Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nghiên cứu khoa học kết QUẢ NGHIÊN cứu LƯỢNG GIÁ KINH tế môi TRƯỜNG và DỊCH vụ môi TRƯỜNG một số LOẠI RỪNG CHỦ yếu ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.36 KB, 10 trang )

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LƯỢNG GIÁ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG VÀ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG MỘT SỐ
LOẠI RỪNG CHỦ YẾU Ở VIỆT NAM
Vũ Tấn Phương, Trần Thị Thu Hà
Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với con người và sự phát triển của mỗi quốc gia. Rừng không chỉ
cung cấp các sản phẩm trực tiếp như gỗ, củi, lâm sản ngoài gỗ mà còn cung cấp rất nhiều các chức năng
sinh thái có giá trị khác như: bảo vệ đất chống xói mòn, điều tiết dòng chảy nhằm hạn chế lũ lụt về mùa mưa
duy trì nguồn nước về mùa khô, hấp thụ các bon, cảnh quan sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, vv....
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng
và xuất khẩu gỗ của Việt Nam liên tục tăng lên khiến cho rừng luôn phải đối mặt với nguy cơ bị khai thác
quá mức, kèm theo đó là sự suy giảm đáng kể các chức năng sinh thái mà rừng đã và đang cung cấp trong
việc bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai. Các hiện tượng xói mòn đất, sạt lở đất, lũ quét, hạn hán liên
tục xảy ra tại các lưu vực sông, gây ra những thiệt hại nặng nề về người và của là những minh chứng rõ
ràng nhất về những tổn thất do việc mất rừng gây ra.
Một trong các nguyên nhân dẫn tới việc mất rừng là các giá trị môi trường và dịch vụ môi trường rừng
hầu như chưa được nhận dạng và nghiên cứu một cách có hệ thống. Trong thực tế đã có rất nhiều hàng
hoá và dịch vụ môi trường không được đánh giá đúng mức và thường bị bỏ qua trong các quyết định
chuyển đổi mục đích sử dụng đất phục vụ cho phát triển kinh tế. Kết quả là sự cân bằng trong tam giác kinh
tế - xã hội - môi trường bị phá vỡ. Do đó, việc nghiên cứu, tiền tệ hoá các giá trị môi trường và dịch vụ môi
trường rừng đã và đang trở thành một nhiệm vụ cấp bách tại Việt Nam.
Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn đang diễn ra ở Việt Nam, trung tâm Nghiên cứu Sinh thái
và môi trường Rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã thực hiện “Nghiên cứu lượng giá kinh tế
môi trường và dịch vụ môi trường của một số loại rừng chủ yếu ở Việt Nam” nhằm cung cấp các cơ
sở khoa học về giá trị rừng, đặc biệt là giá trị môi trường và dịch vụ môi trường rừng, nhằm tác động và
thay đổi nhận thức xã hội về vai trò của rừng, đồng thời hỗ trợ cho các nhà quản lý và hoạch định chính
sách xây dựng khung pháp lý hỗ trợ người dân tham gia trồng và bảo về rừng, góp phần vào việc quản lý
rừng bền vững tại Việt Nam.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


1. Vật liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm rừng tự nhiên (giàu, trung bình, nghèo và phục hồi) và rừng trồng
(Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn urophylla và Quế) trên địa bàn một số tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam là Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Kạn. Cụ thể:
Giá trị bảo vệ đất chống xói mòn và điều tiết nước được nghiên cứu trên phạm vi của hai lưu vực là sông
Cầu (có diện tích là 246.200ha, bao gồm các loại rừng khác nhau và nằm trên địa bàn các huyện: Chợ Đồn,
thị xã Bắc Kạn, Bạch Thông, Định Hóa, Võ Nhai và Phú Lương và giới hạn đến trạm thủy văn Thác Bưởi) và
hồ Thác Bà (có diện tích là 208.424ha, giới hạn đến trạm thuỷ văn Lục Yên).
Giá trị lưu giữ/hấp thụ cacbon của rừng; giá trị cải thiện độ phì đất/nguồn phân bón tiến hành nghiên cứu
trên các đối tượng gồm rừng gỗ tự nhiên đại diện cho các trạng thái giàu, trung bình, nghèo, phục hồi và tre
nứa tại các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Lào Cai. Các loại rừng trồng gồm Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá
tràm, Bạch đàn urophylla và Quế;
Với giá trị cảnh quan và giá trị tồn tại, đối tượng nghiên cứu là VQG Ba Bể và Khu du lịch Hồ Thác Bà;


