Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

BẢN CHẤT và ý NGHĨA của TRIẾT học mác lê NIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.64 KB, 5 trang )

BảN CHấT Và ý NGHĩA CủA TRIếT HọC MáC - ĂNGGHEN
I) Bản chất và ý nghĩa của triết học Mác - Ănghen.
Trong lịch sử đã có không ít những bớc nhảy vọt, những bớc ngoặt cách
mạng, tạo ra những thành tựu vĩ đại trong văn học nghệ thuật, trong khoa học,
trong triết học. Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác là bớc ngoặt quan trọng trong lịch sử
t tởng xã hội. Lê nin đã nói rằng, chủ nghĩa Mác là sự phát triển cao nhất của
toàn bộ khoa học lịch sử, khoa học kinh tế và triết học ở Châu Âu.
Cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Lần đầu tiên, triết học Mác đã chỉ cho giai cấp vô sản và
nhân dân lao động lối thoát khỏi sự nô lệ về tinh thần, đem lại cho loài ngời đặc
biệt là giai cấp công nhân những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới. Nh Mác
nói, nếu trái tim của sự giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản, thì khối óc của sự
giải phóng đó là triết học của giai cấp vô sản, là thế giới quan của nó. Giống nh
triết học tìm thấy ở giai cấp vô sản một vũ khí vật chất, giai cấp vô sản tìm thấy
ở triết học một vũ khí tinh thần (Mác). Triết học Mác là triết học của giai cấp vô
sản cách mạng, là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh xác lập nền chuyên chính
vô sản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Triết học Mác không chỉ giải thích mà chủ yếu là vạch ra những con đờng,
những phơng tiện cải tạo thế giới bằng cách mạng. Mác và Ăng-Ghen đã vạch ra
một cách toàn diện những thiếu sót căn bản của triết học trớc đó và biến triết học
thành cơ sở lý luận của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, thành
cơ sở lý luận của chủ nghĩa cộng sản.
Khi chỉ ra vai trò quyết định của hoạt động thực tiễn trong sự phát triển
của xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã không phủ
nhận, mà nhấn mạnh vai trò to lớn của hoạt động tinh thần, lý luận phải phụ
thuộc vào thực tiễn. Lý luận mà thiếu hoạt động thực tiễn của quần chúng thì sẽ
không còn sức mạnh. Các ông đã phát triển học thuyết cân đối về mối liên hệ
giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Mác đã từng khẳng định vũ khí
của sự phê phán không thể thay thế đợc sự phê phán của vũ khí; lực lợng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lợng vật chất; nhng lý luận cũng sẽ trở thành lực lợng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng.
Lịch sử đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đã chứng minh tính đúng


đắn kết luận trên của Mác. Các giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị không
khi nào tự nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử. Quyền thống trị của chúng không
thể thủ tiêu bằng sự phê phán trên lời nói, mà phải bằng cuộc đấu tranh cách
mạng. Cuộc đấu tranh t tởng không thể dẫn đến thay đổi chế độ xã hội, nó không
thể vợt ra ngoài khuôn khổ của các quan hệ xã hội cũ, nhng nó có vai trò to lớn
trong đời sống xã hội.
Lý luận cách mạng khi thâm nhập vào quần chúng sẽ đem lại cho họ khả
năng hiểu biết những quy luật phát triển của đời sống xã hội và thực hiện một
cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn. Lý luận cách mạng sẽ


2

thống nhất và tổ chức quần chúng đấu tranh đòi xóa bỏ các quan hệ xã hội cũ
thay bằng các quan hệ mới. Lý luận chỉ trở thành lực lợng vật chất hùng mạnh
trong mối liên hệ với cuộc đấu tranh thực tiễn của quần chúng. Sức mạnh vô địch
của lý luận Mác còn ở chỗ nó là sự thống nhất của tính khoa học với tính cách
mạng. Mác và Ăng ghen đặt cho triết học của mình nhiệm vụ phục vụ giai cấp
vô sản, phục vụ cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản.
Nh vậy, sự khác nhau căn bản giữa triết học Mác với tất cả các triết học trớc đó là ở chỗ triết học Mác gắn chặt với phong trào cách mạng giải phóng của
giai cấp vô sản và quần chúng lao động, nó là vũ khí lý luận sắc bén trong cuộc
đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản. Triết học Mác thể hiện lợi ích của giai cấp
công nhân và quần chúng lao động. Chính đó là tính đảng, tính giai cấp của triết
học Mác.
Tính đảng của triết học Mác không đối lập với tính khách quan, tính khoa
học. Lợi ích của giai cấp vô sản không đối lập mà phù hợp với tiến trình khách
quan của sự phát triển lịch sử. Mác và Ăng-ghen đã tạo ra hình thức cao của chủ
nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức cao của phép biện
chứng là phép biện chứng duy vật. Trong triết học mác-xít, chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng gần liền với nhau.

