải
định kỳ đăng kí lại (thường là sau 10 năm). Trong khi đó, CDĐL có thể là quyền sở
hữu tập thể trên cơ sở phải tuân thủ các quy trình kĩ thuật bắt buộc được xác định đối
với mỗi tên gọi được bảo hộ. Quyền này là vô thời hạn, không thể chuyển nhượng
hoặc chia tách nên có khả năng ngăn ngừa mọi sự chiếm đoạt quyền sở hữu. Quyền
đối với CDĐL được Nhà nước bảo hộ một cách chính thức.
Ngoài cách phân biệt như vậy, nhãn hiệu và CDĐL có thể kết hợp và thực
hiện những chức năng tương hỗ hay bổ trợ cho nhau nhưng hoàn toàn không phải là
đồng nhất. Nếu như những điều kiện chung về đăng kí được tuân thủ và nếu việc đăng
kí này không vi phạm đến một CDĐL đã được bảo hộ thì một nhãn hiệu có thể mang
Nhóm 3

Trang 7


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

những đặc điểm về địa lí và tính sở hữu tập thể giống CDĐL. Mặc dù vậy, trường hợp
đặc biệt này không thể hiện hoàn toàn mục tiêu của các nhãn hiệu so với các mục tiêu
đặt ra trong khuôn khổ của các CDĐL được bảo hộ. Về mặt nguyên tắc, một quy định
về quyền sử dụng một nhãn hiệu tập thể mang các đặc điểm đa dạng của sản phẩm tuỳ
theo sự lựa chọn của chủ sở hữư nhãn hiệu, trong đó có thể có yếu tố địa lí. Trái lại,
các quy trình kĩ thuật bắt buộc của một CDĐL thể hiện một cách cụ thể, rõ ràng các
đặc tính cơ bản của sản phẩm gắn liền với xuất xứ địa lí của nó.

Mặt khác, mục tiêu “bảo đảm về xuất xứ” là mối quan tâm đặc biệt của hệ
thống các CDĐL được bảo hộ, trong đó việc theo dõi kiểm soát chất lượng đồng nhất
của sản phẩm được các cơ quan chức năng Nhà nước tiến hành. Trong hệ thống nhãn
hiệu tập thể, trách nhiệm kể trên chỉ giới hạn ở chủ sở hữu nhãn hiệu và trách nhiệm
này cũng hoàn toàn khác với trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc việc đảm
bảo chính sách chung về chất lượng và xuất xứ sản phẩm.
2. Vai trò, ý nghĩa của chỉ dẫn địa lí
2.1. Ý nghĩa về mặt kinh tế
2.1.1. Chỉ dẫn địa lí là công cụ bảo hộ dành cho người tiêu dùng và nhà sản xuất
Những sản phẩm mang CDĐL phải là những sản phẩm có chất lượng đặc
trưng, có danh tiếng và uy tín. Nhờ vậy, những sản phẩm này dễ dàng được người tiêu
dùng chấp nhận và ưa chuộng. Đó chính là lí do vì sao những sản phẩm mang CDĐL
hay bị giả mạo và bắt chước. Tình trạng các hành vi giả mạo CDĐL là tương đối phổ
biến và đã gây ra thiệt hại lớn cho các nhà sản xuất và nó có thể khiến cho người tiêu
dùng không còn tin týởng vào chất lýợng của sản phẩm do họ cung cấp. Ví dụ nhý
trýờng hợp nýớc mắm Phú Quốc không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam mà ðýợc biết ðến ở
nhiều nýớc trên thế giới, song danh tiếng này ðang khiến nýớc mắm Phú Quốc phải
ðối mặt với với tình trạng bị làm giả, làm nhái ở mức báo động, dù sản phẩm đã được
cấp đăng bạ CDĐL và tên gọi xuất xứ từ năm 2001. Điển hình là nước mắm Phú Quốc
tranh chấp thương hiệu với Viethuong Trading Company Limited có trụ sở đặt tại
Hồng Kông.
Một khi CDĐL được bảo hộ một cách hiệu quả, hành vi giả mạo trên sẽ giảm
đi một cách đáng kể. Nếu được giao quyền sử dụng CDĐL, những người sản xuất có
quyền ngăn cấm việc sử dụng CDĐL một cách trái phép bằng cách khởi kiện lên toà
Nhóm 3

Trang 8


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ


án. Khi đó, bằng các công cụ pháp lí của mình, Nhà nước sẽ xử phạt những người có
hành vi vi phạm, đảm bảo lợi ích chính đáng cho các nhà sản xuất.
Không chỉ mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất, việc bảo hộ CDĐL cũng
mang lại lợi ích cho cả người tiêu dùng. CDĐL giúp cho họ có thể nhận biết và mua
được những sản phảm có nguồn gốc đáng tin cậy. Những yêu cầu đối với việc bảo hộ
buộc các nhà sản xuất phải cung cấp những thông tin đầy đủ về nguồn gốc xuất xứ
cũng như chất lượng của sản phẩm. Nhờ đó, người tiêu dùng có thể hạn chế được việc
tiêu dùng các loại hàng giả, hàng nhái mà không phải lo lắng nhiều về vấn đề vệ sinh
an toàn thực phẩm khi sử dụng các sản phẩm có rõ nguồn gốc xuất xứ.
2.1.2. Chỉ dẫn địa lí làm gia tăng giá trị cho các sản phẩm
Tại hội thảo về CDĐL được tổ chức ngày 22-4-2013, ông Laurent Lourdais,
Chuyên gia tư vấn Tổng cục Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Ủy ban châu Âu
cho rằng, CDĐL góp phần bảo vệ tên cho các sản phẩm có giá trị, duy trì và nâng cao
các tiêu chuẩn thông qua một nguyên tắc tập trung, có giá cao hoặc duy trì được giá,
góp phần cạnh tranh bình đẳng. Đối với người tiêu dùng, CDĐL sẽ đảm bảo chất
lượng, nguồn gốc và tính riêng biệt của sản phẩm. “Nhìn chung, các sản phẩm CDĐL
được bảo hộ có giá bán cao hơn so với các sản phẩm cùng loại không có CDĐL. Ví dụ
như nước mắm Phú Quốc đã được đăng kí CDĐL tại EU nên sản phẩm này có giá bán
cao hơn so với khi chưa đăng kí bảo hộ”, ông Laurent Lourdais nói.
Hoặc sản phẩm mật ong Mèo Vạc – Hà Giang sau khi đăng kí CDĐL đã tăng
giá từ 300.000đ/l lên 600.000/đ/l; quýt Bắc Cạn khi có CDĐL và nhãn hiệu tập thể
tháng 12/2012 giá lập tức tăng lên gấp đôi; hay như vải thiều Lục Ngạn - Bắc Giang
từ khi có CDĐL tháng 6/2008 giá bán được tăng lên đáng kể, từ khi đổ đống năm
2005 nay đã tiêu thụ mạnh.
Bảo hộ CDĐL có thể giúp các nhà sản xuất gia tăng giá trị cho sản phẩm của
mình bởi một khi người tiêu dùng biết chắc chắn hàng hóa mình định mua đặc sản
thực sự được đảm bảo về nguồn gốc và chất lượng thì họ sẽ sẵn sàng trả giá cao. Như
vậy, có thể thấy nhờ được bảo hộ, những người sản xuất có thể bán những sản phẩm
mang CDĐL của mình với giá cao hơn rất nhiều. Đây là một trong những động lực