Giá trị ĐDSH được nghiên cứu trên đối tượng là Voọc mũi hếch tại KBTTN Na Hang – Tuyên Quang.
2. Quan điểm và phương pháp tiếp cận
Quan điểm và phương pháp tiếp cận của đề tài là kế thừa và vận dụng hệ thống phương pháp luận quốc
tế và các kết quả nghiên cứu đã có; tiếp cận theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực (lâm nghiệp, kinh tế môi
trường, thủy văn) trong việc xác định giá trị môi trường và dịch vụ môi trường; phù hợp với nhận thức, trình
độ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Các phương pháp thu thập số liệu bao gồm: phương pháp kế thừa các thông tin số liệu sơ cấp và thứ
cấp trong các ấn phẩm đã ban hành hoặc các website của các bộ, ngành có liên quan; sử dụng mô hình
đánh giá đất và nước (SWAT) để xác định tác động của rừng đến dòng chảy (mùa lũ và mùa kiệt) và xói
mòn trên toàn lưu vực; phương pháp điều tra theo ô tiêu chuẩn điển hình để thu thập số liệu về đường kính,
chiều cao, lượng rơi rụng, mẫu đất để xác định trữ lượng gỗ, củi, hàm lượng C trong sinh khối, hàm lượng
N, P, K trong đất, trong thảm mục; phương pháp phỏng vấn trực tiếp hoặc sử dụng bảng hỏi để thu thập các
thông tin phục vụ cho việc ước lượng giá trị đa dạng sinh học và giá trị cảnh quan.
Các phương pháp lượng giá bao gồm: phương pháp chi phí thay thế được sử dụng để tính giá trị phòng
hộ đầu nguồn (bảo vệ đất, chống xói mòn và điều tiết nước), giá trị cải thiện độ phì đất; phương pháp thu

nhập một lần được sử dụng để đánh giá giá trị hấp thụ cacbon, giá cây đứng, giá trị sử dụng trực tiếp;
phương pháp chi phí du lịch (TCM) được sử dụng để tính giá trị cảnh quan; và phương pháp lượng giá ngẫu
nhiên (CVM) để ước lượng giá trị tồn tại, giá trị đa dạng sinh học và giá trị cảnh quan.
III. TÓM TẮT KẾT QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
1. Giá trị hạn chế xói mòn đất và điều tiết nước của rừng
Nghiên cứu đã tiến hành tính toán sự thay đổi trong dòng chảy và lượng bùn cát dựa trên diễn biến diện
tích rừng tại các năm 1995, 2000 và 2004 trên 2 lưu vực sông Cầu và hồ Thác Bà. Kết quả cho thấy:
• Tại lưu vực sông Cầu, trong vòng khoảng 10 năm (1995 đến 2004), độ che phủ rừng tăng thêm khoảng
26,5%. Tác dụng của rừng là rất rõ rệt trong việc làm tăng dòng chảy kiệt và làm giảm xói mòn đất, chống
thoái hóa đất. Dòng chảy lũ giảm từ 34–44% và dòng chảy kiệt tăng từ 25–31% so với nơi đất trống cây bụi.
Lượng đất xói mòn giảm đi đáng kể do tỷ lệ che phủ rừng tăng. Lượng đất xói mòn giảm được so với nơi
đất trống cây bụi là 31–45%. Điều này có nghĩa là độ phì đất được bảo vệ do tỷ lệ các chất dinh dưỡng bị
rửa trôi do xói mòn giảm đi đáng kể.
• Tại lưu vực hồ Thác Bà, tổng lượng dòng chảy thay đổi khá rõ do thay đổi về che phủ rừng từ 1995
(che phủ 13%) đến 2004 (che phủ rừng là 38%). Dòng chảy lũ năm 2004 giảm khoảng 7,6 % so với năm
1995 và dòng chảy kiệt tăng đáng kể, khoảng 11% so với năm 1995. Tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 13% năm
1995 lên 35% vào năm 2000 và 38% vào năm 2004 đã làm giảm đáng kể lượng đất xói mòn. Lượng đất xói
mòn bình quân là khoảng 18 tấn/ha/năm vào năm 2000, giảm khoảng 30% so với năm 1995 và năm 2004
giảm khoảng 38% so với năm 1995.
Để lượng giá giá trị bảo vệ đất, chống xói mòn, nghiên cứu đã sử dụng phương pháp tránh thiệt hại.
Theo phương pháp này, giá trị bảo vệ đất, chống xói mòn của rừng được tính qua giá trị lượng dinh dưỡng
trong đất (N, P, K và HC) giảm được do có rừng so với kịch bản rừng bị chuyển đổi thành đất trống cây bụi
và đất canh tác rẫy.
Giá trị điều tiết nước của rừng trong nghiên cứu này được tính thông qua lượng nước tăng thêm vào
mùa kiệt (tăng dòng chảy mùa kiệt). Đây chính là dòng chảy kiệt tăng thêm do có rừng. Giá trị của rừng
trong việc tăng dòng chảy mùa kiệt được tính theo giá nước để sử dụng vào thủy điện và sử dụng cho sản
3
xuất nông nghiệp (thủy lợi). Theo kết quả điều tra, giá nước sử dụng trong thuỷ điện khoảng 13,7đồng/m và
3
giá nước sử dụng cho sản xuất nông nghiệp là 3,4đồng/m . Kết quả tính toán cho thấy:

• Tại lưu vực sông Cầu, với hiện trạng rừng năm 2004, hàng năm giá trị dinh dưỡng mất đi khoảng 23,8
tỷ đồng/năm (hay khoảng 198.000đồng/ha/năm). Nếu toàn bộ diện tích rừng bị phá chuyển sang đất trồng
cây bụi thì giá trị mất dinh dưỡng đất sẽ tăng thêm khoảng 9,2 tỷ. Nếu toàn bộ diện tích rừng bị phá để canh