Chủ nghĩa duy vật trớc Mác đã đóng vai trò hết sức to lớn trong sự phát
triển của khoa học, trong cuộc đấu tranh với tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, nhng trong thời kỳ cổ đại thì chỉ là chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ, tự phát,
còn ở thời cận đại thì là chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc. Mác và Ăng ghen
đã nghiên cứu có phê phán và kế thừa sáng tạo những thành tựu xuất sắc của triết
học trớc, tạo ra triết học duy vật - biện chứng.
Việc tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của bớc
ngoặt cách mạng trong triết học do Mác và Ăng-Ghen thực hiện.
Khi vạch ra mối quan hệ tác động giữa kinh tế, chính trị và t tởng, Mác và
Ăng-Ghen đã xác định tính thứ nhất của tồn tại xã hội, của điều kiện vật chất của
đời sống xã hội và tính thứ hai của ý thức xã hội. Hai ông cũng chỉ rõ sự chuyển
biến từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội
khác diễn ra không phải tự động mà là trong quá trình đấu tranh giai cấp quyết
liệt. Với việc vạch ra các quy luật của cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã
hội, Mác và Ăng ghen đã đem lại cơ sở khoa học cho hoạt động tự giác của giai
cấp công nhân và đội tiên phong của nó là các Đảng cộng sản.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
Mác và Ang-ghen đã biến đổi căn bản tính chất của triết học, đối tợng của nó và
mối quan hệ với các khoa học khác.
Triết học Mác không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề, không có tham
vọng đóng vai trò của một hệ thống đã xong xuôi, vai trò của kinh thánh. Triết
học Mác, không chỉ khái quát thực tiễn phát triển xã hội mà cả những thành tựu
của các khoa học cụ thể về tự nhiên và xã hội. Triết học Mác có ý nghĩa thế giới
quan và phơng pháp luận to lớn đối với các khoa học cụ thể. Hiểu biết các quy


3

luật phát triển chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp nghiên cứu có kết
quả các quy luật đặc thù.
Triết học của chủ nghĩa Mác - Lê nin là triết học sáng tạo. Những luận

điểm cơ bản của triết học đã đợc Mác và Ăng-Ghen xây dựng, nghiên cứu toàn
diện các vấn đề về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
khoa học tự nhiên, lịch sử triết học, đạo đức học, mỹ học, chủ nghĩa vô thần,
khái quát những kinh nghiệm mới của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô
sản, những thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Ngoài ra, những
luận điểm của triết học Mác đợc phát triển bởi các nhà mác-xít nh Ph.Mê-rinh,
P.La-phác-gơ, A. La-bri-ôn-la, G.V.Plê-kha-nốp v.v ... Lê-nin là ngời đã có vai
trò hết sức to lớn, nâng triết học Mác lên một giai đoạn cao mới. Ngày nay, triết
học Mác-Lê nin đang đợc các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế, đợc cái nhà
triết học mác-xít trên thế giới tiếp tục phát triển.
II) Lê-nin phát triển triết học Mác:
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác khi sáng tạo và phát triển học thuyết
của mình đã luôn chỉ ra rằng, học thuyết của các ông không phải là giáo điều mà
là sự chỉ đạo hành động. Xuất phát từ nguyên tắc đó, Lê-nin đã nhấn mạnh sự
cần thiết phải phát triển học thuyết Mác, trong đó có triết học.
Mác và Ăng ghen đã sáng tạo học thuyết của mình trong thời kỳ mà
nhiệm vụ của bớc chuyển cách mạng từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội cha
đặt ra một cách trực tiếp trớc mắt. Lê-nin đã phát triển chủ nghĩa Mác trong
những điều kiện lịch sử mới, trong thời kỳ chủ nghĩa t bản chuyển sang giai đoạn
chủ nghĩa đế quốc, thời kỳ ra đời của xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Thời
đại mới đòi hỏi những ngời mác-xít phải luôn luôn có sự phân tích đối với các
hiện tợng mới, phải có quan điểm mới đối với những vấn đề quan trọng nhất của
chiến lợc và sách lợc của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân.
Thiếu những cái đó thì triết học Mác sẽ từ một học thuyết sinh động, từ một phơng pháp nhận thức và hành động cách mạng biến thành một giáo điều chết
cứng, thành một lý luận phiến diện, mất sức mạnh cải tạo hiện thực.
Trong hoàn cảnh của những mâu thuẫn gay gắt về kinh tế, chính trị, xã hội
thì kẻ thù của chủ nghĩa Mác lại ra sức tấn công vào những nguyên lý triết học
cơ bản của Mác mu toan gắn chủ nghĩa Mác với các khuynh hớng của triết học t
sản (chủ nghĩa Can-tơ mới, chủ nghĩa Ma-khơ, v.v.) Khi đấu tranh bảo vệ chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Lê-nin đã phát triển sáng