thúc đẩy việc đăng kí CDĐL cho các sản phẩm tại các địa phương trong cả nước.
2.1.2. Chỉ dẫn địa lí là công cụ hữu ích để thâm nhập thị trường
Nhóm 3

Trang 9


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

Kể từ khi Hiệp định TRIPS có hiệu lực thì một sản phẩm được công nhận và
mang CDĐL sẽ được chấp nhận ở phạm vi quốc tế. Vì vậy, CDĐL trở thành một công
cụ chiến lược trong thương mại và là tấm giấy thông hành cho các sản phẩm gắn liền
với một vùng đất.
Bảo hộ CDĐL mang lại nhiều lợi ích hơn hẳn so với bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá. CDĐL là cái sẵn có trong khi nhãn hiệu hàng hoá phải nghiên cứu sáng tạo mới
có được. Đăng kí bảo hộ nhãn hiệu ở bất kì một quốc gia nào trên thế giới đều phải trả
một khoản phí rất đắt mà không có sự bảo đảm rằng sản phẩm đó sẽ được người tiêu
dùng chấp nhận và lựa chọn. Trong khi đó, bảo hộ CDĐL là bảo hộ rẻ nhất, ở mức
cao nhất, cao hơn cả những bảo hộ khác liên quan đến SHTT. Bất kì một sản phẩm
nào được bảo hộ CDĐL đều đồng nghĩa với sự công nhận về chất lượng, uy tín của
sản phẩm.
Những sản phẩm mang CDĐL thường có được sự nhận biết tốt hơn trên thị
trường do chúng mang những đặc tính riêng biệt. Những sản phẩm mang đã được định
vị trên thị trường nên việc thực hiện các chính sách tiếp thị hay xúc tiến thương mại
trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều. Trong thời điểm cạnh tranh gay gắt như
hiện nay, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng các sản phẩm đặc biệt mang CDĐL.
2.2. Ý nghĩa về mặt xã hội
2.2.1. Chỉ dẫn địa lí giúp bảo vệ các giá trị văn hoá truyền thống
Sản phẩm có CDĐL giúp liên kết với các phong tục truyền thống, thừa hưởng
danh tiếng của địa phương, quốc gia. Sản phẩm này không phải là sản phẩm được

sáng tạo mới, mà là sản phẩm được thừa nhận. Nhãn CDĐL khẳng định giá trị của
một sản phẩm đã có sẵn và độc nhất. Đặc biệt, CDĐL góp phần bảo vệ tên cho các sản
phẩm có giá trị, duy trì và nâng cao các tiêu chuẩn thông qua một nguyên tắc tập
trung, có giá cao hoặc duy trì được giá, góp phần cạnh tranh bình đẳng. Đối với người
tiêu dùng, CDĐL sẽ đảm bảo chất lượng, nguồn gốc và tính riêng biệt của sản phẩm.
Nhìn chung các sản phẩm CDĐL được bảo hộ có giá bán cao hơn so với các sản phẩm
cùng loại không có CDĐL. Thực tế cho thấy, các chương trình bảo hộ có tác động
kinh tế-xã hội tích cực và quan trọng đối với nhiều vùng nông nghiệp và nông thôn xa
xôi, nơi phần lớn các sản phẩm này được sản xuất và chế biến.

Nhóm 3

Trang 10


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

CDĐL cho phép duy trì và phát triển các hoạt động, các ngành chất lượng tại
các vùng nông thôn thông qua việc tôn vinh các giá trị văn hoá, kĩ năng và bí quyết
truyền thống của con người và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Khi việc sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm mang CDĐL đem lại hiệu quả kinh
tế cao sẽ khuyến khích người dân duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống
của địa phương, tích cực sáng tạo hơn trong lao động. Như vậy, nó sẽ khuyến khích
tính đa dạng và tính độc đáo trong sản xuất, góp phần bảo vệ môi trường, các nguồn
tài nguyên cũng như bảo vệ những nét văn hoá truyền thống, nghệ thuật ẩm thực, nghề
thủ công đồng thời phát triển đa dạng sinh học.
2.2.2. Chỉ dẫn địa lí giúp phát triển kinh tế nông thôn, giải quyết vấn đề di dân
CDĐL thường gắn với lãnh vực nông nghiệp, điều này đồng nghĩa với việc nó
gắn bó với các vùng nông thôn. Trong nhiều trường hợp, việc đăng kí bảo hộ CDĐL
cho các sản phẩm mang sẽ cho phép nhà sản xuất duy trì và phát triển được sản xuất