tác nương rẫy thì giá trị mất dinh dưỡng đất sẽ tăng lên khoảng 12,1 tỷ đồng. Giá trị điều tiết nước (tăng
dòng chảy kiệt trong mùa khô) của hiện trạng rừng hiện tại (năm 2004) là khoảng 7,5 tỷ đồng/năm tính theo
mục đích sử dụng cho thủy điện. Nếu tính cho mục đích sản xuất nông nghiệp (thủy lợi) thì giá trị này
khoảng 2,9 tỷ đồng/năm. Giá trị của rừng do làm tăng dòng chảy kiệt so với đất trống cây bụi khoảng 1,3 tỷ
đồng/năm (nếu sử dụng cho cả thuỷ điện và sản xuất nông nghiệp). Nếu so với đất canh tác nương rẫy thì
giá trị tăng dòng chảy kiệt của rừng khoảng 2,95 tỷ đồng/năm.
• Tại lưu vực hồ Thác Bà, với hiện trạng rừng cuả năm 2004 (rừng chiếm 38%), giá trị lượng dinh dưỡng
đất mất do xói mòn đất là khoảng 16 tỷ đồng/năm. Nếu toàn bộ diện tích rừng chuyển thành đất trống cây
bụi, thì giá trị lượng dinh dưỡng mất do xói mòn sẽ tăng khoảng 5,2 tỷ đồng. Nếu toàn bộ diện tích rừng
chuyển thành đất canh tác nương rẫy thì thiệt hại về mất dinh dưỡng do xói mòn sẽ tăng lên khoảng 6,5 tỷ
đồng. Giá trị điều tiết nước (tăng dòng chảy kiệt trong mùa khô) của hiện trạng rừng hiện tại (năm 2004) là
khoảng 1,9 tỷ đồng/năm tính theo mục đích sử dụng cho thủy điện. Nếu tính cho mục đích sản xuất nông
nghiệp (thủy lợi) thì giá trị này khoảng 2,8 tỷ đồng/năm. Giá trị của rừng do làm tăng dòng chảy kiệt so với
đất trống cây bụi khoảng 716 triệu đồng/năm (nếu sử dụng cho cả thuỷ điện và sản xuất nông nghiệp). Nếu
so với đất canh tác nương rẫy thì giá trị tăng dòng chảy kiệt của rừng khoảng 1,1 tỷ đồng/năm.
Bảng 1. Giá trị hạn chế xói mòn và điều tiết nước của một số loại rừng

Giá trị (đồng/ha/năm)
Loại rừng
Bảo vệ đất, chống xói mòn

Điều tiết nước

Rừng giàu


140.000 - 150.000

47.000 - 60.000

Rừng trung bình

117.000 - 119.000

45.000 - 60.000

Rừng nghèo

83.000 - 112.000

42.000 - 57.000

Rừng phục hồi

85.000 - 89.000

38.000 - 50.000

65.000 – 82.000

20.000 – 68.000

Rừng tự nhiên

Rừng trồng


Có thể thấy rằng giá trị của rừng trong bảo vệ đất, chống xói mòn và điều tiết nước phụ thuộc vào từng
loại rừng và các yếu tố ngoại cảnh khác. Nhìn chung rừng tự nhiên có tác dụng tốt hơn so với rừng trồng
trong hạn chế xói mòn.
Giá trị bảo vệ đất của rừng tự nhiên giàu cao nhất, khoảng 140.000–150.000 đồng/ha/năm, tiếp đến là
rừng tự nhiên trung bình với khoảng 117.000–119.000 đồng/ha/năm, rừng tự nhiên nghèo và phục hồi là
83.000–112.000 đồng/ha/năm. Giá trị bảo vệ đất, chống xói mòn của rừng trồng dao động trong khoảng
65.000 – 82.000 đồng/ha/năm.
Tổng giá trị của lượng nước mùa kiệt tăng thêm so với đất trống cây bụi của rừng tự nhiên giàu khoảng
47.000 đồng/ha/năm. Giá trị này của rừng trồng thấp hơn, khoảng 20.000 đồng/ha/năm. Nếu so với kịch bản
canh tác nương rẫy thì giá trị tăng thêm trong mùa khô nơi có đất rừng và đất canh tác là rất đáng kể. Đối
với rừng tự nhiên giàu, giá trị này khoảng 60.000 đồng/ha/năm và đối với rừng trồng, giá trị này khoảng
68.000 đồng/ha/năm
2. Giá trị lưu trữ và hấp thụ các bon
Nghiên cứu sinh khối được tiến hành trên 108 ô tiêu chuẩn đối với rừng tự nhiên và 77 ô tiêu chuẩn đối
với các loại rừng trồng Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn urophylla và Quế Kết quả nghiên cứu


cho thấy trữ lượng các bon tỷ lệ thuận với sinh khối của rừng. Đối với rừng tự nhiên, hàm lượng các bon
bình quân trong sinh khối trên mặt đất chiếm khoảng 71%, ở dưới mặt đất khoảng 19%, còn lại là trong cây
mục, chết. Đối với rừng trồng, hàm lượng các bon trong sinh khối trên mặt đất chiếm từ 70-80%. Cụ thể là:
Trữ lượng các bon của rừng giàu đạt giá trị cao nhất, trung bình là 720 tấn CO2e/ha và mức biến động
trong khoảng từ 695-734 tấn CO2e/ha; trữ lượng các bon trung bình của rừng trung bình là khoảng 561 tấn
CO2e/ha; với rừng nghèo giá trị này là khoảng 451 tấn CO2e/ha và khoảng 292 tấn CO2e/ha đối với rừng
phục hồi.
• Trữ lượng các bon của rừng trồng thay đổi tuỳ thuộc vào độ tuổi và mật độ. Đối với các diện tích rừng
trồng trưởng thành, trữ lượng các bon của Keo lai dao động trong khoảng 262-299 tấn CO2e/ha, của Keo tai
tượng dao động trong khoảng 223-278 tấn CO2e/ha, của Keo lá tràm khoảng 204 tấn CO2e/ha, của Bạch
đàn Urophylla khoảng 231 tấn CO2e/ha và của Quế khoảng 193 tấn CO2e/ha.
Giá trị hấp thụ các bon của rừng được tính bằng phương pháp giá thị trường (tính qua giá bán tín chỉ
giảm phát thải CER- tấn CO2e). Với sự ra đời của Nghị định thư Kyoto, việc thương mại giảm phát thải đã