tạo, toàn diện các mặt của học thuyết đó, nâng nó lên giai đoạn cao mới.
Với tính cách là nhà lý luận, Lê-nin có những bản tính đặc biệt tốt đẹp:
tính dũng cảm cách mạng trong việc đặt ra và giải quyết những vấn đề lý luận
mới do tiến trình lịch sử đòi hỏi, kiểm tra lại những luận điểm lý luận trong thực
tiễn cách mạng, từ bỏ những quan điểm cũ, lạc hậu và không khoan nhợng đối
với quan điểm thù địch, chủ nghĩa xét lại, sự xa rời những nguyên tắc của học
thuyết Mác.
Lê-nin rất chú ý phê phán lý luận về tính tự phát trong phong trào công
nhân, ông đã phân tích khoa học về ý nghĩa của lý luận cách mạng, của ý thức xã


4

hội chủ nghĩa đợc Đảng mác-xít đa vào trong phong trào công nhân tự phát.
Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào công nhân cách mạng. Kết
luận đó của Lê-nin không những có ý nghĩa chính trị trực tiếp, mà còn có ý
nghĩa xã hội học chung, bởi vì nó nhấn mạnh tính chất phụ thuộc của những cải
biến xã hội căn bản vào hoạt động của giai cấp đợc vũ trang bằng những t tởng
tiên tiến. Luận điểm đó có ý nghĩa hết sức quan trọng để nhận thức về phong trào
công nhân ở những nớc t bản phát triển đang bị thống trị bởi hệ t tởng của chủ
nghĩa công liên cải lơng.
Lê-nin đã phân tích sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên diễn
ra cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt trong vật lý học. Nhờ vào những phát
hiện ra hiện tợng phóng xạ, ê-lec-trôn, mà ta hiểu đợc kết cấu phức tạp của
nguyên tử. Cuộc cách mạng đó đã làm biến đổi căn bản những quan niệm của
khoa học tự nhiên về vật chất, vận động, không gian và thời gian, v.v.. Những
phát minh mới trong khoa học tự nhiên đã xung đột với các quan điểm cũ từng
tồn tại hàng thế kỷ. Đặc biệt, ông đã nghiên cứu các quy luật và phạm trù của
phép biện chứng duy vật; nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng,
những yếu tố cơ bản của phép biện chứng; lô-gic học và lý luận nhận thức; các

nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm; tính chất mâu thuẫn của sự phản
ánh trong những sự trừu tợng khoa học, về đờng lối tiếp tục phát triển lý luận
nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng... đó là những cống hiến vô giá vào
kho tàng triết học Mác.
Đồng thời, Lê-nin đã nêu lên một cách có cơ sở khoa học nhiệm vụ xây
dựng và củng cố sự liên minh giữa các nhà triết học mác xít và các nhà khoa học
tự nhiên nhằm mục đích tiếp tục phát triển sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện
chứng, hoàn thiện phơng pháp luận của khoa học tự nhiên. Lê-nin không chỉ bảo
vệ chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong cuộc đấu
tranh với kẻ thù của chủ nghĩa Mác, không những phát triển toàn diện chủ nghĩa
Mác, mà còn vận dụng triết học đó vào việc phân tích thời đại mới - thời đại chủ
nghĩa đế quốc, thời đại chiến tranh đế quốc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng xã hội mới, trả lời cho các vấn đề do tiến trình phát triển của chủ nghĩa t
bản và phong trào cách mạng thế giới đặt ra.
Trên cơ sở đó, Lê-nin đã rút ra kết luận hết sức quan trọng đối với phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân, đối với hoạt động của Đảng, về khả năng
thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trớc hết, trong một số nớc, thậm chí
trong một nớc. Lê-nin đề cập đến quy luật hình thành xã hội mới xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, bọn theo chủ nghĩa xét lại đang ra sức thực hiện
mu đồ hạ thấp vai trò của Lê-nin trong sự phát triển chủ nghĩa Mác và triết học
Mác nói riêng. Bọn xét lại la lối về sự cần thiết phải thủ tiêu sự độc quyền của
Lê-nin và chủ nghĩa Lê-nin trong việc giải thích chủ nghĩa Mác. Chúng cố gắng
chứng minh rằng chủ nghĩa Lê-nin là hiện tợng Nga thuần túy. Trên thực tế, chủ
nghĩa Lê-nin là sự khái quát kinh nghiệm và thực tiễn đấu tranh của nhân dân lao
động toàn thế giới, Chủ nghĩa Lê-nin không phải là một sự giải thích chủ
nghĩa Mác có tính chất khả năng, mà nó là sự phát triển duy nhất đúng đắn và


5


triệt để chủ nghĩa Mác cách mạng trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lê nin một cách sáng tạo,
kiên trì chủ nghĩa xã hội là lập trờng bất di bất dịch của Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam.



×