vì thu được lợi nhuận nhiều hơn. Nhờ vậy, họ có được nguồn thu nhập ổn định, đủ để
đảm bảo cho cuộc sống của gia đình. Họ không phải chuyển ra thành thị kiếm việc
làm. Điều này cũng giúp giải quyết vấn đề di dân cơ giới, góp phần giữ vững trật tự an
ninh và ổn định xã hội.
Ngoài khả năng mang lại thu nhập, nâng cao và cải thiện mức sống cho nông
dân, CDĐL cũng góp phần phát triển các hoạt động kinh tế khác ở vùng nông thôn
trong đó phải kể đến hoạt động du lịch tại vùng có sản phẩn CDĐL, đặc biệt là du lịch
sinh thái, văn hóa.
2.2.3. Chỉ dẫn địa lí giúp phát triển hình ảnh quốc gia với bạn bè quốc tế
CDĐL là tài sản tập thể, thuộc sở hữu của quốc gia. Với đặc điểm liên quan
trực tiếp đến nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm nên khi xâm nhập vào thị trường quốc
tế, CDĐL thường gắn với hình ảnh của quốc gia. Ví dụ như khi nhắc đến rượu
Bordeaux là chúng ta nhớ ngay đến nước Pháp hay như khi nhắc tới nước mắm Phú
Quốc là nhắc tới Việt Nam. Một quốc gia có thương hiệu mạnh nói chung và CDĐL
nổi tiếng nói riêng thì khả năng cạnh tranh của nền kinh tế càng cao, vị thế của quốc
gia càng được củng cố trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc phát triển văn hoá
xã hội, hợp tác giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Các phương thức bảo hộ chỉ dẫn địa lí
Nhóm 3

Trang 11


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

Các phương thức bảo hộ ở đây có thể được chia thành 3 nhóm chính sau: bảo
hộ CDĐL hệ thống pháp luật riêng, bằng pháp luật về nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu
chứng nhận hoặc bằng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
3.1. Bảo hộ chỉ dẫn địa lí bằng pháp luật riêng
Tại nước ta, mặc dù không có được một đạo luật riêng về bảo hộ CDĐL. Tất cả

các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ được quy định chung trong Luật Sở hữu trí tuệ
2005. Tuy nhiên, mỗi đối tượng của sở hữu trí tuệ lại được quy định tại một phần
riêng và CDĐL được quy định tại mục 6 thuộc chương VII, phần thứ ba của luật này.
Như vậy, có thể coi phương thức bảo hộ CDĐL tại Việt Nam là bảo hộ theo pháp luật
riêng.
3.2. Bảo hộ chỉ dẫn địa lí bằng pháp luật về nhãn hiệu tập thể/nhãn hiệu chứng
nhận
Khái niệm nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận được quy định khác
nhau ở các nước. Tuỳ thuộc vào luật quốc gia của mỗi nước, một nhãn hiệu tập thể
hay nhãn hiệu chứng nhận có thể chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá và dịch vụ. Như vậy,
ở một mức độ nào đó nó có thể thích hợp cho việc bảo hộ CDĐL.
Thông thường, việc sử dụng một nhãn hiệu tập thể bị chi phối bởi các quy định
phải được trình lên cơ quan sở hữu công nghiệp đồng thời nộp đơn đăng kí. Một
CDĐL có được bảo hộ như một nhãn hiệu tập thể hay không hoàn toàn phụ thuộc vào
luật quốc gia của từng nước. Một số nước không chấp nhận bảo hộ CDĐL dưới dạng
nhãn hiệu tập thể.
Tại Việt Nam, pháp luật cũng cho phép các sản phẩm gắn với địa danh cũng có
thể được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu chứng nhận hoặc nhãn hiệu tập thể. Hiện nay,
nước ta có một số sản phẩm gắn với địa danh được bảo hộ theo hình thức nhãn hiệu
tập thể bao gồm: vú sữa Lò Rèn – Vĩnh Kim – Châu Thành – Tiền Giang, xoài cát
Hoà Lộc – Tiền Giang, bánh đậu xanh Hải Dương….
3.3 Bảo hộ chỉ dẫn địa lí bằng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Việc sử dụng một CDĐL cho sản phẩm hoặc dịch vụ không xuất xứ từ vùng
mang tên địa lí tương ứng có thể gây nhầm lẫn hoặc lừa dối người tiêu dùng. Hơn thế
nữa, việc sử dụng như vậy có thể coi là hành vi chiếm đoạt danh tiếng của người thật
sự có quyền sử dụng CDĐL này. Theo luật chống cạnh tranh không lành mạnh của
Nhóm 3

Trang 12



Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

một số nước như Úc, Bungary, Canada, Cộng hoà Séc, Áo, Bỉ, Anh, Đan Mạch, Pháp,
Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc…, các nhà sản xuất và kinh doanh có thể sử dụng cách này
để ngăn chặn việc sử dụng CDĐL một cách trái phép của các đối thủ cạnh tranh
Các nguyên tắc cơ bản sau thường được công nhận:
Thứ nhất, để được bảo hộ theo luật chống cạnh tranh không lành mạnh, CDĐL
phải đáp ứng hai điều kiện: CDĐL phải đã có được một danh tiếng hoặc uy tín nhất
định hay nói cách khác, người mua sản phẩm này phải nghĩ ngay đến xuất xứ của sản
phẩm khi nhìn thấy CDĐL.
Thứ hai, việc sử dụng CDĐL trên sản phẩm, dịch vụ không xuất xứ từ vùng
mang tên địa lí tương ứng phải làm cho người tiêu dùng bị nhầm lẫn về xuất xứ thật
của sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra theo luật của một số nước, bằng chứng thiệt hại hoặc
có nguy cơ thiệt hại phải trình cho cơ quan xét xử.
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 đã quy định, quyền chống cạnh tranh
lành mạnh là một đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ. Điều 130 của Luật này đã chỉ
rõ các hành vi được xem là cạnh tranh không lành mạnh trong đó có hành vi sử dụng
CDĐL gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương
mại của hàng hoá, dịch vụ, gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất
lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp
hàng hoá, dịch vụ. Một tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 của Luật Sở hữu trí tuệ và
các biện pháp hành chính theo quy định của Luật cạnh tranh.
II...Xác lập và quản lí chỉ dẫn địa lí
1..Xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lí
Xác lập quyền đối CDĐL chính là việc xác định các tính chất đặc thù, uy tín,
danh tiếng của sản phẩm, các yếu tố tự nhiên, con người có ảnh hưởng đến các đặc
trưng đó của sản phẩm rồi tiến hành đăng kí bảo hộ CDĐL. Các nội dung chính cần