được thực hiện ở nhiều nước khác nhau và trong 3 năm trở lại đây giá bán tín chỉ có xu hướng tăng nhanh.
Giá bán bình quân xác định cho năm 2004 là khoảng 5,15 đô la Mỹ cho 1 tấn CO2e; cho năm 2005 là 7,04
đôla Mỹ cho 1 tấn CO2e và tính cho 3 tháng đầu 2006 là 11,56 đô la cho 1 tấn CO2e.
Dựa trên các nghiên cứu về trữ lượng cácbon của các loại rừng trong nghiên cứu và diễn biến giá bán
CER trên thị trường, giá trị hấp thụ cácbon của được tính theo hai kịch bản là: giá thấp (5 USD/tấn CO2e)
và giá cao (11 USD/tấn CO2e). Kết quả tính toán được thể hiện trong bảng sau đây:
Bảng 2: Giá trị lưu trữ các bon của một số loại rừng

Trữ lượng các bon trong 1 ha
Loại rừng

Rừng
tự nhiên

(1000 đồng)

Tấn C

Tấn CO2e

Giá thấp

Giá cao

Rừng giàu

196,3

720,4


57.631

126.788

Rừng trung bình

153,0

561,4

44.909

98.799

Rừng nghèo

122,9

451,0

36.078

79.372

Rừng phục hồi

79,6

292,2


23.376

51.426

82

299

23.000

52.000

Keo tai tượng

72,8

267,3

21.000

47.000

Keo lá tràm

36,4

204,8

16.300


36.040

Bạch đàn urophylla

46,3

169,8

13.587

29.891

Quế

48,4

177,8

14.229

31.303

Keo lai

Rừng
trồng

Giá trị lưu hấp thụ các bon



Như vậy, có thể thấy rằng, giá trị lưu trữ các bon của rừng tự nhiên là rất lớn. Giá trị lưu giữ các bon của
rừng tự nhiên giàu khoảng 57,6–126,7 triệu đồng/ha, rừng trung bình từ 45–98,7 triệu đồng/ha; rừng nghèo
từ 36–79 triệu đồng/ha; rừng phục hồi là 23,4–51,4 triệu đồng/ha. Đối với rừng trồng, giá trị hấp thụ CO2 của
rừng phụ thuộc chủ yếu vào sinh trưởng của rừng và mật độ cây. Nghiên cứu tại một số rừng trồng trưởng
thành (ở độ tuổi 6-9, mật độ từ 900-1200 cây/ha) cho thấy, rừng Keo lai có giá trị hấp thụ các bon lớn nhất
khoảng 23-51,4 triệu đồng/ha, tiếp đến là Keo tai tượng khoảng 21-47 triệu đồng/ha, thấp nhất là Bạch đàn
Urophylla với giá trị nằm trong khoảng 13-29,8 triệu đồng/ha.
Ngoài giá trị lưu trữ các bon, đề tài cũng đã tiến hành nghiên cứu lượng các bon hấp thụ hàng năm bởi
rừng tự nhiên dựa trên tăng trưởng về trữ lượng gỗ. Số liệu nghiên cứu cho thấy, tăng trường sinh khối
hàng năm ước tính là khoảng 52 tấn/ha với rừng giàu, 42 tấn/ha với rừng trung bình, 38 tấn/ha với nghèo và
28 tấn/ha với rừng phục hồi. Theo đó lượng cácbon hàng năm do rừng hấp thụ được ước tính là 96 tấn
CO2e/ha tương đương với khoảng 7,6–17 triệu đồng/ha với rừng giàu; khoảng 52 tấn CO2e/ha tương
đương giá trị từ 6-14 triệu đồng/ha với rừng trung bình và khoảng 71 tấn CO2e/ha với giá trị khoảng 4-9
triệu đồng/ha với rừng phục hồi.
3. Giá trị cải thiện độ phì đất
Đất cung cấp dinh dưỡng cho cây rừng phát triển, ngược lại trong quá trình sinh trưởng và phát triển,
cây rừng trả lại cho đất một lượng dinh dưỡng đáng kể nhờ sự phân huỷ của các vật rơi rụng. Để hiểu rõ
hơn về giá trị của rừng trong việc cải thiện độ phì đất, nghiên cứu đã đo đếm lượng rơi rụng, đồng thời phân
tích lượng dinh dưỡng trong thảm mục và trong mẫu đất lấy dưới các tán rừng. Kết quả nghiên cứu cho thấy
Đối với rừng tự nhiên
• Lượng rơi rụng của rừng giàu cao nhất, khoảng 7,90 tấn khô/ha (biến động từ 7,15–8,33 tấn khô/ha);
tiếp đến là rừng trung bình, khoảng 6,08 tấn khô/ha (mức biến động từ 3,14–8,04 tấn khô/ha); rừng tự
nhiên nghèo có lượng rơi rụng khoảng 4,89 tấn khô/ha với mức biến động từ 2,28-7,25 tấn khô/ha và cuối
cùng là rừng tự nhiên phục hồi với lượng rơi rụng khoảng 2,66 tấn khô/ha (dao động từ 1,84-3,49 tấn
khô/ha).
• Lượng dinh dưỡng có trong thảm mục là chất hữu cơ cao nhất là ở rừng tự nhiên giàu khoảng 4 tấn/ha;
tiếp đến là rừng tự nhiên trung bình với khoảng 3 tấn/ha và rừng tự nhiên phục hồi khoảng 2,1 tấn/ha
• Hàm lượng đạm có khoảng 16-52kg/ha cho các loại rừng nghiên cứu, lượng lân khoảng 1,3-3,5kg/ha
và lượng kali khoảng 0,5-1,0kg/ha.
Đối với rừng trồng