tiến hành để xác lập quyền đối với CDĐL:
1.1. Xây dựng cơ sở khoa học, thực tiễn phục vụ việc đăng kí chỉ dẫn địa lí
-Xây dựng cơ sở khoa học, thực tiễn phục vụ việc đăng kí CDĐL.
- Xác định các chỉ tiêu thể hiện chất lượng đặc thù của sản phẩm.
Nhóm 3

Trang 13


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

- Xác định các yếu tố tự nhiên, con người ảnh hưởng đến đặc thù của sản phẩm
- Xác định mối liên hệ giữa đặc thù về điều kiện tự nhiên, con người với đặc thù
về chất lượng sản phẩm.
- Khoanh vùng khu vực tương ứng với CDĐL và tiến hành các thủ tục đăng kí
CDĐL.
1.2. Tiến hành các thủ tục đăng kí chỉ dẫn địa lí
Sau khi đã có những chứng cứ đầy đủ chứng minh cho sản phẩm của mình đáp
ứng đủ những yêu cầu về một sản phẩm mang CDĐL được bảo hộ, chủ thể đứng ra
đăng kí bắt đầu tiến hành các thủ tục đăng kí CDĐL. Chủ thể đứng ra đăng kí CDĐL
có thể là tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang CDĐL, tổ chức tập thể đại diện
cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lí hành chính địa phương nơi có
CDĐL thực hiện quyền đăng kí CDĐL. Để đăng kí bảo hộ CDĐL, chủ thể đăng kí
phải tiến hành các công việc bao gồm: lập đơn yêu cầu đăng kí, nộp đơn và theo dõi
đơn.
2. Quản lí chỉ dẫn địa lí
Sau khi được đăng kí, để bảo đảm duy trì chất lượng sản phẩm và kiểm soát
việc sử dụng CDĐL, cần phải xây dựng và vận hành hệ thống quản lí CDĐL. Mục
đích của việc quản lí này là nhằm đảm bảo quyền sử dụng CDĐL hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân có đủ điều kiện sử dụng CDĐL, tránh các hành vi lợi dụng sử dụng trái

phép CDĐL đồng thời đảm bảo sản phẩm mang CDĐL khi đến tay người tiêu dùng có
chất lượng đúng như đã được đăng kí.
2.1. Đối tượng tham gia quản lí:
Đối tượng tham gia quản lí CDĐL gồm cơ quan có quản lí CDĐL và tổ chức tập
thể của các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm mang CDĐL.
Cơ quan quản lí CDĐL do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nơi có vùng địa lí tương ứng với CDĐL xác định và trao quyền quản lí.
Cơ quan này có thể là Sở Khoa học và Công nghệ hoặc Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Uỷ ban Nhân dân cấp huyện (nếu vùng lãnh thổ tương ứng với CDĐL
thuộc một huyện). Ví dụ như đối với hoa hồi Lạng Sơn, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng
Sơn là cơ quan quản lí tên gọi xuất xứ hàng hóa, chỉ tổ chức, cá nhân nào được Uỷ
ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn cho phép mới được sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa đó
Nhóm 3

Trang 14


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

cho sản phẩm hoa hồi.
Tổ chức tập thể tham gia quản lí CDĐL là tổ chức do các nhà sản xuất, kinh
doanh sản phẩm mang CDĐL tự nguyện thành lập và tham gia theo quy định của pháp
luật. Tổ chức tập thể này có thể được thành lập dưới hình thức là hợp tác xã, hội. Việc
thành lập tổ chức tập thể này là cần thiết để hỗ trợ cơ quan quản lí CDĐL trong trong
việc thực hiện những hoạt động thuộc nội bộ các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm
mang CDĐL mà cơ quan quản lí chỉ dẫn khó thực hiện được. Tại nước ta hiện nay,
gần như địa phương nào có CDĐL được bảo hộ cũng đã thành lập được các hiệp hội
ngành nghề như là Hiệp hội thanh long Bình Thuận, Hiệp hội sản xuất vải thiều Thanh
Hà, Hội sản xuất nước mắm Phú Quốc...
2.2. Nội dung quản lí:

Nội dung quản lí do cơ quan quản lí CDĐL thực hiện bao gồm: kiến nghị phê
duyệt các quy định và tổ chức thực hiện các thủ tục xem xét, đánh giá khả năng và trao
quyền sử dụng CDĐL cho các tổ chức, cá nhân có yêu cầu; kiểm soát chất lượng, đánh
giá, chứng nhận sản phẩm đủ điều kiện được mang CDĐL; kiểm soát việc tuân thủ các
điều kiện sử dụng CDĐL của các tổ chức, cá nhân (không tham gia tổ chức tập thể của
các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông sản mang CDĐL).

Nhóm 3

Trang 15


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẢO HỘ VÀ QUẢN LÍ CHỈ DẪN ĐỊA LÍ ĐỐI
VỚI CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM

I. THỰC TRẠNG BẢO HỘ VÀ QUẢN LÍ CHỈ DẪN ĐỊA LÍ ĐỐI VỚI CÁC
MẶT HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM
1. Thuận lợi
Trong thời gian gần đây ở Việt Nam đã tổ chức nhiều các cuộc hội thảo về
chuyên đề xây dựng CDĐL và thương hiệu đối với mặt hàng nông sản. Ngoài ra, các
tổ chức chính quyền từng địa phương cũng đang nỗ lực tạo điều kiện cho các cá nhân,
cũng như các đơn vị kinh doanh ở địa phương mình có các cở hội để tìm hiểu về vấn
đề này từ các doanh nghiệp khác trên lãnh thổ Việt Nam hay trên thế giới bằng việc tổ
chức các triển lãm nông sản tại địa phương hay tạo điều kiện để các cá nhân, doanh
nghiệp đó đi dự các cuộc trưng bày, triển lãm nông sản, các chương trình tập huấn hay
tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức mà Nhà nước đang thực hiện nhằm mục đích học
hỏi và nâng cao kinh nghiêm.
Bên cạnh đó các chuyên gia trong lĩnh vực bảo vệ SHTT Việt Nam, cũng đưa

ra nhiều những kiến nghị nhằm giúp cơ quan có thẩm quyền có các cơ sở để ngày một
hoàn thiện hơn các điều luật trong lĩnh vực này.
Sự ra đời của các câu lạc bộ xây dựng thương hiệu, xây dựng CDĐL ở Việt
Nam đã trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân về kiến thức, vốn, tư vấn cho
doanh nghiệp phương pháp xây dựng, cũng như chia sẻ kinh nghiệm xây dựng thương
hiệu của các nước mạnh về hàng hoá nông sản để doanh nghiệp thực hiện kế hoạch
xây dựng, phát triển thương hiệu của mình.
Các cơ quan Nhà Nước cũng đang dần hoàn thiện các cơ sở pháp lí cho vấn đề
bảo hộ CDĐL.
2. Những khó khăn
Khái niệm bảo hộ CDĐL nói chung và cho nông sản nói riêng, dù đã khá quen
thuộc trên thế giới nhưng ở Việt Nam khái niệm này mới chỉ được đề cập đến nhiều
trong thời gian gần đây. Do vậy, chúng ta còn rất nhiều khó khăn, hạn chế trong nhận
thức, còn nhiều thiếu sót trong việc ban hành các luật về vấn đề này.
Nhóm 3

Trang 16


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

Ở Việt Nam, bảo hộ CDĐL còn gặp khó khăn do khung pháp lí chưa đầy đủ,
vẫn đang trong quá trình hoàn thiện Luật SHTT. Các văn bản hướng dẫn để người sản
xuất hiểu đầy đủ về bảo hộ CDĐL cũng như điều kiện để đảm bảo sản xuất được
những sản phẩm đạt tiêu chuẩn... còn thiếu.
Một khó khăn nữa trong việc bảo hộ ở Việt Nam hiện nay là tập hợp được
những nhà sản xuất lại với nhau. Không ít nhà sản xuất hay nông dân do không hiểu
hết giá trị của bảo hộ mang lại đã không hợp tác tích cực, thậm chí còn cạnh tranh
không lành mạnh, ảnh hưởng đến việc hình thành các sản phẩm mang đặc trưng riêng
của một vùng.

3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác xác lập và quản lí chỉ dẫn
địa lí đối với hàng nông sản của Việt Nam.
3.1. Chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của chỉ dẫn địa lí
Xác lập và quản lí CDĐL là một vấn đề khó và đòi hỏi sự hợp tác, tham gia từ
nhiều phía. Vì vậy mà điều kiện đầu tiên để có thể xác lập và quản lí cũng như phát
triển CDĐL là các bên tham gia phải có được nhận thức đúng đắn và sâu sắc về tầm
quan trọng của vấn đề này. Trong khi đó, tại thời điểm hiện tại, nhân thức của người
dân Việt Nam đối với các vấn đề về SHTT, nhất là về CDĐL còn rất hạn chế. Với
không ít người sản xuất, họ không hiểu khái niệm CDĐL là gì chứ chưa kể tới việc họ
có nhận thức được tầm quan trọng cũng như lợi ích từ việc bảo hộ CDĐL cho sản
phẩm của mình. Thậm chí ngay cả các cán bộ nghiên cứu cũng còn rất mơ hồ về vấn
đề này.
Khó khăn trong việc bảo hộ CDĐL của Việt Nam hiện nay chính là việc tập
hợp được các nhà sản xuất lại với nhau. Không ít nhà sản xuất hay nông dân do không
hiểu hết giá trị của bảo hộ đã không hợp tác tích cực, thậm chí còn cạnh tranh không
lành mạnh, làm ảnh hưởng tới việc hình thành các sản phẩm mang đặc trưng của địa
phương mỡnh. Đó chính là nguyên nhân để các địa phương phải đẩy mạnh công tác
tuyên truyền phổ biến những kiến thức về CDĐL, về những lợi ích của CDĐL sau khi
được bảo hộ.
3.2. Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trong công tác xác lập và quản lí chỉ dẫn địa