• Keo lai ở độ tuổi 6 có lượng rơi rụng trung bình là 6,33 tấn/ha. Lượng dinh dưỡng có trong thảm mục
chủ yếu là C (khoảng 52%), tiếp đến là N (trung bình khoảng 0.97%); hàm lượng P và K là rất thấp với
khoảng 0.05%. lượng dinh dưỡng mà rừng trồng Keo lai trả lại cho đất thông qua thảm mục trung bình là:
2.430,8kgC/ha; 49,44 kgN/ha; 2,57kgP/ha và 2,44kgK/ha.
• Keo tai tượng tuổi 6 có lượng rơi rụng trung bình khoảng 6,34 tấn/ha. Lượng chất dinh dưỡng mà rừng
trồng Keo tai tượng trả lại cho đất là 3.231kgC/ha; 100kgN/ha; 1,87kgP/ha và 0,62kgK/ha.
• Bạch đàn Urophylla tuổi 5 có lượng rơi rụng trung bình là 4,18 tấn/ha. Lượng chất dinh dưỡng mà rừng
trồng Bạch đàn trả lại cho đất là 2.234,9kgC/ha; 25,36 kgN/ha; 1,67kgP/ha và 1,11kgK/ha.
• Rừng trồng Quế tuổi 10 có lượng rơi rụng trung bình là 4,07 tấn ha. Lượng chất dinh dưỡng mà rừng
trồng Quế trả lại cho đất là 2.234,9kgC/ha; 25,36 kgN/ha; 1,67kgP/ha và 1,11kgK/ha.
Từ lượng chất dinh dưỡng mà các loại rừng trả lại cho đất thông qua lượng rơi rụng chúng ta có thể tính
được khối lượng loại phân bón tương ứng mà rừng trả lại cho đất theo % chất dinh dưỡng trong phân là:
Ure (46%N), Supe Lân (16%P2O5 và Kali (40% K2O). Nhân khối lượng của các loại phân bón đó với giá của
chúng trên thị trường: 5.000đ/kg Ure, 1.300đ/kg Supe lân; 3.600đ/kg Kali và chất hữu cơ là 200 đ/kg sẽ tính


được giá trị của rừng về cải tạo đất/cung cấp phân bón cho đất. Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong
bảng sau đây:
Bảng 3. Giá trị cải thiện độ phì đất của một số loại rừng

Giá trị dinh dưỡng
(1.000 đồng/ha)

Lượng dinh dưỡng trong thảm mục (kg/ha)
Loại rừng
Ure

Supe
Kali Hữu cơ Tổng
lân


Ure

Supe lân

Kali

Rừng giàu

113,9

97,2

9,5

569,5 126,4 34,3 2.462,9 3.193

Rừng trung bình

88,3

63,0

5,1

441,3

81,9 18,5 1.073,5 1.615

Rừng nghèo


68,8

56,4

5,9

344,1

73,3 21,2

956,2 1.395

Rừng phục hồi

34,7

38,1

3,2

173,6

49,5 11,6

555,9

791

Keo lai


240,7

144,9

41,9

1.203,4 188,3 150,9

7,3

1.550

Keo tai tượng

218,4

53,6

3,8

1.092,2 69,7 13,5

Bạch đàn
urophylla

55,22

47,94


6,73

276,1

62,3 24,2

571,4

934

Quế

74,26

87.30

2.45

371,3 113,5 8,8

420,4

914

224,6 1.400

Như vậy, giá trị của rừng trong việc trả lại nguồn dinh dưỡng cho đất thông qua lượng thảm mục của
rừng là khá cao và phụ thuộc nhiều vào loại rừng và lượng thảm mục của rừng. Với rừng tự nhiên, giá trị
dinh dưỡng trong thảm mục có thể hoàn trả cho đất là khoảng 1.800.000đ/ha (biến động từ 790.000–
3.200.000đ/ha). Với rừng trồng, trong một luân kỳ kinh doanh, giá trị dinh dưỡng trả lại cho đất khoảng