Nhóm 3

Trang 17


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

Hoạt động bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền đối với CDĐL

nói riêng là lĩnh vực hoạt động còn tương đối mới ở nước ta. So với hàng trăm
năm kinh nghiệm của các quốc gia có truyền thống lâu đời về bảo hộ CDĐL như
Pháp, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, thì hoạt động này ở Việt Nam hiện nay mới chỉ là
những bước tập sự, vì vậy không thể nào tránh khỏi sự lúng túng, bỡ ngỡ, thiếu
kinh nghiệm thực tế. Việt Nam vẫn còn trong quá trình vừa làm vừa học.
Thêm vào đó, Việt Nam cũng còn thiếu kinh nghiệm trong việc xác định các
điều kiện địa lí quyết định đặc tính sản phẩm nên việc thuyết minh các yếu tố tạo nên
đặc thù về chất lượng của sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy mà thời
gian để xác lập một CDĐL thường kéo dài, như trường hợp của vải thiều Thanh Hà là
mất tới 3 năm.
Chính vì vậy, Việt Nam cần phải tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế
đồng thời ra sức học hỏi kinh nghiệm trong việc xác lập CDĐL của các nước trên thế
giới.
3.3. Quá trình xác lập và quản lí chỉ dẫn địa lí gặp phải nhiều khó khăn
3.3.1. Những khó khăn về mặt kĩ thuật
Một trong những khâu quan trọng nhất để có thể công nhận CDĐL là phải xác
định được các tính chất đặc thù cũng như uy tín của sản phẩm. Tuy nhiên với trình độ
khoa học kĩ thuật như ở Việt Nam hiện nay thì đó vẫn là một vướng mắc rất khó tháo
gỡ. Việc đánh giá chất lượng của sản phẩm nông sản gặp rất nhiều khó khăn do thiếu
nhiều trang thiết bị và phương pháp phân tích. Nhất là đối với các sản phẩm nông sản,
các tiêu chí để xác định chất lượng đặc thù của các sản phẩm đôi khi rất phức tạp.
Không chỉ gặp khó khăn trong việc xác định các chỉ tiêu chất lượng của sản
phẩm mà hiện nay tại Việt Nam, kinh nghiệm trong việc xác định các điều kiện địa lí
quyết định đặc tính của sản phẩm còn thiếu. Đây là nguyên nhân khiến cho việc thuyết
minh các yếu tố tạo nên đặc tính sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Công việc này đòi hỏi
chi phí tốn kém cả về mặt thời gian và tài chính đặc biệt là một số yếu tố của sản
phẩm phải được đánh giá bằng kết quả phân tích ở phòng thí nghiệm.
Cũng vì những khó khăn trên mà rất nhiều sản phẩm của Việt Nam chưa được
công nhận CDĐL ngay cả trong nước chứ chưa nói đến việc đăng kí bảo hộ ở nước


Nhóm 3

Trang 18


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

ngoài. Vì vậy mà dẫn đến tình trạng nhiều thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam ở nước
ngoài đã bị lấy mất.
3.3.2. Những khó khăn về mặt tài chính và con người
Để CDĐL được chính thức công nhận phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước và
để tiến hành được các bước đú thỡ sẽ phải tốn kém rất nhiều thời gian và tiền bạc. Để
có thể xác định được những đặc tính về chất lượng của sản phẩm và xác định mối liên
hệ giữa nguồn gốc địa lí với chất lượng của sản phẩm, các cơ quan chức năng của
Trung ương và địa phương phải tiến hành rất nhiều dự án, nghiên cứu và thử nghiệm.
Có thể thấy được thực tế này qua dự án xây dựng CDĐL cho sản phẩm nho Ninh
Thuận. Tỉnh này đã phải tiến hành tất cả 15 đề tài nghiên cứu và vẫn sẽ phải tiếp tục
do sản phẩm này vẫn chưa được đăng bạ CDĐL [5]. Sau khi sản phẩm đã được đăng
bạ, việc thiết lập một cơ chế quản lí cũng khó khăn không kém. Hiện nay, Việt Nam
có gần 1.000 loại nông sản, đặc sản có thể phát triển thành các chỉ dẫn địa lí, nhưng
đến nay, mới có 3 chỉ dẫn địa lí được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài, trong đó duy nhất
có nước mắm Phú Quốc được bảo hộ ở EU. Việt Nam có thế mạnh về các loại nông
sản: gạo nếp, cà phê, nước mắm, trái cây, chè. Các sản phẩm hồ tiêu Chư Sê, cà phê
Buôn Ma Thuột, chè Shan tuyết Mộc Châu, thanh long Bình Thuận, nước mắm Phan
Thiết… đều là những sản phẩm đã nổi tiếng khắp thế giới, vì vậy cần phải nhanh
chóng đăng ký bảo hộ tại EU để tránh bị các nước khác làm nhái những thương hiệu
này.
Một thực tế khác của Việt Nam hiện nay là chúng ta đang rất thiếu nguồn
nhân lực cho công tác xác lập và quản lí CDĐL. Những cán bộ có đầy đủ kiến thức
chuyên môn về lĩnh vực này chưa nhiều nhất là ở các địa phương cú cỏc sản phẩm có

khả năng được bảo hộ CDĐL. Vì vậy, công tác đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn
về lĩnh vực này là hết sức cần thiết.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy một thực tế là, Việt Nam mới đang
bước những bước đầu tiên trong việc xây dựng CDĐL nói chung và CDĐL cho hàng
nông sản nói riêng. Tuy có nhiều khó khăn đang đặt ra nhưng cũng cần phải thừa nhận
rằng chúng ta có rất nhiều tiềm năng để phát triển các sản phẩm mang CDĐL. Những
sản phẩm này đã đang và sẽ mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho người nông dân Việt

Nhóm 3

Trang 19


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

Nam. Những bất cập trong công tác xác lập và quản lí CDĐL của Việt Nam tuy còn
nhiều song không phải là không thể khắc phục.

Nhóm 3

Trang 20


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XÁC LẬP VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÍ CHỈ DẪN ĐỊA LÍ
ĐỐI VỚI NÔNG SẢN VIỆT NAM
1. Giải pháp từ phía Nhà nước
Thứ nhất, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về CDĐL. Đây là yêu

cầu cấp thiết hiện nay. Trước hết cần phải đưa tên gọi xuất xứ vào khung thể chế của
Nhà nước bằng các văn bản dưới luật. Nguyên nhân là do Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã
không đề cập đến đối tượng này trong khi tên gọi xuất xứ lại là một hình thức bảo hộ
rất phổ biến tại các nước trên thế giới nhất là tại EU. Tiếp theo, cần phải có những quy
định rõ ràng về quyền sở hữu, quyền quản lí, và sử dụng thông qua việc quy định rõ
vai trò đại diện cho Nhà nước tại các địa phương, bộ ngành.
Thêm vào đó, phải cụ thể hoá quy trình xây dựng hồ sơ, các bước tiến xác lập
quyền đối với CDĐL, quy định cụ thể phương pháp khoanh vùng sản phẩm, mô tả
chất lượng sản phẩm và quy trình sản xuất đặc thù. Bên cạnh đó, cũng cần phải quy
định rõ rằng các văn bản này cần phải có sự chứng thực và xác nhận của các cơ quan
có thẩm quyền Trung ương hoặc địa phương.
Mặt khác, cũng cần phải quy định rõ vai trò và trách nhiệm trong việc xây
dựng CDĐL của các chủ thể bao gồm Nhà nước, các cơ quan chuyên môn, các cơ
quan quản lí thị trường, chính quyền địa phương và các tổ chức tập thể, cá nhân sử
dụng.
Cuối cùng, hệ thống pháp luật phải đưa ra được các quy định về quy trình sản
xuất truyền thống, hệ thống kiểm soát, mô tả thực trạng sản xuất và thị trường.
Thứ hai, Nhà nước cần phổ biến, nâng cao nhận thức về CDĐL. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động xác lập và quản lí CDĐL
hiện nay chính là do chưa nhận thức hết tầm quan trọng của CDĐL. Các đối tượng cần
được tuyên truyền phổ biến ở đây không chỉ có những người trực tiếp tham gia sản
xuất kinh doanh các mặt hàng nông sản có liên quan đến CDĐL mà ngay cả các cán
bộ tại các cơ quan, ban ngành tại các địa phượng. Biện pháp để nâng cao nhận thức
chính là tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn về CDĐL. Ngoài ra cũng nên tuyên
truyền cho người dân hiểu về vai trò cũng như lợi ích của CDĐL thông qua các
phương tiện truyền thông như mạng xã hội, báo chí, truyền thanh, truyền hình, …
Nhóm 3

Trang 21



Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

Thứ ba, Nhà nước cần hỗ trợ hoạt động của các tổ chức ngành nghề tại các địa
phương, chủ yếu là các Hiệp hội của các nhà sản xuất, kinh doanh các mặt hàng mang
CDĐL. Hiện nay, hoạt động của các tổ chức này vẫn còn rất yếu kém, chưa thể hiện
được vai trò là người đại diện cho các chủ thể sản xuất, doanh để giúp họ khai thác
CDĐL một cách hiệu quả nhất. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cần thiết để
nâng cao vai trò cũng như hiệu quả hoạt động của các hiệp hội. Cụ thể, Nhà nước cần
phải có sự hỗ trợ cả về mặt tài chính và kĩ thuật. Về mặt tài chính, Nhà nước cần phải
hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các hiệp hội này vì các thành viên của hiệp hội chủ yếu
là những người nông dân. Những người này không có khả năng đóng góp các khoản
chi phí đủ lớn để đảm bảo hoạt động cho các hiệp hội đồng thời nếu các hiệp hội quy
định mức phí lớn cũng khó có thể thu hút người nông dân tham gia.
Mặt khác, tại các địa phương này khoa học kĩ thuật còn lạc hậu nên cũng cần
hỗ trợ cho các hiệp hội về mặt kĩ thuật để các hiệp hội có thể kiểm soát được quá trình
sản xuất của các hội viên nhằm đảm bảo các chỉ tiêu về kĩ thuật của sản phẩm.
Với những sự hỗ trợ như trên của Nhà nước thì các tổ chức, hiệp hội sẽ tích cực
phát huy hơn nữa vai trò quản lí CDĐL, góp phần duy trì chất lượng của các sản phẩm
đồng thời đảm bảo được lợi ích của các chủ thể cùng tham gia sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, Nhà nước cần đầu tư cho phát triển khoa học nông nghiệp. Việc đăng
kí bảo hộ CDĐL cho các mặt hàng nông sản là một công trình nghiên cứu khoa học
công phu, tỉ mỉ. Để thực hiện công việc này các cơ quan chức năng phải phối hợp với
các đơn vị đủ năng lực chuyên môn và máy móc thiết bị thực hiện, viện phân tích
đánh giá chất lượng sản phẩm cũng như các yếu tố đặc trưng về khí hậu, thổ
nhưỡng… để xây dựng bộ chỉ tiêu kĩ thuật của sản phẩm, chỉ ra sự khác biệt giữa sản
phẩm được sản xuất tại khu vực địa lí này so với các sản phẩm cùng loại được sản
xuất từ khu vực địa lí khác đồng thời tìm ra mối tương quan giữa các yếu tố tự nhiên
với tính đặc thù của sản phẩm. Tuy nhiên, với trình độ khoa học kĩ thuật nông nghiệp
của nước ta hiện nay thì công tác nghiên cứu này gặp rất nhiều khó khăn. Đây chính là

nguyên nhân khiến cho việc đăng kí, xác lập CDĐL thường phải kéo dài mất nhiều
năm và có những sản phẩm vẫn chưa thể được đăng kí bảo hộ chỉ vì lý do kĩ thuật.
Chính vì vậy, Nhà nước và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phải
có những đề xuất, những chương trình tăng cường phát triển khoa học nhất là những
Nhóm 3

Trang 22


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

kĩ thuật liên quan đến nghiên cứu địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, khí hậu, kĩ thuật
phân tích chất lượng sản phẩm và nhất là các kĩ thuật liên quan đến chăm sóc, thu
hoạch và bảo quản nông sản sau thu hoạch. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng phải nâng
cao kĩ thuật chế biến để gia tăng giá trị cho các sản phẩm này. Để làm được điều này,
Nhà nước có thể kêu gọi các trường đại học, các nhà khoa học tham gia đấu thầu, phát
huy sáng kiến các đề tài nghiên cứu, . Ngoài ra, cũng nên kêu gọi và tranh thủ sự giúp
đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế nhất là những quốc gia giàu kinh nghiệm trong việc xác
lập CDĐL ở châu Âu như Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Bồ Đào Nha…
Với biện pháp này, chúng ta có thể đơn giản hoá được các quy trình đăng kí,
xác lập CDĐL, rút ngắn thời gian đồng thời cũng xây dựng được bộ chỉ tiêu kĩ thuật
chuẩn cho các sản phẩm phục vụ cho công tác quản lí.
Thứ năm, phối hợp hoạt động của các tổ chức có liên quan. Xác lập và quản lí
CDĐL là một công trình tập thể, đòi hỏi phải có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ của
các bên có liên quan bao gồm nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp, Nhà nước,
nhà ngân hàng và các cơ quan truyền thông.
Nhà nước có vai trò hướng dẫn trong việc bảo vệ có hiệu quả Sở hữu trí tuệ, có
chiến lược phát triển các mặt hàng chủ lực của quốc gia trong bối cảnh hội nhập và
cạnh tranh kinh tế quốc tế. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng khuôn khổ pháp lí cho
CDĐL, công nhận và quản lí các CDĐL. Nhà nước đồng thời có các chính sách ưu đãi