1.500.00đ/ha với rừng Keo lai (6 tuổi); 1.400.000đ/ha với rừng Keo tai tượng (6 tuổi); 934.000đ/ha với rừng
Bạch đàn urophylla luân kỳ 5 năm và khoảng 914.000 đ/ha với rừng Quế 10 tuổi
4. Giá trị vẻ đẹp cảnh quan
Để đánh giá giá trị cảnh quan của rừng, đề tài đã lựa chọn 2 địa điểm nghiên cứu là Vườn quốc gia Ba
Bể (tỉnh Bắc Kạn) và khu du lịch Hồ Thác Bà (tỉnh Yên Bái). Phương pháp lượng giá được sử dụng là
phương pháp chi phí du lịch. Hiện nay, phương pháp này đang được sử dụng rất rộng rãi để đánh giá giá trị
cảnh quan của các điểm du lịch. Theo đó, giá trị cảnh quan của một điểm du lịch được tính bằng tổng lợi ích
kinh tế mà khách du lịch đến từ các vùng khác nhau nhận được khi đến thăm quan điểm du lịch đó.
Lợi ích kinh tế của khách du lịch được tính bằng tổng mức chi phí (bao gồm chi phí đi lại, chi phí thời
gian/chi phí cơ hội, chi phí ăn, ở, vé vào cửa,…) mà khách du lịch sẵn sàng bỏ ra trong chuyến thăm quan
của mình. Để ước lượng được lợi ích kinh tế của khách du lịch, nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 257
khách du lịch tại Vườn quốc gia Ba Bể và 250 khách du lịch tại khu du lịch Hồ Thác Bà. Các du khách được


lựa chọn một cách ngẫu nhiên và được hỏi theo trình tự các câu hỏi trong phiếu điều tra được chuẩn bị từ
trước. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
• Tổng chi phí cho chuyến đi của khách du lịch đến từ các vùng khác nhau có sự khác biệt rõ rệt. Mức
chi phí này tỷ lệ thuận với khoảng cách giữa điểm xuất phát của khách du lịch và điểm du lịch, do đó khách
du lịch đến từ những vùng có khoảng cách đến điểm du lịch xấp xỉ bằng nhau thì mức chi phí du lịch tương
đương nhau.
• Khách du lịch tại Vườn quốc gia Ba Bể được chia thành 6 vùng. Tổng chi phí trung bình cho một khách
du lịch đến từ vùng 1 là 128.500 đồng, từ vùng 2 là 230.800 đồng, từ vùng 3 là 442.500 đồng, từ vùng 4 là
491.000 đồng, từ vùng 5 là 493.000 đồng và từ vùng 6 là 629.000 đồng.
• Khách du lịch tại Khu du lịch Hồ Thác Bà được chia thành 5 vùng. Tổng chi phí trung bình cho một
khách du lịch đến từ vùng 1 là 126.000 đồng, từ vùng 2 là 156.000 đồng, từ vùng 3 là 185.000 đồng, từ vùng
4 là 197.500đồng và từ vùng 5 là 213.000đồng
Sau khi xác định được mức chi phí bình quân của khách du lịch đến từ các vùng khác nhau, nghiên cứu
đã tiến hành xây dựng đường cầu du lịch cho từng điểm nghiên cứu và tiến hành tính toán giá trị cảnh quan
thông qua thặng dư tiêu dùng hàng năm mà khách du lịch nhận được. Kết quả tính toán như sau:
• Giá trị cảnh quan của vườn quốc gia Ba Bể là 1.194.500 đồng/năm

• Giá trị cảnh quan của hồ Thác Bà là 529.486.000 đồng/năm
Kết quả này phản ánh khá sát về thực trạng du lịch tại các điểm nghiên cứu. Theo kết quả tính toán, giá
trị cảnh quan của vườn quốc gia Ba Bể cao gần gấp đôi giá trị cảnh quan của khu du lịch Hồ Thác Bà mặc
dù cảnh quan của cả 2 điểm này đều được tạo bởi rừng và mặt nước. Điểm dẫn đến sự khác biệt này chính
là: các hoạt động du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Ba Bể diễn ra sớm hơn, quy mô hơn, cơ sở vật chất
phục vụ du lịch cũng tốt hơn nhiều so với khu du lịch Hồ Thác Bà.
5. Giá trị đa dạng sinh học, tồn tại và lựa chọn
Sử dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên (CVM-Contingent Valuation Method) để đánh giá giá trị (như
giá trị tồn tại, tuỳ chọn, đa dạng sinh học, vv) mà tính biểu hiện của chúng trên thị trường thường không rõ
ràng, khó lượng giá bằng các bằng giá trị thị trường vì chúng không được trao đổi, giao dịch trên thị trường.
Các giá trị này chỉ có thể được xác định thông qua định giá ngẫu nhiên bằng cách phỏng vấn trực tiếp
những người được hưởng thụ lợi ích từ hàng hoá/dịch vụ môi trường và sử dụng những mô hình kinh tế
lượng để xử lý kết quả điều tra qua phỏng vấn.Với giá trị đa dạng sinh học, đề tài đã lựa chọn loài Voọc mũi
hếch tại khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang – Tuyên Quang làm đối tượng nghiên cứu. Voọc mũi hếch là loài
linh trưởng bị đe doạ tuyệt chủng nhất trên thế giới (Cox, 1994) và nằm trong nhóm I những loài cần được
bảo vệ theo luật Nhà nước Việt nam (số 18, HĐBT ngày 17/01/1992). Hiện nay khu bảo tồn thiên nhiên Na
Hang là nơi có số lượng Voọc mũi hếch sống sót lớn nhất trong cả nước, khoảng 130 con trong khi đó trên
thế giới dự tính chỉ còn khoảng 200 con ( Cox, 1994). Kết quả phỏng vấn 217 hộ gia đình sống trong vùng đệm
của khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang cho thấy:
• Có nhiều khác biệt trong sự định giá giá trị kinh tế một cá thể Voọc giữa các cá nhân được phỏng vấn,
trong đó mức định giá thấp nhất là 50.000 đồng/cá thể và mức định giá cao nhất lên tới 30.000.000 đồng/cá
thể. Mức định giá này phụ thuộc vào trình độ học vấn, thu nhập bình quân, sự hiểu biết về nguy cơ tuyệt
chủng của Voọc mũi hếch.
• Giá trị trung vị của các mức định giá kinh tế một cá thể Voọc mũi hếch là 2.000.000 đồng/con (nghiên
cứu đã sử dụng giá trị trung vị vì giá trị này ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài – là những mức định
giá quá cao hoặc quá thấp so với toàn bộ tổng thể do đó nó đại diện cho tổng thể điển hình hơn so với giá trị


trung bình. Giá trị trung vị thường thấp hơn giá trị trung bình, tuy nhiên, trong các nghiên cứu ứng dụng
CVM, giá trị trung vị được sử dụng phổ biến hơn)

Giá trị tồn tại và lựa chọn của rừng được nghiên cứu tại vườn quốc gia Ba Bể. 182 khách du lịch đã
được hỏi câu hỏi: Nếu một dự án được xây dựng nhằm bảo tồn các giá trị cảnh quan thiên nhiên, các loài
động thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng tại vườn quốc gia này. Dự án rất cần đến sự đóng góp
của ông/bà, vậy ông/bà có sẵn sàng đóng góp cho dự án hay không. Kết quả phỏng vấn cho thấy:
• 73,7% khách du lịch đồng ý chi trả cho giá trị bảo tồn và lựa chọn. Tuy nhiên mức chi trả rất khác nhau.
Mức chi trả này phụ thuộc nhiều vào các yếu tố: thu nhập bình quân, chi phí du lịch, tình trạng hôn nhân, sự
hiểu biết, sự hài lòng về cảnh quan môi trường và giá trị của vườn quốc gia Ba Bể. • Mức sẵn sàng chi trả
trung bình cho bảo tồn giá trị của VQG Ba Bể là 45,6 ngàn đồng/du khách/năm. Căn cứ vào số lượng du
khách đến VQG Ba Bể trong những năm gần đây có thể xác định giá trị tuỳ chọn và giá trị tồn tại của VQG
Ba Bể tính theo mức giá tại thời điểm năm 2005 như sau: Giá trị cho thế hệ tương lai (giá trị tuỳ chọn) là
925.756.570 đồng. Mức sẵn sàng chi trả để đảm bảo cho sự tồn tại lâu dài (giá trị tồn tại) của VQG Ba Bể là
237.254.200 đồng.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
• Giá trị của rừng, đặc biệt là giá trị môi trường và DVMT là rất khác. Giá trị của rừng phụ thuộc vào địa
điểm, loại rừng, chất lượng rừng và thời điểm lượng giá. Rất khó để có thể xác định một giá trị chung cho tất
cả các loại rừng. Tuy nhiên, trên các đối tượng nghiên cứu cho thấy, giá trị môi trường và DVMT (hay giá trị
sử dụng gián tiếp của rừng) chiếm tỷ lệ lớn so với tổng giá trị của rừng. Đối với rừng tự nhiên, giá trị môi
trường và DVMT chiếm khoảng 96,8 % tổng giá trị của rừng. Trong đó các giá trị chiếm tỷ lệ lớn là giá trị lưu
giữ/hấp thụ các bon, bảo vệ đầu nguồn (bảo vệ đất chống xói mòn và tăng dòng chảy mùa kiệt); giá trị cảnh
quan và bảo tồn đa dạng sinh học. Với các loại rừng trồng nghiên cứu, giá trị môi trường và DVMT chiếm
khoảng 70–75 % tổng giá trị của rừng.
• Giá trị của rừng trong bảo vệ đầu nguồn gồm bảo vệ đất chống xói mòn và điều tiết nước (tăng dòng
chảy mùa kiệt) là khá cao và phụ thuộc nhiều vào chất lượng rừng, điều kiện địa hình, đất đai và che phủ
của rừng.
• Giá trị lưu giữ các bon và hấp thụ khí CO2 của rừng là rất đáng kể, đặc biệt là rừng tự nhiên và rất khác
biệt giữa các loại rừng. Giá trị lưu giữ các bon và hấp thụ CO2 tỷ lệ thuận với trữ lượng và sinh khối rừng.
Với rừng trồng các loài Keo, Bạch đàn urophylla và Quế có thể sử dụng phương trình tương quan đã xác
lập để tính trữ lượng các bon trong sinh khối rừng;
• Giá trị của rừng trong việc trả lại nguồn dinh dưỡng cho đất thông qua lượng thảm mục của rừng là khá