cụ thể đối với CDĐL bởi lẽ CDĐL và thương hiệu nông sản mạnh là công cụ để hội
nhập kinh tế quốc tế, để phát triển nông thôn, giữ gìn sự đa dạng sinh học và môi
trường.
Ngân hàng tạo nguồn vốn hỗ trợ đầu tư tạo sản phẩm chất lượng cao gắn với
CDĐL trong khuôn khổ pháp lí bảo hộ, tạo tiền đề cho việc xây dựng thương hiệu
mạnh cho hàng nông sản Việt Nam.
Các phương tiện truyền thông cần hỗ trợ cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến
những kiến thức về CDĐL, quảng bá, giới thiệu các sản phẩm mang CDĐL, phát hiện
và lên án những hành vi làm hàng giả.
Ngoài những vai trò đã nêu trên, Nhà nước cũng có chức năng phối hợp và
giám sát hoạt động của các bên liên quan này để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa

Nhóm 3

Trang 23


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

phương tiến hành đăng kí và quản lí CDĐL cho các mặt hàng nông sản của địa
phương mình.
2. Giải pháp từ phía các hiệp hội
Các hiệp hội ngành nghề ở nước ta hiện nay cần phải củng cố lại cơ cấu tổ
chức và phương thức hoạt động sao cho có thể giúp cho các chủ thể sản xuất kinh
doanh khai thác được những lợi ích từ việc bảo hộ CDĐL đồng thời cũng phải bảo
đảm mục tiêu quản lí có hiệu quả CDĐL thay vì việc tạo ra một thể chế là gánh nặng
cho những người có quyền sử dụng CDĐL đó. Các hiệp hội cần phải tuyên truyền,
phổ biến các lợi ích từ việc bảo hộ CDĐL cho các hội viên để nâng cao nhận thức của
họ về CDĐL. Bên cạnh đó, các hiệp hội cũng phải thực hiện chức năng giám sát chặt
chẽ cũng như có sự hỗ trợ cần thiết cho các hội viên của mình trong các khâu sản

xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến đóng gói sản phẩm. Ngoài ra các hiệp hội cũng
phải có các động thái chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lí trong việc
bảo vệ chống lại các hành vi giả mạo.
3. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp
Theo đánh giá của một số chuyên gia về việc xây dựng và đăng kí bảo hộ tên
gọi xuất xứ hàng hoá nông sản đặc sản, ngoài một số doanh nghiệp đã có tiếng trong
việc đăng kí bảo hộ, hiện nay ở Việt Nam còn thiếu nhiều những nhà doanh nghiệp có
khả năng đáp ứng, hoà nhập được với quốc tế. Nhiều doanh nghiệp của Việt Nam
chưa nhận thức được vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá và hậu quả là nhãn hiệu của
nhiều doanh nghiệp đã bị người nước ngoài chiếm đoạt, đăng kí trước. Để đảm bảo
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đăng kí
bảo hộ nhãn hiệu, đặc biệt là bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hoá nông sản đặc sản trong
nước cũng như tại những nước mà doanh nghiệp dự định sẽ hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc nơi thường xảy ra việc chiếm đoạt nhãn hiệu.
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, việc bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá của
chính mình, các doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng và
đăng kí bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hoá nông sản đặc sản. Cụ thể, các doanh nghiệp
là chủ sở hữu của mặt hàng nông sản đặc sản do doanh nghiệp đứng ra đăng kí bảo hộ.
Họ rất chủ động trong việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường, tính toán khả năng kinh
doanh ở các thị trường trong nước hoặc ngoài nước để quyết định việc đăng kí bảo hộ
Nhóm 3

Trang 24


Tiểu luận giữa kì môn Luật Sở hữu trí tuệ

ở đâu để tiện lợi và đem lại hiệu quả nhất. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng chủ động
quyết định lựa chọn loại mặt hàng nông sản đặc sản, vùng sinh thái để tiến hành đăng
kí bảo hộ.

Chính vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các mặt hàng nông sản
của nước ta cần phải nâng cao nhận thức của mình về CDĐL. Tham gia và phối hợp
hoạt động với các tổ chức ngành nghề tại địa phương, hỗ trợ người nông dân trong
quá trình sản xuất cả về mặt kĩ thuật và tài chính. Đồng thời, các doanh nghiệp còn
phải thực hiện những vai trò của minh trong việc xây dựng CDĐL như đã nêu trên để
góp phần đẩy mạnh hoạt động đăng kí CDĐL cho các mặt hàng nông sản.
4. Giải pháp từ phía những người nông dân
Nông dân chính là những người trực tiếp làm ra các sản phẩm nông sản nên vai
trò của họ trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm là rất quan trọng. Những người
nông dân tham gia sản xuất các nông sản được bảo hộ CDĐL nên tham gia vào các
hiệp hội ngành nghề tại địa phương để được đảm bảo những quyền lợi chính đáng
đồng thời nhận được sự hỗ trợ cần thiết từ phía hiệp hôi. Để có được những sản phẩm
có được những đặc trưng chất lượng như khi đăng kí bảo hộ, những người nông dân
phải tuyệt đối tuân thủ các quy trình kĩ thuật từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng,
không được vì cái lợi trước mắt mà làm ảnh hưởng danh tiếng của sản phẩm đã được
người tiêu dùng trong và ngoài nước tín nhiệm. Ngoài ra, những người nông dân cũng
phải tích cực, chủ động trong việc tiếp cận với những khoa học, kĩ thuật tiên tiến
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.

Nhóm 3

Trang 25


×