cao và phụ thuộc nhiều vào loại rừng và lượng thảm mục của rừng.
• Giá trị cảnh quan của rừng cũng rất khác nhau giữa các điểm nghiên cứu ở VQG Ba Bể và Khu du lịch
hồ Thác Bà và không có một giá trị cảnh quan riêng cho từng loại rừng. Giá trị cảnh quan là giá trị mang tính
xã hội cao nên phụ thuộc nhiều vào lượng du khách và sự đánh giá của du khách.
• Giá trị tồn tại và tuỳ chọn, giá trị ĐDSH của rừng đặc dụng ở Khu bảo tồn sinh cảnh Na Hang được xác
định theo phương pháp ngẫu nhiên dựa trên sự đánh giá của các đối tượng phỏng vấn thông qua sự bằng
lòng chi trả. Nhìn chung việc xác định giá trị này là tương đối khó do sự hiểu biết và đánh giá của các đổi
tượng phỏng vấn là rất khác nhau.
2. Kiến nghị
• Kết quả nghiên cứu của đề tài về giá trị môi trường và DVMT, đặc biệt là các giá trị về bảo vệ đất chống
xói mòn, giá trị lưu giữ và hấp thụ các bon; giá trị cảnh quan là nguồn tham khảo tin cậy có thể sử dụng


trong tính toán giá trị của rừng. Tuy nhiên khi sử dụng cần so sánh để xác định sự đồng nhất về loại rừng,
chất lượng rừng, điều kiện địa hình, vv.
• Nghiên cứu lượng giá giá trị của rừng, đặc biệt là giá trị môi trường và DVMT rừng là công việc phức
tạp, tốn kém thời gian và kinh phí và đòi hỏi sự phối hợp của các ngành khoa học liên quan (khí tượng thủy
văn, lâm nghiệp, kinh tế môi trường,…). Do vậy cần làm rõ mục tiêu của việc lượng giá là gì và lượng giá
giá trị gì của rừng.
• Cần có các nghiên cứu cơ bản và hệ thống để đánh giá và hiểu rõ giá trị của rừng trong hạn chế lũ lụt
và các nghiên cứu toàn diện về giá trị môi trường và DVMT của rừng trên phạm vi toàn quốc, tập trung vào
các vùng đầu nguồn, các khu rừng đặc dụng (vườn quốc gia, khu BTTN);
• Cần nghiên cứu và xây dựng cơ chế, chính sách và mô hình chi trả dịch vụ môi trường rừng. Cơ chế
này trước hết có thể áp dụng như cơ chế chi trả bảo vệ đầu nguồn, bảo tồn đa dạng sin học và hấp thụ
cácbon; du lịch sinh thái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bann, C., 1997. The Economic Valuation of Mangroves: A Manual for Researchers. International
Development Research Centre, Ottawa
2. Brown, J and Pearce, D.W, 1994. The economic value of carbon storage in tropical forests, in J.Weiss
(ed), The Economics of Project Appraisal and the Environment, Cheltenham: Edward Elgar, 102-23.

3. Brown, S. 1997. Estimating biomass and biomass change of tropical forests. A primer. FAO
Forestry Paper, 134. Rome, FAO
4. Carson, R. 1998. Valuation of tropical rainforests: philosophical and practical issues in the use of
contingent valuation, Ecological Economics, 24,15-29
5. David W Pearce and Corin G T Pearce, 2001. The value of Forest ecosystems, Report to the
Secretariat Convention on Biological Diversity, Montreal, 67 pages
6. Nguyễn Thế Chinh và cs. 2005. Báo cáo chuyên đề “Nghiên cứu giá trị tồn tại và tuỳ chọn tại vườn
quốc gia Ba Bể. Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng, Hà Nội.
7. Vũ Tiến Điển và cs. 2005. Báo cáo chuyên đề “Kết quả điều tra trữ lượng gỗ, củi và LSNG của một
số loại rừng tự nhiên phòng hộ, đặc dụng và sản xuất”. Trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường
rừng, Hà Nội.
8. Trần Thị Thu Hà và cs. 2005. Báo cáo chuyên đề “Giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị cây đứng của
rừng tự nhiên và rừng trồng”. Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng, Hà Nội.
9. Trần Thị Thu Hà và cs. 2005. Báo cáo chuyên đề “Giá trị cảnh quan du lịch của vườn quốc gia Ba
Bể và khu du lịch hồ Thác Bà”. Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng, Hà Nội.
10. Trần Thị Thu Hà và cs. 2006. Báo cáo chuyên đề “Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học tại khu bảo
tồn thiên nhiên Na Hang”. Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng, Hà Nội.
11. Võ Đại Hải. 2005. Báo cáo chuyên đề “Nghiên cứu các phương pháp xác định lượng đất xói mòn
và kết quả nghiên cứu xói mòn đất dưới các dạng thảm thực vật khác nhau ở Việt Nam”. Trung tâm
nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng, Hà Nội.
12. Phạm Thị Hương Lan. 2005. Báo cáo chuyên đề “Đánh giá xói mòn đất và điều tiết nước của
rừng ở lưu vực sông Cầu và hồ Thác Bà”. Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng, Hà Nội.
13. Ngô Đình Quế và cs. 2006. Báo cáo chuyên đề “Giá trị cải thiện độ phì đất/cung cấp nguồn phân
bón của rừng”. Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng, Hà Nội.


14. Vũ Tấn Phương và cs. 2006. Báo cáo chuyên đề “Giá trị lưu giữa và hấp thụ cácbon của rừng tự
nhiên và một số loại rừng trồng ở phía Bắc Việt Nam”. Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường
rừng, Hà Nội.
15. Vũ Tấn Phương và cs. 2006. Báo cáo tổng kết “Nghiên cứu lượng giá giá trị môi trường và dịch

vụ môi trường ”



×